Tải bản đầy đủ (.pdf) (16 trang)

Tích hợp kiến thức Ngữ Văn trong dạy học bài Phong cách ngôn ngữ nghệ thuật (Ngữ văn 10, tập 2)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (358.96 KB, 16 trang )

Header Page 1 of 27.

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC

TRỊNH THỊ HẢI QUỲNH

TÍCH HỢP KIẾN THỨC NGỮ VĂN TRONG DẠY HỌC
BÀI “PHONG CÁCH NGÔN NGỮ NGHỆ THUẬT”
(NGỮ VĂN 10 - TẬP 2)

LUẬN VĂN THẠC SĨ SƢ PHẠM NGỮ VĂN

HÀ NỘI - 2014
Footer Page 1 of 27.


Header Page 2 of 27.

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC

TRỊNH THỊ HẢI QUỲNH

TÍCH HỢP KIẾN THỨC NGỮ VĂN TRONG DẠY HỌC
BÀI “PHONG CÁCH NGÔN NGỮ NGHỆ THUẬT”
(NGỮ VĂN 10 - TẬP 2)

LUẬN VĂN THẠC SĨ SƢ PHẠM NGỮ VĂN

CHUYÊN NGÀNH: LÝ LUẬN VÀ PHƢƠNG PHÁP DẠY HỌC


(BỘ MÔN NGỮ VĂN)
Mã số: 60 14 01 11
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. Lê Thời Tân

HÀ NỘI - 2014
Footer Page 2 of 27.

2


Header Page 3 of 27.

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Vai trò quan trọng của ngôn ngữ và của phân môn Tiếng Việt
Cùng với lao động, ngôn ngữ cũng góp phần hình thành và phát triển
xã hội loài người. Ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp phổ biến và thuận lợi
nhất, được coi là “sáng tạo kỳ diệu của loài người”. Ngôn ngữ còn là công cụ
tổ chức quá trình tư duy, giúp tư duy phát triển. Mặt khác, ngôn ngữ đóng vai
trò là một trong những yếu tố cơ bản cấu thành cộng đồng dân tộc, duy trì và
phát triển truyền thống văn hóa của dân tộc. Với người Việt Nam, tiếng Việt
là ngôn ngữ bản địa, góp phần duy trì sự thống nhất quốc gia, dân tộc.
Bên cạnh chức năng giao tiếp, chức năng tư duy, ngôn ngữ còn có chức
năng thẩm mĩ, là phương tiện để tạo nên cái đẹp – hình tượng nghệ thuật. Đề
cao chức năng thẩm mĩ của ngôn ngữ, môn Tiếng Việt trong nhà trường được
chú trọng để hướng nhiều vào nội dung dạy ngôn ngữ nghệ thuật, học Tiếng
Việt trong các tác phẩm nghệ thuật, học Tiếng Việt để hiểu nghệ thuật văn
chương. Do đó, việc dạy cho HS biết sử dụng ngôn ngữ một cách chính xác là
mục tiêu vô cùng quan trọng. Cũng vì thế, Tiếng Việt đã trở thành phân môn
có vị trí đặc biệt; không chỉ cung cấp những kiến thức, kĩ năng cơ bản để phát

triển khả năng giao tiếp, giúp các em hiểu được những giá trị “chân – thiện –
mĩ” trong văn học, trong cuộc sống, mà còn trang bị cho các em công cụ thiết
yếu để học tốt các môn khoa học khác. Đây chính là lý do vì sao Tiếng Việt là
môn học (phân môn) được dạy xuyên suốt từ bậc Tiểu học đến THPT.
1.2. Tích hợp là một phương pháp dạy học được quan tâm nhiều trong dạy
học môn Ngữ văn hiện nay
Thế kỉ XXI là thế kỉ của khoa học kĩ thuật, của sự bùng nổ tri thức, thế
kỉ của những con người năng động, sáng tạo và tự chủ. Để hội nhập với xu thế
phát triển chung của thế giới, xã hội Việt Nam cần có một sự thay đổi căn
bản, toàn diện về rất nhiều lĩnh vực trong đời sống, trong đó chủ yếu là những
thay đổi trong giáo dục. Bởi phát triển giáo dục chính là chiến lược phát triển

Footer Page 3 of 27.

1


Header Page 4 of 27.

nhiên lên các nội dung trong một loạt tình huống cho trước, để giải
quyết những vấn đề do tình huống đó đặt ra. Năng lực này là một hoạt động
phức hợp đòi hỏi sự tích hợp, phối hợp các kiến thức và kĩ năng, chứ không
phải là sự tác động các kĩ năng riêng rẽ lên một nội dung.
Khoa sư phạm tích hợp nhấn mạnh dạy học là dạy cách tìm tòi, sáng tạo
và cách vận dụng kiến thức vào các tình huống khác nhau. Tức là, dạy cho HS
biết cách sử dụng kiến thức và kĩ năng của mình để giải quyết những tình
huống cụ thể, có ý nghĩa nhằm mục đích hình thành, phát triển năng lực.
Đồng thời chú ý xác lập mối liên hệ giữa các kiến thức, kĩ năng khác nhau của
các môn học hay các phân môn khác nhau để bảo đảm cho HS khả năng huy
động có hiệu quả những kiến thức và năng lực của mình vào giải quyết các

tình huống tích hợp.
Đã có rất nhiều nhà nghiên cứu, nhiều Hội nghị trên thế giới quan tâm
đến lý thuyết về tích hợp như: Tháng 9 –1968, Hội đồng liên quốc gia về
giảng dạy khoa học, với sự bảo trợ của UNESCO đã tổ chức tại Varna
(Bungari) “Hội nghị tích hợp việc giảng dạy các khoa học”. Hội nghị này đặt
ra hai vấn đề: “Vì sao phải dạy học tích hợp các khoa học?” và “dạy học tích
hợp các khoa học là gì?”. Đến năm 1972, Hội nghị phối hợp trong chương
trình giáo dục của UNESCO họp tại Paris đã đưa ra định nghĩa dạy học tích
hợp các khoa học. Ngay sau đó, UNESCO lại tổ chức Hội nghị đào tạo GV
vào tháng 4 năm 1973 tại Đại học tổng hợp Maryland bàn thêm về khái niệm
dạy học tích hợp các khoa học còn bao gồm cả dạy học tích hợp các khoa học
với công nghệ học. Nghĩa là phải chỉ ra cách thức chuyển từ nghiên cứu khoa
học sang triển khai ứng dụng, làm cho các tri thức kĩ thuật - công nghệ trở
thành một bộ phận quan trọng của đời sống xã hội hiện đại.
Cũng theo hướng tích hợp các khoa học với công nghệ, gắn học với
hành, Xavier Roegiers (Phó Giám đốc văn phòng Công nghệ Giáo dục và Đào
tạo của Liên minh Châu Âu) cho rằng: giáo dục nhà trường phải chuyển từ
đơn thuần dạy kiến thức sang phát triển ở HS các năng lực hành động, xem

Footer Page 4 of 27.

2


Header Page 5 of 27.

năng lực (compétence) là khái niệm “cơ sở” của khoa sư phạm tích hợp
(pédagogie de l'intégration). Theo Xavier Roegiers, sư phạm tích hợp (SPTH)
là một quan niệm về quá trình học tập, trong đó toàn bộ quá trình học tập góp
phần hình thành ở HS những năng lực cụ thể có dự tính trước những điều kiện

cần thiết cho HS, nhằm phục vụ cho các quá trình học tập sau này hoặc nhằm
hoà nhập HS vào cuộc sống lao động. Như vậy SPTH tìm cách làm cho quá
trình học tập có ý nghĩa.
Trong cuốn “Khoa sư phạm tích hợp hay làm thế nào để phát triển các
năng lực ở nhà trường” của Xavier Roegiers do Đào Trọng Quang và Nguyễn
Ngọc Nhị dịch (1996) đã đưa ra cái nhìn tổng quan về dạy học tích hợp.
Trong cuốn sách này tác giả đã đưa ra định nghĩa và mục tiêu của khoa sư
phạm tích hợp; ảnh hưởng của khoa sư phạm tích hợp đối với chương trình;
ảnh hưởng của khoa sư phạm tích hợp đối với việc đánh giá những kiến thức
HS đã lĩnh hội và ảnh hưởng của khoa sư phạm tích hợp đối với việc biên
soạn sách giáo khoa.
Quan điểm tích hợp còn được thể hiện khá rõ trong nhiều công trình
nghiên cứu cũng như SGK của một số nước như: Trung Quốc, Pháp,
Malaixia, Đức... Tuy nhiên, việc đưa tích hợp vào các môn khoa học tự nhiên
và các môn khoa học xã hội của một số nước là khác nhau. Riêng ở môn
Tiếng, xu hướng tích hợp từ Tiểu học đến THPT của các nước trên thế giới là
tương đối thống nhất. Tích hợp triệt để các mảng nội dung để dạy các kỹ năng
nghe, nói, đọc, viết thông qua việc cho HS tiếp xúc với loại văn bản ngay từ
những buổi đầu HS tập đọc, tập viết ở bậc Tiểu học đến THPT.
Như vậy, tích hợp là một hiện tượng khá phổ biến đã xuất hiện từ lâu ở
các nước trên thế giới. Nhưng mỗi nước lại có những cách nhìn nhận và áp
dụng riêng tùy thuộc đặc điểm tình hình từng quốc gia, từng môn học mà
không đi lệch khỏi đường ray cốt lõi của nó.

Footer Page 5 of 27.

3


Header Page 6 of 27.


2.2. Dạy học tích hợp ở Việt Nam
Vấn đề tích hợp môn học trên thế giới đã có từ rất lâu, nhưng ở Việt
Nam mới có manh nha từ thập niên 90 của thế kỷ XX trở lại đây và ngày càng
được chú trọng với những mức độ khác nhau.
Ở Việt Nam, Thời Pháp thuộc, quan điểm tích hợp được thể hiện trong
một số môn ở trường Tiểu học như môn “Cách trí”, sau đổi thành môn “Khoa
học thường thức”. Môn học này được dạy một số năm ở trường Tiểu học của
miền Bắc nước ta. Từ những năm 1987, việc nghiên cứu xây dựng môn “Tìm
hiểu tự nhiên - xã hội” của Việt Nam theo quan điểm tích hợp đã được thiết
kế đưa vào dạy học từ lớp 1 đến lớp 5. Đến năm 2000, quan điểm tích hợp
được thể hiện trong chương trình, SGK và các hoạt động DH ở Tiểu học. Tuy
nhiên khái niệm tích hợp vẫn còn mới lạ với nhiều GV.
Sang chương trình ở cấp Trung học, tích hợp được thể hiện chủ yếu ở
mức thấp, chưa được áp dụng sâu. Một trong những nguyên nhân chính là do
việc dạy học tích hợp liên quan đến nhiều yếu tố đòi hỏi phải có quá trình
chuẩn bị lâu dài mà chúng ta chưa thực hiện được đầy đủ như: chương trình,
sách giáo khoa, tổ chức dạy học, phương pháp dạy và học, đánh giá, kiểm tra,
thi... Tuy vậy, ngày càng có nhiều nội dung giáo dục được tích hợp vào một
số môn học ở bậc Trung học (như: dân số, môi trường, phòng chống
HIV/AIDS, chống các tệ nạn xã hội, giáo dục pháp luật, an toàn giao thông...)
bằng phương thức lồng ghép. Việc dạy học các nội dung này bước đầu đã làm
cho GV có một số kinh nghiệm thực tiễn về tích hợp, tạo điều kiện thuận lợi
cho việc thực hiện dạy học tích hợp trong chương trình và sách giáo khoa mới
sau 2015.
Thực tiễn trong những thập niên 90 trở lại đây, việc dạy học của chúng
ta vẫn mang tính “hàn lâm, lý thuyết” nhiều. Đặc điểm cơ bản đó là chú trọng
việc truyền thụ hệ thống tri thức khoa học đã được quy định trong chương
trình mà chưa chú trọng đầy đủ đến chủ thể người học cũng như đến khả năng
ứng dụng tri thức đã học trong những tình huống thực tiễn. Mục tiêu dạy học


Footer Page 6 of 27.

4


Header Page 7 of 27.

trong chương trình được đưa ra một cách chung chung, không chi tiết; việc
quản lý chất lượng giáo dục chỉ tập trung “điều khiển đầu vào” là nội dung
dạy học. Đến nay, việc chuyển đổi SGK ở trường phổ thông theo hướng tích
hợp là một yêu cầu tất yếu đổi mới việc dạy và học Ngữ văn. Chương trình
THPT môn Ngữ văn, năm học 2002 do Bộ giáo dục và Đào tạo dự thảo đã ghi
rõ: “Lấy quan điểm tích hợp làm nguyên tắc chỉ đạo để tổ chức nội dung
chương trình, biên soạn SGK và lựa chọn các phương pháp giảng dạy” [tr.
27]. “Nguyên tắc tích hợp phải được quán triệt trong toàn bộ môn học, từ
Đọc văn, Tiếng Việt đến Làm văn; quán triệt trong mọi khâu của quá trình
dạy học; quán triệt trong mọi yếu tố của hoạt động học tập; tích hợp trong
chương trình; tích hợp trong SGK; tích hợp trong phương pháp dạy học của
GV và tích hợp trong hoạt động học tập của HS; tích hợp trong các sách đọc
thêm, tham khảo” [tr. 40]. Sau gần mười năm thực hiện chương trình Ngữ văn
THCS mới, bước đầu chúng ta đã thu được những kết quả đáng khích lệ. Với
việc lấy quan điểm tích hợp làm nguyên tắc để biên soạn chương trình, vấn đề
dạy học Ngữ văn THCS theo hướng tích hợp ngày càng được nghiên cứu sâu
và rộng.
Nhưng có một vấn đề đáng bàn là ở nước ta trong nhiều năm qua, tích
hợp được chú ý nhiều tại các hội thảo, hội nghị, song đến nay nó vẫn chưa
thực sự trở thành nguyên tắc hoặc định hướng chung, nhất quán từ đầu trong
việc xây dựng chương trình, viết sách giáo khoa và định hướng dạy học các
môn học ở các cấp học phổ thông. Tích hợp mới chỉ là một trong những định

hướng cơ bản xây dựng chương trình Tiểu học năm 2000.
Vì định hướng tích hợp chưa trở thành quan điểm chỉ đạo phát triển
chương trình Giáo dục phổ thông nên việc quán triệt định hướng này trong
đào tạo cũng có những hạn chế nhất định. Mặc dù, đội ngũ chuyên gia giáo
dục và đội ngũ GV đã có nhận thức về tích hợp không tạo môn học mới như
tích hợp một số mặt giáo dục trong dạy học môn học, tích hợp trong nội bộ

Footer Page 7 of 27.

5


Header Page 8 of 27.

môn học nhưng việc xây dựng một số chủ đề tích hợp và dạy học theo dự án
thì còn rất hạn chế.
Ở Việt Nam, đã có rất nhiều nhà nghiên cứu quan tâm đến vấn đề tích
hợp, nhưng tiêu biểu là tích hợp trong môn Ngữ văn như: Trương Dĩnh trong
cuốn“Thiết kế dạy học Ngữ văn THCS theo hướng tích hợp”, đã nêu lên
những phương diện tích hợp trong dạy học Ngữ văn THCS; năng lực tích
hợp, kiểu văn bản tích hợp, phương pháp tích hợp; mối quan hệ giữa tích hợp
và tích cực; tích hợp và hiệu quả dạy học tích hợp; tích hợp gắn liền với đời
sống xã hội và cách triển khai các bài dạy cụ thể trong chương trình THCS
theo định hướng tích hợp...
Người rất tâm huyết với vấn đề đọc hiểu và vấn đề tích hợp là GS.TS.
Nguyễn Thanh Hùng. Trong bài "Tích hợp trong dạy học Ngữ văn" đăng trên
tạp chí "Nghiên cứu giáo dục" (số 6, tháng 3 năm 2006), tác giả đã chỉ ra bản
chất của tích hợp là "Phương hướng phối hợp (Integrate) một cách tốt nhất
các quá trình học tập của nhiều môn học cũng như các phân môn Văn, Tiếng
Việt, Làm văn trong một môn Ngữ văn". Trên cơ sở phân tích tư tưởng tích

hợp, tác giả chỉ ra ý nghĩa của tích hợp: "Tích hợp trong nhà trường sẽ giúp
HS học tập thông minh, biết vận dụng sáng tạo kiến thức, kỹ năng và phương
pháp của khối lượng tri thức toàn diện, hài hoà (Harnonie), hợp lý (Algebra)
trong tình huống khác nhau và mới mẻ trong cuộc sống hiện đại".
Quan tâm đến vấn đề tích hợp, TS. Đỗ Ngọc Thống, người tham gia
biên soạn chương trình SGK Ngữ văn THCS cũng có nhiều đóng góp đáng
ghi nhận. Trong cuốn "Đổi mới việc dạy và học môn Ngữ văn ở THCS" Nxb
GD (2002); tác giả có một hệ thống bài viết về quan điểm tích cực và việc dạy
học Văn theo hướng tích hợp, giúp người đọc hiểu rõ "Việc lấy tên chung của
cuốn sách là Ngữ văn không chỉ đơn thuần là dồn ba phân môn lại thành một
cuốn sách theo kiểu gộp lại (Combination) mà chúng được xây dựng theo tinh
thần tích hợp (Integration)". Trong bài viết "Dạy học môn Ngữ văn theo
nguyên tắc tích hợp", tác giả chỉ ra biểu hiện của tích hợp là "Trong cuốn

Footer Page 8 of 27.

6


Header Page 9 of 27.

sách cả ba phân môn Văn, Tiếng Việt, Tập làm văn cùng dựa trên một văn
bản chung để khai thác, hình thành, rèn luyện các kiến thức và kỹ năng của
mỗi phân môn". Trên cơ sở đó, tác giả chỉ ra ưu điểm của nguyên tắc dạy học
tích hợp: “Tích hợp thể hiện trong việc xây dựng cấu trúc SGK, trong quá
trình tổ chức giờ dạy học, thay đổi cách soạn giáo án, cách kiểm tra đánh giá
chất lượng học tập của HS”.
TS. Nguyễn Văn Đường trong "Tích hợp trong dạy học Ngữ văn bậc
THCS", (Tạp chí Giáo dục, 2002) cũng đã đề cập đến một số cơ sở lý luận
và thực tiễn, bản chất của tích hợp và đề ra những phương hướng thực hiện

tích hợp trong dạy học Ngữ văn, song mới chỉ dừng lại ở phạm vi ứng dụng
cho THCS.
Ngoài ra còn có một số sách tham khảo, các bài báo, luận văn viết về
vấn đề tích hợp trong dạy học Ngữ văn của nhiều tác giả: Trần Bá Hoành,
Nguyễn Khắc Phi, Vũ Thị Sơn, Phan Trọng Luận, Trần Đình Sử… Các tài
liệu trên đã đặt cơ sở lý luận cho việc dạy học theo hướng tích hợp, song đối
tượng chủ yếu vẫn là THCS. Đối với cấp THPT, các tài liệu bàn về vấn đề
dạy học theo hướng tích hợp còn rất ít.
Tích hợp không chỉ được chú trọng nhiều trong dạy học Ngữ văn nói
chung, mà những năm gần đây cũng đã bắt đầu thu hút khá nhiều học giả
nghiên cứu dạy học tích hợp riêng trong phần Tiếng Việt. Nhưng do điều kiện
và thời lượng có hạn, chúng tôi chỉ dừng lại ở việc tìm hiểu các công trình
nghiên cứu trong phạm vi trường Đại học Giáo dục. Như trong chuyên ngành
Ngữ văn của riêng trường Đại học Giáo dục – Đại học Quốc gia Hà Nội đã có
một số công trình nghiên cứu: Luận văn thạc sĩ của tác giả Nguyễn Thị Vân
Anh - Trường Đại học giáo dục (2008 - 2010) “Dạy các biện pháp tu từ so
sánh, nhân hóa, ẩn dụ, hoán dụ theo hướng tích hợp trong chương trình Ngữ
văn lớp 6, lớp 7 THCS”; luận văn thạc sĩ của tác giả Lưu Quỳnh Nga Trường Đại học Giáo dục (2008 - 2010): “Dạy học Tiếng Việt lớp 10 trung
học phổ thông theo hướng tích hợp (ban cơ bản)”; luận văn thạc sĩ của tác giả

Footer Page 9 of 27.

7


Header Page 10 of 27.

Nguyễn Thị Hường - Trường Đại học Giáo dục (2010 - 2012): “Dạy học loạt
bài thực hành kỹ năng sử dụng Tiếng Việt lớp 10 theo hướng tích hợp”...
Có thể thấy rằng, tích hợp đã trở thành xu hướng chung của việc xây

dựng chương trình và SGK Ngữ văn của nhiều nước trong khu vực và trên thế
giới và cũng không phải là điều hoàn toàn mới mẻ trong lịch sử xây dựng
chương trình, SGK Tiếng Việt và Văn học của nước ta. Tuy nhiên, ở Việt
Nam, vấn đề tích hợp trước đây chủ yếu vẫn dựa trên quan điểm lấy Văn học
làm trung tâm, mục tiêu của mỗi bài học trong SGK chủ yếu vẫn nhằm giúp
HS cảm thụ các tác phẩm văn chương. Những kiến thức Tiếng Việt, Làm văn
được đề cập đến còn rời rạc, ngẫu nhiên do tính chất của văn bản xếp theo
trình tự văn học sử quyết định. Trong khi đó, chúng ta thấy việc xây dựng
chương trình và SGK Ngữ văn theo quan điểm tích hợp hiện nay vừa kế thừa
tính tích hợp đã được thể hiện trong các chương trình và SGK Ngữ văn trước
đây, đồng thời có sự đổi mới theo hướng cập nhật và tiếp cận với chương
trình và SGK tích hợp trong khu vực và trên thế giới. Tuy nhiên, việc vận
dụng quan điểm tích hợp vào dạy các bài cụ thể trong chương trình Ngữ văn
nói chung và phần Tiếng Việt nói riêng vẫn còn bị bỏ ngỏ. Đa phần các tác
giả nghiên cứu mới chỉ đưa ra phương pháp dạy học tích hợp chung trong một
nhóm bài mà chưa chỉ ra được việc triển khai dạy một bài cụ thể trong
chương trình theo hướng tích hợp như thế nào. Mặt khác, các tác giả chủ yếu
nghiên cứu tích hợp ở các dạng bài mang tích chất luyện tập, thực hành nhiều
mà chưa có công trình nghiên cứu nào chuyên sâu vào tích hợp kiến thức Ngữ
với Văn ở các dạng bài hình thành, xây dựng khái niệm, kiến thức mới.
Các kết quả nghiên cứu của các tác giả đi trước chính là nguồn tài liệu
quý báu, có giá trị cho chúng tôi sử dụng làm luận cứ hoặc làm phương pháp
chứng minh luận điểm của mình để từ đó tiếp tục tìm hiểu và phát triển sâu
hơn nữa các vấn đề về lý luận cũng như thực tiễn của phương pháp tích hợp
được vận dụng trong dạy học môn Ngữ Văn nói chung và môn Tiếng Việt nói
riêng trong nhà trường THCS, và THPT.

Footer Page 10 of 27.

8



Header Page 11 of 27.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Triển khai nghiên cứu đề tài, chúng tôi mong muốn góp một tiếng nói
trong việc đổi mới phương pháp dạy học Ngữ văn nói chung, dạy học Tiếng
Việt nói riêng và hướng tới giải quyết các yêu cầu sau:
+ Trên cơ sở nghiên cứu lí thuyết dạy học tích hợp và tìm hiểu, đánh
giá thực trạng, xây dựng cơ sở lý luận dạy học theo quan điểm tích hợp kiến
thức Ngữ - Văn, luận văn đề xuất cách tích hợp kiến thức Ngữ với Văn vào
dạy học bài Phong cách ngôn ngữ nghệ thuật trong chương trình Ngữ văn lớp
10, giúp GV có được những định hướng cần thiết để triển khai giờ học có
hiệu quả, đáp ứng được yêu cầu tích hợp của chương trình và SGK. Đồng
thời, giúp các em HS thấy được sự liên kết chặt chẽ giữa phần Đọc văn với
phần Tiếng Việt và Làm văn, thấy được những cảm quan, những cái nhìn sâu
lắng nhất về ngôn ngữ nghệ thuật được sử dụng trong các văn bản Đọc văn và
từ đó có thể giúp các em rèn luyện kỹ năng tạo lập văn bản theo phong cách
riêng của mình, giúp HS có ý thức giữ gìn sự trong sáng của Tiếng Việt, góp
phần hình thành những năng lực nghe, nói, đọc, viết và phát triển nhân cách
cho HS.
+ Trên cơ sở thực nghiệm một bài dạy học Tiếng Việt cụ thể, các GV
có thể khái quát phương pháp dạy học cả phân môn Tiếng Việt trong chương
trình Ngữ Văn THPT theo hướng tích hợp.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Thứ nhất: Trong phần cơ sở lý luận của đề tài sẽ tập trung nghiên cứu
cơ sở lý luận và thực tiễn về dạy học tích hợp trên thế giới và ở Việt Nam,
dạy học tích hợp trong môn Ngữ văn nói chung và dạy học tích hợp phần
Tiếng Việt lớp 10 nói riêng.

Thứ hai: Dựa vào lý thuyết tích hợp, vạch ra được các yêu cầu và đề
xuất cách vận dụng tích hợp kiến thức Ngữ với Văn trong dạy học bài “Phong
cách ngôn ngữ nghệ thuật” (Ngữ văn 10 - tập 2).

Footer Page 11 of 27.

9


Header Page 12 of 27.

Thứ ba: Tiến hành thực nghiệm sư phạm để khẳng định tính khả thi
của đề tài. Trên cơ sở kết quả thực nghiệm sẽ tiến hành phân tích, nhận xét,
đánh giá để có những kiến nghị và giải pháp cụ thể cho hướng nghiên cứu
tiếp theo.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Tổ chức dạy học bài “Phong cách ngôn ngữ nghệ thuật” Ngữ văn lớp
10 – tập 2 theo hướng tích hợp kiến thức Ngữ - Văn.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung: nghiên cứu hoạt động dạy và học bài “Phong cách ngôn
ngữ nghệ thuật” (Ngữ văn 10 - tập 2) theo hướng tích hợp kiến thức Ngữ Văn
xem chất lượng và hứng thú học của các em thay đổi ra sao.
- Về thời gian nghiên cứu: trong năm học 2014 - 2015.
- Về không gian: Lớp 10A1, 10A2 trường THPT Trần Thánh Tông –
Hà Nội.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn vận dụng linh hoạt một số phương pháp cơ bản sau:
5.1. Phương pháp nghiên cứu lý thuyết
Phương pháp nghiên cứu lý thuyết được tiến hành chủ yếu khi xác định

cơ sở lí luận cho đề tài. Để giải quyết tốt các nhiệm vụ của luận văn, cần
nghiên cứu lí thuyết về khoa học tích hợp, nghiên cứu một số lí luận về dạy
học bộ môn, quan điểm tích hợp trong chương trình và SGK Ngữ văn 10. Do
vậy, cần vận dụng kết quả nghiên cứu của nhiều ngành khoa học, nhiều lĩnh
vực nghiên cứu khác nhau để có được sự phân tích đầy đủ về những cơ sở
khoa học của đề tài, trên cơ sở đó xác định yêu cầu, tiêu chí và cách thức vận
dụng tích hợp vào dạy học Tiếng Việt.
5.2. Phương pháp điều tra, khảo sát
Để có được bức tranh tổng thể về thực trạng của việc sử dụng biện
pháp tích hợp vào dạy học phần Tiếng Việt lớp 10 nói chung, dạy bài Phong

Footer Page 12 of 27.

10


Header Page 13 of 27.

cách ngôn ngữ nghệ thuật nói riêng, luận văn tiến hành điều tra, khảo sát thực
trạng dạy học Tiếng Việt nói chung và dạy bài Phong cách ngôn ngữ nghệ
thuật nói riêng ở một số trường trung học phổ thông nhằm đánh giá chất
lượng tiếp thu bài của HS, giờ dạy và giáo án của GV. Bên cạnh đó, tác giả
điều tra, khảo sát trên cả những tài liệu thu thập được cũng như những kết quả
thu nhận qua hồi cứu tài liệu. Trên cơ sở những dữ liệu có được, luận văn sử
dụng các phương pháp như thống kê, phân loại, xử lí và nhận xét để chắt lọc
các nội dung cần thiết phục vụ cho luận văn.
5.3. Phương pháp thực nghiệm
Muốn khẳng định giá trị và khả năng thực thi của một công trình
nghiên cứu lí luận, cần phải đưa những nghiên cứu đó vào thực tiễn để kiểm
chứng hiệu quả. Với một đề tài khoa học về giáo dục thì thực nghiệm (hay thử

nghiệm) là khâu rất quan trọng trong quy trình. Do vậy, việc thực nghiệm
trong luận văn này không phải chỉ như một phương pháp nghiên cứu mà còn
là một nội dung nhất thiết phải có. Phương pháp thực nghiệm sư phạm trong
luận văn này là: vận dụng tích hợp kiến thức Ngữ Văn vào dạy học bài Phong
cách ngôn ngữ nghệ thuật qua thiết kế giáo án và giờ dạy thực nghiệm nhằm
xem xét, xác nhận tính đúng đắn, hợp lý và tính khả thi của các biện pháp
trong thực tế dạy học ở nhà trường trung học phổ thông.
6. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và khuyến nghị, tài liệu tham khảo, phụ
lục, nội dung chính của luận văn được trình bày theo 3 chương:
Chƣơng 1: Những vấn đề lý luận và thực tiễn của đề tài.
Chƣơng 2: Vận dụng tích hợp kiến thức Ngữ và Văn vào dạy học bài
“Phong cách ngôn ngữ nghệ thuật” (Ngữ văn 10 - tập 2).
Chƣơng 3: Thực nghiệm sư phạm.

Footer Page 13 of 27.

11


Header Page 14 of 27.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lê A, Đinh Trọng Lạc, Hoàng Văn Thung (2005), Giáo trình Tiếng Việt
3. Nxb Đại học Sư phạm.
2. Lê A, Nguyễn Quang Ninh, Bùi Minh Toán (2009), Phương pháp dạy
học Tiếng Việt. Nxb Giáo dục.
3. Nguyễn Thị Vân Anh (2010), “Dạy các BPTT so sánh, nhân hóa, ẩn dụ,
hoán dụ theo hướng tích hợp trong chương trình Ngữ văn lớp 6, lớp 7
THCS”, Luận văn Trường Đại học Giáo dục.

4. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2012), Ngữ văn 6 tập 1. Nxb Giáo dục Việt
Nam.
5. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2010), Ngữ văn 10 tập 2. Nxb Giáo dục Việt
Nam.
6. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2010), Ngữ văn 10 sách giáo viên tập 2. Nxb
Giáo dục Việt Nam.
7. Trƣơng Dĩnh (2007), Thiết kế dạy học Ngữ văn 10 theo hướng tích hợp,
tập 1+ 2. Nxb Giáo dục.
8. Trƣơng Dĩnh (2007), Thiết kế dạy học Ngữ văn 11 theo hướng tích hợp,
tập 1+ 2. Nxb Giáo dục.
9. Trƣơng Dĩnh (2007), Thiết kế dạy học Ngữ văn 12 theo hướng tích hợp,
tập 1+ 2. Nxb Giáo dục.
10. Trƣơng Dĩnh (2002), Thiết kế mới về dạy học Tiếng Việt 11. Nxb Giáo
dục.
11. Vũ Cao Đàm (2009), Giáo trình phương pháp luận nghiên cứu khoa học.
Nxb Giáo dục.
12. Hữu Đạt (2000), Phong cách học và phong cách chức năng Tiếng Việt,
Nxb Văn hóa Thông tin.
13. Hữu Đạt (2011), Phong cách học Tiếng Việt hiện đại. Nxb Giáo dục Việt
Nam.

Footer Page 14 of 27.

12


Header Page 15 of 27.

14. Hà Minh Đức (2002), Lý luận văn học. Nxb Giáo dục.
15. Nguyễn Văn Đƣờng (2002), “Tích hợp trong việc dạy học Ngữ văn bậc

THCS”, Tạp chí Giáo dục (46).
16. Nguyễn Văn Đƣờng (2012), Thiết kế bài giảng Ngữ Văn 10 tập 2. Nxb
Hà Nội.
17. Lê Anh Hiền (1982), Phong cách học Tiếng Việt hiện đại. Nxb Giáo dục.
18. Nguyễn Ái Học (2010), Phương pháp tư duy hệ thống trong dạy học văn.
Nxb Giáo dục Việt Nam.
19. Đỗ Việt Hùng (2013), Ngữ nghĩa học- từ bình diện hệ thống đến hoạt
động. Nxb Đại học Sư phạm.
20. Nguyễn Thanh Hùng (2006), “Tích hợp trong dạy học Ngữ văn”, Tạp
chí Ngiên cứu giáo dục (6).
21. Nguyễn Thanh Hùng (chủ biên), Lê Thị Diệu Hoa (2007), Phương
pháp dạy học Ngữ văn Trung học phổ thông – Những vấn đề cập nhật.
Nxb Đại học Sư phạm.
22. Nguyễn Thị Hƣờng (2012), “Dạy học loạt bài thực hành kỹ năng sử
dụng Tiếng Việt lớp 10 theo hướng tích hợp”, Luận văn Trường Đại học
Giáo dục.
23. Đinh Trọng Lạc (chủ biên), Nguyễn Thái Hòa (1999), Phong cách học
Tiếng Việt. Nxb Giáo dục.
24. Đinh Trọng Lạc, Nguyễn Quang Ninh (1994), “Phương pháp giảng dạy
phong cách học”, Tạp chí Nghiên cứu giáo dục (3).
25. Phan Trọng Luận (2011), Văn học nhà trường - nhận diện, tiếp cận, đổi
mới. Nxb Đại học Sư phạm.
26. Phan Trọng Luận (chủ biên), Trƣơng Dĩnh (2012), Phương pháp dạy
học văn, tập 1, 2. Nxb Đại học Sư phạm.
27. Phan Trọng Luận (2012), Ngữ Văn 10, tập 1, 2. Nxb Giáo dục.
28. Lƣu Quỳnh Nga (2010), “Dạy học Tiếng Việt lớp 10 THPT theo hướng
tích hợp”, Luận văn Trường Đại học Giáo dục.

Footer Page 15 of 27.


13


Header Page 16 of 27.

29. Phan Trọng Ngọ (2005), Dạy học và phương pháp dạy học trong nhà
trường. Nxb Đại học Sư Phạm.
30. Vũ Nho (2005), Bài tập rèn kĩ năng tích hợp Ngữ văn 9. Nxb Giáo dục.
31. Nguyễn Khắc Phi (2002), Tích hợp - một vấn đề nổi bật trong chương
trình (thí điểm) và SGK (thí điểm) môn Ngữ văn bậc THCS – các vấn đề
SGK. Nxb Giáo dục.
32. Lê Thời Tân (2012), “Về bài Phong cách ngôn ngữ nghệ thuật trong sách
Ngữ Văn 10”, Tạp chí Dạy và Học Ngày Nay (10), tr. 37 – 40.
33. T.S Đỗ Ngọc Thống (2002), Đổi mới việc dạy và học môn Ngữ văn ở
THCS. Nxb Giáo dục.
34. Cù Đình Tú (2007), Phong cách học và đặc điểm tu từ Tiếng Việt. Nxb
Giáo dục.
35. Trần Quốc Vƣợng (2008), Cơ sở văn hóa Việt Nam. Nxb Giáo dục.

Footer Page 16 of 27.

14



×