Tải bản đầy đủ (.pdf) (32 trang)

Tài liệu lý luận chính trị

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (346.05 KB, 32 trang )

MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG
(Trích Những điểm mới trong văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII
của Đảng - Nhà xuất bản Chính trị - Quốc gia)
1. Về bối cảnh diễn ra Đại hội
Đại hội XI của Đảng có nhiệm vụ kiểm điểm, đánh giá khách quan, toàn
diện những thành tựu và yếu kém, khuyết điểm, đồng thời rút ra những bài học
kinh nghiệm qua việc thực hiện Nghị quyết Đại hội X của Đảng, 10 năm thực hiện
Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001-2010 và 20 năm thực hiện Cương lĩnh
xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và 25 năm đổi mới.
Trên cơ sở đó, Đại hội quyết định bổ sung, phát triển Cương lĩnh năm 1991; quyết
định Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm (2011-2020); đề ra phương
hướng, mục tiêu, nhiệm vụ 5 năm (2010-2015). Ngoài ra, Đại hội cũng kiểm điểm
sự lãnh đạo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X; bổ sung, sửa đổi Điều
lệ Đảng; bầu Ban Chấp hành Trung ương khóa XI.
Đại hội XII diễn ra trong thời điểm có ý nghĩa rất quan trọng: Toàn Đảng,
toàn dân và toàn quân ta thực hiện thắng lợi nhiều chủ trương, mục tiêu và nhiệm
vụ được xác định trong Nghị quyết Đại hội XI của Đảng (2011-2015); trải qua 5
năm tực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội (bổ sung, phát triển năm 2011) và Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 20112020; 2 năm thực hiện Hiến pháp năm 2013; 30 năm tiến hành công cuộc đổi mới.
Đại hội có nhiệm vụ kiểm điểm việc thực hiện Nghị quyết Đại hội XI của Đảng
(2011-2015); nhìn lại 30 năm đổi mới; kiểm điểm sự lãnh đạo của Ban Chấp hành
Trung ương Đảng khóa XI; đánh giá việc thi hành điều lệ Đảng khóa XI; bầu ra
Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII (nhiệm kỳ 2016-2020).
Điểm mới về nhiệm vụ của Đại hội XII so với Đại hội XI là từ thực tiễn
hoạt động thực hiện nhiệm vụ Đại hội XI của Đảng để tiếp tục phát triển tu duy lý
luận của Đảng theo hướng toàn diện hơn, sâu sắc hơn; phát huy những kết quả đã
đạt được, khắc phục những hạn chế, khuyết điểm, rà soát, điều chỉnh, bổ sung để
1


quyết định những nhiệm vụ mới trên các lĩnh vực đáp ứng yêu cầu của thời kỳ


cách mạng mới.
Đại hội XII có nhiệm vụ lớn lao là hình thành chủ trương, mục tiêu và
nhiệm vụ trong giai đoạn cách mạng mới đáp ứng yêu cầu của thực tiễn đặt ra và
kỳ vọng của cán bộ, đảng viên và nhân dân để đổi mới đất nước một cách toàn
diện, đồng bộ, từng bước khắc phục tình trạng tụt hậu; tập trung làm thật tốt công
tác xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh và đặc biệt là phải xây
dựng cho được một đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức có tinh thần đổi mới, có
bản lĩnh chính trị, đạo đức, lối sống trong sạch.
2. Về chủ đề của Đại hội XII
Xuất phát từ yêu cầu mới của thực tiễn đất nước trong bối cảnh hội nhập
quốc tế sâu rộng, cũng như phát huy những kết quả và bài học kinh nghiệm trong
lịch sử lãnh đạo của Đảng, nhất là những thành tựu và bài học kinh nghiệm 30 năm
đổi mới, kết quả và kinh nghiệm triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội XI của
Đảng, trong giai đoạn cách mạng 5 năm tới, Đảng ta nhấn mạnh nhiệm vụ: phải
xây dựng Đảng ta thật sự trong sạch, vững mạnh và xây dựng hệ thống chính trị
vững mạnh; phát huy sức mạnh toàn dân tộc và dân chủ xã hội chủ nghĩa; đẩy
mạnh toàn diện và đồng bộ công cuộc đổi mới; bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ
vững môi trường hòa bình, ổn định; phấn đấu sớm đưa nước ta cơ bản trở thành
nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
Chính vì vậy, Đại hội XII của Đảng xác định chủ đề của Đại hội (đồng thời
cũng là tiêu để của Báo cáo chính trị) là: “Tăng cường xây dựng Đảng trong sạch,
vững mạnh; phát huy sức mạnh toàn dân tộc, dân chủ xã hội chủ nghĩa; đẩy mạnh
toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới; bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững môi
trường hòa bình, ổn định; phấn đấu sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công
nghiệp theo hướng hiện đại”
Như vậy, so với chủ đề của Đại hội XI “Tiếp tục nâng cao năng lực lãnh
đạo và sức chiến đấu của Đảng, phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn
2



diện công cuộc đổi mới, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành
nước công nghiệp theo hướng hiện đại”, thì chủ đề của Đại hội XII đã có những
điểm mới quan trọng là:
Một là, về thành tố “sự lãnh đạo của Đảng”, nội dung là: “tăng cường xây
dựng Đảng trong sạch, vững mạnh”. Đây là yêu cầu mới, lớn hơn và toàn diện hơn
so với yêu cầu đặt ra tại Đại hội XI là: “Tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo và sức
chiến đấu của Đảng”.
Hai là, về thành tố “dân tộc, dân chủ”, nội dung là: “phát huy sức mạnh
toàn dân tộc, dân chủ xã hội chủ nghĩa”. So với Đại hội XI, chủ đề Đại hội XII
thêm nội dung: phát huy “dân chủ xã hội chủ nghĩa”. So với Đại hội XI, chủ đề Đại
hội XII thêm nội dung: phát huy “dân chủ xã hội chủ nghĩa”.
Ba là, về thành tố “đổi mới”, nội dung là: “đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ
công cuộc đổi mới”. Ở nội dung của thành tố này, yếu tố “đồng bộ” được bổ sung,
nhấn mạnh để khắc phục những hạn chế trong thực tiễn mấy năm qua là: đổi mới
chưa đồng bộ và toàn diện, đổi mới chính trị chưa đồng bộ với đổi mới kinh tế; còn
nhiều vấn đề lớn, phức tạp, nhiều hạn chế yếu kém cần phải tập trung giải quyết để
đưa đất nước phát triển nhanh và bền vững.
Bốn là, về thành tố “bảo vệ Tổ quốc”, nội dung là: “bảo vệ vững chắc Tổ
quốc, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định”. Đây là điểm mới và là nội dung lần
đầu tiên được đưa vào chủ đề Đại hội.
Năm là, về thành tố “mục tiêu xây dựng đất nước”, nội dung là “phấn đấu
sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại”. Đây là
một sự điều chỉnh mục tiêu so với Đại hội XI (“tạo nền tảng để đến năm 2020
nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại”), thể hiện một
cách nhìn thực tế hơn và quyết tâm cao nhất đối với tiến trình công nghiệp hóa,
hiện đại hóa của nước ta.
3. Về phương châm chỉ đạo của Đại hội XII
3.1. Sự cần thiết và yêu cầu đối với phương châm chỉ đạo của Đại hội
3



Đại hội đã thảo luận và thống nhất khẳng định cần nêu phương châm chỉ đạo
của Đại hội để xác định rõ tinh thần, trách nhiệm đối với các đại biểu tham dự Đại
hội (không phải là phương châm chỉ đạo của cả nhiệm kỳ).
Phương châm chỉ đạo của Đại hội cần xuất phát từ yêu cầu của thực tiễn; nội
dung gọn, rõ, dễ nhớ.
3.2 Nội dung các thành tố phương châm chỉ đạo của Đại hội XII
Phương châm chỉ đạo của Đại hội XI được xác định là: “Đổi mới - Trí tuệ Dân chủ - Đoàn kết”.
Kế thừa phương châm chỉ đạo của Đại hội XI và để sát hợp với yêu cầu,
nhiệm vụ được đặt ra từ thực tiễn, trong quá trình thảo luận và xây dựng văn kiện
trình Đại hội lần thứ XII, Ban Chấp hành Trung ương thống nhất nêu một số
phương án về phương châm chỉ đạo của Đại hội XII để Đại hội Đảng các cấp tiếp
tục thảo luận, tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng là:
- “Đoàn kết - Dân chủ - Kỷ cương - Đổi mới”;
- “Đoàn kết - Dân chủ - Sáng tạo - Phát triển”;
- “Bản lĩnh - Dân chủ - Kỷ cương - Đoàn kết”.
Với ý thức trách nhiệm cao trước Đảng, nhân dân và đất nước, Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng đã lựa chọn phương châm là “Đoàn kết - Dân
chủ - Kỷ cương - Đổi mới”.
4. Về kết cấu của Báo cáo chính trị
Để thể hiện chủ đề của Đại hội XII, bố cục của Báo cáo chính trị Đại hội XII
được trình bày theo 15 vấn đề đồng thời cũng đề ra sáu nhiệm vụ trọng tâm của
nhiệm kỳ Đại hội XII.
Kết cấu Báo cáo chính trị tại Đại hội XII theo hệ thống các vấn để đề dễ
trình bày, dễ theo dõi, dễ hiểu.
Những nội dung trong Báo cáo chính trị Đại hội XII được thể hiện tương
ứng ở các mục là: 1) Đánh giá tổng quát kết quả thực hiện Nghị quyết Đại hội XI

4



(2011-2015) và nhìn lại 30 năm đổi mới (1986-2016); 2) Mục tiêu, nhiệm vụ tổng
quát phát triển đất nước 5 năm 2016- 2020; 3) Đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ
cấu lại nền kinh tế; đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; 4) Hoàn
thiện thể chế, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; 5) Đổi mới
căn bản và toàn diện giáo dục, đào tạo; phát triển nguồn nhân lực; 6) Phát triển và
ứng dụng khoa học, công nghệ; 7) Xây dựng, phát triển văn hóa, con người; 8)
Quản lý phát triển xã hội; thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội; 9) Tăng cường quản
lý tài nguyên; bảo vệ môi trường; chủ động phòng, chống thiên tai, ứng phó với
biến đổi khí hậu; 10) Tăng cường quốc phòng, an ninh, bảo vệ vững chắc Tổ quốc
Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới; 11) Nâng cao hiệu quả hoạt động
đối ngoại, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; 12) Phát huy sức mạnh đại đoàn
kết dân tộc; 13) Phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc; 13) Phát huy dân chủ xã
hội chủ nghĩa, bảo đảm thực hiện quyền làm chủ của nhân dân; 14) Xây dựng và
hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; 15) Xây dựng Đảng trong sạch,
vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng; và sáu nhiệm
vụ trọng tâm của nhiệm kỳ Đại hội XII.

5


NHÌN LẠI 30 NĂM ĐỔI MỚI (1986-2016)
(trích Tài liệu học tập các văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của
Đảng - Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia)
Ba mươi năm đổi mới là một giai đoạn lịch sử quan trọng trong sự nghiệp phát
triển của nước ta, đánh dấu sự trưởng thành về mọi mặt của Đảng, Nhà nước và nhân
dân ta.
Nhìn tổng thể, qua 30 năm đổi mới, đất nước ta đã đạt được những thành
tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ
Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Đồng thời cũng còn nhiều vấn đề lớn, phức tạp, nhiều

hạn chế, yếu kém cần phải tập trung giải quyết, khắc phục dể đưa đất nước phát
triển nhanh và bền vững.
Đất nước ra khỏi khủng khoảng kinh tế - xã hội và tình trạng kém phát triển,
trở thành nước đang phát triển có thu nhập trung bình, đang đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.
+ Kinh tế tăng trưởng khá, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa từng bước hình thành, phát triển.
+ Chính trị - xã hội ổn định; quốc phòng, an ninh được tăng cường. Văn hóa xã hội có bước phát triển; bộ mặt đất nước và đời sống nhân dân có nhiều thay đổi.
+ Dân chủ xã hội chủ nghĩa được phát huy và ngày càng mở rộng. Đại đoàn
kết toàn dân tộc được củng cố và tăng cường.
+ Công tác xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền và cả hệ thống
chính trị được đẩy mạnh.
+ Sức mạnh về mọi mặt của đất nước được nâng lên; kiên quyết, kiên trì đấu tranh
bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và chế độ xã hội chủ nghĩa.
+ Quan hệ đối ngoại ngày càng mở rộng và đi vào chiều sâu; vị thế và uy tín
của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao.

6


Những thành tựu đó tạo tiền đề, nền tảng quan trọng để nước ta tiếp tục đổi
mới và phát triển mạnh mẽ trong những năm tới; khẳng định đường lối đổi mới của
Đảng là đúng đắn, sáng tạo; con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta là phù
hợp với thực tiễn của Việt Nam và xu thế phát triển của lịch sử.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được, chúng ta còn nhiều hạn chế,
khuyết điểm:
- Công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận còn bất cập.
+ Chưa làm rõ được một số vấn đề đặt ra trong quá trình đổi mới để định
hướng trong thực tiễn, cung cấp cơ sở khoa học cho hoạch định đường lối của
Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước.

+ Lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội còn một
số vấn đề cần phải qua tổng kết thực tiễn để tiếp tục làm rõ.
- Kinh tế phát triển chưa bền vững, chưa tương xứng với tiềm năng, yêu cầu
và thực tế nguồn lực được huy động.
+ Trong 10 năm gần đây, kinh tế vĩ mô có lúc thiếu ổn định, tốc độ tăng
trưởng kinh tế suy giảm, phục hồi chậm. Chất lượng, hiệu quả, năng suất lao động
xã hội và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp.
+ Phát triển thiếu bền vững cả về kinh tế, văn hóa, xã hội và môi trường.
Nhiều vấn đề bức xúc nảy sinh, nhất là các vấn đề xã hội và quản lý xã hội chưa
được nhận thức đầy đủ và giải quyết có hiệu quả; còn tiềm ẩn những nhân tố và
nguy cơ mất ổn định xã hội.
+ Trên một số mặt, một số lĩnh vực, một số bộ phận nhân dân chưa được thụ
hưởng đầy đủ, công bằng thành quả của công cuộc đổi mới.
+ Đổi mới chính trị chưa đồng bộ với đổi mới kinh tế; năng lực và hiệu quả
hoạt động của hệ thống chính trị chưa ngang tầm nhiệm vụ.
- Việc tạo nền tảng để cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng
hiện đại không đạt được mục tiêu đề ra.

7


- Bốn nguy cơ mà Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII của
Đảng (năm 1994) nêu lên vẫn tồn tại, có mặt diễn biến phức tạp, như tham nhũng,
lãng phí, “diễn biến hòa bình”của các thế lực thù địch với những thủ đoạn mới,
nhất là triệt để sử dụng các phương tiện truyền thông trên mạng Internet để chống
phá ta và những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Niềm tin
của cán bộ, đảng viên và nhân dân vào Đảng, chế độ có mặt bị giảm sút.
Những hạn chế, khuyết điểm trên đây đòi hỏi toàn Đảng, toàn dân, toàn
quân ta phải nỗ lực phấn đấu không ngừng để khắc phục, tiếp tục đưa đất nước
phát triển nhanh, bền vững theo con đường xã hội chủ nghĩa.

Nhìn lại 30 năm đổi mới, từ những thành tựu cũng như những hạn chế,
khuyết điểm, rút ra một số bài học sau:
Một là, trong quá trình đổi mới phải chủ động, không ngừng sáng tạo trên cơ
sở kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, vận dụng sáng tạo và
phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kế thừa và phát huy
truyền thống dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại vận dụng kinh nghiệm
quốc tế phù hợp với Việt Nam.
Hai là, đổi mới phải luôn quán triệt quan điểm “dân là gốc”, vì lợi ích của
nhân dân, dựa vào nhân dân, phát huy vai trò làm chủ, tinh thần trách nhiệm, sức
sáng tạo và mọi nguồn lực của nhân dân; phát huy sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc.
Ba là, đổi mới phải toàn diện, đồng bộ, có bước đi phù hợp; tôn trọng quy
luật khách quan, xuất phát từ thực tiễn, bám sát thực tiễn, coi trọng tổng kết thực
tiễn, nghiên cứu lý luận, tập trung giải quyết kịp thời, hiệu quả những vẫn đề do
thực tiễn đặt ra.
Bốn là, phải đặt lợi ích quốc gia - dân tộc lên trên hết; kiên định độc lập, tự
chủ, đồng thời chủ động và tích cực hội nhập quốc tế trên cơ sở bình đẳng, cùng có
lợi; kết hợp phát huy sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để xây dựng và bảo
vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

8


Năm là, phải thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, nâng cao năng lực lãnh
đạo và sức chiến đấu của Đảng; xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ
cấp chiến lược, đủ năng lực và phẩm chất, ngang tầm nhiệm vụ; nâng cao hiệu lực,
hiệu quả hoạt động của Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội
và của cả hệ thống chính trị; tăng cường mối quan hệ mật thiết với nhân dân.
NGHỊ QUYẾT
ĐẠI HỘI ĐẠI BIỂU TOÀN QUỐC LẦN THỨ XII
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII Đảng Cộng sản Việt Nam họp từ

ngày 20-01-2016 đến ngày 28-01-2016, tại Thủ đô Hà Nội, sau khi thảo luận các
văn kiện do Ban Chấp hành Trung ương khóa XI trình,
QUYẾT NGHỊ
I. Tán thành những nội dung cơ bản về đánh giá tình hình 5 năm thực
hiện Nghị quyết Đại hội XI (2011-2015) và phương hướng, nhiệm vụ 5 năm
2016-2020 nêu trong Báo cáo chính trị, Báo cáo kinh tế - xã hội của Ban Chấp
hành Trung ương Đảng khóa XI trình Đại hội:
1- Đánh giá tổng quát kết quả thực hiện Nghị quyết Đại hội XI và nhìn lại
30 năm đổi mới
Năm năm qua (2011-2015), bên cạnh những thời cơ, thuận lợi, tình hình thế
giới, khu vực có nhiều diễn biến rất phức tạp; kinh tế thế giới phục hồi chậm;
khủng hoảng chính trị ở nhiều nơi, nhiều nước; cạnh tranh về nhiều mặt ngày càng
quyết liệt giữa các nước lớn tại khu vực; diễn biến phức tạp trên Biển Đông, ... đã
tác động bất lợi đến nước ta. Trong nước, ngay từ đầu nhiệm kỳ, cùng với những
ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu, những hạn chế,
khiếm khuyết vốn có của nền kinh tế, những hạn chế, yếu kém trong lãnh đạo,
quản lý và những vấn đề mới phát sinh đã làm cho lạm phát tăng cao, ảnh hưởng
nghiêm trọng đến ổn định kinh tế vĩ mô, tốc độ tăng trưởng và đời sống nhân dân.
Thiên tai, dịch bệnh, biến đổi khí hậu gây thiệt hại nặng nề. Nhu cầu bảo đảm an

9


sinh xã hội, phúc lợi xã hội ngày càng cao. Đồng thời, chúng ta phải dành nhiều
nguồn lực để bảo đảm quốc phòng, an ninh và bảo vệ chủ quyền đất nước trước
những diễn biến mới, phức tạp của tình hình khu vực và quốc tế. Trong bối cảnh
đó, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đã nỗ lực phấn đấu thực hiện Nghị quyết Đại
hội lần thứ XI của Đảng và đạt được những thành quả quan trọng.
Nền kinh tế vượt qua nhiều khó khăn, thách thức, quy mô và tiềm lực được
nâng lên; kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định, lạm phát được kiểm soát; tăng trưởng kinh

tế được duy trì ở mức hợp lý, từ năm 2013 dần phục hồi, năm sau cao hơn năm
trước. Đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế và thực hiện ba đột phá
chiến lược được tập trung thực hiện, bước đầu đạt kết quả tích cực. Giáo dục và
đào tạo, khoa học và công nghệ, văn hóa, xã hội, y tế có bước phát triển. An sinh
xã hội được quan tâm nhiều hơn và cơ bản được bảo đảm, đời sống của nhân dân
tiếp tục được cải thiện. Chính trị - xã hội ổn định; quốc phòng, an ninh được tăng
cường; kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống
nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, giữ vững hòa bình, ổn định. Quan hệ đối
ngoại, hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, hiệu quả. Vị thế, uy tín quốc tế của
nước ta tiếp tục được nâng cao. Dân chủ xã hội chủ nghĩa và sức mạnh đại đoàn
kết toàn dân tộc tiếp tục được phát huy. Công tác xây dựng Đảng, xây dựng hệ
thống chính trị được chú trọng và đạt kết quả quan trọng.
Tuy nhiên, đổi mới chưa đồng bộ và toàn diện. Một số chỉ tiêu kinh tế - xã
hội chưa đạt kế hoạch; nhiều chỉ tiêu, tiêu chí trong mục tiêu phấn đấu để đến năm
2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại chưa đạt
được. Nhiều hạn chế, yếu kém trong các lĩnh vực giáo dục và đào tạo, khoa học và
công nghệ, văn hóa, xã hội, y tế chậm được khắc phục. Đời sống của một bộ phận
nhân dân, nhất là ở vùng sâu, vùng xa còn nhiều khó khăn. Bốn nguy cơ mà Đảng
ta chỉ ra vẫn còn tồn tại, có mặt diễn biến phức tạp. Tình trạng suy thoái về tư
tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên và
tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí chưa bị đẩy lùi. Một số mặt công tác xây dựng
Đảng, xây dựng hệ thống chính trị chuyển biến chậm.
10


Ba mươi năm đổi mới là một giai đoạn lịch sử quan trọng trong sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ đất nước, đánh dấu sự trưởng thành về mọi mặt của Đảng, Nhà nước
và nhân dân ta. Đổi mới mang tầm vóc và ý nghĩa cách mạng, là quá trình cải biến
sâu sắc, toàn diện, triệt để, là sự nghiệp cách mạng to lớn của toàn Đảng, toàn dân và
toàn quân vì mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh".

Nhìn tổng thể, qua 30 năm đổi mới, đất nước ta đã đạt được những thành tựu
to lớn, có ý nghĩa lịch sử; đồng thời cũng còn nhiều vấn đề lớn, phức tạp, nhiều
hạn chế, yếu kém cần phải tập trung giải quyết, khắc phục để tiếp tục đưa đất nước
phát triển nhanh và bền vững hơn.
Những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử qua 30 năm đổi mới khẳng định
đường lối đổi mới của Đảng ta là đúng đắn, sáng tạo; con đường đi lên chủ nghĩa
xã hội của nước ta là phù hợp với thực tiễn của Việt Nam và xu thế phát triển của
lịch sử. Thành tựu và những kinh nghiệm bài học đúc kết từ thực tiễn đã tạo tiền
đề, nền tảng quan trọng để đất nước ta tiếp tục đổi mới và phát triển mạnh mẽ
trong những năm tới.
2- Mục tiêu tổng quát, các chỉ tiêu quan trọng và nhiệm vụ trọng tâm trong
5 năm 2016-2020
Năm năm tới, tình hình thế giới và khu vực sẽ còn nhiều diễn biến rất phức
tạp, tác động trực tiếp đến nước ta, tạo ra cả thời cơ và thách thức. Hòa bình, độc
lập dân tộc, dân chủ, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn. Toàn cầu hóa, hội
nhập quốc tế, cách mạng khoa học - công nghệ, kinh tế tri thức tiếp tục được đẩy
mạnh. Châu Á - Thái Bình Dương, trong đó có khu vực Đông Nam Á đã trở thành
một cộng đồng, tiếp tục là trung tâm phát triển năng động, có vị trí địa - kinh tế chính trị chiến lược ngày càng quan trọng; đồng thời, đây cũng là khu vực cạnh
tranh chiến lược giữa một số nước lớn, có nhiều nhân tố bất ổn; tranh chấp lãnh
thổ, chủ quyền biển, đảo trong khu vực và trên Biển Đông còn diễn ra gay gắt.
Ở trong nước, thế và lực, sức mạnh tổng hợp của đất nước tăng lên, uy tín
quốc tế của đất nước ngày càng được nâng cao. Nước ta sẽ thực hiện đầy đủ các
11


cam kết trong cộng đồng ASEAN và WTO, tham gia các hiệp định thương mại tự
do thế hệ mới, hội nhập quốc tế với tầm mức sâu rộng hơn nhiều so với giai đoạn
trước. Thời cơ, vận hội phát triển mở ra rộng lớn. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều khó
khăn, thách thức. Bốn nguy cơ mà Đảng ta đã chỉ ra vẫn tồn tại, nhất là nguy cơ tụt
hậu xa hơn về kinh tế so với các nước trong khu vực và trên thế giới; nguy cơ

"diễn biến hòa bình" của thế lực thù địch nhằm chống phá nước ta; tình trạng suy
thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện "tự diễn biến", "tự
chuyển hóa" trong một bộ phận cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức; sự tồn tại
và những diễn biến phức tạp của tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí,...
Để tận dụng, phát huy tốt nhất thời cơ, thuận lợi, vượt qua khó khăn, thách
thức, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta cần đoàn kết một lòng, quyết tâm thực hiện
thắng lợi mục tiêu, các chỉ tiêu và nhiệm vụ sau:
Mục tiêu tổng quát:
Tăng cường xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh
đạo và sức chiến đấu của Đảng, xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh. Phát huy
sức mạnh toàn dân tộc và dân chủ xã hội chủ nghĩa. Đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ
công cuộc đổi mới; phát triển kinh tế nhanh, bền vững, phấn đấu sớm đưa nước ta
cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Nâng cao đời sống vật
chất và tinh thần của nhân dân. Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc
lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà
nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa. Giữ gìn hòa bình, ổn định, chủ động và
tích cực hội nhập quốc tế để phát triển đất nước; nâng cao vị thế và uy tín của Việt
Nam trong khu vực và trên thế giới.
Các chỉ tiêu quan trọng:
- Về kinh tế: Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân 5 năm đạt 6,5 - 7%/năm.
Đến năm 2020, GDP bình quân đầu người khoảng 3.200 - 3.500 USD; tỉ trọng
công nghiệp và dịch vụ trong GDP khoảng 85%; tổng vốn đầu tư toàn xã hội bình
quân 5 năm bằng khoảng 32 - 34% GDP; bội chi ngân sách nhà nước còn khoảng
12


4% GDP. Năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) đóng góp vào tăng trưởng khoảng
30 - 35%; năng suất lao động xã hội bình quân tăng khoảng 5%/năm; tiêu hao năng
lượng tính trên GDP bình quân giảm 1 - 1,5%/năm. Tỉ lệ đô thị hoá đến năm 2020
đạt 38 - 40%.

- Về xã hội: Đến năm 2020, tỉ lệ lao động nông nghiệp trong tổng lao động
xã hội khoảng 40%; tỉ lệ lao động qua đào tạo đạt khoảng 65 - 70%, trong đó có
bằng cấp, chứng chỉ đạt 25%; tỉ lệ thất nghiệp ở khu vực thành thị dưới 4%; có 9 10 bác sĩ và trên 26,5 giường bệnh trên 1 vạn dân; tỉ lệ bao phủ bảo hiểm y tế đạt
trên 80% dân số; tỉ lệ hộ nghèo giảm bình quân khoảng 1,0 - 1,5%/năm.
- Về môi trường: Đến năm 2020, 95% dân cư thành thị, 90% dân cư nông
thôn được sử dụng nước sạch, hợp vệ sinh và 85% chất thải nguy hại, 95 - 100%
chất thải y tế được xử lý; tỉ lệ che phủ rừng đạt 42%.
Các nhiệm vụ trọng tâm:
Trong nhiệm kỳ Đại hội XII, trên cơ sở quán triệt và lãnh đạo, chỉ đạo toàn
diện việc thực hiện các quan điểm, nhiệm vụ trên tất cả các lĩnh vực đã nêu trong
Báo cáo chính trị và Báo cáo kinh tế - xã hội, cần đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ
công cuộc đổi mới, phát huy mọi nguồn lực và động lực để phát triển đất nước
nhanh, bền vững; đặc biệt chú trọng tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện có kết
quả các nhiệm vụ trọng tâm sau:
(1) Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái
về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa"
trong nội bộ. Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến
lược, đủ năng lực, phẩm chất và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ.
(2) Xây dựng tổ chức bộ máy của toàn hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động
hiệu lực, hiệu quả; đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu.
(3) Tập trung thực hiện các giải pháp nâng cao chất lượng tăng trưởng, năng
suất lao động và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Tiếp tục thực hiện có hiệu quả ba
đột phá chiến lược (hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
13


nghĩa; đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục, đào tạo; phát triển nguồn nhân lực,
nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao; xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng
bộ), cơ cấu lại tổng thể và đồng bộ nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng
trưởng; đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, chú trọng công nghiệp

hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn gắn với xây dựng nông thôn mới. Chú
trọng giải quyết tốt vấn đề cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước, cơ cấu lại ngân sách
nhà nước, xử lý nợ xấu và bảo đảm an toàn nợ công.
(4) Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền,
thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; giữ vững môi trường hòa bình, ổn
định để phát triển đất nước; bảo đảm an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an toàn xã
hội. Mở rộng và đưa vào chiều sâu các quan hệ đối ngoại; tận dụng thời cơ, vượt
qua thách thức, thực hiện hiệu quả hội nhập quốc tế trong điều kiện mới, tiếp tục
nâng cao vị thế và uy tín của đất nước trên trường quốc tế.
(5) Thu hút, phát huy mạnh mẽ mọi nguồn lực và sức sáng tạo của nhân dân.
Chăm lo nâng cao đời sống vật chất, tinh thần, giải quyết tốt những vấn đề bức thiết;
tăng cường quản lý phát triển xã hội, bảo đảm an ninh xã hội, an ninh con người;
bảo đảm an sinh xã hội, nâng cao phúc lợi xã hội và giảm nghèo bền vững. Phát huy
quyền làm chủ của nhân dân, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc.
(6) Phát huy nhân tố con người trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội; tập
trung xây dựng con người về đạo đức, nhân cách, lối sống, trí tuệ và năng lực làm
việc; xây dựng môi trường văn hoá lành mạnh.
II- Thông qua Báo cáo kiểm điểm sự lãnh đạo, chỉ đạo của Ban Chấp
hành Trung ương Đảng khóa XI trình Đại hội XII
Giao Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII tiếp thu ý kiến của Đại hội,
phát huy ưu điểm, khắc phục khuyết điểm, nâng cao chất lượng và hiệu quả công
tác lãnh đạo, chỉ đạo trong nhiệm kỳ tới.
III- Thông qua Báo cáo tổng kết việc thi hành Điều lệ Đảng khóa XI;
đồng ý không sửa đổi, bổ sung Điều lệ Đảng hiện hành
14


Giao Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII hướng dẫn, quy định cụ thể
và tăng cường kiểm tra, giám sát, bảo đảm thi hành nghiêm, thống nhất Điều lệ
trong toàn Đảng.

IV- Thông qua Báo cáo tổng kết thực hiện Nghị quyết Trung ương 4
khóa XI "Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay"
Giao Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII kiên quyết, kiên trì với
quyết tâm chính trị cao lãnh đạo, chỉ đạo tiếp tục thực hiện toàn diện Nghị quyết
Trung ương 4 khóa XI "Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay" gắn
với việc thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng.
V- Thông qua kết quả bầu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII
gồm 200 đồng chí, trong đó 180 đồng chí Ủy viên Trung ương chính thức, 20
đồng chí Ủy viên Trung ương dự khuyết
VI- Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII và các cấp ủy, tổ chức
đảng lãnh đạo, chỉ đạo cụ thể hóa và tổ chức thực hiện thắng lợi đường lối và
những chủ trương nêu trong các văn kiện Đại hội XII
Đại hội kêu gọi toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, đồng bào ta ở nước ngoài
phát huy cao độ tinh thần yêu nước, ý chí tự lực tự cường, sức mạnh đại đoàn kết
toàn dân tộc, ra sức thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội, mở ra thời kỳ phát
triển mới, vẻ vang, tốt đẹp của đất nước, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội./.
TM. BAN CHẤP HÀNH TRUNG ƯƠNG
TỔNG BÍ THƯ
(đã ký)
Nguyễn Phú Trọng

15


NGHỊ QUYẾT SỐ 29-NQ/TW NGÀY 4/11/2013
HỘI NGHỊ TRUNG ƯƠNG 8 KHÓA XI
VỀ ĐỔI MỚI CĂN BẢN, TOÀN DIỆN GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
A- TÌNH HÌNH VÀ NGUYÊN NHÂN
1- Thực hiện Nghị quyết Trung ương 2 khóa VIII và các chủ trương của
Đảng, Nhà nước về định hướng chiến lược phát triển giáo dục - đào tạo trong thời

kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, lĩnh vực giáo dục và đào tạo nước ta đã đạt được
những thành tựu quan trọng, góp phần to lớn vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc. Cụ thể là: Đã xây dựng được hệ thống giáo dục và đào tạo tương đối hoàn
chỉnh từ mầm non đến đại học. Cơ sở vật chất, thiết bị giáo dục, đào tạo được cải
thiện rõ rệt và từng bước hiện đại hóa. Số lượng học sinh, sinh viên tăng nhanh,
nhất là ở giáo dục đại học và giáo dục nghề nghiệp. Chất lượng giáo dục và đào tạo
có tiến bộ. Đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục phát triển cả về số lượng
và chất lượng, với cơ cấu ngày càng hợp lý. Chi ngân sách cho giáo dục và đào tạo
đạt mức 20% tổng chi ngân sách nhà nước. Xã hội hóa giáo dục được đẩy mạnh;
hệ thống giáo dục và đào tạo ngoài công lập góp phần đáng kể vào phát triển giáo
dục và đào tạo chung của toàn xã hội. Công tác quản lý giáo dục và đào tạo có
bước chuyển biến nhất định.
Cả nước đã hoàn thành mục tiêu xoá mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học
vào năm 2000; phổ cập giáo dục trung học cơ sở vào năm 2010; đang tiến tới phổ
cập giáo dục mầm non cho trẻ 5 tuổi; củng cố và nâng cao kết quả xoá mù chữ cho
người lớn. Cơ hội tiếp cận giáo dục có nhiều tiến bộ, nhất là đối với đồng bào dân
tộc thiểu số và các đối tượng chính sách; cơ bản bảo đảm bình đẳng giới trong giáo
dục và đào tạo.
Những thành tựu và kết quả nói trên, trước hết bắt nguồn từ truyền thống
hiếu học của dân tộc; sự quan tâm, chăm lo của Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc
và các đoàn thể nhân dân, của mỗi gia đình và toàn xã hội; sự tận tụy của đội ngũ
nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục; sự ổn định về chính trị cùng với những thành
tựu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
16


2- Tuy nhiên, chất lượng, hiệu quả giáo dục và đào tạo còn thấp so với yêu
cầu, nhất là giáo dục đại học, giáo dục nghề nghiệp. Hệ thống giáo dục và đào tạo
thiếu liên thông giữa các trình độ và giữa các phương thức giáo dục, đào tạo; còn
nặng lý thuyết, nhẹ thực hành. Đào tạo thiếu gắn kết với nghiên cứu khoa học, sản

xuất, kinh doanh và nhu cầu của thị trường lao động; chưa chú trọng đúng mức
việc giáo dục đạo đức, lối sống và kỹ năng làm việc. Phương pháp giáo dục, việc
thi, kiểm tra và đánh giá kết quả còn lạc hậu, thiếu thực chất.
Quản lý giáo dục và đào tạo còn nhiều yếu kém. Đội ngũ nhà giáo và cán bộ
quản lý giáo dục bất cập về chất lượng, số lượng và cơ cấu; một bộ phận chưa theo
kịp yêu cầu đổi mới và phát triển giáo dục, thiếu tâm huyết, thậm chí vi phạm đạo
đức nghề nghiệp.
Đầu tư cho giáo dục và đào tạo chưa hiệu quả. Chính sách, cơ chế tài chính
cho giáo dục và đào tạo chưa phù hợp. Cơ sở vật chất kỹ thuật còn thiếu và lạc
hậu, nhất là ở vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn.
3- Những hạn chế, yếu kém nói trên do các nguyên nhân chủ yếu sau :
- Việc thể chế hóa các quan điểm, chủ trương của Đảng và Nhà nước về phát
triển giáo dục và đào tạo, nhất là quan điểm "giáo dục là quốc sách hàng đầu" còn
chậm và lúng túng. Việc xây dựng, tổ chức thực hiện chiến lược, kế hoạch và
chương trình phát triển giáo dục - đào tạo chưa đáp ứng yêu cầu của xã hội .
- Mục tiêu giáo dục toàn diện chưa được hiểu và thực hiện đúng. Bệnh hình
thức, hư danh, chạy theo bằng cấp... chậm được khắc phục, có mặt nghiêm trọng
hơn. Tư duy bao cấp còn nặng, làm hạn chế khả năng huy động các nguồn lực xã
hội đầu tư cho giáo dục, đào tạo.
- Việc phân định giữa quản lý nhà nước với hoạt động quản trị trong các cơ
sở giáo dục, đào tạo chưa rõ. Công tác quản lý chất lượng, thanh tra, kiểm tra, giám
sát chưa được coi trọng đúng mức. Sự phối hợp giữa các cơ quan nhà nước, tổ
chức xã hội và gia đình chưa chặt chẽ . Nguồn lực quốc gia và khả năng của phần
đông gia đình đầu tư cho giáo dục và đào tạo còn thấp so với yêu cầu.
17


B- ĐỊNH HƯỚNG ĐỔI MỚI CĂN BẢN, TOÀN DIỆN GIÁO DỤC VÀ ĐÀO
TẠO
I- QUAN ĐIỂM CHỈ ĐẠO

1- Giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là sự nghiệp của Đảng, Nhà
nước và của toàn dân. Đầu tư cho giáo dục là đầu tư phát triển, được ưu tiên đi
trước trong các chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội.
2- Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo là đổi mới những vấn đề
lớn, cốt lõi, cấp thiết, từ quan điểm, tư tưởng chỉ đạo đến mục tiêu, nội dung,
phương pháp, cơ chế, chính sách, điều kiện bảo đảm thực hiện; đổi mới từ sự lãnh
đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước đến hoạt động quản trị của các cơ sở giáo
dục - đào tạo và việc tham gia của gia đình, cộng đồng, xã hội và bản thân người
học; đổi mới ở tất cả các bậc học, ngành học. Trong quá trình đổi mới, cần kế thừa,
phát huy những thành tựu, phát triển những nhân tố mới, tiếp thu có chọn lọc
những kinh nghiệm của thế giới; kiên quyết chấn chỉnh những nhận thức, việc làm
lệch lạc. Đổi mới phải bảo đảm tính hệ thống, tầm nhìn dài hạn, phù hợp với từng
loại đối tượng và cấp học; các giải pháp phải đồng bộ, khả thi, có trọng tâm, trọng
điểm, lộ trình, bước đi phù hợp.
3- Phát triển giáo dục và đào tạo là nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi
dưỡng nhân tài. Chuyển mạnh quá trình giáo dục từ chủ yếu trang bị kiến thức
sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học. Học đi đôi với hành; lý
luận gắn với thực tiễn; giáo dục nhà trường kết hợp với giáo dục gia đình và giáo
dục xã hội.
4- Phát triển giáo dục và đào tạo phải gắn với nhu cầu phát triển kinh tế - xã
hội và bảo vệ Tổ quốc; với tiến bộ khoa học và công nghệ; phù hợp quy luật khách
quan. Chuyển phát triển giáo dục và đào tạo từ chủ yếu theo số lượng sang chú
trọng chất lượng và hiệu quả, đồng thời đáp ứng yêu cầu số lượng.
5- Đổi mới hệ thống giáo dục theo hướng mở, linh hoạt, liên thông giữa các
bậc học, trình độ và giữa các phương thức giáo dục, đào tạo. Chuẩn hoá, hiện đại
hoá giáo dục và đào tạo.
18


6- Chủ động phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực của cơ chế thị

trường, bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa trong phát triển giáo dục và đào tạo.
Phát triển hài hòa, hỗ trợ giữa giáo dục công lập và ngoài công lập, giữa các vùng,
miền. Ưu tiên đầu tư phát triển giáo dục và đào tạo đối với các vùng đặc biệt khó
khăn, vùng dân tộc thiểu số, biên giới, hải đảo, vùng sâu, vùng xa và các đối tượng
chính sách. Thực hiện dân chủ hóa, xã hội hóa giáo dục và đào tạo.
7- Chủ động, tích cực hội nhập quốc tế để phát triển giáo dục và đào tạo,
đồng thời giáo dục và đào tạo phải đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế để phát triển
đất nước.
II- MỤC TIÊU
1- Mục tiêu tổng quát
Tạo chuyển biến căn bản, mạnh mẽ về chất lượng, hiệu quả giáo dục, đào
tạo; đáp ứng ngày càng tốt hơn công cuộc xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và nhu cầu
học tập của nhân dân. Giáo dục con người Việt Nam phát triển toàn diện và phát
huy tốt nhất tiềm năng, khả năng sáng tạo của mỗi cá nhân; yêu gia đình, yêu Tổ
quốc, yêu đồng bào; sống tốt và làm việc hiệu quả.
Xây dựng nền giáo dục mở, thực học, thực nghiệp, dạy tốt, học tốt, quản lý
tốt; có cơ cấu và phương thức giáo dục hợp lý, gắn với xây dựng xã hội học tập;
bảo đảm các điều kiện nâng cao chất lượng; chuẩn hóa, hiện đại hoá, dân chủ hóa,
xã hội hóa và hội nhập quốc tế hệ thống giáo dục và đào tạo; giữ vững định hướng
xã hội chủ nghĩa và bản sắc dân tộc. Phấn đấu đến năm 2030, nền giáo dục Việt
Nam đạt trình độ tiên tiến trong khu vực.
2- Mục tiêu cụ thể
- Đối với giáo dục mầm non, giúp trẻ phát triển thể chất, tình cảm, hiểu biết,
thẩm mỹ, hình thành các yếu tố đầu tiên của nhân cách, chuẩn bị tốt cho trẻ bước
vào lớp 1. Hoàn thành phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ 5 tuổi vào năm 2015,
nâng cao chất lượng phổ cập trong những năm tiếp theo và miễn học phí trước năm
2020. Từng bước chuẩn hóa hệ thống các trường mầm non. Phát triển giáo dục
19



mầm non dưới 5 tuổi có chất lượng phù hợp với điều kiện của từng địa phương và
cơ sở giáo dục.
- Đối với giáo dục phổ thông, tập trung phát triển trí tuệ, thể chất, hình thành
phẩm chất, năng lực công dân, phát hiện và bồi dưỡng năng khiếu, định hướng
nghề nghiệp cho học sinh. Nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, chú trọng giáo
dục lý tưởng, truyền thống, đạo đức, lối sống, ngoại ngữ, tin học, năng lực và kỹ
năng thực hành, vận dụng kiến thức vào thực tiễn. Phát triển khả năng sáng tạo, tự
học, khuyến khích học tập suốt đời. Hoàn thành việc xây dựng chương trình giáo
dục phổ thông giai đoạn sau năm 2015. Bảo đảm cho học sinh có trình độ trung
học cơ sở (hết lớp 9) có tri thức phổ thông nền tảng, đáp ứng yêu cầu phân luồng
mạnh sau trung học cơ sở; trung học phổ thông phải tiếp cận nghề nghiệp và chuẩn
bị cho giai đoạn học sau phổ thông có chất lượng. Nâng cao chất lượng phổ cập
giáo dục, thực hiện giáo dục bắt buộc 9 năm từ sau năm 2020.
Phấn đấu đến năm 2020, có 80% thanh niên trong độ tuổi đạt trình độ giáo
dục trung học phổ thông và tương đương.
- Đối với giáo dục nghề nghiệp , tập trung đào tạo nhân lực có kiến thức, kỹ
năng và trách nhiệm nghề nghiệp. Hình thành hệ thống giáo dục nghề nghiệp với
nhiều phương thức và trình độ đào tạo kỹ năng nghề nghiệp theo hướng ứng dụng,
thực hành, bảo đảm đáp ứng nhu cầu nhân lực kỹ thuật công nghệ của thị trường
lao động trong nước và quốc tế.
- Đối với giáo dục đại học, tập trung đào tạo nhân lực trình độ cao, bồi
dưỡng nhân tài, phát triển phẩm chất và năng lực tự học, tự làm giàu tri thức, sáng
tạo của người học. Hoàn thiện mạng lưới các cơ sở giáo dục đại học, cơ cấu ngành
nghề và trình độ đào tạo phù hợp với quy hoạch phát triển nhân lực quốc gia; trong
đó, có một số trường và ngành đào tạo ngang tầm khu vực và quốc tế. Đa dạng hóa
các cơ sở đào tạo phù hợp với nhu cầu phát triển công nghệ và các lĩnh vực, ngành
nghề; yêu cầu xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và hội nhập quốc tế.

20



- Đối với giáo dục thường xuyên, bảo đảm cơ hội cho mọi người, nhất là ở
vùng nông thôn, vùng khó khăn, các đối tượng chính sách được học tập nâng cao
kiến thức, trình độ, kỹ năng chuyên môn nghiệp vụ và chất lượng cuộc sống; tạo
điều kiện thuận lợi để người lao động chuyển đổi nghề; bảo đảm xóa mù chữ bền
vững. Hoàn thiện mạng lưới cơ sở giáo dục thường xuyên và các hình thức học tập,
thực hành phong phú, linh hoạt, coi trọng tự học và giáo dục từ xa.
- Đối với việc dạy tiếng Việt và truyền bá văn hóa dân tộc cho người Việt
Nam ở nước ngoài, có chương trình hỗ trợ tích cực việc giảng dạy tiếng Việt và
truyền bá văn hóa dân tộc cho cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài, góp phần
phát huy sức mạnh của văn hóa Việt Nam, gắn bó với quê hương, đồng thời xây
dựng tình đoàn kết, hữu nghị với nhân dân các nước.
III- NHIỆM VỤ, GIẢI PHÁP
1- Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước đối với
đổi mới giáo dục và đào tạo
Quán triệt sâu sắc và cụ thể hóa các quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ, giải
pháp đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục và đào tạo trong hệ thống chính trị,
ngành giáo dục và đào tạo và toàn xã hội, tạo sự đồng thuận cao coi giáo dục và
đào tạo là quốc sách hàng đầu. Nâng cao nhận thức về vai trò quyết định chất
lượng giáo dục và đào tạo của đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục; người
học là chủ thể trung tâm của quá trình giáo dục; gia đình có trách nhiệm phối hợp
với nhà trường và xã hội trong việc giáo dục nhân cách, lối sống cho con em mình.
Đổi mới công tác thông tin và truyền thông để thống nhất về nhận thức, tạo
sự đồng thuận và huy động sự tham gia đánh giá, giám sát và phản biện của toàn
xã hội đối với công cuộc đổi mới, phát triển giáo dục.
Coi trọng công tác phát triển đảng, công tác chính trị, tư tưởng trong các
trường học, trước hết là trong đội ngũ giáo viên. Bảo đảm các trường học có chi
bộ; các trường đại học có đảng bộ. Cấp ủy trong các cơ sở giáo dục - đào tạo phải
thực sự đi đầu đổi mới, gương mẫu thực hiện và chịu trách nhiệm trước Đảng,
21



trước nhân dân về việc tổ chức thực hiện thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ giáo
dục, đào tạo. Lãnh đạo nhà trường phát huy dân chủ, dựa vào đội ngũ giáo viên,
viên chức và học sinh, phát huy vai trò của các tổ chức đoàn thể và nhân dân địa
phương để xây dựng nhà trường.
Các bộ, ngành, địa phương xây dựng quy hoạch dài hạn phát triển nguồn
nhân lực, dự báo nhu cầu về số lượng, chất lượng nhân lực, cơ cấu ngành nghề,
trình độ. Trên cơ sở đó, đặt hàng và phối hợp với các cơ sở giáo dục, đào tạo tổ
chức thực hiện.
Phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, giải quyết dứt điểm
các hiện tượng tiêu cực kéo dài, gây bức xúc trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo.
2- Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ và đồng bộ các yếu tố cơ bản của giáo dục,
đào tạo theo hướng coi trọng phát triển phẩm chất, năng lực của người học
Trên cơ sở mục tiêu đổi mới giáo dục và đào tạo, cần xác định rõ và công
khai mục tiêu, chuẩn đầu ra của từng bậc học, môn học, chương trình, ngành và
chuyên ngành đào tạo. Coi đó là cam kết bảo đảm chất lượng của cả hệ thống và
từng cơ sở giáo dục và đào tạo; là căn cứ giám sát, đánh giá chất lượng giáo dục,
đào tạo.
Đổi mới chương trình nhằm phát triển năng lực và phẩm chất người học, hài
hòa đức, trí, thể, mỹ; dạy người, dạy chữ và dạy nghề. Đổi mới nội dung giáo dục
theo hướng tinh giản, hiện đại, thiết thực, phù hợp với lứa tuổi, trình độ và ngành
nghề; tăng thực hành, vận dụng kiến thức vào thực tiễn. Chú trọng giáo dục nhân
cách, đạo đức, lối sống, tri thức pháp luật và ý thức công dân. Tập trung vào những
giá trị cơ bản của văn hóa, truyền thống và đạo lý dân tộc, tinh hoa văn hóa nhân
loại, giá trị cốt lõi và nhân văn của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
Tăng cường giáo dục thể chất, kiến thức quốc phòng, an ninh và hướng nghiệp. Dạy
ngoại ngữ và tin học theo hướng chuẩn hóa, thiết thực, bảo đảm năng lực sử dụng
của người học. Quan tâm dạy tiếng nói và chữ viết của các dân tộc thiểu số; dạy
tiếng Việt và truyền bá văn hóa dân tộc cho người Việt Nam ở nước ngoài.

22


Đa dạng hóa nội dung, tài liệu học tập, đáp ứng yêu cầu của các bậc học, các
chương trình giáo dục, đào tạo và nhu cầu học tập suốt đời của mọi người.
Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy và học theo hướng hiện đại;
phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và vận dụng kiến thức, kỹ năng của
người học; khắc phục lối truyền thụ áp đặt một chiều, ghi nhớ máy móc. Tập trung
dạy cách học, cách nghĩ, khuyến khích tự học, tạo cơ sở để người học tự cập nhật
và đổi mới tri thức, kỹ năng, phát triển năng lực. Chuyển từ học chủ yếu trên lớp
sang tổ chức hình thức học tập đa dạng, chú ý các hoạt động xã hội, ngoại khóa,
nghiên cứu khoa học. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông
trong dạy và học.
Tiếp tục đổi mới và chuẩn hóa nội dung giáo dục mầm non, chú trọng kết
hợp chăm sóc, nuôi dưỡng với giáo dục phù hợp với đặc điểm tâm lý, sinh lý, yêu
cầu phát triển thể lực và hình thành nhân cách.
Xây dựng và chuẩn hóa nội dung giáo dục phổ thông theo hướng hiện đại,
tinh gọn, bảo đảm chất lượng, tích hợp cao ở các lớp học dưới và phân hóa dần ở
các lớp học trên; giảm số môn học bắt buộc; tăng môn học, chủ đề và hoạt động
giáo dục tự chọn. Biên soạn sách giáo khoa, tài liệu hỗ trợ dạy và học phù hợp với
từng đối tượng học, chú ý đến học sinh dân tộc thiểu số và học sinh khuyết tật.
Nội dung giáo dục nghề nghiệp được xây dựng theo hướng tích hợp kiến
thức, kỹ năng, tác phong làm việc chuyên nghiệp để hình thành năng lực nghề
nghiệp cho người học.
Đổi mới mạnh mẽ nội dung giáo dục đại học và sau đại học theo hướng hiện
đại, phù hợp với từng ngành, nhóm ngành đào tạo và việc phân tầng của hệ thống
giáo dục đại học. Chú trọng phát triển năng lực sáng tạo, kỹ năng thực hành, đạo
đức nghề nghiệp và hiểu biết xã hội, từng bước tiếp cận trình độ khoa học và công
nghệ tiên tiến của thế giới.
3- Đổi mới căn bản hình thức và phương pháp thi, kiểm tra và đánh giá

kết quả giáo dục, đào tạo, bảo đảm trung thực, khách quan
23


Việc thi, kiểm tra và đánh giá kết quả giáo dục, đào tạo cần từng bước theo
các tiêu chí tiên tiến được xã hội và cộng đồng giáo dục thế giới tin cậy và công
nhận. Phối hợp sử dụng kết quả đánh giá trong quá trình học với đánh giá cuối kỳ,
cuối năm học; đánh giá của người dạy với tự đánh giá của người học; đánh giá của
nhà trường với đánh giá của gia đình và của xã hội.
Đổi mới phương thức thi và công nhận tốt nghiệp trung học phổ thông theo
hướng giảm áp lực và tốn kém cho xã hội mà vẫn bảo đảm độ tin cậy, trung thực,
đánh giá đúng năng lực học sinh, làm cơ sở cho việc tuyển sinh giáo dục nghề
nghiệp và giáo dục đại học.
Đổi mới phương thức đánh giá và công nhận tốt nghiệp giáo dục nghề
nghiệp trên cơ sở kiến thức, năng lực thực hành, ý thức kỷ luật và đạo đức nghề
nghiệp. Có cơ chế để tổ chức và cá nhân sử dụng lao động tham gia vào việc đánh
giá chất lượng của cơ sở đào tạo.
Đổi mới phương thức tuyển sinh đại học, cao đẳng theo hướng kết hợp sử
dụng kết quả học tập ở phổ thông và yêu cầu của ngành đào tạo. Đánh giá kết quả
đào tạo đại học theo hướng chú trọng năng lực phân tích, sáng tạo, tự cập nhật, đổi
mới kiến thức; đạo đức nghề nghiệp; năng lực nghiên cứu và ứng dụng khoa học
và công nghệ; năng lực thực hành, năng lực tổ chức và thích nghi với môi trường
làm việc. Giao quyền tự chủ tuyển sinh cho các cơ sở giáo dục đại học.
Thực hiện đánh giá chất lượng giáo dục, đào tạo ở cấp độ quốc gia, địa
phương, từng cơ sở giáo dục, đào tạo và đánh giá theo chương trình của quốc tế để
làm căn cứ đề xuất chính sách, giải pháp cải thiện chất lượng giáo dục, đào tạo.
Hoàn thiện hệ thống kiểm định chất lượng giáo dục. Định kỳ kiểm định chất
lượng các cơ sở giáo dục, đào tạo và các chương trình đào tạo; công khai kết quả
kiểm định. Chú trọng kiểm tra, đánh giá, kiểm soát chất lượng giáo dục và đào tạo
đối với các cơ sở ngoài công lập, các cơ sở có yếu tố nước ngoài. Xây dựng

phương thức kiểm tra, đánh giá phù hợp với các loại hình giáo dục cộng đồng.

24


Đổi mới cách tuyển dụng, sử dụng lao động đã qua đào tạo theo hướng chú
trọng năng lực, chất lượng, hiệu quả công việc thực tế, không quá nặng về bằng
cấp, trước hết là trong các cơ quan thuộc hệ thống chính trị. Coi sự chấp nhận của
thị trường lao động đối với người học là tiêu chí quan trọng để đánh giá uy tín,
chất lượng của cơ sở giáo dục đại học, nghề nghiệp và là căn cứ để định hướng
phát triển các cơ sở giáo dục, đào tạo và ngành nghề đào tạo.
4- Hoàn thiện hệ thống giáo dục quốc dân theo hướng hệ thống giáo dục
mở, học tập suốt đời và xây dựng xã hội học tập
Trước mắt, ổn định hệ thống giáo dục phổ thông như hiện nay. Đẩy mạnh
phân luồng sau trung học cơ sở; định hướng nghề nghiệp ở trung học phổ thông.
Tiếp tục nghiên cứu đổi mới hệ thống giáo dục phổ thông phù hợp với điều kiện cụ
thể của đất nước và xu thế phát triển giáo dục của thế giới.
Quy hoạch lại mạng lưới cơ sở giáo dục nghề nghiệp, giáo dục đại học gắn
với quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội, quy hoạch phát triển nguồn nhân lực.
Thống nhất tên gọi các trình độ đào tạo, chuẩn đầu ra. Đẩy mạnh giáo dục nghề
nghiệp sau trung học phổ thông, liên thông giữa giáo dục nghề nghiệp và giáo dục
đại học. Tiếp tục sắp xếp, điều chỉnh mạng lưới các trường đại học, cao đẳng và
các viện nghiên cứu theo hướng gắn đào tạo với nghiên cứu khoa học. Thực hiện
phân tầng cơ sở giáo dục đại học theo định hướng nghiên cứu và ứng dụng, thực
hành. Hoàn thiện mô hình đại học quốc gia, đại học vùng; củng cố và phát triển
một số cơ sở giáo dục đại học và giáo dục nghề nghiệp chất lượng cao đạt trình độ
tiên tiến của khu vực và thế giới.
Khuyến khích xã hội hóa để đầu tư xây dựng và phát triển các trường chất
lượng cao ở tất cả các cấp học và trình độ đào tạo. Tăng tỉ lệ trường ngoài công lập
đối với giáo dục nghề nghiệp và giáo dục đại học. Hướng tới có loại hình cơ sở

giáo dục do cộng đồng đầu tư.
Đa dạng hóa các phương thức đào tạo. Thực hiện đào tạo theo tín chỉ. Đẩy
mạnh đào tạo, bồi dưỡng năng lực, kỹ năng nghề tại cơ sở sản xuất, kinh doanh.
25


×