Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

Tiền tệ quốc tế ĐẶC ĐIỂM CỦA HỆ THỐNG BRETTON WOODS.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (79.2 KB, 14 trang )

I. Khái niệm hệ thống tiền tệ quốc tế:
Hệ thống tiền tệ quốc tế là tập hợp các nguyên tắc, thể lệ và tổ chức
nhằm tác động tới các quan hệ tài chính - tiền tệ giữa các quốc gia trên thế
giới.
Sự hình thành hệ thống tiền tệ Bretton Woods
Ngay trước khi chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, các nước đồng minh
đã bắt đầu việc xây dựng một hệ thống tiền tệ quốc tế nhằm thúc đẩy các quan
hệ tiền tệ và thương mại quốc tế. Vào năm 1944, một hội nghị quốc tế được
nhóm họp tại Bretton Woods (Mĩ) với sự tham gia của đại diện của 44 quốc
gia đã đưa ra một loạt các biện pháp liên quan đến lĩnh vực tài chính tiền tệ,
dẫn đến sự hình thành hệ thống tiền tệ quốc tế mới với tên gọi là hệ thống
Bretton Woods.
Hệ thống tiền tệ quốc tế mới được xây dựng chủ yếu trên cơ sở kế hoạch
do đoàn đại biểu Mĩ đưa ra (một kế hoạch khác do ANH đưa ra đã không
được chấp nhận), theo đó hệ thống phải đáp ứng được một số yêu cầu cơ bản
sau đây):
- Các tổ chức quốc tế - hợp tác quốc tế trong lĩnh vực tài chính tiền tệ đòi
hỏi phải thành lập một tổ chức quốc tế với những chức năng và quyền hạn
nhất định.
- Chế độ tỷ giá hối đoái - tỷ giá hối đoái phải được xác định cố định về
mặt ngắn hạn, nhưng có thể được điều chỉnh khi xuất hiện tình trạng "mất cân
đối cơ bản".
- Dự trữ quốc tế - để giúp chế độ tỷ giá cố định điều chỉnh hoạt động một
cách có hiệu quả, các quốc gia cần tới một lượng dự trữ quốc tế, vì vậy phải
có sự gia tăng vàng và các nguồn dự trữ bằng tiền.
- Khả năng chuyển đổi của đồng tiền- vì lợi ích kinh tế chung mà tất cả
các quốc gia phải tham gia vào mọi hệ thống thương mại đa phương tự do,
trong đó có đồng tiền chuyển đổi tự do được sử dụng.
A. ĐẶC ĐIỂM CỦA HỆ THỐNG BRETTON WOODS.



Những đặc điểm quan trọng của hệ thống Bretton Woods bao gồm:
- Hệ thống chế độ tỷ giá cố định điều chỉnh hạn chế.
- Hình thành 2 tổ chức quốc tế mới là Quỹ Tiền Tệ Quốc tế (International
Moneytary fund - IMF) và ngân hàng tái thiết và phát triển quốc tế
(international bank for reccortuction and development - IBRRD).
Hệ thống chế độ tỷ giá cố định điều chỉnh hạn chế:
Các quốc gia hy vọng là chế độ tỷ giá mới này một mặt đưa lại sự ổn
định về ngắn hạn (tương tự như chế độ bản vị vàng), nhưng mặt khác cho
phép khả năng điều chỉnh tỷ giá khi cán cân thanh toán của đất nước lâm vào
tình trạng mất cân đối cơ bản (tương tự như sự điều chỉnh tự động của tỷ giá
dưới chế độ giá linh hoạt nhằm duy trì cán cân đối ngoại).
Chế độ tỷ giá trong khuôn khổ hệ thống Bretton Woods được đưa ra trên
cơ sở áp dụng những nguyên tắc của chế độ bản vị vàng hối đoái. Đồng đôla
được coi là đồng tiền chủ chốt. Mỹ có nghĩa vụ đổi đôla ra vàng với mức giá
$35 = 1ounce (1 ounce = 31,1035 gam vàng nguyên chất) cho các ngân hàng
trung ương một cách không hạn chế. ý tưởng cố định tỷ giá USD vào giá vàng
là để cho BWS có được sự tin cậy tuyệt đối. Vào năm 1945, chính phủ Mỹ
nắm giữ gần 70% lượng vàng dự trữ của thế giới. Do đó, thật là có lý do để
các NHTW nước ngoài tin tưởng và sẵn sàng nắm giữ USD làm dự trữ của
mình, bởi vì chính phủ Mỹ cam kết duy trì chuyển đổi USD ra vàng không
hạn chế tại mức giá cố định là $35/ounce; do đó các NHTW biết rằng mỗi
USD dự trữ đều được đảm bảo đổi ra vàng tại mức giá đã cho.
Theo quy định của BWS, các quốc gia khác phải gắn đồng tiền của mình
với đồng đôla, và từ đó gián tiếp gắn với vàng và chỉ được phép thay đổi các
mức ngang giá chính thức đó khi có sự đồng ý của quỹ tiền tệ quốc tế. Để duy
trì tỷ giá trong giới hạn dao động +-1% về hai phía mức ngang giá chính thức,
các quốc gia đó phải gắn đồng tiền của mình để mua đôla khi tỷ giá vượt quá
1% so với ngang giá, và bán đôla lấy đồng tiền dân tộc để ngăn tỷ giá giảm
xuống dưới 1% ngang giá. Tuy một số nước vẫn gắn đồng tiền của mình với



đồng Bảng nhưng thực tế đồng bảng lại được gắn với đồng đôla. Do vị trí
thống trị của đồng đôla nên hệ thống còn được gọi là chế độ bản vị vàng.
Tuy các mức ngang giá chính thức giữa các đồng tiền với đồng đôla, và
từ đó với vàng, phải được duy trì cố định. Nhưng thoả thuận BWS cũng quy
định cho phép thay đổi các mức ngang giá đó (bằng cách phá giá, hoặc nâng
giá đồng tiền) trong và chỉ trong trường hợp thanh toán quốc tế bị mất cân đối
nghiêm trọng. Chính vì vậy mà hệ thống BWS là một chế độ tỷ giá cố định
nhưng các mức ngang giá chính thức có thể được điều chỉnh lại.
B. QUỸ TIỀN TỆ QUỐC TẾ (INTERNAITONAL MONETARY FUND - IMF)
VÀ HỆ THỐNG TIỀN TỆ QUỐC TẾ.

IMF được hình thành cùng với mục tiêu chính là giám sát và thúc đẩy
hợp tác quốc tế trong lĩnh vực tiền tệ và thúc đẩy tăng cường thương mại thế
giới. Những nhiệm vụ cơ bản của IMFtrong việc thúc đẩy thương mại là bảo
đảm cho hệ thống chế độ tỷ giá cố định hoạt động một cách trơn tru và hiệu
quả. Hay nói cách khác là làm giảm tối thiểu nhu cầu phá giá đồng tiền của
các quốc gia thành viên bằng cách cung cấp cho mỗi quốc gia thành viên một
hạn mức tín dụng thường xuyên để tài trợ cho thâm hụt tạm thời trong cán
cân thanh toán.
Để nhằm cung cấp nguồn dự trữ thích hợp với chế độ tỷ giá điều chỉnh
hạn chế.IMF đã xây dựng một hệ thống các hạn mức cho vay và hạn mức
đóng góp đối với các thành viên.
Mỗi nước thành viên được hưởng một hạn mức cho vay nhất định (hạn
mức này được xây dựng trên một công thức tính toán phức tạp thể hiện tầm
quan trọng tương đối của các quốc gia trong thương mại quốc tế. Ngược lại
mỗi thành viên sẽ phải có trách nhiệm thực hiện phần đóng góp cho vốn hoạt
động của quỹ đúng bằng hạn mức cho vay trên.
1. Khả năng cho vay của quỹ tiền tệ quốc tế.



Khả năng cho vay của quỹ tiền tệ quốc tế sẵn sàng cho các nước thành
viên vay ngoại tệ để vượt qua những thời kỳ mà tài khoản vãng lai của họ bị
thâm hụt. Song một sự thắt chặt trong chính sách tiền tệ hay tài khoá sẽ có tác
động tiêu cực đối với mức công ăn việc làm trong nước. Lượng vàng và tiền
do các nước thành viên đóng góp đã cung cấp cho Quỹ tiền tệ quốc tế những
nguồn vốn để sử dụng trong những hoạt động cho vay này.
Hoạt động cho vay của Quỹ tiền tệ quốc tế diễn ra như thế nào? Vào lúc
thamgia Quỹ tiền tệ quốc tế, mỗi nước thành viên mới được cấp một hạn
ngạch (quota), hạn ngạch này xác định cả sự đóng góp của nước đó vào quỹ
dự trữ lẫn quyền của nước đó được rút tiền từ nguồn của Quỹ tiền tệ quốc tế.
Mỗi nước thành viên đóng góp cho quỹ một số lượng vàng có giá trị bằng 1/4
hạn ngạch của nước đó. 3/4 còn lại của hạn ngạch là đóng góp dưới hình thức
đồng tiền quốc gia của chính nước đó. Một nước thành viên có quyền sử dụng
đồng tiền của mình để tạm thời mua của quỹ vàng hoặc ngoại tệ có giá trị
ngang với khoản đóng góp bằng vàng của mình. Chỉ có thể vay thêm vàng và
ngoại tệ (quá mức bị hạn chế) của quỹ dưới sự giám sát ngày càng chặt chẽ
của quỹ đối với các chính sách kinh tế vĩ mô của nước đi vay. Tính chất có
điều kiện của quỹ tiền tệ quốc tế là tên gọi của hoạt động giám sát này đối với
các chính sách của những nước thành viên vay nhiều từ các nguồn của quỹ.
Những tỷ giá có thể điều chỉnh: Mặc dù tỷ giá hối đoái của mỗi nước
được cố định, nó vẫn có thể bị thay đổi - phá giá hoặc nâng giá so với đôla nếu IMF đồng ý cho rằng cán cân thanh toán của nước đó ở trong tình trạng
"mất cân đối trầm trọng". Thuật ngữ "mất cân đối trầm trọng" không được
định nghĩa trong các điều khoản của hiệp định, nhưng nó có ý nghĩa tới những
nước thường xuyên phải chịu đựng những thay đổi quốc tế bất lợi trong nhu
cầu đối với các hàng hóa của họ. Nếu không phá giá đồng tiền, một nước như
vậy sẽ phải chịu tỷ lệ thất nghiệp cao hơn và sự thâm hụt tài khoản vãng lai
lớn hơn cho đến khi giá cả trong nước hạ xuống đủ để khôi phục lại cân đối
bên trong và cân đối bên ngoài. Mặt khác, sự phá giá đồng tiền có thể đồng



thời cải thiện tình hình tuyển dụng nhân công và tài khoản vãng lai, do vậy
tránh được một quá trình điều chỉnh kéo dài và đau đớn có thể làm cạn kiện
dự trữ quốc tế trong bất cứ tình huống nào. Nhớ lại kinh nghiệm của các nước
Anh với đồng tiền được đánh giá quá cao sau năm 1925, những nước sáng
lập IMF đã tạo nên tính linh hoạt (hy vọng là không thường xuyên) của sự
thay đổi tỷ giá hối đoái. Tuy nhiên, không có tính linh hoạt này đối với "đồng
tiền N" của hệ thống Bretton Woods,tức là đối với đồng đôla Mỹ.
II. Hoạt động của hệ thống Bretton Woods.
Thời gian tồn tại của hệ thống BW có thể chia thành hai giai đoạn: giai
đoạn "đói Đôla" (1940- 1958) và giai đoạn "Bội thực Đôla" (1959 - 1971).
Giai đoạn "đói Đôla" (1940 - 1958):
Trong chiến tranh thế giới II, Mỹ đã thu được nguồn vàng lớn từ bên
ngoài bằng việc buôn bán vũ khi cho các nước tham chiến. Sau chiến tranh,
Mỹ đã có 1 nguồn dự trữ vàng lên tới 26 tỉ đôla chiếm 60% dự trữ vàng trên
toàn thế giới. Do đó, đồng đôla của Mỹ được coi là tốt như vàng.
Trong khi đó, do bị chiến tranh tàn phá nặng nền nên các nước Tây Âu
có một nhu cầu tín dụng lớn để nhập khẩu những gì cần thiết cho công cuộc
tái thiết. Theo kế hoạch Marshall, vẫn được biết đến là kế hoạch tái thiết Châu
Âu, từ 1948 đến 1954, $17 tỉ Mỹ đã được đưa vào 16 nước Tây Âu.
Hơn nữa, trong giai đoạn này, những bất đồng lớn trong phe đồng minh
chống phát xít bắt đầu xuất hiện. Mặc dù Liên xô có tham gia vào hội nghị
Bretton Woods năm 1944 nhưng Liên Xô lại từ chối tham gia vào quỹ tiền tệ
thế giới. Đặc biệt trong không khí căng thẳng của chiến tranh lạnh, Mỹ đã
phải chi trả một khoản lớn cho quân sự, do đó vào cuối những năm 50 đầu
những năm 60 nền kinh tế Mỹ bắt đầu xuất hiện một số dấu hiệu của khủng
hoảng.
Giai đoạn "bội thực đôla" (1959 - 1971):
Trong giai đoạn này, nền kinh tế ở các nước Tây Âu dần đi vào ổn định
và phát triển. Nguồn dự trữ đôla ở ngân hàng các nước tăng lên nhanh với tốc



độ không mong muốn, các ngân hàng đó bắt đầu tìm cách chuyển đổi đôla lấy
vàng.
Thêm vào đó, thị trường vàng kép xuất hiện mà khoảng cách giữa giá
vàng trên thị trường tự do với giá vàng của ngân hàng nhà nước là rất lớn,
mức giá vàng trên thị trường tự do là $35/ounce, còn mức giá trên thị trường
tự do biến động theo quy luật cung - cầu. Điều này dẫn đến tình trạng những
nhà đầu cơ mua vàng ở ngân hàng trung ương và bán vàng trên thị trường tự
do.
Lúc này, nền kinh tế của Tây Âu và Nhật Bản phát triển mạnh mẽ. Do
đó, giá trị đồng tiền của các nước này cũng tăng. Lòng tin vào đồng đôla cũng
giảm sút, nguồn vốn khổng lồ bằng đồng đôla dần được chuyển sang các đồng
tiền mạnh hơn.
Đến năm 1971, Mỹ phải tuyên bố ngừng đổi đồng đôla sang vàng và phá
giá lần thứ nhất đối với đồng đôla. Bằng việc ký thoả thuận Smith mà theo đó
giá vàng chính thức được tăng từ 35 đôla lên $38/ounce, và đồng tiền của một
số nước như Mác Đức, Yên Nhật, Franc Thụy Sỹ được nâng giá. Mức dao
động xung quanh ngang giá được nâng lên từ 1% lên 2,25%. Do việc chuyển
đổi đôla thành vàng không được phục hồi cho nên trong thời gian đó gọi là
"chế độ bản vị đôla" tuy nhiên hiệp ước Smith, chỉ tồn tại được 15 tháng.
Vào đầu năm 1973 do khủng hoảng của đồng $ nên các quốc gia công
nghiệp chủ chốt đã bãi bỏ các mức ngang giá chính thức với đồng $ và thực
hiện thả nổi độc lập (hoặc tập thể) đồng tiền của mình, sau khi Mỹ phá giá
đồng $ lần thứ 2. Điều này đánh dấu sự thất bại hoàn toàn trong việc cải tổ hệ
thống Betton Woods và sự sụp đổ của hệ thống bản vị $ này.
III. Các cơ chế liên quan tới hệ thống tiền tệ Bretton Woods.
Tại hội nghị Bretton Woods, bên cạnh việc đưa ra một loạt các biện pháp
liên quan tới lĩnh vực tài chính tiền tệ, dẫn đến sự hình thành hệ thống tiền tệ
quốc tế mới - hệ thống Bretton Woods, hai tổ chức tài chính quốc tế được



thành lập, đó là Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) và Ngân hàng tái thiết và phát triển
quốc tế hay Ngân hàng thế giới (WB).
A. Ngân hàng thế giới.
1. Giới thiệu.
Mục tiêu chính của ngân hàng là trợ giúp việc tái thiết và phát triển lãnh
thổ của các thành viên bằng sự đầu tư về tư bản, thúc đẩy các khoản đầu tư cá
nhân từ nước ngoài, bổ sung thêm vào các khoản đầu tư tư nhân bằng việc
cung cấp tài chính cho những mục đích hữu ích từ nguồn từ bản của tổ chức.
Ngân hàng chỉ cho các thành viên vay nợ đối với những kế hoạch cụ thể.
Trước khi một nước nhận được khoản vay, những chuyên gia và các nhà tư
vấn đại diện cho ngân hàng phải quyết định về khả năng của bên vay. Hầu hết
những điều kiện được đưa ra nhằm đảm bảo khoản vay sẽ được sử dụng hợp
lý và sẽ được hoàn trả đúng thời hạn. Ngân hàng yêu cầu rằng bên vay không
được vay thêm từ nguồn khác và kế hoạch đưa ra phải khả thi va có cơ sở về
mặt kinh tế. Để đảm bảo việc hoàn trả, chính phủ thành viên phải bảo hiểm
cho khoản vay trong lãnh thổ của mình. Sau khi đã đồng ý cho vay, báo cáo
hàng quý của của bên vay và của những đại diện của ngân hàng về việc sử
dụng khoản vay và tiền trình của kế hoạch sẽ được gửi tới ngân hàng.
Trong thời kì đầu, hầu hết các khoản dành cho các nước Châu Âu để tái
thiết nền kinh tế đã bị phá hủy nặng nề sau Thế chiến II. Từ cuối những năm
60, hầu hết các khoản vay là của các nước đang phát triển ở Châu Phi, Châu á
và Châu Mỹ Latin. Trong những năm 80 ngân hàng quan tâm đặc biệt tới
những kế hoạch mang lại lợi ích trực tiếp cho những người nghèo nhất ở các
nước phát triển bằng cách giúp họ tăng năng suất và tiếp cận được với những
nhu cầu thiết yếu như nước sạch và các phương tiện xử lý rác thải, chăm sóc
sức khoẻ, kế hoạch hoá gia đình, đình dưỡng, giáo dục và nhà cửa. Ngoài ra
còn có những hoạt động về phát triển nông nghiệp và nông thôn, những xí
nghiệp quy mô nhỏ, phát triển đô thị, năng lượng và các vấn đề sinh thái.

2. Nguồn tư bản.


Ngân hàng có các cổ phần tư bản, giá trị của mỗi cổ phần là khoảng
$120.000. Số lượng tối thiểu các cổ phần mà các nước thành viên phải mua
phụ thuộc vào sức mạnh kinh tế của mỗi nước. Không phải tất cả khoản tiền
nhận được sau khi bán cổ phần đều có sẵn trong ngân hàng, chỉ khoảng 8,5%
số tiền góp của mỗi nước thành viên thực sự nằm trong ngân hàng. Phần còn
lại được đặt cọc phòng trường hợp ngân hàng cần tiền để trả những khoản nợ
riêng, và trường hợp này chưa bao giờ xảy ra. Quỹ hoạt động của ngân hàng
được bổ sung từ các hoạt động thu lợi nhuận trên thị trường tư bản thế giới, từ
khoản hoàn trả của các khoản vay cũ và tư lợi nhuận của các hoạt động riêng.
Từ khi ra đời vào năm 1947, hàng năm ngân hàng luôn thu được lợi nhuận.
Quản lý ngân hàng là một hội đồng quản trị, mỗi uỷ viên được cử ra từ
mỗi nước thành viên. Hội đồng họp ít nhất một lần trong một năm. Các uỷ
viên uỷ quyền cho 24 giám đốc quản trị, những người này tiếp xúc thường
xuyên tại trụ sở của ngân hàng ở Washington. Năm người trong số đó có được
cử ra từ 5 nước nắm lượng cổ phần lớn nhất trong ngân hàng. Những người
còn lại được các uỷ viên bầu từ các nước thành viên khác và có nhiệm kỳ 2
năm. Giám đốc (chủ tịch) của Ngân hàng Thế giới được bầu với nhiệm kì 5
năm, và không đồng thời là uỷ viên hay giám đốc quản trị. Hiện nay ngân
hàng có 183 thành viên.
3. Các tổ chức liên quan.
Ngân hàng thế giới có hai tổ chức liên quan: Hiệp hội tài chính quốc tế
(IFC) thành lập năm 1956 và Hiệp hội Phát triển quốc tế (IDA), thành lập
năm 1960. Ba thể chế này riêng biệt về luật pháp và tài chính, nhưng Ngân
hàng thế giới và IDA có chung ban quản trị, IFC sử dụng các dịch vụ hành
chính của ngân hàng.
B. Quỹ tiền tệ Quốc tế.
1. Giới thiệu.

Mục đích của Quỹ tiền tệ quốc tế là thúc đẩy hợp tác tiền tệ quốc tế
nhằm mở rộng thương mại quốc tế. IMF hoạt động như một tổ chức chuyên


biệt của Liên Hợp Quốc và là diễn đàn cho các vấn đề về thanh toán quốc tế,
trong đó các nước thành viên được khuyến khích duy trì mô hình tỷ giá hối
đoái phù hợp và hạn chế các chính sách giới hạn trao đổi, IMF bắt đầu hoạt
động từ năm 1947 và cho tới nay, tổ chức đã có 183 nước là thành viên
(2001).
2. Hoạt động
Các thành viên báo cáo cho IMF về những chính sách và kinh tế liên
quan tới giá trị trao đổi của đồng nội tệ để các thành viên khác có thể đưa ra
những quyết sách phù hợp. Khi tham gia vào tổ chức, mỗi thành viên có một
quota về quyền rút vốn đặc biệt SDR, đây là đơn vị tài khoản của quỹ có giá
trị dựa trên giá trị trung bình của năm đồng tiền mạnh nhất (Vào 10/2001,
SDR có giá trị khoảng 1,29 USD) Quota của mỗi thành viên tương ứng với vị
trí hiện tại của nước đó trong nền kinh tế thế giới. Hoa Kỳcó quota lớn nhất
37,1 tỷ SDR (2001). Lượng quota quyết định trọng lượng của lá phiếu của
mỗi nước trong các cuộc bàn luận, lượng ngoại tệ nước đó có thể rút ra khỏi
quỹ và lượng SDR nước đó nhận được theo quý.
Các thành viên gặp khó khăn trong cán cân thanh toán có thể đăng ký về
nhu cầu ngoại tệ để sử dụng trong một khoảng thời gian nhất định (tối đa là
5năm) để điều chỉnh cán cân thanh toán. Bên vay sẽ trả lãi suất cho khoản dự
trữ đã dùng, phần lớn khoản tiền đó thuộc về nước thành viên có đồng tiền
được dùng đến, số tiền còn lại sẽ được dành cho chi phí hoạt động của quỹ.
3. Tổ chức.
Ban quản trị bao gồm các quan chức tài chính cấp cao của mỗi nước
thành viên. Hội đồng quản trị gồm 24 thành viên sẽ chịu trách nhiệm về các
hoạt động hàng ngày của Quỹ (các thành viên của Hội đồng này là đại diện
của các nước lớn hoặc các nhóm nước nhỏ). Chủ tịch của quỹ cũng là chủ tịch

của Hội đồng quản trị. Trụ sở của IMF đặt tại Washington.
Đánh giá hoạt động của hệ thống Bretton Woods.


Tháng 12/1971, Hoa Kỳ tuyên bố bãi bỏ hệ thống Bretton Woods, đồng
nghĩa với việc bãi bỏ chế độ tỷ giá cố định giữa các đồng đôla Mỹ (gián tiếp
gắn với vàng).
Tuy có nhiều khiếm khuyết nhưng hệ thống đã thành công trong việc
thúc đẩy hoạt động kinh tế thế giới đặc biệt trong giai đoạn từ sau Thế chiến
II đến giữa những năm 60. Quãng thời gian có lại tuy có những khủng hoảng
tài chính lặp đi lặp lại nhưng cũng được đánh dấu bởi sự tăng trưởng chưa
từng thấy trong sản lượng, thu nhập và thương mại thế giới. Các hoạt động
hợp tác kinh tế đa phương cũng được thúc đẩy mạnh mẽ.
Nguyên nhân trực tiếp của sự sụp đổ của hệ thống là việc Mỹ phá giá
đồng đôla. Tuy nhiên nguyên nhân cơ bản là ở chỗ hệ thống chứa đựng trong
nó mầm mống của sự đổ vỡ. Sự tồn tại của hệ thống Bretton Woods phụ thuộc
vào sự tin tưởng rằng nội dung vàng của đồng đôla phải được duy trì. Tuy
nhiên, trước nguy cơ dự trữ vàng có thể biến mất để đáp ứng nhu cầu của
ngân hàng trung ương các nướcvà bù đắp thiếu hụt trong cán cân thanh toán
(duy trì các mức ngang giá với đồng đôla), Mỹ đã chấm dứt cam kết đổi đôla
ra vàng, và sự sụp đổ của toàn bộ hệ thống là tất yếu.
Sau khủng hoảng của đồng đôla năm 1973, thế giới chuyển sang áp dụng
chế độ tỷ giá thả nổi có quản lý. Các quốc gia thực hiện các biện pháp can
thiệp trên thị trường hối đoái để loại trừ những dao động tỷ giá ngắn hạn
nhưng làm ảnh hưởng đến các xu hướng dài hạn của chúng. Vào năm 1978 tại
hội nghị uỷ ban lâm thời của IMF, chế độ thả nổi tỷ giá có quản lý được chính
thức thừa nhận. Các nước được quyền lựa chọn chế độ tỷ giá tùy ý với điều
kiện không gây tác động tiêu cực tới các bạn hàng buôn bán và nền kinh tế thế
giới. Năm 1978, tại Jamaica, dự thảo về một hệ thống tiền tệ quốc tế mới
cùng với hàng loạt điểm bổ sung khác được thông qua chính thức, đánh dấu

sự ra đời của hệ thống tiền tệ Jamaica.
IV. Nguyên nhân sụp đổ hệ thống tiền tệ Bretton Woods.


Không thể phủ nhận rằng hệ thống BWS đã thành công phần nào trong
việc thúc đẩy hoạt động kinh tế thế giới đặc biệt trong giai đoạn từ khi hệ
thống ra đời đến giữa những năm 60. Song BWS tồn tại nhiều khuyết điểm
đưa đến sự sụp đổ của nó. Có hai nguyên nhân chính giải thích cho sự sụp đổ
của BWS là vấn đề thanh khoản và sự thiếu vắng một cơ chế điều chỉnh phù
hợp.
1. Vấn đề thanh khoản.
Với cơ chế hoạt động của mình BWS, chỉ hoạt động hiệu quả khi các
ngân hàng trung ương còn niềm tin để nắm giữ USD làm dự trữ. Và lòng tin
vào USD chỉ tồn tại chừng nào các NHTW Mỹ còn tiếp tục đổi USD ra vàng
với giá $35/ounce.
Khi thương mại quốc tế phát triển sẽ làm tăng dự trữ ngoại hối quốc tế,
chủ yếu là USD. Dự trữ đô la của các nước (ngoài Mỹ) tăng dẫn đến sự thâm
hụt trong cán cân thanh toán của Mỹ ban đầu sự thâm hụt này tỏ ra cần thiết
nhưng sau đó nó trở nên trầm trọng. Tình trạng dự trữ đô la của các ngân hàng
nước ngoài tăng lên nhanh chóng với tốc độ không mong muốn dẫn đến trữ
lượng đô la của các nước này nhiều hơn trữ lượng vàng Mỹ có, khi chính phủ
Mỹ bộc lộ hết khả năng thanh toán (chuyển đổi USD ra vàng tại mức giá
$35/ounce như cam kết), USD được dự tính là sẽ mất giá so với vàng. Do đó
các ngân hàng trung ương nước ngoài ồ ạt chuyển đổi USD dự trữ của mình
ra vàng. Do lượng vàng không đủ nên cuối cùng chính phủ Mỹ buộc phải từ
chối việc chuyển đổi USD ra vàng, nghĩa là chấm dứt duy trì tỉ giá cố định
với USD, làm cho BWS sụp đổ. Như vậy do bị mất lòng khi lượng vàng của
Mỹ không đủ để thanh khoản các khoản nợ, nên BWS lâmvào tình trạng tồi tệ
và lối thoát cuối cùng là sự sụp đổ của nó.
2. Sự thiếu vắng một cơ chế điều chỉnh:

Theo quy định của BWS, trong trường hợp cán cân thanh toán của các
nước thành viên bị mất cân đối cơ bản thì nước này có thể phá giá, nâng giá
đồng tiền của mình hay tiến hành các chính sách kinh tế khác nhằm duy trì


trạng thái cân bằng của cán cân thanh toán. Tuy nhiên trong thực tế, các quốc
gia có cán cân thanh toán mất cân đối tỏ ra rất miễn cưỡng khi thực hiện điều
này. Hơn nữa, khái niệm "mất cân đối cơ bản" đã không được định nghĩa
chính xác, mà chỉ nêu ra một cách chung chung, do đó không có tác dụng
trong việc buộc các quốc gia phải điều chỉnh tỷ giá chính thức khi cán cân
thanh toán bị mất cân đối.
Về phía Mỹ: Chính phủ Mỹ không thể phá giá USD đối với vàng được,
bởi vì nếu phá giá sẽ làm xói mòn niềm tin vào toàn bộ hệ thống BWS. Hơn
nữa nếu Mỹ phá giá đồng đôla so với vàng thì cũng không cải thiện được sức
cạnh tranh thương mại quốc tế, nếu các nước bạn vẫn duy trì tỷ giá cố định
không đổi so với USD. Như vậy để duy trì và kiểm soát được thâm hụt cán
cân thanh toán, buộc chính phủ Mỹ phải áp dụng các biện pháp thiểu phát nền
kinh tế. Trong thực tế chính phủ Mỹ bị miễn cưỡng đến tột độ khi phải áp
dụng biện pháp này. Ngoài ra, trong những năm giữa 1960, Mỹ đã chỉ một
khoản khổng lồ cho chiến tranh Việt Nam và một loạt các công trình phúc lợi
xã hội. Các khoản này được chi thông qua tăng cung ứng tiền chứ không
thông qua tăng nguồn thu từ thuế. Kết quả của chính sách này là sự lạm phát
nền kinh tế cho thâm hụt cán cân thanh toán ngày càng trở nên nghiêm trọng
hơn.
Đối với các nước có cán cân thanh toán thâm hụt (ngoài Mỹ): Hành động
phá giá là phương thuốc cuối cùng để cải thiện tình trạng thâm hụt cán cân
thanh toán. Nhưng thực tế chỉ ra rằng, các nước có cán cân thanh toán lại tỏ ra
rất miễn cưỡng khi phải phá giá đồng tiền của mình, bởi vì phá giá thường bị
xem là biểu hiện yếu kém của chính phủ và của cả một quốc gia. Hơn nữa các
quốc gia bị thâm hụt cán cân thanh toán cũng không muốn chấp nhận chính

sách thiểu phát nền kinh tế, bởi vì các chính phủ thường đã cam kết duy trì
công ăn việc làm đầy đủ cho nhân dân.
Đối với các nước có thặng dư cán cân thanh toán: các nước có thặng dư
cán cân thanh toán như: Đức, Nhật, Thụy Sĩ... cũng tỏ ra miễn cưỡng khi phải


chấp nhận phá giá đồng tiền. Lí do là vì khi đồng tiền tiếp tục được định giá
thấp sẽ cho phép duy trì được tốc độ tăng trưởng cao trong xuất khẩu và
hướng và hướng nền kinh tế vào sản xuất hàng xuất khẩu. Họ lo ngại nếu tăng
giá đồng tiền trong nước sẽ ảnh hưởng đến nền kinh tế.
Như vậy, cách hiệu quả để duy trì hoạt động của BWS bị từ chối. Các
quốc gia thâm hụt cũng như các quốc gia thặng dư cán cân thanh toán đều
không sẵn sàng điều chỉnh tỉ giá hay áp dụng các chính sách điều chỉnh nền
kinh tế của mình. BWS cuối cùng sụp đổ như một hệ quả tất yếu.




×