Tải bản đầy đủ (.pdf) (91 trang)

MỘT số yếu tố tác ĐỘNG đến HIỆU QUẢ VIỆC xây DỰNG mô HÌNH xã PHƯỜNG PHÙ hợp với TRẺ EM (QUA KHẢO sát tại 2 xã AN lão và HƯNG CÔNG, HUYỆN BÌNH lục, TỈNH hà n

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.04 MB, 91 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
--------------------------

LÊ THỊ LAN ANH

MỘT SỐ YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN
HIỆU QUẢ VIỆC XÂY DỰNG MÔ HÌNH
“XÃ, PHƯỜNG PHÙ HỢP VỚI TRẺ EM”
(Qua khảo sát tại 2 xã An Lão và Hưng Công, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam)

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC XÃ HỘI HỌC

Hà Nội, 2009


Ket-noi.com
Ket-noi.com kho
kho tai
tai lieu
lieu mien
mien phi
phi

TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-------------------------LÊ THỊ LAN ANH

MỘT SỐ YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN
HIỆU QUẢ VIỆC XÂY DỰNG MÔ HÌNH
“XÃ, PHƯỜNG PHÙ HỢP VỚI TRẺ EM”


(Qua khảo sát tại 2 xã An Lão và Hưng Công, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam)

Chuyên ngành:

XÃ HỘI HỌC

MÃ SỐ:

60 31 30

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC XÃ HỘI HỌC

Người hướng dẫn khoa học: GS.TS Đặng Cảnh Khanh

Hà Nội, 2009


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài

1

2. Tổng quan tình hình nghiên cứu

4

3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu

8


4. Đối tượng, khách thể và phạm vi nghiên cứu.

8

5. Giả thuyết nghiên cứu và sơ đồ tương quan giữa các biến số

9

6. Phương pháp nghiên cứu

11

7. Kết cấu luận văn

12

PHẦN NỘI DUNG

13

Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn của đề tài

13

1. Từ quan điểm xây dựng “Một thế giới phù hợp với trẻ em” của

13

Liên Hiệp Quốc đến việc xây dựng mô hình “Xã, phường phù hợp

với trẻ em” ở Việt Nam.
1.1 Quan điểm của Liên Hiệp Quốc về xây dựng “Xã, phường phù

13

hợp với trẻ em”
1.2 Việt Nam và việc xây dựng mô hình “Xã, phường phù hợp với

15

trẻ em”
2. Một số khái niệm công cụ liên quan đến đề tài.

16

2.1 Khái niệm trẻ em

16

2.2 Khái niệm “Xã, phường phù hợp với trẻ em”

17

3. Một số lý thuyết và quan điểm của các nhà xã hội học được vận

17

dụng trong đề tài nghiên cứu.
Chương 2: THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ YẾU TỐ TÁC


26

ĐỘNG ĐẾN VIỆC XÂY DỰNG MÔ HÌNH “XÃ, PHƯỜNG
PHÙ HỢP VỚI TRẺ EM”.
1.Điều kiện kinh tế, xã hội của hai xã An Lão, Hưng Công

26


Ket-noi.com
Ket-noi.com kho
kho tai
tai lieu
lieu mien
mien phi
phi

2. Thực trạng và một số yếu tố tác động đến việc xây dựng “Xã,

27

phường phù hợp với trẻ em”
2.1 Thực trạng công tác bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em và việc

27

xây dựng “Xã, phường phù hợp với trẻ em” tại hai xã An Lão và
Hưng Công.
2.2 Một số yếu tố tác động đến hiệu quả việc xây dựng mô hình


50

“Xã, phường phù hợp với trẻ em”
3. Hiệu quả

52

Chương 3: Giải pháp

54

1.Giải pháp thực hiện môi trường xã hội phù hợp với trẻ em.

54

2.Giải pháp thực hiện môi trường gia đình đảm bảo để trẻ em phát

60

triển toàn diện.
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ

64


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài.
Ngày nay, nhân loại đã và đang bước vào nền kinh tế tri thức, một trong
những đặc điểm quan trọng nhất của nền kinh tế tri thức là tập trung đầu tư phát
triển con người, trong đó xác định rõ đầu tư cho con người là sự đầu tư có hiệu

quả nhất. Đầu tư cho con người, hướng đến con người cũng chính là mục tiêu của
Đảng và Nhà nước Việt Nam, đó vừa được coi là động lực, vừa là mục tiêu của
sự phát triển. Khi các chính sách của Việt Nam coi con người là động lực của sự
phát triển, điều đó cũng có nghĩa là tạo mọi điều kiện để phát huy hết tiềm năng
cho mỗi cá nhân nói riêng và con người nói chung hướng đến sự phát triển toàn
diện. Khi con người được phát huy hết vai trò là động lực, họ sẽ tạo ra nguồn của
cải to lớn, tạo ra sự phát triển kinh tế. Mặt khác, khi kinh tế phát triển, thì con
người cũng có điều kiện được chăm sóc tốt hơn, phát triển ở tầm cao hơn. Như
vậy, con người lại trở thành mục tiêu của sự phát triển, mọi sự nỗ lực, cố gắng
của con người đều hướng đến mục tiêu cho chính con người. Vì vậy, đầu tư cho
con người là hết sức quan trọng.
Đầu tư cho con người đòi hỏi một quá trình lâu dài, bền bỉ và kéo dài
trong suốt cuộc đời mỗi con người, dù con người đó ở bất kỳ lứa tuổi nào, trong
bất kỳ giai đoạn nào hay thuộc bất kỳ dân tộc, giới tính nào. Tuy nhiên, giai đoạn
đầu tiên của cuộc đời là giai đoạn cần đến sự đầu tư nhiều nhất, con người có
khỏe mạnh về thể chất, có kiến thức, trình độ, học vấn, văn hóa, nhân cách và
một tâm hồn phong phú hay không...đều phụ thuộc vào giai đoạn đầu tiên đó.
Nhiều nghiên cứu khoa học và thực tế cuộc sống đã chỉ ra rằng nếu ở giai
đoạn đầu đời, con người có được sự đầu tư bài bản, toàn diện và khoa học, thì
đây là tiền đề quan trọng để các giai đoạn sau con người có cơ hội và điều kiện
phát triển tốt hơn. Do đó, các chính sách đầu tư cho con người hiệu quả nhất là
đầu tư trong giai đoạn đầu tiên. Những chính sách đầu tư cho thế hệ trẻ đòi hỏi có
tính chiến lược, toàn diện, không chắp vá, bị động. Tình hình kinh tế có thể biến


Ket-noi.com
Ket-noi.com kho
kho tai
tai lieu
lieu mien

mien phi
phi

đổi nhưng đầu tư cho con người, đặc biệt là thế hệ trẻ phải có chiến lược lớn và
không thể thay đổi.
Trong thời gian qua, Đảng và Nhà nước ta đã đầu tư rất nhiều cho trẻ em,
Ủy ban Bảo vệ chăm sóc và giáo dục trẻ em (nay là Cục trẻ em thuộc Bộ Lao
động Thương Binh và Xã hội) đã được thành lập và làm nhiệm vụ quản lý Nhà
nước về công tác trẻ em. Đến nay, mặc dù đã thay đối tên gọi nhiều lần, nhưng
về bản chất là không thay đổi, vẫn luôn hướng đến mục tiêu cao nhất là đầu tư,
phát triển, chăm sóc cho trẻ em. Thời gian qua, những chính sách và nỗ lực của
Việt Nam trong chăm sóc, giáo dục và bảo vệ trẻ em nói chung, trẻ em có hoàn
cảnh đặc biệt khó khăn nói riêng đã đạt được nhiều kết trong các vấn đề cụ thể
như: dinh dưỡng và sức khỏe, y tế và giáo dục, đạo đức, lối sống và nhân cách,...
Bản thân Liên Hiệp Quốc cũng đã đánh giá rất cao những thành quả mà Việt
Nam đã đạt được.
Tuy nhiên, sự đầu tư, phát triển trẻ em mang tính chiến lược không chỉ
dừng lại ở những vấn đề chi tiết, cụ thể mà còn phải hướng đến một tầm cơ bản
hơn, đó là xây dựng môi trường xã hội để trẻ em lớn lên có đủ điều kiện phát
triển tốt nhất, như sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: “Vì lợi ích mười năm
thì phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người”... Sự “trồng người”,
đòi hỏi những vấn đề rất cơ bản: đất đai - không gian văn hóa, môi trường xã hội
để trẻ phát triển. Điều đó có nghĩa là để phát triển trẻ em, chúng ta không thể chỉ
dừng lại ở việc chăm sóc, giáo dục mà phải xây dựng một môi trường xã hội, một
không gian văn hóa xung quanh để trẻ có cơ hội được sinh ra, lớn lên, trưởng
thành và được nuôi dưỡng trong cái nôi vững chắc, nhân ái đó.
Trong các thập kỷ gần đây, những đòi hỏi về khía cạnh xây dựng môi
trường sống phù hợp với trẻ em đã được Liên Hiệp Quốc đề cập và khẳng định rõ
trong Tuyên bố của Liên Hiệp Quốc về Quyền trẻ em (1959), Công ước Quốc tế
quyền Trẻ em (CRC - được Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc thông qua ngày 20

tháng 11 năm 1989). Trong các văn bản quan trọng này, Liên Hiệp Quốc đã đưa
ra hệ thống các tiêu chí mang tính căn bản, chiến lược rất cần thiết để xây dựng


một môi trường sống mà bất kỳ trẻ em nào cũng có cơ hội và điều kiện phát triển
tốt nhất.
Ở Việt Nam, công tác bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em thời gian gần
đây đã hướng đến việc tạo cho trẻ em có điều kiện sống, học tập và phát triển tốt
nhất. Đây được coi là bước chuyển biến quan trọng đối với công tác chăm sóc,
giáo dục trẻ em. Chuyển từ những chăm sóc mang tính trải rộng theo chiều ngang
sang những chăm sóc mang tính chiến lược, tổng thể và căn bản theo chiều sâu
bao gồm: bảo vệ trẻ em, chăm sóc trẻ em, giáo dục trẻ em, tạo điều kiện để trẻ
được vui chơi, giải trí và được tham gia các hoạt động xã hội trong một môi
trường sống thuận lợi nhất. Đó cũng chính là bốn tiêu chuẩn cụ thể nhất, trọng
điểm nhất được các nhà khoa học, các nhà quản lý đưa ra nhằm hướng toàn bộ xã
hội vào mục tiêu xây dựng một môi trường sống tốt đẹp nhất cho sự phát triển
của trẻ em.
Bộ tiêu chuẩn “Xã phường phù hợp với trẻ em” sau một thời gian nghiên
cứu, thẩm định được Bộ trưởng, Chủ nhiệm Ủy ban dân số gia đình và trẻ em
(nay là Vụ trẻ em) ra quyết định ban hành ngày 01/6/2004 với tên gọi “Hướng
dẫn Tiêu chuẩn xã/phường phù hợp với trẻ em”1 nhằm hướng tới việc thực
hiện cam kết của Nhà nước Việt Nam với Liên Hiệp Quốc về thực hiện xây dựng
“Một thế giới phù hợp với trẻ em”. “Xã, phường, thị trấn phù hợp với trẻ em là
xã, phường, thị trấn có môi trường sống an toàn, thân thiện với trẻ em mà ở đó tất
cả trẻ em đều có sự khởi đầu tốt đẹp nhất trong cuộc sống, được hưởng các quyền
cơ bản của mình (quyền được sống, quyền được phát triển, quyền được bảo vệ và
quyền được tham gia) và có cơ hội phát triển toàn diện về thể chất, trí tuệ và
nhân cách.”2
Sau khi xây dựng bộ tiêu chuẩn, Vụ trẻ em (thuộc Ủy ban dân số gia đình
và trẻ em) đã tiến hành triển khai thử nghiệm ở một số địa bàn trong cả nước.

Theo quy định, các tỉnh, thành phố nào đạt được các tiêu chí đề ra trong bộ tiêu
chuẩn sẽ được cấp Bằng công nhận xã phường phù hợp với trẻ em. Trên thực tế,
Ủy ban dân số gia đình và trẻ em, Quyết định số 03/2004/QĐ-DSGĐTE ngày 01/6/2004 v/v ban hành
Hướng dẫn tiêu chuẩn xã, phường phù hợp với trẻ em.
2
Vụ trẻ em, Dự thảo 2 (tháng 12/2008) Tiêu chuẩn xã, phường phù hợp với trẻ em, Điều 1.
1


Ket-noi.com
Ket-noi.com kho
kho tai
tai lieu
lieu mien
mien phi
phi

việc xây dựng mô hình “Xã, phường phù hợp với trẻ em” đã bước đầu thu được
những kết quả nhất định nhưng cũng cho thấy rất nhiều khó khăn hạn chế. Điều
đó đòi hỏi phải có sự nghiên cứu, phân tích, đánh giá để mô hình này có thể được
triển khai một cách hiệu quả trên bình diện rộng lớn hơn.
Nhiệm vụ của luận văn “Một số yếu tố tác động đến hiệu quả việc xây
dựng mô hình xã phường phù hợp với trẻ em” là tập trung nghiên cứu quá trình
xây dựng “Xã, phường phù hợp với trẻ em” tại hai xã An Lão, Hưng Công
(huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam), trên cơ sở đó, xem xét, đánh giá việc xây dựng
bộ tiêu chuẩn này những mặt tốt hay chưa tốt, có tích cực đối với sự nghiệp chăm
sóc, giáo dục trẻ em hay không, từ đó có những đóng góp nhằm chuẩn hóa,
hướng tới hoàn thiện bộ tiêu chuẩn để có thể áp dụng sâu rộng đến tất cả các
vùng/miền trong cả nước.
2. Tổng quan vấn đề nghiên cứu.

Việc nghiên cứu về mục tiêu, chiến lược phát triển trẻ em ở tầm vĩ mô nói
chung và các chương trình, kế hoạch phát triển trẻ ở cấp độ vi mô nói riêng đã và
đang được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm dưới nhiều góc độ khác nhau.
Trẻ em là thế hệ tương lai của đất nước, là một bộ phận quan trọng trong
mục tiêu và chiến lược phát triển con người của Đảng và Nhà nước ta, vì vậy,
đầu tư phát triển cho trẻ em chính là sự đầu tư cho tương lai quốc gia, dân tộc.
Trên thế giới, nhiều chính sách, chương trình hành động về trẻ em đã và
đang được xây dựng như: Tuyên bố của Hội Quốc liên về quyền trẻ em (1924),
Tuyên bố của Liên hiệp quốc (LHQ) về Quyền trẻ em (1959), Công ước Quốc tế
quyền Trẻ em (CRC) được Đại hội đồng LHQ thông qua ngày 20 tháng 11 năm
1989, Nghị định không bắt buộc của Công ước LHQ về quyền trẻ em về việc sử
dụng trẻ em tham gia quân sự, Nghị định không bắt buộc của công ước Liên Hiệp
Quốc về quyền trẻ em về buôn bán mại dâm. Trong đó, Công ước quốc tế về
quyền trẻ em là một trong những văn bản được nhiều quốc gia trên thế giới ký
cam kết thực hiện. Việt Nam là nước đầu tiên ở châu Á và nước thứ hai trên thế
giới phê chuẩn Công ước này vào năm 1990. Từ đó đến nay, Việt Nam đã từng


bước đưa các vấn đề về trẻ em vào kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội trong giai
đoạn 2006-2010, đây là văn kiện quan trọng tạo khung pháp lý cho các Bộ,
ngành xây dựng kế hoạch hành động riêng của mình đến năm 2010.
Nỗ lực hành động và phấn đấu để có môi trường phát triển tốt nhất cho trẻ
em luôn là một chặng đường rất dài và rất động. Những giá trị ở hiện đang phù
hợp trong giai đoạn này nhưng có thể dễ dàng trở nên lạc hậu sau một vài thập kỷ
tới. Chính vì thế, ở khắp nơi trên thế giới, các chính sách, chương trình hành
động luôn có sự chỉnh sửa, bổ sung sao cho phù hợp nhất với từng giai đoạn,
từng lứa tuổi và đặc thù văn hóa, kinh tế của mỗi quốc gia.
Ở Việt Nam, Sự nghiệp đổi mới đất nước từ Đại hội Đảng VI năm 1986
đã mang lại những kết quả đáng khích lệ, một mặt khiến cho kinh tế tăng trưởng,
thu nhập bình quân tăng, đời sống nhân dân được cải thiện; mặt khác, nó còn là

động lực thúc đẩy sự phát triển giao lưu văn hóa xã hội. Chúng ta cũng đã quan
tâm nhiều hơn đến các chính sách xã hội, đến việc coi con người với tính cách
vừa là nguồn lực, lại vừa là mục tiêu của công cuộc phát triển đất nước.
Công tác chăm sóc, giáo dục trẻ em cũng dành được sự quan tâm đặc biệt
của Đảng và Nhà nước. Với quan điểm trẻ em là chủ nhân tương lai của đất
nước, vấn đề trẻ em hiện nay nhận được sự quan tâm của rất nhiều các cơ quan
hữu quan nhằm mục đích tạo điều kiện để các em có thể phát triển toàn diện,
được sống trong tình yêu thương và được hưởng mọi quyền trẻ em. Có thể nói
đầu tư cho công tác chăm lo giáo dục trẻ em là đầu tư cho tương lai, tạo cơ sở,
điều kiện cho các em học tập, vui chơi lành mạnh chính là một hướng đầu tư hiệu
quả cho sự phát triển nước nhà trong một tương lai xa, mang tính lâu dài và bền
vững.
Ngày 12/8/1991, Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em đã được Quốc
hội Việt Nam thông qua và chính thức có hiệu lực thi hành. Có thể nói, Luật bảo
vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em chính là cơ sở pháp lý quan trọng nhất cho việc
triển khai và thực thi các phúc lợi cho trẻ em.
Nghiên cứu về trẻ em trong những năm qua cũng nhận được sự quan tâm,
vào cuộc của nhiều cơ quan, đơn vị. Có thể nói, có rất nhiều học giả, tổ chức


Ket-noi.com
Ket-noi.com kho
kho tai
tai lieu
lieu mien
mien phi
phi

trong và ngoài nước dày công cho mảng nghiên cứu này. Trong phạm vi có hạn,
luận văn chỉ xin điểm qua một số những công trình nghiên cứu tiêu biểu, cung

cấp cho chúng ta những nền tảng, những hiểu biết cần thiết khi tiếp cận nghiên
cứu các vấn đề có liên quan đến việc xây dựng mô hình “Xã, phường phù hợp
với trẻ em”.
Viết về gia đình và vấn đề xã hội hóa trẻ em, trong cuốn sách “Gia đình
Việt Nam trong bối cảnh đất nước đổi mới”, (Nxb Khoa học xã hội, 2002) tác
giả Lê Thi đã phân tích và khẳng định rằng: “Gia đình là thiết chế giáo dục cơ sở,
trung tâm đào tạo đầu tiên giúp đứa trẻ tập sự đi vào cuộc sống. Gia đình chuẩn
bị cho trẻ có thể phát triển đầy đủ tiềm lực của nó và đóng vai trò hữu ích trong
xã hội khi đến tuổi trưởng thành” (sđd, tr.3). Tác giả cũng phân tích những biến
động của gia đình ngày nay cũng ảnh hưởng đến sự phát triển của trẻ. Việc xã
hội hóa trẻ em không chỉ dừng lại ở việc truyền đạt những giá trị văn hóa truyền
thống, bên cạnh đó, trẻ cũng cần phải học cách thích nghi với những chuẩn mức
và giá trị văn hóa đang biến động từng ngày. Do vậy, tác giả khẳng định quá
trình xã hội hóa trẻ em có sự ảnh hưởng đầu tiên và quan trọng từ phía gia đình.
Tác giả Đặng Cảnh Khanh với cuốn sách “Gia đình, trẻ em và sự kế thừa
các giá trị truyền thống”, Nxb Lao động Xã hội, Hà Nội, 2003 và bài viết “Vai
trò của gia đình trong việc giáo dục các giá trị truyền thống” đăng trong cuốn
Thế hệ trẻ Việt Nam – Nghiên cứu lý luận và thực tiễn đã đi sâu nghiên cứu vị trí,
vai trò của gia đình, những mối quan hệ trong gia đình, sự biến đổi của gia đình
dưới tác động của sự thay đổi các điều kiện kinh tế, xã hội. Nghiên cứu khẳng
định vai trò to lớn của gia đình đối với việc giáo dục thanh thiếu niên và trẻ em
trong giai đoạn hiện nay. Đồng thời cũng chỉ ra một số vấn đề trong gia đình và
những giải pháp tăng cường vai trò của gia đình đối với việc giáo dục, chăm sóc
và bảo vệ thế hệ trẻ. Tuy nhiên, nghiên cứu của tác giả Đặng Cảnh Khanh và Lê
Thi chủ yếu hướng tới vai trò của gia đình đối với thế hệ trẻ chứ chưa thực sự
quan tâm cụ thể đến vấn đề tạo ra một môi trường an toàn, lành mạnh cho trẻ em
phát triển toàn diện – một vấn đề đã và đang được quan tâm trong sự nghiệp
trồng người – đặc biệt là trẻ em, thế hệ tương lai của đất nước.



Đề tài “Khảo sát thực trạng và nhận thức về các hình thức xâm hại trẻ
em tại một số địa phương của Việt Nam” (đề tài được thực hiện bởi sự phối hợp
giữa Viện Khoa học Dân số, Gia đình và Trẻ em và Tổ chức Plan tại Việt Nam
do ông Nguyễn Đức Mạnh làm chủ nhiệm năm 2006. Đây là kết quả hợp tác
giữa Ủy ban Dân số, Gia đình và Trẻ em với Tổ chức Plan trong khuôn khổ dự
án thực hiện Chiến lược Bảo vệ trẻ em Việt Nam giai đoạn 2005-2010) cũng
quan tâm nghiên cứu về các hình thức xâm hại đến trẻ em. Kết quả nghiên cứu,
điều tra, khảo sát tại 5 tỉnh: Hà Nội, Bắc Giang, Phú Thọ, Thái Nguyên và Quảng
Bình đã xác định sự tồn tại của các hình thức xâm hại trẻ em hiện hữu trong thực
tiễn với nhiều dạng khác nhau: hình thức xâm hại thân thể và tinh thần, hình thức
xâm hại tình dục trẻ em, hình thức sao nhãng trẻ em, hình thức bóc lột sức lao
động trẻ em. Đồng thời, qua đó cũng khẳng định các hình thức xâm hại trẻ em
như trên đã trực tiếp đe dọa đến sự an toàn trong môi trường sống của trẻ.
Đề tài “Phân tích nhu cầu và khả năng tiếp cận các dịch vụ bảo vệ,
chăm sóc và giáo dục của nhóm trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn tại một
số địa phương ở Việt Nam” (nằm trong khuôn khổ hợp tác giữa Ủy ban Dân số
Gia đình và Trẻ em và Tổ chức Plan tại Việt Nam) do TS. Nguyễn Đức Mạnh
làm chủ nhiệm cũng quan tâm, nghiên cứu về thực trạng trong tiếp cận các lĩnh
vực giáo dục, chăm sóc sức khỏe, văn hóa và tinh thần của trẻ em có hoàn cảnh
đặc biệt khó khăn. Kết quả nghiên cứu cũng chỉ ra rằng thực trạng chưa được
công bằng đối với trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt trong việc tiếp cận các lĩnh vực
trên.
Cũng trong khuôn khổ hợp tác như trên, tháng 3 năm 2007, đề tài “Khảo
sát thực trạng và nhận thức của trẻ em, cộng đồng về tai nạn thương tích trẻ
em” đã được thực hiện. Ông Nguyễn Đức Mạnh và nhóm tác giả đã mô tả thực
trạng và các nguyên nhân dẫn đến tai nạn thương tích trẻ em tại vùng dự án. Kết
quả nghiên cứu cho thấy trẻ em bị các loại tai nạn thương tích từ nhẹ đến nặng
chiếm tỷ lệ rất cao, tới 87,2%. Trong đó, một số loại hình tai nạn thương tích phổ
biến (chiếm tỷ lệ từ 32 – 70%) như: bị vấp ngã; bị chảy máu do vật sắc nhọn đâm
phải; bị động vật cào cắn, đốt; bị bỏng; bị hóc sặc ở miệng... Một số loại tai nạn



Ket-noi.com
Ket-noi.com kho
kho tai
tai lieu
lieu mien
mien phi
phi

thương tích khác có tỷ lệ không cao (từ 10 – 30%) nhưng rất nguy hiểm đến tính
mạng trẻ em như: bị chết đuối hụt, bị điện giật, bị ngã từ trên cao, bị bom mìn nổ,
tai nạn giao thông... Báo cáo cũng chỉ ra một số nguyên nhân, khuyến nghị đối
với trẻ em, gia đình, cộng đồng, nhà trường và các ngành đoàn thể địa phương
trọng việc nâng cao nhận thức, hạn chế các tai nạn thương tích cho trẻ, tạo điều
kiện cho trẻ có được môi trường sống an toàn.
Ngoài ra, còn có nhiều công trình khác cũng đề cập đến trẻ em như: Ngô
Huy Đức (2003), “Ngân sách cho giáo dục hòa nhập của trẻ khuyết tật”, Nxb
Đại học Sư phạm; Viện Khoa học Dân số, Gia đình và Trẻ em và Tổ chức cứu
trợ trẻ em Thụy Điển (2004), “Báo cáo kết quả khảo sát thực trạng trừng phạt
thân thể và tinh thần trẻ em tại Việt Nam”; Reina Michaelson (2004), “Báo
cáo: Lạm dụng trẻ em ở Việt Nam”; Nxb Chính trị quốc gia (2004) “Trừng
phạt thân thể trẻ em, điều này có thực sự cần thiết”; Lê Thi (1997), “Vai trò
của gia đình trong việc xây dựng nhân cách con người Việt Nam”, (Nxb Phụ
Nữ, Hà Nội) v.v.. Tuy nhiên, những nghiên cứu này thường tập trung vào một
vấn đề riêng biệt chứ chưa quan tâm nhiều đến việc xây dựng một môi trường xã
hội, cộng đồng, gia đình và nhà trường an toàn, lành mạnh cho sự phát triển của
trẻ em. Do vậy, đề tài nghiên cứu “Một số yếu tố tác động đến hiệu quả việc xây
dựng mô hình “Xã, phường phù hợp với trẻ em” được thực hiện với hi vọng bổ
sung thêm một phần vào khoảng trống trên và đóng góp thêm một nghiên cứu

nữa trong lộ trình xây dựng một môi trường sống phù hợp với trẻ em. Nó cũng có
thể làm phong phú hơn phần nào mảng nghiên cứu về trẻ em đã và đang có sức
hấp dẫn đối với nhiều nhà nghiên cứu hiện nay.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu.
3.1 Mục đích nghiên cứu.
Nghiên cứu thực tiễn công tác xây dựng mô hình “Xã, phường phù hợp
với trẻ em” hiện nay, phân tích những mặt thành công và hạn chế của việc xây
dựng này. Trên cơ sở đó, đề xuất các ý kiến nhằm hoàn thiện hơn nội dung và
phương thức xây dựng “Xã, phường phù hợp với trẻ em”.


3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Nghiên cứu, điều tra việc xây dựng mô hình xã phường phù hợp với trẻ
em tại hai xã An Lão và Hưng Công, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam, qua đó nêu
lên những nhận xét cụ thể về việc thực hiện các chỉ tiêu cơ bản về Tiêu chuẩn xã,
phường phù hợp với trẻ em, cung cấp thêm những thông tin thực tiễn đáp ứng
nhu cầu nhận thức một cách chính xác hơn về việc triển khai thực hiện mô hình
“Tiêu chuẩn xã phường phù hợp với trẻ em” trong thực tế.
Đề xuất những ý kiến về việc điều chỉnh bộ tiêu chuẩn và giải pháp thực
hiện cho phù hợp với tình hình hiện nay.
4. Đối tượng, khách thể, phạm vi nghiên cứu
4.1 Đối tượng nghiên cứu.
Nghiên cứu một số yếu tố tác động đến hiệu quả việc xây dựng mô hình
“Xã, phường phù hợp với trẻ em”.
4.2 Khách thể nghiên cứu
- Trẻ em được sống, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục tại môi trường xã
hội, gia đình tại hai xã An Lão, Hưng Công, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam.
- Cán bộ lãnh đạo, chính quyền, đoàn thể, cán bộ dân số gia đình và trẻ em
trong địa bàn khảo sát.
- Các thầy, cô giáo tại các trường Mầm non, Tiểu hoc và Trung học cơ sở

của hai xã.
- Các thành viên trong gia đình.
4.3 Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi địa lí: Do thời gian và kinh phí hạn chế, tác giả chỉ tiến hành
nghiên cứu tại hai xã An Lão và Hưng Công thuộc huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam
(một xã có báo cáo đã thực hiện được 24/28 chỉ tiêu, một xã thực hiện dưới 24
chỉ tiêu1).
Phạm vi về nội dung:
1

Ủy ban dân số gia đình và trẻ em, quyết định số 03/2004 QĐ-DSGĐTE ngày 1/6/2004, Hướng dẫn tiêu
chuẩn XPPHTE.


Ket-noi.com
Ket-noi.com kho
kho tai
tai lieu
lieu mien
mien phi
phi

Luận văn tập trung phân tích những nội dung của bản tiêu chuẩn “Xã,
phường phù hợp với trẻ em” được vận dụng vào quá trình áp dụng trong thực tế
của công tác chăm sóc, giáo dục trẻ em của hai xã An Lão, Hưng Công. (Nội
dung, cách thức của bản tiêu chuẩn được vận dụng như thế nào).
Tập trung phát triển rõ những yếu tố, những bài hoc kinh nghiệm tác động
đến sự thành công, hạn chế của việc xây dựng “Xã, phường phù hợp với trẻ em”.
Đề xuất những ý kiến và hoàn thiện những nội dung, những quy chuẩn của
bộ tiêu chuẩn để việc xây dựng xã phường phù hợp với trẻ em có thể tiến hành có

hiệu quả và phù hợp với nhiều vùng miền trong cả nước.
Nội dung các tiêu chuẩn “Xã, phường phù hợp với trẻ em” có 28 chỉ tiêu
bao quát nội dung rộng và được xếp đặt trong 4 tiêu chuẩn1 cơ bản. Trong khuôn
khổ của luận văn, tác giả chỉ lựa chọn tiêu chuẩn 1 và tiêu chuẩn 2.
Tiêu chuẩn 1: Môi trường xã hội phù hợp với trẻ em
Tiêu chuẩn 2: Môi trường gia đình bảo đảm bảo để trẻ em phát triển toàn
diện.
5. Giả thuyết nghiên cứu và sơ đồ tương quan giữa các biến số.
5.1 Giả thuyết nghiên cứu
Việc xây dựng mô hình “Xã, phường phù hợp với trẻ em” là một ý tưởng
tốt nhưng triển khai trong điều kiện thực tế Việt Nam còn rất nhiều khó khăn.
Những tiêu chuẩn xây dựng “Xã, phường phù hợp với trẻ em” trong thực
tế cần phải được sửa chữa, hoàn thiện, bổ sung, hoàn chỉnh.
Mặc dù có những khó khăn như vậy, nhưng việc triển khai mạnh mẽ mô
hình “Xã, phường phù hợp với trẻ em” sẽ tạo điều kiện thuận lợi tốt và cơ bản
cho công tác giáo dục, chăm sóc và bảo vệ trẻ em.

4 tiêu chuẩn đó là: (1) Môi trường xã hội phù hợp với trẻ em, (2) Môi trường gia đình đảm bảo để trẻ em
phát triển toàn diện, (3) Mọi trẻ em đều được hưởng các quyền cơ bản, (4) Bảo vệ chăm sóc trẻ em có
hoàn cảnh đặc biệt.
1


5.2. Khung lý thuyết.
Điều kiện kinh tế, xã hội của hai xã An Lão,
Hưng Công, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam.

Các yếu tố bên ngoài
+ Nhà trường
+ Cộng đồng và tổ chức đoàn thể địa

phương.
+ Phương tiện truyền thông đại
chúng
+Chính sách của Đảng và nhà nước

Gia đình – yếu tố bên
trong
+ Điều kiện kinh tế
+ Nhận thức của gia đình
+ Truyền thống gia đình.

Các yếu tố môi
trường
+ Nền kinh tế thị
trường
+ Sự giao lưu,
hội nhập quốc tế.

Công tác xây dựng XPPHTE

Hiệu quả việc xây dựng mô hình XPPHTE
- Chăm sóc trẻ em
- Giáo dục trẻ em

Hệ quả xã hội

6. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp luận
Sử dụng phương pháp luận của Chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa
duy vật lịch sử cùng với những quan điểm, tư tưởng của Hồ Chí Minh về công

tác chăm sóc, giáo dục trẻ em.


Ket-noi.com
Ket-noi.com kho
kho tai
tai lieu
lieu mien
mien phi
phi

Vận dụng một số lý thuyết về tư tưởng của một số nhà xã hội học trong
nghiên cứu về gia đình và trẻ em.
Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện tốt mục đích, yêu cầu đặt ra, Luận văn dụng phương pháp
phân tích các số liệu thống kê cơ bản kết hợp với cách tiếp cận cụ thể, đa chiều,
đa đối tượng.
Cách tiếp cận cụ thể là tiếp cận từng đối tượng khảo sát trên nguyên tắc
của phương pháp nghiên cứu tham dự thông qua phỏng vấn sâu, thảo luận nhóm
và tọa đàm. Phương pháp này có khả năng cung cấp những thông tin chính xác,
cụ thể và trực tiếp, không phải qua một khâu trung gian nào. Trong đó, số lượng
phỏng vấn sâu là 28 và 12 cuộc thảo luận nhóm, tọa đàm.
Cách tiếp cận đa phương, đa chiều là cách tiếp cận bằng nhiều phương
pháp. Trong đó, phương pháp phân tích xã hội học là chủ đạo. Ngoài ra, Luận
văn cũng coi trọng phương pháp thu thập, phân tích và tổng hợp tài liệu từ các
nguồn sẵn có như: báo cáo của địa phương, cơ sở, các dự án, công trình, đề tài
nghiên cứu khoa học có liên quan.
Tiếp cận đa đối tượng là cách tiếp cận có khả năng đưa đến một kết quả
toàn diện, sâu sắc và khách quan về các vấn đề khảo sát. Đa đối tượng ở đây là từ
trẻ em, bố mẹ, ông bà, anh chị trong gia đình, những người có uy tín trong cộng

đồng và cán bộ Đảng, chính quyền, các tổ chức đoàn thể, xã hội, cán bộ chuyên
trách và cộng tác viên dân số, gia đình và trẻ em.
Phương pháp thực chứng
Đây là phương pháp thu thập, phân tích và tổng hợp các nguồn tin, tư liệu,
số liệu thứ cấp. Nó bao gồm các báo cáo có liên quan của Nhà nước, các Bộ,
Ngành ở trung ương; báo cáo của địa phương, cơ sở; báo cáo của các dự án, các
công trình, đề tài nghiên cứu khoa học. Ở đây có thể dùng phương pháp thống kê,
phân tích, so sánh giữa 2 xã nằm trong địa bàn khảo sát của luận văn.
Phương pháp phân tích, so sánh
Do nhiều điều kiện khác nhau nên địa bàn khảo sát chỉ là 2 xã An Lão,
Hưng Công của huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam. Nhưng để tìm ra những yếu tố tác


động đến hiệu quả của việc xây dựng mô hình “Xã, phường phù hợp với trẻ em”,
tác giả đã lựa chọn 1 xã đảm bảo 24 tiêu chí, 1 xã đạt dưới 18 tiêu chí trong bộ
tiêu chuẩn xây dựng “Xã, phường phù hợp với trẻ em”.
7. Kết cấu luận văn.
Phần mở đầu
Phần nội dung
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn của đề tài.
1.Từ quan điểm xây dựng môi trường sống phù hợp với trẻ em của Liên hiệp
quốc đến việc xây dựng mô hình “Xã, phường phù hợp với trẻ em” ở Việt Nam.
1.1 Quan điểm của Liên hiệp quốc về xây dựng “Một thế giới phù hợp với trẻ
em”
1.2 Việt Nam và việc xây dựng mô hình “Xã phường phù hợp với trẻ em”.
2. Một số khái niệm công cụ liên quan đến đề tài.
3. Một số lý thuyết và quan điểm của các nhà xã hội học được vận dụng trong đề
tài nghiên cứu.
Chương 2: Thực trạng và một số yếu tố tác động đến việc xây dựng mô hình
“Xã, phường phù hợp với trẻ em”.

1. Điều kiện kinh tế, xã hội của hai xã An Lão và Hưng Công
2. Thực trạng và một số yếu tố tác động đến việc xây dựng mô hình “Xã, phường
phù hợp với trẻ em”.
2.1. Thực trạng công tác bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em và việc xây dựng
“Xã, phường phù hợp với trẻ em” tại hai xã An Lão và Hưng Công.
2.1 Một số yếu tố tác động đến hiệu quả việc xây dựng mô hình “Xã, phường phù
hợp với trẻ em”.
3. Hiệu quả
Chương 3: Giải pháp
Phần kết luận, khuyến nghị


Ket-noi.com
Ket-noi.com kho
kho tai
tai lieu
lieu mien
mien phi
phi

PHẦN NỘI DUNG
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI
1. Từ quan điểm xây dựng “Một thế giới phù hợp với trẻ em” của
Liên hiệp quốc đến việc xây dựng mô hình “Xã, phường phù hợp với trẻ
em” ở Việt Nam.
1.1 Quan điểm của Liên hiệp quốc về xây dựng “Một thế giới phù hợp
với trẻ em”
Công ước Liên hiệp quốc về quyền trẻ em là văn bản pháp luật quốc tế
đầy đủ nhất về trẻ em được đại đa số các quốc gia phê chuẩn, ký và thừa nhận.
Việt Nam là quốc gia đầu tiên ở Châu Á và thứ hai trên thế giới phê chuẩn Công

ước này.
Vào những năm cuối của thế kỷ hai mươi, phong trào xây dựng một thế
giới phù hợp với trẻ em đã được phát động ở nhiều nơi trên thế giới và ngày càng
được thúc đẩy trong bối cảnh toàn cầu hóa để đảm bảo cho mỗi quốc gia, mỗi
cộng đồng và gia đình sự phát triển bền vững, xóa đói giảm nghèo và ngăn chặn
sự bất bình đẳng.
Bản tuyên bố “Một thế giới phù hợp với trẻ em” đã được phiên họp đặc
biệt của Liên hiệp quốc thông qua với sự đồng thuận và cam kết thực hiện của tất
cả các quốc gia tham dự, trong đó có Việt Nam. Tên gọi của Tuyên bố cũng đồng
thời là phương châm hành động trong thế kỷ mới. “Các chính quyền và nhà chức
trách địa phương thông qua bộ máy của mình tại tất cả các cấp có thể đảm bảo
rằng trẻ em là trung tâm của sự phát triển. Bằng việc xây dựng những sáng kiến
hiện nay như các cộng đồng bạn hữu với trẻ em, các thành phố không có nhà ổ
chuột, các thị trưởng và lãnh đạo địa phương có thể cải thiện một cách có ý nghia
cuộc sống của trẻ em”1.

1

Vụ trẻ em (2004), Tài liệu hướng dẫn xây dựng Xã phường phù hợp với trẻ em, tr.3


Các nguyên tắc1 sau được nêu trong bản Tuyên bố “Một thế giới phù hợp
với trẻ em”:
1) Đặt trẻ em lên trên hết. Trong mọi công việc của chúng ta, quyền lợi
tốt nhất của trẻ em phải luôn được đặt lên hàng đầu.
2) Xóa bỏ đói nghèo: đầu tư cho trẻ em. Phá bỏ vòng đói nghèo trong
vòng một thế hệ, cùng nhau hợp lực đoàn kết với niềm tin tưởng rằng đầu tư vào
trẻ em và thực hiện các quyền của các em là những cách xóa bỏ đói nghèo hiệu
quả nhất.
3) Không được đặt vấn đề trẻ em đằng sau mọi việc. Mỗi trẻ em trai hay

gái sinh ra đều có quyền bình đẳng. Tất cả các hình thức phân biệt đối xử có ảnh
hưởng đến trẻ em đều phải chấm dứt.
4) Chăm sóc cho mọi trẻ em. Trẻ em phải được khởi đầu bằng cuộc sống
tốt đẹp nhất. Sự sống còn, bảo vệ và phát triển về sức khỏe và dinh dưỡng của trẻ
em là những nền tảng cơ bản nhất cho sự phát triển của con người. Tạo điều kiện
cho các em có cuộc sống vật chất khỏe mạnh, tinh thần sảng khoái, tình cảm đảm
bảo, có khả năng về xã hội và học tập.
5) Giáo dục cho mọi trẻ em. Tất cả trẻ em trai và gái đều phải được tiếp
cận và hoàn thành giáo dục tiểu học miễn phí, bắt buộc và có chất lượng tốt.
6) Ngăn chặn sự xâm hại và bóc lột trẻ em. Trẻ em phải được bảo vệ khỏi
bất kỳ hành động nào xâm hại, bóc lột, lạm dụng và phân biệt. Phải có những
hành động ngay tức khắc để loại trừ các hình thức lao động tồi tệ nhất ở trẻ em.
7) Bảo vệ trẻ em khỏi các cuộc chiến tranh. Trẻ em phải được bảo vệ để
tránh khỏi những sự khủng khiếp của các cuộc xung đột vũ trang.
8) Chiến đấu chống lại HIV/AIDS. Trẻ em và các gia đình phải được bảo
vệ để tránh sự lây nhiễm căn bệnh thế kỷ HIV/AIDS.
9) Lắng nghe ý kiến trẻ em và đảm bảo sự tham gia của các em. Trẻ em
và vị thành niên là những công dân đầy tiềm năng có khả năng xây dựng một
tương lai tốt đẹp cho tất cả mọi người. Chúng ta phải tôn trọng các quyền của

1

Vụ trẻ em (2004), Tài liệu hướng dẫn xây dựng Xã phường phù hợp với trẻ em, tr.4


Ket-noi.com
Ket-noi.com kho
kho tai
tai lieu
lieu mien

mien phi
phi

trẻ em được tự bày tỏ và tham gia vào các quyết định có ảnh hưởng đến chính
các em theo lứa tuổi và sự khôn lớn.
10) Bảo vệ trái đất cho trẻ em. Môi trường tự nhiên với sự đa dạng của
cuộc sống, các nguồn lực và vẻ đẹp sẽ đẩy mạnh chất lượng cuộc sống con người
cho các thế hệ hiện tại và tương lai. Chúng ta sẽ tọ mọi điều kiện để bảo vệ trẻ
em và giảm thiểu ảnh hưởng của thiên tai và sự xuống cấp của môi trường tới
các em.
Những nguyên tắc mà Liên hiệp quốc đưa ra cho chúng ta thấy “Một thế
giới phù hợp với trẻ em”, một cộng đồng bạn hữu với trẻ em hay xã phường phù
hợp với trẻ em đều có nghĩa là phải xây dựng một môi trường sống phù hợp với
tất cả mọi người trong cả hiện tại và tương lai.
Công ước quốc tế về quyền trẻ em cũng nêu rất rõ về trách nhiệm của
cộng đồng, cơ sở trong việc thực hiện quyền trẻ em và hỗ trợ gia đình, cha mẹ
chăm sóc, giáo dục, bảo vệ trẻ em.
Điều 18 của Công ước quy định: Các quốc gia thành viên phải dành sự
giúp đỡ thích hợp cho cha mẹ và người giám hộ pháp lý trong việc thực hiện
trách nhiệm nuôi nấng trẻ em và phải đảm bảo sự phát triển những cơ quan, cơ sở
và dịch vụ cho việc chăm sóc trẻ.
Điều 27 nêu rõ: Các quốc gia thành viên công nhận quyền của mọi trẻ em
được có mức sống đủ để phát triển về thể chát, trí tuệ, tinh thần, đạo đức và xã
hội.
1.2 Việt Nam và việc xây dựng mô hình “Xã phường phù hợp với trẻ
em”.
Quan điểm của Liên hiệp quốc trong Tuyên bố “Một thế giới phù hợp với
trẻ em” đã thể hiện được sự khái quát hóa, sự kỳ vọng trong việc xây dựng môi
trường tốt đẹp phù hợp với trẻ em, đồng thời cũng là phù hợp với tất cả mọi
người, mọi thời đại. Trên cơ sở quan điểm hết sức nhân văn và tiến bộ đó, Việt

Nam cũng đã thể hiện sự tán thành, ủng hộ không chỉ bằng việc ký cam kết tại
Đại hội đồng Liên hiệp quốc mà hơn thế nữa, những Tuyên bố của Liên hiệp


quốc còn được Việt Nam thể hiện trong các chính sách quốc gia và được chi tiết
hóa thành các tiêu chí trong việc xây dựng “Xã, phường phù hợp với trẻ em”.
Thời gian qua, Việt Nam luôn được biết đến là một trong những quốc gia
đi đầu trong cam kết thực hiện quyền trẻ em và thực tế đã có nhiều chính sách
cập nhật cũng như nỗ lực đầu tư để cải thiện cuộc sống của trẻ em, hướng tới
mục tiêu đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài vì sự phát triển bền vững của đất
nước. Tỷ lệ trẻ em được chăm sóc sức khỏe, phòng ngừa bệnh tật; được đi học để
không mù chữ, được phổ cập tiểu học và tiến tới phổ cập trung học cơ sở; được
tham gia các hoạt động vui chơi, giải trí ở trường học, cộng đồng và gia đình,
được tiếp cận nhiều nguồn thông tin đa dạng, phong phú thông qua các kênh
thông tin khác nhau; được bảo vệ trước các nguy cơ bị lạm dụng, bị xúc phạm, bị
bóc lột và bị xâm hại.
Tiêu chuẩn “Xã phường phù hợp với trẻ em” gồm 4 tiêu chuẩn với 28 chỉ
tiêu đã cố gắng chi tiết hóa các nội dung trong Tuyên bố “Một thế giới phù hợp
với trẻ em” của Liên hiệp quốc, đồng thời có sự linh hoạt sao cho hài hòa với đặc
điểm riêng của các vùng miền khác nhau ở Việt Nam. Điều này một lần nữa
khẳng định nỗ lực của Việt Nam trong việc thực hiện các cam kết với Liên hiệp
quốc, đồng thời cũng thể hiện sự quan tâm đặc biệt của Đảng và Nhà nước trong
công tác bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em.
Tuy nhiên, từ mô hình lý thuyết đến việc vận dụng nó là cả một quãng
đường dài, cần phải có sự nghiên cứu, đánh giá, thẩm định và sửa đổi để mô hình
ngày một hoàn thiện và sát hợp với thực tế hơn.
2. Một số khái niệm liên quan đến đề tài
2.1 Trẻ em
Quan điểm và cách hiểu về trẻ em ở các quốc gia trên thế giới và ở Việt
Nam hiện nay còn nhiều điểm chưa được thống nhất, trong đó sự khác biệt tập

trung chủ yếu ở việc quy định độ tuổi trẻ em.
Tại điều 1, Công ước của Liên hiệp quốc về quyền trẻ em năm 1989 quy
định rằng: Trong phạm vi của Công ước này, trẻ em có nghĩa là mọi người dưới


Ket-noi.com
Ket-noi.com kho
kho tai
tai lieu
lieu mien
mien phi
phi

18 tuổi, trừ trường hợp luật pháp áp dụng với trẻ em có quy định tuổi thành niên
sớm hơn.
Một số điều trong Luật lao động của Việt Nam quy định về độ tuổi người
lao động như sau:
Điều 6: Người lao động là người ít nhất đủ 15 tuổi, có khả năng lao động
và có giao kết hợp đồng lao động.
Điều 119: (1) Người lao động chưa thành niên là người lao động dưới 18
tuổi. Nơi có sử dụng người lao động chưa thành niên phải lập sổ theo dõi riêng,
ghi đầy đủ họ tên, ngày sinh, công việc đang làm, kết quả những lần kiểm tra sức
khoẻ định kỳ và xuất trình khi thanh tra viên lao động yêu cầu. (2) Nghiêm cấm
lạm dụng sức lao động của người chưa thành niên.
Điều 120: Cấm nhận trẻ em chưa đủ 15 tuổi vào làm việc, trừ một số nghề
và công việc do Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội quy định. Đối với ngành
nghề và công việc được nhận trẻ em chưa đủ 15 tuổi vào làm việc, học nghề, tập
nghề thì việc nhận và sử dụng những trẻ em này phải có sự đồng ý và theo dõi
của cha mẹ hoặc người đỡ đầu.
Luật Bảo vệ chăm sóc và giáo dục trẻ em tại điều 1 nêu rõ: Trẻ em trong

Luật này là công dân Việt Nam dưới 16 tuổi.
Độ tuổi trẻ em quy định trong các văn bản luật chưa có sự thống nhất, tuy
nhiên trong luận văn này, tác giả tham chiếu theo Luật Bảo vệ chăm sóc và giáo
dục trẻ em, vì vậy, đối tượng trẻ em được nhắc đến trong luận văn này là công
dân Việt Nam dưới 16 tuổi.
2.2 Khái niệm “Xã, phường phù hợp với trẻ em”
“Xã, phường phù hợp với trẻ em” là tên gọi của một bộ tiêu chuẩn (gồm 4
tiêu chuẩn và 28 chỉ tiêu) hướng dẫn việc xây dựng xã, phường phù hợp với sự
phát triển của trẻ em; đây cũng đồng thời là những cụ thể hóa cam kết của Việt
Nam với Đại hội đồng Liên hiệp quốc trong việc xây dựng “Một thế giới phù hợp
với trẻ em”.


3. Một số lý thuyết và quan điểm của các nhà xã hội học được vận
dụng trong đề tài nghiên cứu.
3.1 Lý thuyết nhóm
Lý thuyết nhóm được Georg Simmel – một trong những nhà xã hội học
đầu tiên đặt vấn đề nghiên cứu xã hội từ khía cạnh nhóm. Ông cho rằng, sự liên
kết và phân giải của nhóm là hình thức đa dạng nhất của tương tác xã hội. Nó tạo
nên nền tảng cơ bản của cơ cấu xã hội.
Simmel cho rằng, khi liên kết nhóm dựa trên những tiêu chuẩn hợp lý, các
cá nhân có thể thuộc về nhiều nhóm khác nhau. Chẳng hạn, Simmel đã quan sát
con người hiện đại được liên kết với dòng dõi gia đình của mình, gia đình lại liên
tục được chia nhỏ và mở rộng. Mỗi nhóm này lại có những đặc điểm riêng tùy
thuộc vào từng giai đoạn lịch sử xã hội cụ thể, tùy thuộc vào điều kiện kinh tế, xã
hội, dân tộc hay địa bàn cư trú. Ngoài ra, mỗi người cũng lại có thể thuộc về các
loại nhóm khác nhau: nhóm nghề nghiệp, nhóm xã hội nhân văn... và số lượng
hầu như không có giới hạn. Hơn nữa, họ có thể xác định mình như là một thành
viên của một tầng lớp xã hội và một đơn vị trong cấu trúc xã hội. Cuối cùng, mỗi
người chính là công dân của mỗi thành phố, mỗi quốc gia, khu vực và dân tộc.

Trên cơ sở đó, Simmel đã đi đến kết luận như sau: Đây chính là sự phong phú, đa
dạng của các nhóm cấu trúc xã hội. Trong đó, sẽ có những nhóm được hợp nhất,
những nhóm bị phân giải tùy theo sự vận động, biến đổi của xã hội, nhận thức và
hành vi của cá nhân. Tuy nhiên, chính sự vận động và biến đổi của các nhóm
cũng tạo điều kiện để một nhóm khác xuất hiện. Đây chính là trọng tâm cơ bản
của liên kết cá nhân, nó giúp mỗi người có thể tham gia, lựa chọn nhóm này hay
nhóm khác.
Vận dụng lý thuyết nhóm vào nghiên cứu này, trẻ em ở đây với tư cách là
một nhóm trong xã hội, nhóm này chịu tác động của nhóm khác và môi trường
xung quanh. Sự tồn tại của nhóm này chịu ảnh hưởng, tác động của môi trường
xung quanh. Khi trẻ được sống trong môi trường có nhiều nhóm tốt, hoạt động
tích cực như: gia đình, nhà trường, cộng đồng... thì trẻ em cũng có điều kiện để
học tập, phát triển tốt và ngược lại. Khi các nhóm xung quanh có những biểu


Ket-noi.com
Ket-noi.com kho
kho tai
tai lieu
lieu mien
mien phi
phi

hiện tiêu cực, hoặc ít có sự đầu tư, quan tâm đến nhóm trẻ em, thì cơ hội, điều
kiện để trẻ phát triển cũng bị hạn chế.
3.2 Lý thuyết về xã hội hóa
Xã hội hoá là một quá trình tất yếu đối với sự trưởng thành của con người,
phát triển cùng với con người trong suốt cuộc đời. Con người không tồn tại như
những sinh vật đơn lẻ mà là con người xã hội. Sống cùng với đồng loại trong môi
trường xã hội là bản chất của con người, quyết định sự sống còn của họ. Không

có sự gắn kết với những người khác, chia sẻ bằng cách này hay cách khác sự
phân công công việc, những thành quả của lao động, những sáng tạo trong văn
hoá, con người không thể tồn tại được. Trong suốt cuộc hành trình đầy gian truân
và trắc trở của cuộc đời, con người luôn sống dựa vào cộng đồng, học hỏi những
kiến thức từ cộng đồng và ngược lại, có bổn phận đóng góp sức lực và trí tuệ để
phát triển cộng đồng.
Kết luận của các luận thuyết xã hội hoá cũng như trong thực tế cuộc sống
cho thấy, không một cá nhân cụ thể nào có thể trở thành con người thực thụ nếu
không có được những hiểu biết, kiến thức và kinh nghiệm từ cuộc sống xã hội.
Xã hội hoá cá nhân là cách thức để con người sinh học trở thành con người xã
hội, trở thành con người với tính chất là một “sinh vật xã hội”. Bởi vậy có thể coi
xã hội hoá là một quá trình tương tác xã hội kéo dài trong suốt cuộc đời, qua đó
cá nhân học hỏi, tiếp thu và phát triển được những kiến thức chung của cuộc
sống xã hội, nâng cao khả năng sống của mình trong xã hội.
Mặt khác, với những đặc trưng mang tính sinh học của tuổi tác, mỗi giai
đoạn của cuộc đời lại có những đặc trưng và đòi hỏi riêng về xã hội hoá. Những
nhu cầu và phương thức xã hội hoá của trẻ em hoàn toàn không giống như những
nhu cầu và phương thức xã hội hoá của người lớn. Sự khác biệt khách quan này
là cơ sở để các nhà xã hội học phân biệt các giai đoạn trong quá trình xã hội hoá
cá nhân.
Trẻ em và xã hội hoá: Xã hội hoá ở trẻ em là giai đoạn đầu tiên, giai đoạn
xuất phát của cuộc hành trình vào cộng đồng xã hội trong suốt cuộc đời một con


người. Nếu để trở thành một con người thực thụ, một đứa trẻ sơ sinh trước tiên
cần phải biết lẫy, biết bò rồi sau đó mới có thể đứng thẳng và đi lại được trong
nhà, thì để bước vào cộng đồng xã hội, nó cũng phải trải qua những giai đoạn
tương tự như vậy.
Trước hết, đứa trẻ cần phải biết rằng chúng sống không phải đơn lẻ mà là
luôn bên cạnh những người khác, trong những mối quan hệ với những người

khác. Trong mối quan hệ xã hội đầu tiên đó, mà gần gũi nhất là quan hệ với cha
mẹ, ông bà, anh em, chúng cũng cần phải tập làm quen với những quy chuẩn ứng
xử đầu tiên, từ cách xưng hô nhằm khẳng định vị thế và vai trò của mình đến việc
thực thi các lợi ích và chức phận gắn liền với vị thế và vai trò ấy. Trẻ hư hay trẻ
ngoan là tuỳ thuộc vào việc chúng nhận thức như thế nào về vấn đề này.
Ngày nay, các nhà xã hội học, tâm lý học và giáo dục học đang cố gắng
đưa ra những mô hình phát triển xã hội hoá ở trẻ em, lấy đó làm những chuẩn
mực để định hướng cho việc chăm sóc, giáo dục trẻ em. Các mô hình xã hội hoá
này đã được nhiều nhà khoa học cụ thể hoá thành những mục tiêu và nhiệm vụ cụ
thể, có thể được áp dụng đối với từng lứa tuổi và từng nhóm trẻ khác nhau. Họ
cũng cố gắng xác định rõ những nội dung và phạm vi ứng dụng khác nhau của
những mô hình trên trong thực tiễn. Chẳng hạn, về mặt sinh học thì cần phải làm
gì, cần phải có các chế độ dinh dưỡng và cải thiện điều kiện sống ra sao để nâng
cao các chỉ số về thể lực và trí lực ở trẻ. Về mặt tri thức thì cần phải xã hội hoá
đến đâu, nâng cao nhận thức cho các em tới mức độ nào, việc nuôi dưỡng và phát
triển các tài năng bẩm sinh ra sao.
Trong bối cảnh này, rất nhiều nhà khoa học đã nhấn mạnh tới tầm quan
trọng phải nuôi dạy ở các em các phương thức ứng xử và xử lý đúng đắn những
mối quan hệ trong gia đình và cộng đồng, nhận thức rõ về quyền và bổn phận của
mình trong xã hội. Điều này là hoàn toàn đúng đắn và cũng phù hợp với những
điều mà cha ông chúng ta trước đây đã nói, trẻ em đi học, trước hết là để “ học
làm người”. Học làm người chính là khía cạnh quan trọng nhất trong giai đoạn xã
hội hoá ở trẻ em.


×