Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

PHÂN TÍCH LUẬN ĐIỂM CỦA HỒ CHÍ MINH: quot;XÂY DỰNG CNXH Ở VIỆT NAM LÀ MỘT CUỘC CÁCH MẠNG LÂU DÀI, KHÓ KHĂN GIAN KHỔ NHẤT TRONG LỊCH SỬquot; LIÊN HỆ THỰC TIỄN XÂY DỰNG XHCN HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (517.58 KB, 18 trang )

Trường ĐH Kinh tế Quốc dân

HỌ VÀ TÊN: VŨ THỊ TRÀ MY
MÃ SINH VIÊN: 11132656
LỚP TÍN CHỈ: 29

NĂM HỌC 2014-2015
1


ĐỀ TÀI: PHÂN TÍCH LUẬN ĐIỂM CỦA HỒ CHÍ MINH: "XÂY
DỰNG CNXH Ở VIỆT NAM LÀ MỘT CUỘC CÁCH MẠNG LÂU DÀI,
KHÓ KHĂN GIAN KHỔ NHẤT TRONG LỊCH SỬ" LIÊN HỆ THỰC
TIỄN XÂY DỰNG XHCN HIỆN NAY.
BÀI LÀM
PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ
Tiếp thu, vận dụng sáng tạo lý luận Mác- Lênin về sự phát triển tất yếu của
xã hội loài người, chủ tịch Hồ Chí Minh đưa ra quan điểm: Tiến lên chủ nghĩa
xã hội là bước phát triển tất yêu ở Việt Nam sau khi nước nhà đã giành được
độc lập theo con đường cách mạng vô sản. Hồ Chí Minh đã khẳng định con
đường cách mạng Việt Nam là tiến hành giải phóng dân tộc, hoàn thành cách
mạng dân tộc dân chủ nhân dân, tiến dần lên chủ nghĩa xã hội. Như vậy, quan
niệm Hồ Chí Minh về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là quan
niệm về một hình thái quá độ gián tiếp cụ thể - quá độ từ một xã hội thuộc địa,
nửa phong kiến, nông nghiệp lạc hậu đi lên chủ nghĩa xã hội.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam bao quát những vấn
đề cốt lõi cơ bản nhất, trên cơ sở vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa
Mac-Lênin .Đó là luận điểm về bản chất, mục tiêu và động lực của chủ nghĩa
xã hội, về tính tất yếu khách quan của thời kì quá độ,về đặc điểm, nhiệm vụ
lịch sử ,nội dung,hình thức,các bước đi và biện pháp tiến hành công cuộc xây
dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta .Tư tưởng đó trở thành tài sản vô giá ,cơ sở lí


luận và kim chỉ nam cho việc kiên trì, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa
2


của Đảng ta, đồng thời gợi mở nhiều vấn đề về xác định hình thức, biện pháp
và bước đi lên chủ nghĩa xã hội phù hợp với những đặc điểm dân tộc và xu thế
phát vận động của thời đại ngày nay. Người đã khẳng định “Xây dựng xã hội
chủ nghĩa ở Việt Nam là cuộc cách mạng lâu dài, khó khăn, gian khổ nhất
trong lịch sử.”
PHẦN II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ.
1/ Quan điểm Hồ Chí Minh về bản chất, đặc trưng,bước đi và biện pháp xây
dựng của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam:
1.1 Bản chất:
Từ quan niệm về chủ nghĩa xã hội nói chung, từ những đặc điểm của chủ
nghĩa xã hội hiện thực ở Liên Xô, Hồ Chí Minh đã kế thừa, vận dụng sáng tạo
vào điều kiện cụ thể của nước ta và đưa ra những đặc trưng bản chất của chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam - cho phù hợp điều kiện, hoàn cảnh thực tế nước ta. Do
vậy, chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam mang đầy đủ đặc trưng bản chất của chủ nghĩa
xã hội nói chung, nhưng trong điều kiện, hoàn cảnh Việt Nam được Người nhấn
mạnh những đặc trưng bản chất chủ yếu sau:
Một là, chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là xã hội do nhân dân lao động làm chủ.
Trong nhiều bài viết, bài nói chuyện, Hồ Chí Minh luôn xác định rất rõ: “Chế độ
xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa là chế độ do nhân dân lao động làm
chủ”(Điều này được Người cụ thể hóa trong điều kiện Việt Nam):
“Nước ta là nước dân chủ
Bao nhiêu lợi ích đều vì dân.
Bao nhiêu quyền hạn đều của dân.
3



Công việc đổi mới xây dựng là trách nhiệm của dân.
Sự nghiệp kháng chiến kiến quốc là công việc của dân.
Chính quyền từ xã đến Chính phủ trung ương do dân cử ra.
Đoàn thể từ Trung ương đến xã do dân tổ chức nên.
Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”.
Hai là, chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là xã hội có chế độ sở hữu toàn dân và sở
hữu tập thể đối với tư liệu sản xuất chủ yếu.
Trong Báo cáo về dự thảo Hiến pháp sửa đổi tại kỳ họp thứ 11 Quốc hội khóa I
nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, Hồ Chí Minh đã nêu rõ, trong nước ta hiện
nay có những hình thức sở hữu chính về tư liệu sản xuất như sở hữu của Nhà
nước tức là của toàn dân; sở hữu hợp tác xã tức là sở hữu tập thể của nhân dân
lao động; sở hữu của người lao động riêng lẻ; sở hữu của nhà tư bản. Nhưng,
“mục đích của chế độ ta là xóa bỏ các hình thức sở hữu không xã hội chủ nghĩa,
làm cho nền kinh tế gồm nhiều thành phần phức tạp trở nên một nền kinh tế
thuần nhất, dựa trên chế độ sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể”. Trong một bài
nói chuyện với giáo viên và hội nghị sư phạm, Người lại nói: “Như vậy chủ
nghĩa xã hội là lấy nhà máy, xe lửa, ngân hàng, v.v. làm của chung”. Đây là quan
niệm đúng trong những điều kiện lịch sử khi đó và hiện nay, đã có những đổi
mới trong nhận thức về vấn đề này, nhưng rõ ràng là, khi nói về đặc trưng bản
chất của chủ nghĩa xã hội không thể không khẳng định chế độ công hữu về tư
liệu sản xuất chủ yếu.
Ba là, chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là xã hội mà mọi người ai ai cũng được ăn
no, mặc ấm, sung sướng, tự do, hạnh phúc.
Trong bài “Nói chuyện tại Hội nghị cán bộ đảng ngành giáo dục” tháng 6 1957, Hồ Chí Minh nói: “Chủ nghĩa xã hội là gì? Là mọi người được ăn no, mặc
4


ấm, sung sướng, tự do. Nhưng nếu muốn tách riêng một mình mà ngồi ăn no
mặc ấm, người khác mặc kệ là không tốt. Mình muốn ăn no mặc ấm, cũng cần
làm sao cho tất cả mọi người được ăn no mặc ấm, như thế mới đúng”. Trong

bài Ba mươi năm hoạt động của Đảng, năm 1960, Người đã viết: “Nói một cách
tóm tắt, mộc mạc, chủ nghĩa xã hội trước hết nhằm làm cho nhân dân lao động
thoát nạn bần cùng, làm cho mọi người có công ăn việc làm, được ấm no và
sống một đời hạnh phúc”. Trong Bài nói chuyện với Trường thanh niên lao động
xã hội chủ nghĩa Hòa Bình, ngày 17 - 8 - 1962, Người viết: “Chủ nghĩa xã hội là
làm sao cho nhân dân đủ ăn, đủ mặc, ngày càng sung sướng, ai nấy được đi học,
ốm đau có thuốc, già không lao động được thì nghỉ, những phong tục tập quán
không tốt dần dần được xóa bỏ… Tóm lại, xã hội ngày càng tiến, vật chất ngày
càng tăng, tinh thần ngày càng tốt. Đó là chủ nghĩa xã hội”. Cách diễn đạt của
Hồ Chí Minh về đặc trưng bản chất của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam với từng
đối tượng khác nhau có khác nhau. Nhưng nhìn chung, một đặc trưng bản chất
quan trọng nhất mà Người muốn nhấn mạnh là, chủ nghĩa xã hội mà Đảng và
nhân dân ta xây dựng là xã hội mà mọi người ai ai cũng được ăn no, mặc ấm,
sung sướng, tự do, hạnh phúc. Đây là cách nói đơn giản, dễ hiểu của Người về
đặc trưng bản chất của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Bởi lẽ, khi ấy đời sống của
cán bộ, nhân dân ta còn rất khó khăn, chúng ta phải dành nhiều chi viện cho tiền
tuyến, đồng bào miền Nam của chúng ta vẫn chưa được độc lập, tự do. Chỉ trong
bối cảnh ấy, chúng ta mới hiểu hết được những điều giản đơn mà Người nói khi
bàn về đặc trưng bản chất của chủ nghĩa xã hội.
Bốn là, chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là xã hội công bằng, hợp lý.
Theo Hồ Chí Minh, “chủ nghĩa xã hội là công bằng hợp lý: Làm nhiều hưởng
nhiều, làm ít hưởng ít, không làm thì không được hưởng. Những người già yếu
hoặc tàn tật sẽ được Nhà nước giúp đỡ chăm nom”. Với Người, chỉ có chủ nghĩa
xã hội mới đem lại công bằng và bình đẳng xã hội cho tất cả mọi người. Chỉ
dưới chủ nghĩa xã hội, nhân dân lao động mới thực sự được hưởng quyền “bình
5


đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ”, còn những người già yếu hoặc không may mắn
sẽ được Nhà nước xã hội chủ nghĩa giúp đỡ, chăm nom. Trong một bài viết

khác, Người đã diễn đạt đặc trưng bản chất này của chủ nghĩa xã hội như sau:
Chủ nghĩa xã hội là “ Ai làm nhiều thì ăn nhiều, ai làm ít thì ăn ít, ai không làm
thì không ăn, tất nhiên là trừ những người già cả, đau yếu và trẻ em...”. Rõ ràng,
quan niệm này của Hồ Chí Minh đã phản ánh đầy đủ tinh thần của chủ nghĩa
Mác - Lênin về công bằng xã hội - nguyên tắc phân phối theo lao động trong
chủ nghĩa xã hội, nhưng lại thể hiện được tinh thần nhân đạo sâu sắc của Người,
đồng thời cũng biểu đạt được những giá trị tương đồng của chủ nghĩa xã hội với
truyền thống quý báu của dân tộc ta. Không phải ngẫu nhiên mà điều này được
Người coi là một đặc trưng bản chất của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Năm là, chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là xã hội không còn mâu thuẫn giữa thành
thị và nông thôn, giữa lao động trí óc và lao động chân tay.
Chủ nghĩa xã hội, theo Hồ Chí Minh, là xã hội thật sự quý trọng những người trí
thức. Chế độ thực dân và phong kiến chỉ lợi dụng trí thức, có ý tách rời trí thức
ra khỏi khối công nông. Chúng đã tạo ra ý thức “Vạn ban giai hạ phẩm, duy hữu
độc thư cao” – (Mọi nghề đều thấp kém, chỉ có đọc sách là thanh cao - T.V.Ph).
Chúng lợi dụng trí thức trong bộ máy thống trị của chúng. Chia rẽ lao động trí
óc với lao động chân tay. Đó cũng là một chính sách chia để trị. Theo Người, chỉ
có “cách mạng mới thật sự quý trọng trí thức. Dưới chế độ dân chủ mới và xã
hội chủ nghĩa, trí thức mới có dịp phát huy hết khả năng của mình”; “Tiến lên
chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản thì sự phân biệt giữa thành thị và nông
thôn bị xóa bỏ, sự phân biệt giữa lao động chân tay và lao động trí óc cũng bị
xóa bỏ”. Trong chủ nghĩa xã hội, người lao động không phân biệt lao động trí óc
hay lao động chân tay đều được tôn trọng. Do vậy, sự phân biệt giữa hai hình
thức lao động này sẽ mất dần trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội. Tất
nhiên, sự phân biệt giữa thành thị và nông thôn cũng sẽ bị xóa bỏ dần. Tuy
nhiên, Hồ Chí Minh cũng lưu ý rằng, bản thân trí thức cũng phải chủ động đến
6


với công nông, còn công nông thì nhiệt liệt hoan nghênh trí thức. Đồng thời,

việc xóa bỏ dần sự tách rời giữa lao động trí óc và lao động chân tay, giữa thành
thị và nông thôn không phải tự động diễn ra trong chủ nghĩa xã hội, mà bản thân
mỗi người trong chủ nghĩa xã hội đều phải cố gắng vươn lên xóa bỏ dần sự tách
rời này.
Sáu là, trong chủ nghĩa xã hội, tín ngưỡng và tôn giáo được thực sự tự do.
Trong bài Trả lời những câu hỏi của cử tri Hà Nội, ngày 10 - 5 - 1958, khi cử tri
hỏi: “Tiến lên chủ nghĩa xã hội tôn giáo có bị hạn chế không?”, Hồ Chí Minh đã
trả lời dứt khoát và khẳng định rõ: “Không. Ở các nước xã hội chủ nghĩa, tín
ngưỡng hoàn toàn tự do. Ở Việt Nam cũng vậy...”; công dân của nhà nước xã hội
chủ nghĩa “Có quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc không theo một tôn giáo nào”.
Những đặc trưng cụ thể trên của Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội phải được đặt
trong tính chính thể trong quan niệm của Người về chủ nghĩa xã hội với tư cách
“một xã hội bảo đảm cho đất nước phát triển rực rỡ một cách nhanh chóng chưa
từng thấy, đưa quần chúng lao động đến một cuộc sống xứng đáng, vẻ vang và
ngày càng phồn vinh, làm cho người lao động có một Tổ quốc tự do, hạnh phúc
và hùng cường, hướng tới những chân trời tươi sáng, mà trước kia không thể
nghĩ tới”.
Vận dụng sáng tạo những tư tưởng của Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội nói
chung, về đặc trưng bản chất của chủ nghĩa xã hội nói riêng vào điều kiện cụ thể
Việt Nam hiện nay, Đảng ta đã nêu lên sáu đặc trưng của chủ nghĩa xã hội mà
chúng ta phấn đấu xây dựng. Sáu đặc trưng đó là:
- Do nhân dân lao động làm chủ.
- Có một nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế
độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu.
- Có một nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
7


- Con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công, làm theo năng lực,
hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát

triển toàn diện cá nhân.
- Các dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết và giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ.
- Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên thế giới”.
Thực tiễn thời đại và đất nước đã có nhiều đổi thay, nhưng những quan niệm về
đặc trưng bản chất của chủ nghĩa xã hội ở Hồ Chí Minh vẫn là ngọn đèn pha soi
sáng cho Đảng ta trong việc hoàn thiện, bổ sung, phát triển lý luận về chủ nghĩa
xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam

1.2,Tư tưởng Hồ Chí Minh về bước đi và biện pháp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam:
1.2.1.Tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam:
Hồ Chí Minh sau khi nhận thức được thực chất,loại hình và đặc điểm của
thời kì quá độ, người đã xác định rõ nhiệm vụ lịch sử, nội dung của thời kì quá
độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam .
Thời kì quá độ lên xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một hình thái quá độ gián
tiếp cụ thể, quá độ từ một xã hội thuộc địa nữa phong kiến, nông nghiệp lạc hậu
sau khi giành được độc lập dân tộc tiến lên chủ nghĩa xã hội mà không kinh qua
giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa. Do đặc điểm và tính chất như vậy, quá độ
lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là một quá trình dần dần, khó khăn, phức tạp và
lâu dài.
Nhiệm vụ lịch sử của thời kì quá độ bao gồm: xây dựng nền tảng vật chất và
kĩ thuật cho chủ nghĩa xã hội, xây dựng các tiền đề về, kinh tế, chính trị văn hoá
tư tưởng cho chủ nghĩa xã hội, cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới kết hợp
cải tạo và xây dựng, trong đó lấy xây dựng làm trọng tâm làm nội dung cốt yếu
8


nhất, chủ chốt, lâu dài. Công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nứơc ta là một
sự nghiệp mang tính toàn diện. Hồ Chí Minh đã xác định rõ nhiệm vụ cụ thể cho
từng lĩnh vực: chính trị, kinh tế, văn hoã, xã hội,..Cần phải giữ vững ,nâng cao

vai trò lãnh đạo của Đảng, tăng cường củng cố, nâng cao hiệu lực quản lí nhà
nước.Về khía cạnh kinh tế, phải xây dựng, tạo lập những yếu tố, những lực
lượng đạt được ở thời kỳ tư bản nhưng sao cho không đi chệch sang chủ nghĩa
tư bản; sử dụng hình thức và phương tiện của chủ nghĩa tư bản để xây dựng chủ
nghĩa xã hội, kẻ thù muốn đè bẹp ta về kinh tế thay bằng quân sự, vì vậy ta phải
phát triển kinh tế. Bên cạnh đó phải chú ý khắc phục sự yếu kém về kiến thức,
sự bấp bênh về chính trị, sự trì trệ về kinh tế, lạc hậu về văn hóa...tất cả sẽ dẫn
đến những biểu hiện xấu xa, thoái hóa cán bộ, đảng viên...là khe hở chủ nghĩa tư
bản dễ dàng lợi dụng. Hồ Chí minh nhấn mạnh "muốn cải tạo xã hội chủ nghĩa
thì phải cải tạo chính mình, nếu không có tư tưởng xã hội chủ nghĩa thì không
làm việc xã hội chủ nghĩa được".
1.2.2. Nguyên tắc xác định bước đi ,biện pháp tiến hành xây dựng chủ nghĩa xã
hội:
Hồ Chí Minh xác định rõ nhiệm vụ lịch sử, nội dung của thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam. Điều trăn trở khôn nguôi của Người là tìm ra hình
thức, bước đi, biện pháp tiến hành xây dựng chủ nghĩa xã hội, biến nhận thức lý
luận thành chương trình hành động, thành hoạt động thực tiễn hàng ngày. Để xác
định bước đi và tìm cách làm phù hợp với Việt Nam, Hồ Chí Minh đề ra hai
nguyên tắc có tính chất phương pháp luận:
Một là, xây dựng chủ nghĩa xã hội là một hiện tượng phổ biến mang tính quốc
tế, cần quán triệt các nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin về xây dựng
chế độ mới, có thể tham khảo, học tập kinh nghiệm của các nước anh em.
Hai là, xác định bước đi và biện pháp xây dựng chủ nghĩa xã hội chủ yếu xuất
phát từ điều kiện thực tế, đặc điểm dân tộc, nhu cầu và khả năng thực tế của
nhân dân.
9


Quán triệt hai nguyên tắc phương pháp luận này, Hồ Chí Minh xác định phương
châm thực hiện bước đi trong xây dựng chủ nghĩa xã hội: dần dần, thận trọng

từng bước một, từ thấp đến cao, không chủ quan nôn nóng và sự tuần tự của các
bước đi do điều kiện khách quan quy định. Mặt khác, phải tiến nhanh, tiến
mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội, nhưng tiến nhanh, tiến mạnh cũng
không phải làm bừa, làm ẩu mà phải phù hợp với điều kiện thực tế. Trong các
bước đi lên chủ nghĩa xã hội, Hồ Chí Minh đặc biệt lưu ý đến vai trò của công
nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa, coi đó là "con đường phải đi của chúng ta", là
nhiệm vụ trọng tâm của cả thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Công nghiệp hóa
xã hội chủ nghĩa chỉ có thể thực hiện thắng lợi trên cơ sở xây dựng và phát triển
nền nông nghiệp toàn diện, vững chắc, một hệ thống tiểu thủ công nghiệp, công
nghiệp nhẹ đa dạng nhằm giải quyết vấn đề lương thực, thực phẩm cho nhân
dân, các nhu cầu tiêu dùng thiết yếu cho xã hội.
1.2.3 Bước đi:
Bước đi phải qua nhiều bước, "bước ngắn, bước dài, tùy theo hoàn
cảnh,...chớ ham làm mau, ham rầm rộ...Đi bước nào vững chắc bước ấy, cứ tiến
dần dần". Bác sớm ngăn ngừa tư tưởng chủ quan nóng vội: "Chớ thấy Liên
Xô,Trung Quốc đã có nông trường quốc doanh, hợp tác xã thì ta cũng vội tổ
chức ngay hợp tác xã.."
Từ quan điểm đó, Người đã xác định, đưa ra các bước đi cụ thể trên các lĩnh
vực quan trọng như nông nghiêp, công nghiệp,..Về nông nghiệp, các bước phải
tuần tự từ tiến hành cải cách ruộng đất tiến lên hình thành tổ định công cho tốt
cho khắp, rồi tiến đến hình thức hợp tác xã...Về công nghiêp, Bác cho rằng;
"...Ta cho nông nghiệp là quan trọng và ưu tiên, rồi đến tiểu thủ công nghiệp và
công nghiệp nhẹ, sau mới đến công nghiệp nặng".Người đặc biệt lưu ý vai trò
của công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa ,coi đó là con đường phải đi của chúng ta,
là nhiệm vụ trọng tâm của cả thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội, nhưng công
nghiệp hoá không phải là xây dựng những nhà máy xí nghiệp có qui mô cho thật
10


lớn bất chấp điều kiện cụ thể cho phép trong từng giai đoạn nhất định .Theo

người công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa chỉ có thể thực hiện thắng lợi trên cơ sở
xây dựng và phát triển nền nông nghiệp toàn diện, vững chắc một hệ thống tiểu
thủ công nghiệp, công nghiệp nhẹ đa dạng nhằm giải quyết vấn đề lương
thực,thực phẩm cho nhân dân, các nhu cầu tiêu dùng thiết yếu cho xã hội .
Tiến nhanh, tiến mạnh lên chủ nghĩa xã hội, không được làm bừa làm ẩu, đốt
cháy giai đoạn, chủ quan duy ý chí mà phải nắm vững qui luật, phải tính toán cụ
thể nguyên tắc thực hiện.
1.2.4. Biện pháp:
Cùng với bước đi, Hồ Chí minh đã gợi ý nhiều phương thức, biện pháp tiến
hành xây dựng chủ nghĩa xã hội.Người chú trọng nêu cao tinh thần độc lập, tự
chủ, sáng tạo, chống giáo điều, dập khuôn, phải tìm tòi cách riêng cho phù hợp
với thực tiễn Việt Nam: "Muốn đỡ bớt mò mẫm, đỡ phạm sai lầm thì phải học
kinh nghiệm cuả các nước anh em nhưng áp dụng kinh nghiệm ấy một cách sáng
tạo, ta không thể giống Liên Xô vì Liên Xô có phong tục tập quán khác có lịch
sử khác". Ví dụ: Miền Bắc phải kết hợp hai nhiệm vụ chiến lược: xây dựng miền
Bắc,chiếu cố miền nam, miền bắc vừa sản xuất, vừa chiến đấu, vừa chống Mĩ
cứu nước vừa xây dựng chủ nghĩa xã hội. Quan hệ giữa công nghiệp và nông
nghiệp là: hai bộ phận chính, hai nghành cơ bản cuả nền kinh tế, có quan hệ
khăng khít, không thể thiếu bộ phận nào, chúng ta phải phát triển vững chắc cả
hai. Phương pháp xây dựng chủ nghĩa xã hội là làm cho người nghèo thì đủ ăn,
người đủ ăn thì khá giàu, người giàu thì giàu thêm ,như vậy chủ nghĩa xã hội
không đồng nhất với đói ngèo, không bình quân mà từng bước tiến lên cuộc
sống sung túc dồi dào.Cách làm là:" đem tài dân sức dân phục vụ cho nhân dân
".Chính phủ lên các kế hoạch,cổ động .Người đề ra 4 chính sách: "Công tư đều
lợi, chủ thợ đều lợi, công nông giúp nhau. Chỉ tiêu 1,biện pháp 10,chính sách 20
như thế mới có thể hoàn thành được kế hoạch". Người đã sử dụng một số cách
làm cụ thể như sau:

11



Thực hiện cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới, kết hợp cải tạo với xây
dựng, lấy xây dựng chính, vừa xây vừa bảo vệ.
Kết hợp xây dựng và bảo vệ, đồng thời tiến hành hai nhiệm vụ chiến lược ở
hai miền nam bắc khác nhau trong phạm vi một quốc gia.
Xây dựng chủ nghĩa xã hội phải có kế hoạch, biện pháp, kế hoạch, biện pháp
phải khoa học, phải sát với thực tiễn và phải quyết tâm để thực hiện thắng lợi kế
hoạch.
Trong điều kiện nước ta, biện pháp cơ bản, quyết định lâu dài trong xây dựng
chủ nghĩa xã hội là đem của dân, sức dân, tài dân làm lợi cho dân dưới sự lãnh
đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Phải biết khai thác và phát huy tiềm năng
của, sức mạnh của nhân dân và vì lợi ích cuả nhân dân.
Tăng gia sản xuất phải đi liền với tiết kiệm, phải gắn mục tiêu với biện pháp
và cách làm.
2/ Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về xã hội chủ nghĩa trong công cuộc đổi mới
đất nước hiện nay:

Tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội và con đường quá độ lên chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam bao quát những vấn đề cốt lõi, cơ bản nhất, trên cơ sở
vận dụng và phát triển sáng tạo học thuyết Mác - Lênin. Đó là các luận điểm về
bản chất, mục tiêu và động lực của chủ nghĩa xã hội; về tính tất yếu khách quan
của thời kỳ quá độ; về đặc điểm, nhiệm vụ lịch sử, nội dung, các hình thức, bước
đi và biện pháp tiến hành công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Tư
tưởng đó trở thành tài sản vô giá, cơ sở lý luận và kim chỉ nam cho việc kiên trì,
giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa của Đảng ta, đồng thời gợi mở nhiều vấn
đề về xác định hình thức, biện pháp và bước đi lên chủ nghĩa xã hội phù hợp với
những đặc điểm dân tộc và xu thế vận động của thời đại ngày nay.

12



Công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo đạt được những thành
tựu quan trọng, tạo ra thế và lực mới cho con đường phát triển xã hội chủ nghĩa
ở nước ta. Cùng với tổng kết thực tiễn, quan niệm của Đảng ta về chủ nghĩa xã
hội, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ngày càng sát thực, cụ thể hóa. Nhưng,
trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, bên cạnh những thời cơ, vận hội,
nước ta đang phải đối đầu với hàng loạt thách thức, khó khăn cả trên bình diện
quốc tế, cũng như từ các điều kiện thực tế trong nước tạo nên. Trong bối cảnh
đó, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội và con đường quá độ
lên chủ nghĩa xã hội, chúng ta cần tập trung giải quyết những vấn đề quan trọng
nhất.
Giữ vững mục tiêu của chủ nghĩa xã hội
Hồ Chí Minh là người tìm ra con đường giải phóng dân tộc Việt Nam: Con
đường độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội cũng chính là mục tiêu cao cả, bất biến của toàn Đảng, toàn dân ta.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta đã đấu tranh giành được độc lập dân
tộc, từng bước quá độ dần lên chủ nghĩa xã hội. Trong điều kiện nước ta, độc lập
dân tộc phải gắn liền với chủ nghĩa xã hội, sau khi giành được độc lập dân tộc
phải đi lên chủ nghĩa xã hội, vì đó là quy luật tiến hóa trong quá trình phát triển
của xã hội loài người. Chỉ có chủ nghĩa xã hội mới đáp ứng được khát vọng của
toàn dân tộc: độc lập cho dân tộc, dân chủ cho nhân dân, cơm no áo ấm cho mọi
người dân Việt Nam. Thực tiễn phát triển đất nước cho thấy, độc lập dân tộc là
điều kiện tiên quyết để thực hiện chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa xã hội là cơ sở
bảo đảm vững chắc cho độc lập dân tộc.
Hiện nay, chúng ta đang tiến hành đổi mới toàn diện đất nước vì mục tiêu "dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh" là tiếp tục con đường
cách mạng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội mà Hồ Chí Minh đã lựa
chọn. Đổi mới, vì thế, là quá trình vận dụng và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh,

13



kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, chứ không phải là thay
đổi mục tiêu.
Tuy nhiên, khi chấp nhận kinh tế thị trường, chủ động hội nhập kinh tế quốc
tế, chúng ta phải tận dụng các mặt tích cực của nó, đồng thời phải biết cách ngăn
chặn, phòng tránh các mặt tiêu cực, bảo đảm nhịp độ phát triển nhanh, bền vững
trên tất cả mọi mặt đời sống xã hội: kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa; không vì
phát triển, tăng trưởng kinh tế bằng mọi giá mà làm phương hại các mặt khác
của cuộc sống con người.
Vấn đề đặt ra là trong quá trình phát triển vẫn giữ vững định hướng xã hội chủ
nghĩa, biết cách sử dụng các thành tựu mà nhân loại đã đạt được để phục vụ cho
công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, nhất là thành tựu khoa học - công nghệ
hiện đại, làm cho tăng trưởng kinh tế luôn đi liền với sự tiến bộ, công bằng xã
hội, sự trong sạch, lành mạnh về đạo đức, tinh thần.
Phát huy quyền làm chủ của nhân dân, khơi dậy mạnh mẽ tất cả các nguồn lực,
trước hết là nội lực để thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là con đường tất yếu mà đất nước ta phải trải qua.
Chúng ta phải tranh thủ thành tựu của cách mạng khoa học và công nghệ, của
điều kiện giao lưu, hội nhập quốc tế để nhanh chóng biến nước ta thành một
nước công nghiệp theo hướng hiện đại, sánh vai với các cường quốc năm châu
như mong muốn của Hồ Chí Minh.
Hồ Chí Minh đã chỉ dẫn: xây dựng chủ nghĩa xã hội là sự nghiệp của toàn dân,
do Đảng lãnh đạo, phải đem tài dân, sức dân, của dân làm lợi cho dân, nghĩa là
phải biết phát huy mọi nguồn lực vốn có trong dân để xây dựng cuộc sống ấm
no, hạnh phúc cho nhân dân. Theo tinh thần đó, ngày nay, công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước phải dựa vào nguồn lực trong nước là chính, có phát huy mạnh
mẽ nội lực mới có thể tranh thủ sử dụng hiệu quả các nguồn lực bên ngoài.
Trong nội lực, nguồn lực con người là vốn quý nhất.
14



Nguồn lực của nhân dân, của con người Việt Nam bao gồm trí tuệ, tài năng,
sức lao động, của cải thật to lớn. Để phát huy tốt sức mạnh của toàn dân tộc để
xây dựng và phát triển đất nước, cần giải quyết tốt các vấn đề sau:
- Tin dân, dựa vào dân, xác lập quyền làm chủ của nhân dân trên thực tế, làm
cho chế độ dân chủ được thực hiện trong mọi lĩnh vực hoạt động của con người,
nhất là ở địa phương, cơ sở, làm cho dân chủ thật sự trở thành động lực của sự
phát triển xã hội.
- Chăm lo mọi mặt đời sống của nhân dân để nâng cao chất lượng nguồn nhân
lực.
- Thực hiện nhất quán chiến lược đại đoàn kết dân tộc của Hồ Chí Minh, trên cơ
sở lấy liên minh công - nông - trí thức làm nòng cốt, tạo nên sự đồng thuận xã
hội vững chắc vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh.
Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại
Xây dựng chủ nghĩa xã hội phải biết tranh thủ các điều kiện quốc tế thuận lợi,
tận dụng tối đa sức mạnh của thời đại. Ngày nay, sức mạnh của thời đại tập
trung ở cuộc cách mạng khoa học và công nghệ, xu thế toàn cầu hóa. Chúng ta
phải tranh thủ tối đa các cơ hội do xu thế đó tạo ra để nâng cao hiệu quả hợp tác
quốc tế; phải có cơ chế, chính sách đúng để thu hút vốn đầu tư, kinh nghiệm
quản lý và công nghệ hiện đại, thực hiện kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh
thời đại theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
Muốn vậy, chúng ta phải có đường lối chính trị độc lập, tự chủ. Tranh thủ hợp
tác phải đi đôi với thường xuyên khơi dậy chủ nghĩa yêu nước, tinh thần dân tộc
chân chính của mọi người Việt Nam nhằm góp phần làm gia tăng tiềm lực quốc
gia.
Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế phải gắn liền với nhiệm vụ trau dồi bản lĩnh
và bản sắc văn hóa dân tộc, nhất là cho thanh, thiếu niên - lực lượng rường cột
15



của nước nhà, để không tự đánh mất mình bởi xa rời cội rễ dân tộc. Chỉ có bản
lĩnh và bản sắc dân tộc sâu sắc, mạnh mẽ đó mới có thể loại trừ các yếu tố độc
hại, tiếp thu tinh hoa văn hóa loài người, làm phong phú, làm giàu thêm nền văn
hóa dân tộc.
Chăm lo xây dựng Đảng vững mạnh, làm trong sạch bộ máy nhà nước, đẩy
mạnh đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí, thực hiện cần kiệm
xây dựng chủ nghĩa xã hội
Thực hiện mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, phát huy quyền làm chủ
của nhân dân cần đến vai trò lãnh đạo của một Đảng cách mạng chân chính, một
Nhà nước thật sự của dân, do dân và vì dân. Muốn vậy, phải:
- Xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền, một Đảng "đạo đức, văn
minh". Cán bộ, đảng viên gắn bó máu thịt với nhân dân, vừa là người hướng
dẫn, lãnh đạo nhân dân, vừa hết lòng hết sức phục vụ nhân dân, gương mẫu
trong mọi việc.
- Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa mạnh mẽ, của nhân dân, do
nhân dân, vì nhân dân; thực hiện cải cách nền hành chính quốc gia một cách
đồng bộ để phục vụ đời sống nhân dân.
- Bằng các giải pháp thiết thực, cụ thể, hình thành một đội ngũ cán bộ liêm
khiết, tận trung với nước, tận hiếu với dân; kiên quyết đưa ra khỏi bộ máy chính
quyền những "ông quan cách mạng", lạm dụng quyền lực của dân để mưu cầu
lợi ích riêng; phát huy vai trò của nhân dân trong cuộc đấu tranh chống quan
liêu, tham nhũng, lãng phí, giữ vững sự ổn định chính trị - xã hội của đất nước.
- Giáo dục mọi tầng lớp nhân dân ý thức biết cách làm giàu cho đất nước, hăng
hái đẩy mạnh tăng gia sản xuất kinh doanh gắn liền với tiết kiệm để xây dựng
nước nhà. Trong điều kiện đất nước còn nghèo, tiết kiệm phải trở thành quốc
sách, thành một chính sách kinh tế lớn và cũng là một chuẩn mực đạo đức, một
hành vi văn hóa như Hồ Chí Minh đã căn dặn: "Một dân tộc biết cần, biết kiệm"
16



là một dân tộc văn minh, tiến bộ; dân tộc đó chắc chắn sẽ thắng được nghèo nàn,
lạc hậu, ngày càng giàu có về vật chất, cao đẹp về tinh thần.

PHẦN III. KẾT LUẬN:

Tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội đã bao quát những vấn đề cốt
lõi, cơ bản nhất, trên cơ sở vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác –
Lênin. Đó là các luận điểm về bản chất,mục tiêu và động lực của chủ nghĩa xã
hội:về đặc điểm nhiệm vụ lịch sử, nội dung, các hình thức, bước đi, biện pháp
tiến hành công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa. Qua đó thể hiện tính thống
nhất biện chứng giữa các nhân tố kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa và đạo đức.
Từ cách tiếp cận đó về chủ nghĩa xã hội, thông qua hoạt động lý luận và thực
tiễn hết sức phong phú của mình, Người đã rút ra những kết luận rất sâu sắc về
bản chất của chủ nghĩa xã hội với tư cách là một chế độ xã hội có khả năng
thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, đem lại tự do và hạnh phúc cho nhân
dân: "Chủ nghĩa xã hội là làm sao cho nhân dân đủ ăn, đủ mặc, ngày càng sung
sướng, ai nấy được đi học, ốm đau có thuốc, già không lao động được thì nghỉ,
những phong tục tập quán không tốt dần dần được xóa bỏ...Tóm lại, xã hội
ngày càng tiến, vật chất ngày càng tăng, tinh thần ngày càng tốt, đó là chủ
nghĩa xã hội"
Hồ Chí Minh đã để lại cho chúng ta di sản tinh thần to lớn, với những giá
trị nhân văn cao cả, đặc biệt là tư tưởng đạo đức cách mạng và đồng thời cũng
là đạo đức xã hội chủ nghĩa.Những tư tưởng đó trở thành tài sản vô giá ,cơ sở
lí luận và kim chỉ nam cho việc kiên trì ,giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa
của Đảng ta ,đồng thời gơị mở nhiều vấn đề về xác định hình thức ,biện pháp
và bước đi lên chủ nghĩa xã hội phù hợp với những đặc điểm dân tộc và xu thế
phát triển vận động của thời đại ngày nay. Trong những năm qua, đặc biệt là
trong hơn 20 năm đổi mới nhờ vận dụng những tư tưởng của Người , Đảng và

17


nhân dân ta đã đạt được những thành tựu quan trọng. Con đường đi tới của
cách mạng nước ta đang có nhiều cơ hội thuận lợi, nhưng cũng gặp không ít
thách thức, khó khăn, nhất là sau khi nước ta gia nhập WTO. Chúng ta tin
tưởng rằng, dưới sánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội, với sự
kiên định mục tiêu, lý tưởng và đạo đức xã hội chủ nghĩa cùng sự lãnh đạo
sáng tạo, đúng đắn của Đảng, nhân dân ta sẽ từng bước thực hiện thắng lợi sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã
hội chủ nghĩa.

18



×