Tải bản đầy đủ (.doc) (50 trang)

Bản chất và vai trò của các tổ chức độc quyền xuyên quốc gia

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (177.44 KB, 50 trang )

I. LỜI MỞ ĐẦU
Sự phát triển của chủ nghĩa tư bản đã trải qua nhiều giai đoạn. Trong giai
đoạn độc quyền chủ nghĩa, một biểu hiện quan trọng của chủ nghĩa tư bản là
sự ra đời của các tổ chức độc quyền. Khi các tổ chức này bành trướng các
hoạt động của mình ra khỏi phạm vi biên giới một quốc gia, chúng trở thành
các tổ chức độc quyền quốc tế, hay tổ chức độc quyền xuyên quốc gia.
Ngày nay, các tổ chức độc quyền xuyên quốc gia tồn tại dưới hình thức
mới, các công ty xuyên quốc gia. Các công ty này có vai trò quan trọng trong
đời sống kinh tế thế giới và ngày càng trở thành lực lượng cơ bản vận hành
nền kinh tế thế giới. Chính vì vậy các công ty xuyên quốc gia đã trở thành chủ
đề thu hút sự quan tâm của không chỉ các học giả, mà cả các doanh nhân và
giới chính khách của hầu hết các quốc gia.
Các công ty xuyên quốc gia của chủ nghĩa tư bản hiện đại được xem như
là một hình thức vận động mới của độc quyền tư bản chủ nghĩa. Việc nghiên
cứu các công ty xuyên quốc gia nhằm hiểu rõ thêm đặc điểm của chủ nghĩa tư
bản ngày nay.
Xét ở góc độ rộng hơn các công ty xuyên quốc gia chính là hình thức
vận động của quan hệ sản xuất quốc tế. Việc nghiên cứu các công ty xuyên
quỗc gia sẽ giúp ta hiểu rõ sự tác động của chúng tới nền kinh tế Việt Nam và
qua đó có các giải pháp đúng đắn để phát triển nền kinh tế nước ta. Chính vì
vậy, trong phạm vi một bài đề án kinh tế chính trị, đề tài “ Bản chất và vai trò
của các tổ chức độc quyền xuyên quốc gia” nhằm có được cái nhìn đúng đắn
hơn về các công ty xuyên quốc gia.



II. NỘI DUNG

1. Bản chất và quá trình phát triển của các công ty xuyên quốc

gia


1.1.Khái niệm, quá trình hình thành và phát triển
a.Khái niệm

Có nhiều quan niệm khác nhau về các công ty xuyên quốc gia đồng
thời cũng tồn tại nhiều tên gọi khác nhau để chỉ các công ty hoạt động sản
xuất kinh doanh quốc tế . Song có thể hiểu các công ty xuyên quốc gia có
những đặc điểm cơ bản sau:
- Về mặt xuất xứ là các công ty tư bản độc quyền
- Hầu hết chúng có tầm cỡ quốc tế
- Có chi nhánh nước ngoài
- Hình thành từ các công ty quốc gia ( tức mang một quốc tịch nếu xem
xét ở công ty mẹ )
- Có cơ cấu hai bộ phận chủ yếu : công ty mẹ và công ty chi nhánh
Như vậy có thể định nghĩa các công ty xuyên quốc gia của chủ nghĩa tư
bản hiện đại như sau : “ Các công ty xuyên quốc gia, về xuất xứ, là những
công ty tư bản độc quyền của một quốc gia, thực hiện việc bành trướng quốc


tế bằng hình thức thiết lập một hệ thống chi nhánh ở nước ngoài nhằm phân
chia thị trường thế giới và tìm kiếm lợi nhuận độc quyền”.
Ngày nay xuyên quốc gia hoá trong sản xuất kinh doanh trở thành xu
hướng chung của thời đại. Vì vậy không chỉ những nước tư bản phát triển mới
có các công ty xuyên quốc gia mà hầu hết các quốc gia đều có công ty xuyên
quốc gia. Vì vậy có thể đưa ra định nghĩa chung như sau: “ Các công ty xuyên
quốc gia hiện đại là những công ty của một quốc gia thực hiện việc sản xuất
kinh doanh quốc tế thông qua việc thiết lập hệ thống chi nhánh ở nước ngoài
nhằm thực hiện việc mở rộng thị trường và nguồn thu lợi nhuận”.

b. Một số nét chung về các công ty xuyên quốc gia trên thế giới
Cho đến nay, toàn thế giới có khoảng 60 nghìn công ty xuyên quốc gia

mẹ và trên 500 nghìn công ty con (chi nhánh của các công ty mẹ). Theo báo
cáo của Liên Hợp Quốc cho thấy trong số 53.607 công ty xuyên quốc gia mẹ
trên thế giới các nền kinh tế phát triển có 43.442 công ty tức là chiếm hơn 4/5
tổng số công ty xuyên quốc gia mẹ trên thế giới. Trong số 500 công ty lớn
nhất thế giới, các nước G7 chiếm phần lớn số công ty này. Mỹ là nước có
nhiều công ty nhất trong danh sách này với 175 công ty đồng thời tổng thu
nhập và lợi nhuận của các công ty Mỹ cũng là lớn nhất.
c. Quá trình hình thành và phát triển của các công ty xuyên quốc gia
Xét cả về logic và lịch sử, sự ra đời của các công ty xuyên quốc gia trên
thế giới gắn liền với sự ra đời và phát triển của sản xuất lớn tư bản chủ nghĩa.
Về thực chất chúng là sự phát triển cao của chế độ xí nghiệp tư bản chủ nghĩa,
là sự vận động mở rộng và sâu sắc hơn của các quan hệ sản xuất tư bản chủ


nghĩa, khi các mối quan hệ kinh tế vượt dần ra khỏi phạm vi quốc gia và gia
nhập vào guồng máy sản xuất kinh doanh quốc tế ngày càng phát triển.
Khi nghiên cứu về chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh, C.Mác và P.
Ăngghen đã dự đoán rằng; tích tụ và tập trung tư bản thông qua hiệp tác giản
đơn và công trường thủ công, cùng với sự phân công lao động ngày một hoàn
thiện tất yếu sẽ dẫn đến sự ra đời những xí nghiệp tư bản chủ nghĩa có quy mô
lớn và sự cạnh tranh của những xí nghiệp này ngày càng trở nên gay gắt. Sự
cạnh tranh giữa các xí nghiệp tất yếu sẽ đưa đến kết quả là các xí nghiệp nhỏ
và vừa bị phá sản hoặc sáp nhập với nhau để thành những xí nghiệp lớn hơn
và theo đó, quá trình tập trung tư bản được đẩy mạnh hơn một bước.
Hình thức hiệp tác giản đơn và công trường thủ công là những hình
thức tổ chức sản xuất đầu tiên của chế độ xí nghiệp tư bản chủ nghĩa. Những
người thợ thủ công được tổ chức, sắp xếp vào dây chuyền sản xuất bằng hai
cách: liên kết theo chiều ngang và liên kết theo chiều dọc qua đó thực hiện
chuyên môn hoá sản xuất và thực hiện phân công lao động. Việc quản lý trong
công trường thủ công do người sở hữu xí nghiệp gánh vác. Tuy tính chất và

quy mô của loại xí nghiệp như vậy còn hết sức đơn giản và nguyên thủy
nhưng nó đã trở thành cơ sở để công trường thủ công thay thế cho cơ chế trao
đổi của thị trường. Chế độ công trường thủ công là hình thức phôi thai tế bào
của xí nghiệp hiện đại và đi cùng với nó, quá trình tích tụ và tập trung sản
xuất dưới tác động của quy luật thị trường cũng diễn ra ngay thời kì đầu xuất
hiện của các hình thức sản xuất tư bản chủ nghĩa.
Chế độ xí nghiệp là chế độ điển hình sinh ra trong cuộc cách mạng
công nghiệp lần thứ nhất. Cùng với chế độ tự do cạnh tranh của thị trường
phát triển lên đã điều tiết sự phân công và trao đổi của xã hội, xí nghiệp nhà
máy cũng nhanh chóng trở thành hình thức tổ chức sản xuất điển hình để tổ
chức sự phân công lao động xã hội. Đồng thời, nhờ sự phát triển mạnh mẽ của


lực lượng sản xuất chế độ xí nghiệp nhà máy đã mở rộng phạm vi lĩnh vực
phân công xã hội từ nội bộ quốc gia sang địa bàn quốc tế. Và do vậy, phân
công lao động và trao đổi quốc tế giữa các nước ngày càng phát triển. Như
vậy, cạnh tranh tự do không chỉ làm cho quá trình tích tụ và tập trung sản xuất
tăng lên, mà còn là nguyên nhân cho sự ra đời của nền sản xuất dựa trên máy
móc và theo đó, chế độ xí nghiệp tư bản chủ nghĩa xuất hiện và ngày càng
hoàn thiện. Đến lượt nó, chế độ xí nghiệp ra đời lại thúc đẩy phân công lao
động mở rộng từ nội bộ quốc gia sang địa bàn quốc tế đồng thời làm cho tích
tụ và tập trung tư bản, sản xuất tăng lên cao độ và theo đó các tổ chức độc
quyền bắt đầu xuất hiện.
Một đặc trưng nổi bật trong giai đoạn độc quyền là sự cùng tồn tại đan
xen nhau giữa độc quyền quốc gia và quốc tế. Cùng với sự phát triển quan hệ
buôn bán quốc tế làm cho các công ty tư bản ở các nước liên minh với nhau
sản xuất và phân phối hàng hóa trên thị trường thế giới, đã hình thành nên các
công ty độc quyền quốc tế. Các tổ chức độc quyền quốc tế trong thời đại đế
quốc chủ nghĩa có một đặc trưng cơ bản là sự đấu tranh để phân chia thế giới
về mặt kinh tế. Vì vậy khi nghiên cứu sự hình thành và phát triển của các tổ

chức độc quyền quốc tế nói chung và các tổ chức độc quyền quốc tế xuyên
quốc gia nói riêng phải xuất phát từ sự tích tụ và tập trung sản xuất. Tích tụ và
tập trung sản xuất đạt đến một độ nhất định làm cho các nhà độc quyền quốc
gia vươn ra khỏi biên giới quốc gia hoạt động trên phạm vi quốc tế, thực hiện
phân chia thế giới về mặt thị trường.
Xí nghiệp hiện đại là hình thức phát triển tiếp theo của các xí nghiệp
truyền thống. Các xí nghiệp hiện đại được hình thành bởi sự kết hợp giữa quá
trình sản xuất quy mô lớn và quá trình phân phối quy mô quốc tế vào trong
một công ty đơn nhất, nghĩa là trong xí nghiệp bao gồm cả các hoạt động sản
xuất công nghiệp, lẫn thương mại, dịch vụ, tài chính và chúng được gọi là xí
nghiệp công thương hiện đại. Xí nghiệp công thương hiện đại đã từng bước


thay thế cho tổ chức xí nghiệp đơn nhất truyền thống và trở thành hình thức
điển hình, thích ứng với sự phát triển kĩ thuật hiện đại và đặc điểm thị trường
được quốc tế hóa ngày càng mở rộng. Đến những thập kỉ 50, 60 một loạt các
xí nghiệp hiện đại khổng lồ đã khống chế các ngành kinh tế then chốt và trở
thành các tập đoàn độc quyền quốc gia. Chúng trở thành lực lượng chủ yếu
chi phối nền kinh tế rhế giới.
Các xí nghiệp công thương hiện đại có quy mô, mức độ phức tạp trong
quản lý và phạm vi phân công trong nội bộ cực kì lớn mà không có bất kì một
xí nghiệp nào trước đây có thể sánh kịp. Mức tiêu thụ hàng năm của một xí
nghiệp công thương hiện đại thậm chí còn vượt tổng giá trị thu nhập quốc dân
của một số nước vừa và nhỏ. Phạm vi phân công lao động của nó ngày càng
mở rộng. Và đến khi phạm vi địa lý của sự phân công nội bộ xí nghiệp công
thương hiện đại vượt quá biên giới quốc gia thì các công ty xuyên quốc gia
hình thành. Có thể nói, các công ty xuyên quốc gia là tổ chức độc quyền quốc
tế kiểu mới, là hình thức độc quyền quốc tế chủ yếu ngày nay.
Ngày nay các công ty xuyên quốc gia xuất hiện ở mọi lĩnh vực trong
đời sống con người. Chúng ta có thể bắt gặp những thương hiệu của các công

ty xuyên quốc gia ở mọi nơi như Microsoft, Coca-Cola, hay Honda…Chúng
đã thâm nhập mạnh mẽ vào đời sống kinh tế của hầu hết các quốc gia trên thế
giới và có những ảnh hưởng nhất định. Chúng đã trở thành một nhân tố quan
trọng trong sự phát triển của nền kinh tế thế giới.
1.2. Bản chất và đặc trưng của các công ty xuyên quốc gia
a. Bản chất của công ty độc quyền xuyên quốc gia
Cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX, quá trình tích tụ và tập trung sản xuất,
tư bản ở các nước tư bản phát triển đã dẫn đến những biến đổi quan trọng về
lượng và chất trong các mặt quan hệ sản xuất, mà khâu quan trọng nhất là các


quan hệ sở hữu. Vì vậy khi nghiên cứu bản chất các công ty xuyên quốc gia
trên thế giới cần xuất phát từ những vấn đề này.
Quá trình tích tụ và tập trung sản xuất, tư bản đã dẫn đến sự ra đời của
các xí nghiệp khổng lồ có khả năng thâu tóm nhiều ngành công nghiệp khác
nhau, từ đó ra đời các tổ chức độc quyền, các tổ chức này sử dụng cơ chế độc
quyền, tức là cơ chế vận động dựa trên giá cả độc quyền, thay cho cơ chế tự
do cạnh tranh dựa trên giá cả thị trường để thu lợi nhuận độc quyền cao. Do
vậy có thể coi các tổ chức độc quyền là hình thức mà trong đó quan hệ sản
xuất tư bản chủ nghĩa vận động và tồn tại dưới dạng sở hữu độc quyền. Khi
các tổ chức độc quyền quốc gia mở rộng phạm vi hoạt động ra khỏi biên giới
một quốc gia đồng thời dưới sự thúc đẩy của quá trình tích tụ và tập trung sản
xuất trên quy mô quốc tế thì các hình thức siêu độc quyền, tức là công ty
xuyên quốc gia xuất hiện. Khi đó nền sản xuất sẽ đòi hỏi những nguồn lực
khổng lồ đặc biệt là vốn và công nghệ làm cho khả năng tài chính của một số
công ty không thể đáp ứng được. Đồng thời quá trình cổ phần hóa mở rộng và
sự gia tăng quá trình huy động vốn thông qua thị trường tài chính làm cho số
lượng các chủ đồng sở hữu trong các công ty xuyên quốc gia tăng lên. Và
như vậy sở hữu tư bản cổ điển truyền thống nảy sinh và phát triển trong cách
mạng công nghiệp lần thứ nhất và thứ hai mất dần vai trò điều tiết trong cơ

cấu của công ty xuyên quốc gia. Đối tượng tham gia góp vốn ngày càng được
mở rộng tuy nhiên không ai trong số họ có đủ số vốn để kiểm soát hay can
thiệp nhiều vào hoạt động quản lý của công ty. Kết quả là tài sản đã trở thành
vốn đầu tư. Đồng thời do sự cạnh tranh với các công ty khác, công ty xuyên
quốc gia không có sự lựa chọn nào khác trong việc dùng các vốn đầu tư đó
vào đảm bảo tối đa hoạt động đổi mới, hoàn thiện kĩ thuật, công nghệ, tổ chức
sản xuất với tư cách người chủ theo những phương thức, hành vi kinh tế khác
nhau tùy thuộc vào thành phần ban quản lý của chúng. Trong quá trình đó,
người công nhân hiện đại, từ đối tượng bị bóc lột trở thành chủ thể sở hữu


kinh tế đầy tiềm năng do họ đã có trong tay phương tiện sản xuất mới- đó là
tri thức và các kĩ năng có chuyên môn riêng cao của họ, và họ ngày càng được
thu hút với tư cách đồng sở hữu.
Như vậy, dưới tác động của cuộc cách mạng khoa học công nghệ, bản
chất của các công ty xuyên quốc gia đựoc thể hiện qua hai thay đổi lớn trong
các quan hệ sở hữu:
Một là, sở hữu độc quyền siêu quốc gia là hình thức sở hữu hỗn hợp đã
được quốc tế hóa. Đây là một hình thức sở hữu mang tính khách quan tạo nên
bởi quá trình tích tụ, tập trung hóa và xã hội hóa sản xuất trên quy mô quốc tế
của chủ nghĩa tư bản dưới sự tác động mạnh mẽ và sâu sắc của cuộc cách
mạng khoa học công nghệ và của các quy luật cạnh tranh, quy luật kinh tế cơ
bản của chủ nghĩa tư bản. Tồn tại dưới hình thức các tổ hợp đa ngành khác
nhau như concern và conglomerate, hiện nay có tới trên 70% các xí nghiệp
chi nhánh của chúng là các xí nghiệp liên doanh với số lượng các chủ đồng sở
hữu từ 2 tới 4 nước hoặc nhiều hơn nữa với những tỉ lệ góp vốn khác nhau.
Điều này phản ánh tính chất đa dạng phức tạp và tính chất hỗn hợp của loại
hình sở hữu xuyên quốc gia.
Hai là, sở hữu hỗn hợp, được tạo ra do sự thay đổi về căn bản địa vị,
vai trò của người công nhân, trí thức, những người làm việc trực tiếp trong

các ngành nghề khác nhau, nhất là những ngành có hàm lượng khoa học và
công nghệ cao, là những người quyết định chất lượng của lao động và sản
xuất. Loại hình này diễn ra theo hướng tăng đáng kể số người có cổ phần
trong công ty nhưng tỉ trọng sở hữu cổ phần trong tổng số vốn kinh doanh
không lớn.
Như vậy, sự biến đổi của hình thức sở hữu trong công ty xuyên quốc
gia là thay đổi rất căn bản đặc trưng của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa


trong chủ nghĩa tư bản hiện đại. Có thể thấy rằng, các công ty xuyên quốc gia
không còn là sở hữu của một người hay một nước nữa, mà là sở hữu hỗn hợp
quốc tế nhưng vẫn có một quốc tịch nhất định.
Về thực chất, việc xuất hiện các loại hình sở hữu trên là kết quả của sự
biến đổi dưới sự tác động của quy luật về sự phù hợp giữa sự phát triển lực
lượng sản xuất và quan hệ sản xuất mà C.Mác đã vạch ra ở thế kỉ trước. Tuy
người công nhân đã trở thành một chủ sở hữu kinh tế trong các công ty xuyên
quốc gia nhưng sở hữu của các nhà tư bản vẫn giữ vị trí trọng yếu, còn sở hữu
của người lao động chỉ chiếm một tỉ lệ nhỏ, không đáng kể và còn được các
nhà tư bản sử dụng như là một biên pháp trong quản lý để thu hút sự quan tâm
của người lao động. Dù “ hệ thống tham dự mới về sở hữu” có cả sự tham gia
của các công nhân làm thuê, nhưng đây chỉ là sự biến đổi trong cách thức tổ
chức quản lý doanh nghiệp nhằm nâng cao hiệu suất của tư bản do tác động
của quá trình xã hội hóa quy định, chứ không có nghĩa là người công nhân đã
thực sự trở thành chủ sở hữu về tư liệu sản xuất hay chủ sở hữu tư bản bởi vì
tổng giá trị cổ phiếu mà họ sở hữu thấp hơn nhiều so với số cổ phiếu mà các
nhà tư bản nắm giữ.
Về mặt quản lý, việc tổ chức hoạt động quản lý sản xuất và các hoạt
động kinh tế đã dịch chuyển từ kiểu đại trà, được tiêu chuẩn hóa theo hàng
loạt lớn sang kiểu sản xuất loạt nhỏ và linh hoạt theo đơn đặt hàng, cũng như
dịch chuyển từ các tổ chức có quy mô lớn được liên kết theo chiều dọc sang

phi liên kết kiểu mạng lưới theo chiều ngang giữa các đơn vị kinh tế trong
nước và ngoài nước. Sự dịch chuyển này trong điều kiện đổi mới công nghệ
như vũ bão đã làm nổi bật vai trò năng động của các doanh nghiệp, xí nghiệp
có quy mô nhỏ và vừa so với các tập đoàn lớn mang nặng tính chất quan liêu
hóa, buộc công ty xuyên quốc gia phải tự tách mình ra thành các nhân tố của
cạnh tranh nhằm tạo ra sự năng động và linh hoạt trong sản xuất kinh doanh.
Điều đó dẫn đến sự xuất hiện liên kết công ty xuyên quốc gia kiểu mới, kiểu


các công ty vệ tinh hoạt động xoay quanh một công ty mẹ tạo nên một mạng
lưới phủ lên thị trường các nước. Đây là sự chuyển hóa về mặt tổ chức quản
lý của mọi hoạt động kinh tế để tăng cường tính linh hoạt và khả năng thích
ứng với thị trường đang được đa dạng hóa và biến đổi từng ngày, từng giờ.
Nhờ các đột phá của công nghệ thông tin, công nghệ tự động hóa, phương
thức tổ chức quản lý sản xuất vật chất của xã hội hiện đại bắt đầu thay đổi
ngược lại với phương thức tổ chức quản lý sản xuất trong xã hội công nghiệp
theo xu thế:
- Phi hàng loạt hóa và đa dạng hóa các sản phẩm : có nghĩa là việc tổ
chức quản lý sản xuất các sản phẩm được tiến hành theo loạt nhỏ hay đơn
chiếc theo đúng yêu cầu và thị hiếu đa dạng của khách hàng.
- Phi chuyên môn hóa : tức là việc sản xuất sản phẩm được tổ chức quản
lý theo phương thức chế tạo tổ hợp các khối cấu kiện, phụ kiện, chứ không từ
hàng trăm hàng ngàn cấu kiện, phụ kiện được sản xuất chuyên môn hóa như
trước.
- Phi tập trung hóa : là quá trình sản xuất được phân bố và tổ chức quản
lý trên diện rộng trong các chi nhánh đơn vị sản xuất vừa và nhỏ, với các
nguồn nhân lực, vật lực và tài lực phân tán trên quy mô quốc gia và quốc tế.
Với mục tiêu không chỉ sản xuất ra các sản phẩm với giá thành thấp trong
phạm vi một nước mà với giá thành thấp trên phạm vi toàn cầu, các công ty
xuyên quốc gia đã tiến hành tổ chức và quản lý việc phân công lao động và

sản xuất vượt qua các đường biên giới giữa các quốc gia.
- Tổ chức quản lý từ xa: là việc tổ chức quản lý đồng thời và rộng rãi
cùng ở một nơi nhiều loại hình sản xuất và dịch vụ khác nhau. Hoạt động từ
xa sẽ được tăng cường mạnh mẽ và những cản trở của hàng rào không gian và


khoảng cách giữa nơi làm việc và nơi ở, thời gian làm việc và giải trí đang và
sẽ được phá bỏ hoàn toàn.
- Quốc tế hóa và toàn cầu hóa hoạt động tổ chức quản lý: trong nền
kinh tế mới mang tính chất toàn cầu, tất cả các yếu tố như vốn tư bản, các thị
trường, lao động, thông tin và công nghệ đều được tổ chức quản lý xuyên qua
các đường biên giới quốc gia. Cái mới không phải chỉ ở chỗ thương mại quốc
tế là một bộ phận quan trọng của nền kinh tế một nước, mà là ở chỗ nền kinh
tế đó bắt đầu hoạt động với tư cách thực sự là một đơn vị ở cấp toàn cầu. Việc
tổ chức và quản lý các hoạt động sản xuất, kinh doanh, thương mại và dịch vụ
không những đã được quốc tế hóa, mà còn đang được toàn cầu hóa trong quá
trình thâm nhập qua lại giữa các hoạt động kinh tế và nền kinh tế của các quốc
gia trên quy mô thế giới. Trong đó, các công ty xuyên quốc gia có vai trò và
lợi thế to lớn, do chúng có nhiều ưu thế về nguồn lực và các tri thức, thông tin
cần thiết đối với việc tổ chức quản lý sản xuất và tiêu thụ các hàng hóa và
dịch vụ trên quy mô quốc tế.
Như vậy quan hệ sở hữu hỗn hợp, phức tạp và được quốc tế hóa thể
hiện bản chất sâu xa của hình thức tổ chức sản xuất xã hội quốc tế phát triển
nhất hiện nay, đó là công ty xuyên quốc gia.
b. Các đặc trưng cơ bản của công ty xuyên quốc gia

Một đặc trưng cơ bản mà bất kì một công ty xuyên quốc gia nào cũng
phải có là đặc trưng cắm nhánh nước ngoài. Để thực hiện cắm nhánh, các
công ty xuyên quốc gia thường sử dụng nhiều hình thức khác nhau, song chủ
yếu là các hình thức sau:



- Hình thức đầu tư 100% vốn : Đây là hình thức đã có ngay từ thời kì
đầu tiên khi các công ty xuyên quốc gia thâm nhập vào nền kinh tế các nước.
Đây là hình thức cắm nhánh cổ truyền, trong đó công ty xuyên quốc gia được
hoàn toàn tự chủ trong kinh doanh theo luật đầu tư của nước chủ nhà mà
không sợ thất thoát về bí quyết công nghệ và quản lý hoặc chia sẻ bạn hàng.
Tuy nhiên các công ty xuyên quốc gia phải chịu sự kiểm soát của nước chủ
nhà, sự kiểm soát đó cũng theo những phương thức và mức độ khác nhau,
đồng thời cũng đưa lại những hậu quả không giống nhau. Mặt khác với xí
nghiệp 100% vốn của mình, các công ty xuyên quốc gia không tránh khỏi
những khó khăn trong việc khai thông các mối quan hệ với các cơ quan quản
lý, cũng như việc tìm hiểu thị trường nước chủ nhà. Ngoài ra một số công ty
còn gặp khó khăn trong việc tuyển dụng công nhân. Chính vì một số khó khăn
này nên một số công ty đã lựa chọn hình thức liên doanh.
- Hình thức liên doanh : Đây là một trong những hình thức phổ biến
trong giai đoạn hiện nay mà các công ty xuyên quốc gia đã và đang sử dụng.
Để thực hiện liên doanh, các công ty xuyên quốc gia thường sử dụng một số
biện pháp như tham gia cổ phần đối với xí nghiệp mới xây dựng, lập ra xí
nghiệp mới có sự tham gia của đối tác nước chủ nhà, mà công ty mẹ nắm giữ
số cổ phần khống chế, hoặc mua cổ phiếu của công ty đang hoạt động. Có thể
lấy một ví dụ : trường hợp liên doanh giữa công ty GMC (Mỹ) với công ty
Isuzu (Nhật Bản) vào thập kỉ 80 : Isuzu bán 34% cổ phần của mình cho GMC,
vì đang gặp khó khăn trong việc chuyển từ sản xuất xe tải, xe buýt sang xe
con. Còn với GMC nếu mua được cổ phần của Isuzu sẽ giúp cho việc thâm
nhập vào thị trường Nhật Bản, củng cố được mặt hàng của mình. Hiện nay
hình thức liên doanh thường chiếm tỷ trọng lớn (60-70%, thậm chí có trường
hợp 85% tổng số dự án đầu tư nước ngoài), vì hình thức này có nhiều nhân tố
làm tăng hiệu suất của tư bản.



Ngoài hai hình thức chủ yếu trên, các công ty xuyên quốc gia còn thực
hiện các hình thức khác, như thông qua các hợp đồng gia công để chuyển giao
một số công đoạn sản xuất ra nước ngoài nhằm thực hiện chuyên môn hóa sản
phẩm, tận dụng các lợi thế như giá lao động, giá nguyên vật liệu rẻ, tiết kiệm
chi phí vận chuyển, khắc phục khó khăn về thuế quan…Hiện nay hầu hết các
công ty xuyên quốc gia đều thực hiện cách này. Ví dụ như công ty Ford Motor
có tới 25.000 đơn vị sản xuất gia công ở khắp các nước trên thế giới.
Để thực hiện cắm nhánh ngoại quốc các công ty xuyên quốc gia thường
sử dụng một số hình thức nêu trên đồng thời với chiến lược hết sức linh hoạt,
mà đáng chú ý là một số chiến lược sau:
- Chiến lược đối với khu vực địa lý : Nhìn chung các công ty xuyên
quốc gia tập trung vào các nước tư bản phát triển nhiều hơn so với các nước
đang phát triển. Sở dĩ có xu hướng như vậy là vì trong điều kiện tác động của
cuộc cách mạng khoa học công nghệ đã xuất hiện nhiều ngành mới, trong khi
đó các nước đang phát triển (trừ các nước công nghiệp mới) do trình độ lạc
hậu nên không đủ điều kiện tiếp nhận đầu tư. Hầu hết các ngành được chuyển
dịch sang các nước đang phát triển là các ngành đã hao mòn vô hình, giá trị
thấp cũng góp phần làm cho tỉ trọng vốn giảm đi. Mặt khác, trong điều kiện
hiện nay lĩnh vực cạnh tranh là những ngành hiện đại, trong khi đó các nước
đang phát triển không phải là đối thủ cạnh tranh, hơn nữa mức thu nhập thấp
làm cho mức tiêu thụ sản phẩm cao cấp còn hạn chế. Điều đó đã làm thay đổi
hướng đầu tư của các công ty xuyên quốc gia.
- Chiến lược đối với các ngành kinh doanh : Từ sau chiến tranh thế
giới thứ hai đến nay việc đầu tư cắm nhánh của các công ty xuyên quốc gia đã
có sự thay đổi. Đó là tỉ trọng vốn đầu tư vào các ngành công nghiệp khai
khoáng có xu hướng giảm. Thay vào đó là các ngành sản xuất hàng hóa công
nghệ cao như sản xuất ôtô, hàng điện tử… và đặc biệt là các ngành dịch vụ.



Chính xu hướng đầu tư cắm nhánh của các công ty xuyên quốc gia đối với các
ngành trên đã góp phần thúc đẩy sự biến đổi cơ cấu ngành của nền kinh tế thế
giới trong những thập kỉ gần đây.
- Chiến lược thôn tính và sáp nhập của các công ty xuyên quốc gia :
Cùng với xu hướng trên, các công ty xuyên quốc gia đã thực hiện chiến lược
sáp nhập và thôn tính lẫn nhau. Hiện nay các vụ sáp nhập có đặc điểm là quy
mô rất lớn. Ví dụ như số vụ trị giá trên 1 tỉ USD tăng từ 35 vụ năm 1995 lên
45 vụ năm 1996 và 58 vụ năm 1997 với giá trị lần lượt là 59 tỷ, 86 tỷ và 161
tỷ USD và diễn ra ở tất cả các ngành. Trong ngành sản xuất ôtô năm 1999 đã
diễn ra sự sáp nhập của 9 tập đoàn hàng đầu thế giới gồm Ford, GMC, BMW,
Volswagen, Daimler Benz, Chrysler, Volvo, Mazda, Toyota hình thành một
liên minh khổng lồ. Chính sự thôn tính và sáp nhập của các công ty xuyên
quốc gia đã tạo ra những công ty có quy mô khổng lồ. Theo thống kê quốc tế,
vào cuối thập kỉ 90, số công ty có vốn trên 60 tỷ USD là 50 công ty, trong đó
có 14 công ty có số vốn trên 100 tỷ USD. Đồng thời bằng sự sáp nhập, thôn
tính như vậy, cạnh tranh sẽ diễn ra một cách gay gắt hơn, mâu thuẫn giữa tính
chất xã hội hoa sản xuất và chế độ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa càng gay
gắt và mang tính toàn cầu.
Ngoài ra mỗi công ty xuyên quốc gia còn có chiến lược riêng của mình.
Chẳng hạn một số công ty xuyên quốc gia có xu hướng đầu tư cắm nhánh tại
vùng trung tâm của mỗi quốc gia chủ nhà. Song lại có công ty thực hiện chiến
lược cắm nhánh ở những vùng biên giới giữa các nước vì từ đó có thể mở
rộng hoạt động đối với các quốc gia lân cận. Về chiến lược thị trường, sản
phẩm cũng vậy, có công ty thực hiện chiếm lĩnh thị trường ngách với sản
phẩm độc đáo trong khi hầu hết các công ty có xu hướng đa dạng hóa sản
phẩm, thực hiện chuyên môn hóa.


Ngoài đặc trưng cắm nhánh kể trên, do trình độ phát triển sản xuất
kinh doanh tư bản chủ nghĩa, nhất là trình độ quản lýkinh doanh và một số

đặc điểm riêng, như văn hóa, tập quán và truyền thống… mà các công ty
xuyên quốc gia của các nước có những nét đặc trưng khác nhau nhất định.
Thực ra, sự khác nhau này trong hệ thống quản lý, hay cơ chế quản lý của các
công ty xuyên quốc gia của các nước là có tính tương đối.
Mỗi nước khác nhau thì cơ chế hoạt động và quản lý của các công ty
xuyên quốc gia ở những nước này cũng có những nét khác nhau nhất định do
sự khác biệt về truyền thống, văn hóa…Nhiều nhà nghiên cứu trên thế giới đã
đưa ra một số đặc trưng chủ yếu về quản lý của các công ty xuyên quốc gia
phương Đông và phương Tây như sau :
- Các công ty phương Tây :
+ Không có xu hướng sử dụng lao động dài hạn.
+ Sự thăng tiến của người lao động chủ yếu dựa trên cơ sở khả năng
của cá nhân.
+ Nhấn mạnh vai trò của cá nhân, cá nhân ra quyết định là chủ yếu
+ Chú trọng đến lợi nhuận ngắn hạn, trên cơ sở chiến lược phát triển dài
hạn.
+ Cởi mở hơn, sẵn lòng đương đầu với khó khăn.
- Các công ty phương Đông:
+ Có xu hướng sử dụng lao động dài hạn thậm chí cả cuộc đời làm việc
gắn với một công ty.


+ Sự thăng tiến của người lao động chủ yếu dựa trên thâm niên công
tác.
+ Nhấn mạnh vai trò trách nhiệm tập thể và phương thức ra quyết định
quản lý chủ yếu là tập thể.
+ Có xu hướng chú trọng đến khối lượng hơn là chất lượng.
+ Coi trọng kinh nghiệm, mối quan hệ và liên hệ gia đình.

2. Vai trò của các công ty xuyên quốc gia

Với khoảng 60.000 công ty mẹ và 500.000 công ty chi nhánh, các
công ty xuyên quốc gia đóng vai trò quan trong trong nền kinh tế thế giới.
Hiện nay chúng đang kiểm soát 40% sản lượng công nghiệp, 60% ngoại
thương, 80% kĩ thuật mới của thế giới tư bản chủ nghĩa. Có thể nói các công
ty xuyên quốc gia là lực lượng cơ bản của chủ nghĩa tư bản hiện đại. Chúng
tác động mạnh mẽ đến đời sống kinh tế - xã hội của thế giới. Vai trò của các
công ty xuyên quốc gia thể hiện trên các mặt cơ bản sau :
2.1.Vai trò thúc đẩy thương mại thế giới
Ngày nay, với mạng lưới chi nhánh dày đặc, các công ty xuyên quốc
gia đã khai thác được mọi nguồn hàng tiềm tàng của thế giới và có thể nói
mọi sản phẩm của thế giới được chúng cuốn vào thị trường và cùng với việc


phân công chuyên môn hóa, các công ty xuyên quốc gia đã khai thác được thị
trường tại chỗ, giảm chi phí vậ chuyển, hạ giá thành. Cùng với những sản
phẩm hàng hóa thông thường mang tính truyền thống, thế giới hàng hóa được
bổ sung hàng loạt các mặt hàng mới dưới tác động của các công ty xuyên
quốc gia. Ngay cả tri thức con người được thể hiện trong những phát minh
sáng chế cũng được trao đổi dưới hình thức hàng hóa. Có thể nói các công ty
xuyên quốc gia thực hiện “ hàng hóa hóa” mọi sản phẩm, tạo ra sự đa dạng
trong trao đổi trên phạm vi quốc tế. Bằng cách đó chúng đã phá bỏ những
hàng rào biên giới quốc gia vốn đã từng kìm hãm quá trình quốc tế hóa lưu
thông. Điều đó còn góp phần thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển và nâng
cao trình độ xã hội hóa.
Tổng giá trị thương mại của các công ty xuyên quốc gia trên thế giới
ngày càng tăng. Ví dụ như năm 1995 tổng giá trị thương mại của 100 công ty
xuyên quốc gia lớn nhất thế giới đã đạt tới 2000 tỷ USD tăng 26% so với năm
1993. Điều này chứng tỏ các công ty xuyên quốc gia đã đóng vai trò rất to lớn
đối với thúc đẩy thương mại thế giới. Hay như ở Việt Nam, mức độ gia tăng
kim ngạch xuất khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thường

cao hơn nhiều so với các doanh nghiệp nội địa. Nếu như năm 1992, các doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài mới xuất khẩu được 52 triệu USD thì đến
năm 1995, con số này đã lên tới 352 triệu USD và năm 1997 là 1500 triệu
USD. Trong 10 tháng đầu năm 1998, mặc dù gặp nhiều khó khăn nhưng các
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã xuất khẩu được 1625 triệu USD,
chiếm gần 22% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước.
Tuy có một số đóng góp đáng kể đối với việc thúc đẩy thương mại thế
giới nhưng các công ty xuyên quốc gia cũng có những mặt trái không thể
tránh khỏi. Đó là do quá chạy theo mục đích lợi nhuận, các công ty xuyên
quốc gia đã làm biến dạng mối quan hệ hàng hóa tiền tệ, gây ra những hiện
tượng tiêu cực với quy mô thế giới. Cụ thể là dựa vào tiềm lực kinh tế to lớn,


với hàng trăm tỷ đôla trong tay, với những nguồn nguyên liệu, nhiên liệu dồi
dào đặt dưới sự kiểm soát của mình, các công ty xuyên quốc gia đã thực hiện
những hoạt động đầu cơ, nâng giá, trao đổi nội bộ giữa các chi nhánh mà khối
lượng trao đổi này thường rất lớn, có khi chiếm tới 60% tổng khối lượng hàng
hóa luân chuyển của các công ty xuyên quốc gia. Điều đó gây nên tình hình
mất ổn định trong lưu thông hàng hóa, cũng như nền tài chính – tiền tệ của thế
giới. Người ta có thể thấy là các cuộc khủng hoảng tài chính – tiền tệ, như
khủng hoảng thị trường chứng khoán, cũng như sự bùng nổ về nợ nần của thế
giới thứ ba… đều có nguyên nhân trực tiếp hoặc gián tiếp từ sự lũng đoạn của
các công ty xuyên quốc gia. Đặc biệt là trong điều kiện nền kinh tế mở cửa,
việc tự do đầu tư vào thị trường cổ phiếu, một mặt giúp cho các nước chủ nhà
có thêm nguồn vốn đầu tư lớn, song cũng có thể khiến cho các nước này bị
một số công ty xuyên quốc gia sử dụng các hành vi mờ ám để kiếm lời. Chính
vì vậy không chỉ những nước đang phát triển mà ngay cả các nước tư bản phát
triển đều hết sức quan tâm đến việc đưa ra những luật lệ ngăn cấm sự lộng
hành của các công ty xuyên quốc gia, trong đó lĩnh vực lưu thông hàng hóa và
tiền tệ được nhấn mạnh nhiều nhất.

Như vậy, vai trò của các công ty xuyên quốc gia đối với thương mại
thế giới có thể tóm tắt như sau:
- Tỷ trọng trao đổi của các công ty xuyên quốc gia ngày càng lớn
trong tổng giá trị thương mại thế giới. Sản phẩm trao đổi của công ty xuyên
quốc gia phần lớn là hàng chế tạo và hướng vào xuất khẩu do các công ty
xuyên quốc gia có tiềm lực to lớn về vốn, công nghệ, khoa học, nên chúng đã
tập trung vào lĩnh vực này là chính. Vì vậy đối với các nước đang phát triển
nên chú trọng thu hút các công ty xuyên quốc gia vào các ngành công nghiệp
chế tạo và hướng sản phẩm của họ vào xuất khẩu. Điều này vừa có lợi cho các
công ty xuyên quốc gia lại vừa có lợi đối với quá trình công nghiệp hóa ở các
nước đang phát triển.


- Cần tăng cường kiểm soát để hạn chế các công ty xuyên quốc gia sử
dụng các biện pháp cạnh tranh không lành mạnh như giá chuyển giao và giá
độc quyền.Thực tế cho thấy, phần lớn các nguyên liệu sử dụng trong các chi
nhánh của công ty xuyên quốc gia ở các nước đang phát triển là nhập khẩu từ
các chi nhánh của họ ở nước ngoài (trao đổi nội bộ trong công ty xuyên quốc
gia), vì thế khả năng các công ty xuyên quốc gia áp dụng giá chuyển giao là
khó tránh khỏi. Điều này đồng nghĩa với việc cần có luật chống độc quyền,
luật cạnh tranh, chống bán phá giá… đặc biệt là ở Việt Nam để chống lại
những tiêu cực mà các công ty xuyên quốc gia đem lại.
- Cần gắn các khuyến khích đầu tư và phát triển dịch vụ trong thu hút
các công ty xuyên quốc gia. Trong thực tế, phần lớn các hoạt động thương
mại đều gắn với các hoạt động đầu tư và cung cấp dịch vụ. Bởi vậy, nếu áp
dụng chính sách bảo hộ đầu tư và các dịch vụ sản xuất chất lượng thấp thì khó
khuyến khích được các công ty xuyên quốc gia đầu tư hướng vào xuất khẩu.
Trong trường hợp này, các công ty xuyên quốc gia thường hướng vào thị
trường nội địa, vì thế ít khai thác được vai trò thúc đẩy thương mại của các
công ty xuyên quốc gia.


2.2. Vai trò thúc đẩy đầu tư quốc tế

Trên thực tế, hầu hết các hoạt động đầu tư nước ngoài đều thực hiện
thông qua các công ty xuyên quốc gia. Với lợi thế của mình về vốn, kĩ thuật
hiện đại, quản lý tiên tiến và mạng lưới thị trường rộng lớn, các công ty xuyên
quốc gia luôn tích cực đầu tư ra nước ngoài nhằm tối đa hóa lợi nhuận trên
phạm vi toàn cầu. Năm 1999 các chi nhánh công ty xuyên quốc gia trên thế


giới đã đầu tư ra nước ngoài lượng FDI là 644 tỷ USD trên phạm vi rộng hơn
100 nước.
Các công ty xuyên quốc gia là lực lượng cơ bản trong việc thực hiện
đầu tư trực tiếp nước ngoài. Hiện nay chúng chiếm tới 90% lượng vốn FDI,
mặc dù tỷ lệ đầu tư trực tiếp trong tổng vốn đầu tư của từng nước chủ nhà
không cao (khoảng 5%). Song đây là nguồn vốn quan trọng và khó có thể
thay thế vì nó tạo ra những kết quả phát sinh khác, như chuyển giao công
nghệ, tạo thêm việc làm, phát triển dịch vụ và các nguồn thu phụ thêm (thuế
các loại, sản phẩm được phân chia theo hợp đồng, và các khoản thu khác).
Tuy nhiên cũng phải thấy tính chất hai mặt của đầu tư trực tiếp mà các công
ty xuyên quốc gia thực hiện. Một mặt, tăng thêm nguồn vốn cho nước chủ nhà
và các hệ quả lợi ích khác, song mặt khác nếu không quản lý giỏi thì sẽ để lại
nhiều hậu quả không mong muốn.
Các công ty xuyên quốc gia thúc đẩy nhanh tiến trình tự do hóa đầu tư
nước ngoài thông qua tham gia sâu rộng vào quá trình quốc tế hóa sản xuất.
Việc tháo bỏ những cản trở về đẩy mạnh tự do hóa đầu tư đã được nhiều quốc
gia hưởng ứng và ngày càng trở thành hiện thực. Chính nhờ những chính sách
tự do hóa FDI này nên trong hơn thập kỉ trở lại đây, luồng FDI trên thế giới đã
tăng lên nhanh chóng.
Các công ty xuyên quốc gia ngày càng đóng vai trò quan trọng đối với

việc thúc đẩy dòng vốn FDI vào các nước đang phát triển. Nếu như trước đây,
các nước đang phát triển không phải là nơi thuận lợi cho việc đầu tư trực tiếp
do nền kinh tế kém phát triển, công nghệ và phương thức quản lý lạc hậu, thì
giờ đây, các nước đang phát triển lại là thị trường đầy tiềm năng do giá
nguyên vật liệu, giá nhân công rẻ đồng thời lại có các chính sách ưu tiên mà
chính phủ các nước này dành cho các công ty xuyên quốc gia. Ngày nay có
thể thấy các công ty xuyên quốc gia lớn trên thế giới đều có chi nhánh của


mình ở các nước đang phát triển, đặc biệt là khu vực Đông Nam Á và Trung
Quốc. Các công ty xuyên quốc gia đã có đóng góp đáng kể đối với nền kinh tế
các nước đang phát triển trong thời gian qua.
Cơ cấu dòng vốn đầu tư nước ngoài đã thay đổi lớn do sự điều chỉnh
chiến lược kinh doanh của các công ty xuyên quốc gia. Vào những năm sau
chiến tranh thế giới thứ II, hầu hết các công ty xuyên quốc gia trên thế giới
hoạt động có tính chuyên doanh cao, tập trung chủ yếu trong lĩnh vực công
nghiệp khai thác và chế tạo. Do vậy, hình thức FDI chiếm ưu thế trong tổng
dòng lưu chuyển vốn quốc tế. Trong những thập kỉ gần đây, các công ty xuyên
quốc gia đã chuyển sang hoạt động ở phạm vi rất rộng cả về tính chất kinh
doanh và khu vực lãnh thổ. Thêm vào đó, cùng với sự phát triển mạnh của thị
trường tài chính quốc tế, hình thức đầu tư gián tiếp ngày càng gia tăng. Những
ngành chế tạo với công nghệ hiện đại, các ngành tài chính, ngân hàng, bảo
hiểm rất được chú ý phát triển.
Nhìn chung, xu hướng đầu tư có sự biến đổi như sau : đầu tư vào các
ngành dịch vụ tăng lên tương đối và tuyệt đối, đầu tư vào công nghiệp chế
biến tăng lên tuyệt đối và có chiều hướng giảm nhẹ về tương đối, còn đầu tư
vào nông nghiệp tăng tuyệt đối nhưng giảm đi tương đối. Việc biến đổi đó đã
dẫn đến làm biến đổi tỷ trọng và giá trị của các ngành trong nền kinh tế của
nước chủ nhà. Đồng thời sự tập trung cao vốn đầu tư vào các ngành công
nghiệp chế biến đã tác động dây chuyền đến các ngành khác theo mối quan hệ

liên ngành, làm tăng tỷ trọng của xuất khẩu và làm cơ cấu nhập khẩu thay đổi
theo.
Cùng với sự biến đổi cơ cấu ngành, cơ cấu lao động, cơ cấu vùng cũng
có sự thay đổi, trong đó có việc hình thành các trung tâm thương mại, công
nghiệp kĩ thuật cao, đồng thời đội ngũ lao động và cơ cấu nghề nghiệp cũng
biến đổi theo. Sự biến đổi cơ cấu kinh tế có tác động lớn đối với quá trình


tăng trưởng của các nước chủ nhà và nếu các nước này có chiến lược đúng
đắn sử dụng được lợi thế của mình sẽ có thể thúc đẩy sự phát triển cơ cấu theo
hướng tiến bộ mà cuộc cách mạng khoa học công nghệ tạo ra.
Ở Việt Nam, vốn đầu tư nước ngoài là một nguồn lực quan trọng để
tiến hành sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Trong 10 năm
thực hiện luật FDI, vốn đầu tư nước ngoài chiếm khoảng 28,5% tổng nguồn
vốn đầu tư toàn xã hội. Năm 2004 này, dự đoán luồng FDI đầu tư vào Việt
Nam vào khoảng 4 tỉ USD chiếm tỉ trọng cao trong tổng nguồn vốn đầu tư xã
hội. Chính vì vậy, Đảng và Nhà nước đã có những chính sách để thu hút
nguồn vốn này và luật đầu tư nước ngoài đang ngày càng được hoàn thiện.
Tuy nhiên, mức độ tác động tích cực của các công ty xuyên quốc gia đối với
thúc đẩy dòng FDI vào các nước đang phát triển phụ thuộc rất nhiều vào
chính sách và môi trường thu hút các công ty xuyên quốc gia của nước chủ
nhà. Đây là đặc điểm đáng lưu ý trong xây dựng chính sách thu hút FDI ở
nước ta.
2.3. Vai trò phát triển nguồn nhân lực và tạo việc làm
Việc đào tạo, bồi dưỡng kiến thức chuyên môn kĩ thuật nghiệp vụ hay
là tay nghề là vấn đề tất yếu đối với mọi doanh nghiệp, vì người lao động là
một yếu tố cần thiết của quá trình sản xuất. Thiếu yếu tố đó hoặc có nhưng
chất lượng kém thì hoặc là không có quá trình sản xuất diễn ra, hoặc là sản
phẩm sẽ có chất lượng kém và không có sức cạnh tranh. Do vậy các công ty
xuyên quốc gia luôn luôn quan tâm đến tay nghề của người lao động thông

qua các hình thức đào tạo dài hạn, ngắn hạn, chính quy hoặc tại chức.
Các công ty xuyên quốc gia tác động đến phát triển nguồn lực lao động
theo hai cách trực tiếp và gián tiếp. Cách trực tiếp là thông qua các dự án đầu
tư. Các công ty xuyên quốc gia đào tạo lực lượng lao động địa phương để


phục vụ cho nhu cầu hoạt động của dự án. Trong khi đó, cách gián tiếp là tạo
ra các cơ hội (thông qua các liên kết kinh tế, cung cấp dịch vụ…), động lực
(cạnh tranh) cho sự phát triển của lực lượng lao động theo đuổi mục tiêu thu
nhập cao. Ở các nước đang phát triển, các tác động này có vai trò rất lớn đối
với phát triển nguồn lực lao động, đặc biệt là đội ngũ lao động có trình độ
chuyên môn kĩ thuật và quản lý. Đây chính là tiền đề quan trọng để nâng cao
năng suất lao động ở các nước này.
Các công ty xuyên quốc gia thường có các hoạt động trợ giúp tài chính
cho các chương trình nghiên cứu và đào tạo nghề, quản lý. Đồng thời, các
công ty xuyên quốc gia còn cung cấp các thiết bị khoa học cho các trường đại
học, viện nghiên cứu. Chẳng hạn, các công ty xuyên quốc gia của Anh và Mỹ
thường trợ giúp đào tạo các nhà quản lý chuyên nghiệp trong các hoạt động
kinh doanh quốc tế. Các công ty xuyên quốc gia Nestle và Alcan đã xây dựng
các trung tâm đào tạo quản lý lớn như IMEDE và IMI ở châu Âu. Các trung
tâm đào tạo của các công ty xuyên quốc gia còn phát triển hình thức đào tạo
từ xa trên tất cả các châu lục. Ví dụ, trung tâm đào tạo quản lý Henley đã có
nhiều chương trình liên kết đào tạo với các trung tâm đào tạo quản lý ở châu
Âu và các nước khu vực châu Á - Thái Bình Dương.
Một vai trò khác cũng phải nói tới là các công ty xuyên quốc gia tạo ra
nhiều cơ hội việc làm cho lực lượng lao động phụ nữ ở các nước đang phát
triển. Việc xây dựng các xí nghiệp mới trong các ngành dệt may, chế biến
thực phẩm… đã thu hút được nhiều lao động phụ nữ ở các nước đang phát
triển như Malaixia, Thái Lan, Trung Quốc, Việt Nam… Hơn nữa, tiền lương
và điều kiện lao động ở các chi nhánh của các công ty xuyên quốc gia thường

cao hơn tiền lương và điều kiện làm việc ở các công ty nội địa.
Theo các số liệu cho thấy, các công ty xuyên quốc gia đã tạo được
khoảng 45 triệu lao động vào giữa những năm 70 và 10 năm sau đạt được gần


65 triệu lao động. Con số này tăng lên 70 triệu lao động vào thập kỉ 90, trong
đó khoảng 2/3 số việc làm được tạo ra ở các nước phát triển. Tuy số việc làm
do các công ty xuyên quốc gia tạo ra không ngừng được tăng lên song cũng
có những quan điểm cho rằng các công ty xuyên quốc gia làm gia tăng tình
trạng thất nghiệp do áp dụng kĩ thuật hiện đại và cạnh tranh độc quyền làm
nhiều doanh nghiệp nội địa bị phá sản.
Tuy các công ty xuyên quốc gia gia tăng hoạt động đào tạo tay nghề
cho người lao động nhưng trong việc đào tạo tay nghề cũng như phân bổ, bồi
dưỡng cán bộ quản lý thường tồn tại các xu hướng mâu thuẫn. Một mặt không
đào tạo và bồi dưỡng có nghĩa là không thể tồn tại, song mặt khác đào tạo, bồi
dưỡng cũng có nghĩa là góp phần tạo ra đối thủ cạnh tranh cho chính mình.
Do vậy, các công ty xuyên quốc gia luôn luôn có sự lựa chọn phương án thích
hợp. Thông thường, đào tạo chủ yếu là để giải quyết công việc ngày hôm nay,
còn việc đào tạo dài hạn phải hết sức cân nhắc và có những biện pháp bảo vệ
để tránh thất thoát. Đối với cán bộ quản lý, việc lựa chọn cũng được thực hiện
nghiêm ngặt, đặc biệt là những cán bộ chủ chốt thường không để người có
quốc tịch của nước chủ nhà đảm nhận và việc đào tạo, bồi dưỡng bao giờ
cũng gắn liền với việc quản lý, tránh tình trạng chuyển sang các công ty của
nước chủ nhà.
Nhìn chung, các công ty xuyên quốc gia thường tạo việc làm ở các
ngành công nghiệp và dịch vụ hơn là trong ngành nông nghiệp và các ngành
khác. Tỷ lệ lao động trong các ngành công nghiệp ước tính chiếm khoảng 4/5
tổng số lao động được tạo ra bởi các công ty xuyên quốc gia. Điều này phản
ánh đặc điểm của công ty xuyên quốc gia chủ yếu đầu tư trong các lĩnh vực
công nghiệp và dịch vụ. Mặt khác, nhiều việc làm còn được tạo ra một cách

gián tiếp thông qua các liên kết kinh tế, cung cấp dịch vụ của các công ty nội
địa. Theo ước tính, số lượng việc làm này chiếm khoảng một nửa tổng số việc


×