Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

KTCT lý luận của lênin về chủ nghĩa tư bản nhà nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và sự vân dụng lý luận đó ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (110.29 KB, 25 trang )

A. phần mở đầu
Sau nhiều năm chuyển đổi cơ chế kinh tế, hiện nay, công cuộc đổi
mới ở nước ta đang chuyển sang một giai đoạn mới - giai đoạn hình thành
cơ cấu và thể chế kinh tế thị trường định hướng xh chủ nghĩa (XHCN). Kết
quả quan trọng của đường lối đổi mới chuyển sang cơ chế thị trường và mở
cửa, hội nhập này là sự hình thành và phát triển của thành phần kinh tế tư
bản Nhà nước (TBNN) theo con đường lý luận Lênin đã chỉ ra.
Các doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế tư bản Nhà nước mà ta
thấy được hiện nay dưới các hình thức: Các Công ty liên doanh, các doanh
nghiệp 100% vốn nước ngoài…. Các khu công nghiệp, khu chế xuất. Đây
là các doanh nghiệp từ sự hợp tác của kinh tế Nhà nước với các nhà đầu tư
nước ngoài. Trên một hướng khác, lại có các hình thức kinh tế (TBNN)
cũng ra đời từ sự kết hợp giữa kinh tế Nhà nước với các nhà tư bản tư nhân
trong nước, với các tư nhân và hộ sản xuất hàng hoá và dịch vụ trong các
hình thức hợp tac. Dù gọi đó là tên gì, xét về mặt lý luận kinh tế - chính trị
hay là về chiến lược, sách lược thì cuộc sống cũng đang thúc đẩy sự phát
triển kinh tế tư bản Nhà nước.
Đề tài "Lý luận của Lênin về chủ nghĩa tư bản Nhà nước trong thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và sự vân dụng lý luận đó ở Việt Nam hiện
nay". Được đưa ra để có thể nắm bắt được tư duy lý luận và năng lực tổ
chức thực hiện của vấn đề này. Đề tài đi sâu vào nghiên cứu hai vấn đề
chính sau:
I. Lý luận của Lênin về chủ nghĩa tư bản Nhà nước trong thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội.
II. Sự vận dụng lý luận của Lênin về chủ nghĩa tư bản Nhà nước ở
Việt Nam


Do thời gian nghiên cứu hạn hẹp và tài liệu chưa thật đầy đủ nên đề
án chưa thể đáp ứng được yêu cầu đề ra. Vì vậy, em mong sự giúp đỡ của
thầy giáo để đề án được hoàn thiện hơn.


Em xin chân thành cảm ơn!
B. phần nội dung
Chương I :
Lý luận của lênin về chủ nghĩa tư bản nhà nước trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội.
1. Vai trò của chủ nghĩa tư bản Nhà nước trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội.
Từ điều kiện thực tế của nước Nga không cho phép đi trực tiếp lên
chảu nghĩa xã hội mà phải xuyên qua chủ nghĩa tư banr Nhà nước tiến lên
chủ nghĩa xã hội. Nước Nga là một nước chậm tiến ở Châu Âu cho nên
nước Nga mới chỉ có nguyện vọng kiên quyết tiến lên con đường xã hội
chủ nghĩa mà chưa có nền móng kinh tế. Do đó cần phải rút lui về nhưng vị
trí của chủ nghĩa tư bản Nhà nước, cần phải chuyển từ “Xung phong” sang
“ Bao vây”.
Bản thân chủ nghĩa tư bản Nhà nước chính là sự kết hợp, liên hợp,
phổi hợp Nhà nước Xô Viết, nền chuyên chính vô sản với chủ nghĩa tư bản
do nhà nước vô sản kiẻm soát và điều tiết có thể đaảy nhanh sự phát triển
ngay tức khắc nền nông nghiệp. Nhờ việc tăng nhanh lực lượng sản xuất
nông nghiệp mà ổn định xã hội, thoát ra khỏi khủng hoảng, thoát khỏi cảnh
giảm sút “Tín nhiệm của nông dân đối với chính quyền Xô Viết, khắc phục
tình trạng trộm cắp của công nặng nề và nạn đầu cơ lan tràn .v.v...” Nếu du
nhập được chủ nghĩa tư bản thì sẽ có thể cải thiện được đời sống của nhân
dân, nền đại công nghiệp Xô Viết được khôi phục.
Chủ nghĩa tư bản Nhà nước là công cụ để liên hợp nền sản xuất nhỏ
lại, khắc phục tình trạng phân tán và đấu tranh chống tính tự phát tiểu tư

2


bản và tư sản chủ nghĩa. Trong điều kiện công nghiệp lớn chưa được khôi

phục, kinh tế nhỏ vẫn tồn tại một cách độc lập trong chủ nghĩa xã hội thì
chủ nghĩa tư bản Nhà nước sẽ là sự liên hợp nền sản xuất nhỏ lại, bởi vì
chủ nghĩa tư bản là xu hướng và là kết quả phát triển tự phát của nền sản
xuất nhỏ. Với ý nghĩa ấy thì “Tư bản làm cho sản xuất nhỏ liên hợp lại, tư
bản sinh ra từ nền sản xuất nhỏ”. Xét về trình độ phát triển thì chủ nghĩa tư
bản Nhà nước về kinh tế cao hơn nhiều so với kinh tế tiểu nông. Nếu phát
triển được chủ nghĩa tư bản Nhà nước thì sẽ tăng cường được nền đại sản
xuất đối lập với nền sản xuất lạc hậu, nền sản xuất cơ khí hoá đối lập với
nền sản xuất thủ công, nó tăng thêm sản phẩm mà nó thu được của đại công
nghiệp, củng cố được những quan hệ kinh tế do Nhà nước điều chỉnh, đối
lập với những quan hệ kinh tế tiểu tư sản vô chính phủ.
Chủ nghĩa tư bản Nhà nước, vì lẽ ấy, trở thành công cụ để đấu tranh
chống tính tự phát tư bản chủ nghĩa, tính tự phát tiểu tư sản, chống tệ đầu
cơ, được coi là kẻ thù của của chủ nghĩa xã hội, ở nước tiểu nông tiến lên
chủ nghĩa xã hội.
Chủ nghĩa tư bản Nhà nước là một bước tiến lớn, nhờ nó mà chiến
thắng được tình trạng hỗn độn, tình trạng suy sụp về kinh tế của giai cấp ấy
là cái quan trọng hơn hết. Chính vì thế mà chủ nghĩa tư bản Nhà nước sẽ
đưa nước Nga lên chủ nghĩa xã hội bằng con đường chắc chắn nhất.
Chủ nghĩa xã hội Nhà nước còn là công cụ để khắc phục được “kẻ
thù chính trong “nội bộ” đất nước, kẻ thù của các biện pháp kinh tế” của
chính quyền Xô Viết. Đó là bọn đầu cơ, bọn gian thương, bọn phá hoại độc
quyền của Nhà nước.
Chủ nghĩa tư bản Nhà nước còn được xem là công cụ đấu tranh
chống chủ nghĩa quan liêu và những lệch lạc quan liêu chủ nghĩa. Lênin
phân tích về nguồn gốc kinh tế của chủ nghĩa quan liêu ở nước Nga : ấy là
tình trạng riêng lẻ, tình trạng phân tán của những người sản xuất nhỏ, cảnh

3



khốn cùng của họ, tình trạng dốt nát của họ, tình trạng không có đường xã,
nạn mù chữ, tình trạng không có sự trao đổi giữa Nông nghiệp và Công
nghiệp, tình trạng thiếu sự liên hệ và tác động qua lại giữa Nông nghiệp và
Công nghiệp.
Thông qua Chủ nghĩa tư bản mà giai cấp công nhân có thể học tập
được cách tổ chức và quản lý một nền sản xuất lớn. Khi ấy giai cấp công
nhân Vô sản Nga, so với bất cứ giai cấp Vô sản ở các nước phát triển nào
khác là giai cấp tiên tiến hơn về cấp độ chính trị của nước mình và về sức
mạnh cảu chính quyền công nông, nhưng lạc hậu hơn những nước lạc hậu
nhất ở Tây Âu về mặt tổ chức một Chủ nghĩa tư bản Nhà nước có quy củ,
về trình độ văn hoá, về mức độ chuẩn bị cho việc “thực hiện” Chủ nghĩa xã
hội trong lĩnh vực sản xuất vật chất. Chủ nghĩa tư bản Nhà nước (nếu thực
hiện được) sẽ giúp cho chính quyền Xô Viết khắc phục dần được tình trạng
lạc hậu ấy. Cũng qua đây mà họ tập được cách tổ chức của “những người
thông minh và có kinh nghiệm”, trong những xí nghiệp hết sức to lớn thực
sự đảm nhận được việc cung cấp sản phẩm cho hàng chục triệu người.
Chủ nghĩa tư bản Nhà nước thông qua sự “du nhập” của tư bản từ
bên ngoài là hình thức du nhập tiến bộ kỹ thuật hiện đại ; qua đó mà hy
vọng được trình độ trang bị cao của Chủ nghĩa tư bản. Nếu không lợi dung
kỹ thuậtđó thì không xây dựng tốt được cơ sở cho nền đại sản xuất của
chính quyền Xô Viết.
Chủ nghĩa tư bản Nhà nước còn mang lại cái lợi là, thông qua sự
phát triển nó mà phục hồi được giai cáp công nhân. Nếu chủ nghĩa tư bản
được lợi thế thì sản xuất công nghiệp cũng sẽ tăng lên và giai cấp vô sản
cũng theo đó mà lớn nhanh lên. Nếu chủ nghĩa tư bản được khôi phục lại
thì cũng có nghĩa là sẽ khôi phục lại giai cấp vô sản và taọ ra một giai cấp
vô sản công nghiệp, vì chiến tranh, vì bị phá sản nên đã bị mất tính giai

4



cấp, nghĩa là bị đẩy ra khỏi con đường tồn tại giai cấp của mình và không
còn tồn tại với tư cách là giai cấp vô sản nữa.
Chủ nghĩa tư bản Nhà nước mà Lênin nêu là một thứ chủ nghĩa tư
bản đặc biệt. Nó khác với khái niệm thông thường về chủ nghĩa tư bản Nhà
nước vì ở đây Nhà nước nằm trong tay giai cấp vô sản và những đỉnh cao
của nền kinh tế thì nằm trong tay Nhà nước xã hội chủ nghĩa. Lênin viết :
“Chủ nghĩa tư bản Nhà nước của chúng tôi khác về căn bản so với Chủ
nghĩa tư bản Nhà nước của chính phủ tư bản, sự khác biệt chính là ở chỗ
Nhà nước của chúng tôi không phải đại diện cho giai cấp tư sản mà đại
diện cho giai cấp vô sản”.
Từ những điều vừa trình bày về Chủ nghĩa tư bản Nhà nước chúng ta
có thể thấy : Chủ nghĩa tư bản Nhà nước không chỉ là một thành phần kinh
tế trong kết cấu nền kinh tế quá độ mà còn là sách lược của Nhà nước Vô
sản, là con đường để thực hiện sự quá độ lên CNXH trong một nước tiểu
sản xuất chiếm ưu thế.
3. Các hình thức của Chủ nghĩa Tư bản Nhà nước.
Lênin đã nêu ra những hình thức cụ thể của Chủ nghĩa tư bản Nhà
nước.
3.1. Tô Nhượng :
Trong cuốn “Bàn về Thuế lương thực” Lênin quan niệm : “Tô
nhượng là một giao kèo, một sự liên kết, liên minh giữa chính quyền Nhà
nước Xô Viết, nghĩa là Nhà nước Vô sản với Chủ nghĩa tư bản Nhà nước
chống lại thế lực tự phát tiểu tư sản. Người nhận tô nhượng là nhà tư bản
Tô nhượng là chính quyền Xô Viết ký Hợp đồng với nhà tư bản. Nhà tư
bản tiến hành kinh doanh với tư cách là một bên ký kết, là người thuê tư
liệu sản xuất XHCN, và thu được lợi nhuận của tư bản mà mình bỏ ta, rồi
nộp cho Nhà nước CHCN một phần sản phẩm. Tô ngượng là hình thức
kinh tyế mà hai bên cùng có lợi. Nhà tư bản kinh doanh theo phương thức


5


tư bản cốt để thu được lợi nhuận bất thường, siêu ngạch hoặc để có được
loại nguyên liệu mà họ không tìm được hoặc khó tìm được bằng cách khác.
Chính quyền Xô Viết cũng có lợi : Lực lượng sản xuất phát triển, số lượng
sản phẩm tăng lên.
Hình thức Tô nhượng là sự “du nhập” chủ nghĩa tư bản từ bên ngoài
vào. Tất cả khó khăn trong nhiệm vụ này là phải cân nhắc, phải suy nghĩ
hết mọi điều khi ký hợp đồng tô nhượng và sau đó phải biết theo dõi việc
chấp hành nó.
Trong Báo cáo về Tô nhượng, Lênin đã nêu ra những điều cần phải
cần phải chú ý như sau:
- Để thực hành Chủ nghĩa tư bản Nhà nước (Tô nhượng) cần phải từ
bỏ Chủ nghĩa ái quốc địa phương của một số người cho rằng tự mình có thể
làm lấy, không chấp nhận trở lại ách nô dịch của tư bản. Lênin nêu rõ càn
phải sẵn sàng chịu đựng cả một loạt hy sinh thiếu thốn và bất lợi miễn sao
có được sự chuyển biến quan trọng và cải thiện tình trạng kinh tế trong các
ngành công nghiệp chủ yếu.
- Người tô nhượng có trách nhiệm cải thiện đời sống công nhân
trong xí nghiệp tô nhượng sao cho đạt tới mức sống trung bình của người
nước ngoài. Cải thiện đời sống cảu công nhân các xí nghiệp tô nhượng và
ngoài tô nhượng được xem là “cơ sở của chính sách tô nhượng”.
- Ngoài ra người nhận tô nhượng phải bán thêm cho Chính quyền Xô
Viết (nếu có yêu cầu) từ 50 đến 100% số lượng sản phẩm tiêu dùng cho các
công nhân ở Xí nghiệp Tô nhượng cũng với giá bán như trên, làm như vậy
để cải thiện đời sống công nhân khác.
- Vấn đề trả lương cho công nhân ở các xí nghiệp tô nhượng sẽ được
quy định theo sự thoả thuận riêng của từng hợp đồng.


6


- Điều kiện về thuê mướn, về sinh hoạt vật chất, về trả lương cho
công nhân lành nghề và nhân viên người nước ngoài được quy định theo sự
thoả thuận tự do giữa hai bên, Công đoàn không có quyền trong việc này.
- Đối với công nhân Nga có trình độ cao, nếu các xí nghiệp tô
nhượng muốn mời phải có sự đồng ý của các cơ quan chính quyền Trung
Ương.
- Phải tôn trọng pháp luật của Nga.
- Phải nghiêm chỉnh tuân theo những quy tắc Khoa học và kỹ thuật
phù hợp với pháp luật của nước Nga và của nước ngoài.
3.2. Các Hợp tác xã (HTX) cũng là một hình thức của CNTB Nhà nước.
Căn cứ vào những thời điểm lịch sử trước và sau, có thể nhận thấy
rằng, thoạt đầu Lênin quan niệm : HTX là hình thức của CNTB Nhà nước.
Về sau từ thực tiễn nước Nga, Lênin đã phân biệt tổ chức kinh tế này trong
những chế độ khác nhau. Nghĩa là trong thực tế tồn tại hai chế độ HTX :
TBCN và XHCN. Chế độ Hợp tác xã TBCN trong lòng chế độ Xô Viết
được coi là một hình thức CNTB Nhà nước.
ýnghĩa của chế độ hợp tác xã là ở chỗ không phải xoá bỏ người sản
xuất nhỏ với lợi ích tư nhân của họ mà là đặt lợi ích đó dưới sự điều tiết
của Nhà nước và phục vụ từng lợi ích chung.
3.3. Hình thức đại lý uỷ thác.
Lênin coi hình thức này là hình thức thứ ba. Theo hình thức này Nhà
nước lôi cuốn nhà tư bản với tư cách là một nhà buôn, trả cho họ một số
tièn hoa hồng để họ bán sản phẩm của Nhà nước và mua sản phẩm của
người sản xuất nhỏ.
3.4. Cho tư bản trong nước thuê xí nghiệp, vùng mỏ, rừng, đất.
Hình thức này giống hình thức tô nhượng, nhưng đối tượng tô

nhượng không phải là tư bản nước ngoài mà là tư bnả trong nước. Hình

7


thức này được coi là hình thức riêng để phân biệt nó với hình thức tương tự
nhưng đối tượng thuê chỉ là tư bản trong nước.
3.5. Cho nông dân thuê những hầm mỏ nhỏ.
Đây cũng là kiểu cho thuê, nhưng đối tượng thuê theo cách nói của
Lênin là những tiểu tư sản. Và chính ở những hầm mỏ nhỏ cho nông dân
thuê sản xuất lại đặc biệt phát triển hơn là những xí nghiệp lớn nhất trước
kia là của tư bản, ngang hàng với các xí nghiệp tư bản ở Tây Âu.
3.6. Công ty Hợp doanh.
Trong báo cáo tại Đại hội IV quốc tế Cộng sản, Lênin đã nói về
những thành tựu đạt được do thực hành chế độ chủ nghĩa tư bản Nhà nước.
Khi nói về lĩnh vực thương nghiệp, chính quyền Xô Viết đã cố gắng lập ra
những Xông ty Hợp doanh, thành lập theo thể thức tiền vốn một phầm là
của tư bản tư nhân, ngoài ra của tư bản nước ngoài và một phần là của
chính quyền Xô Viết.
Đó là một số hình thức của CNTBNN có thể rút ra từ thực tiễn thực
hành chế độ này và được Lênỉntình bày khi thì tập trung, khi thì rải rác ở
một số tác phẩm.
4. Kết quả thực hiện CNTB Nhà nước.
Sự thực hành CNTBNN đã mang lại những kết quả lớn. Đến tháng
11 năm 1922 Lênin đã trình bày khái quát những thành tựu của chính sách
kinh tế mở nói chung, CNTBNN nói riêng như sau:
Trước hết và chủ yếu là tình hình giai cấp nông dân. Từ chỗ đói kém,
bất bình đến chỗ nông dân chẳng những đã thoát khỏi nạn đói mà còn nộp
được thuế lương thực hàng trăm triệu pút. Từ những cuộc bạo động mang
tính chất phổ biến năm 1921, nông dân đã hài lòng với tình hình của họ.

Công nghiệp nhẹ đang có đà phát triển đời sống của công nhân được
cải thiện, tình hình bất mãn của công nhân không còn nữa.

8


Công nghiệp nặng tuy vẫn còn khó khăc nhưng đã có sự thay đổi
nhất định. Lý do là không có những khoản cho vay lớn hàng mấy trăm triệu
đôla. Chính sách tô nhượng thì hay thật nhưng cho đến lúc ấy (1922) vẫn
chưa có một tô nhượng sinh lợi nào trong công nghiệp nặng. Không hy
vọng vay được ở các nước giàu có, các nước đế quốc vẫn đang muốn bóp
chết Nhà nước XHCN non trẻ. Tuy nhiên, nhờ chính sách kinh tế mới mà
thu được một số vốn lớn hơn 20 triệu rúp vàng (nhờ thương nghiệp mà có
vốn ấy). Điều quan trọng nữa là tiết kiệm về mọi mặt, kể cả những chi phí
về trường học đã cứu vãn công nghiệp.
Riêng về chính sách Chủ nghĩa tư bản Nhà nước đã có những tác
dụng tích cực nhất định góp phần làm sống động nền kinh tế nước Nga đã
bị suy sụp sau chiến tranh. Nhờ tô nhượng với nước ngoài nhiều nhành
công nghiệp quan trọng (đặc biệt là nhành khai thác dầu) đã phát triển,
nhiều kinh nghiệm tiên tiến với trang thiết bị kỹ thuật hiện đại của nền sản
xuất lớn đã được đưa vào sản xuất mang lại hiệu quả cao. Thông qua hoạt
động của các xí nghiệp cho thuê, các xí nghiệp hõn hợp đã góp phần giúp
Nhà nước Xô Viết duy trì sự hoạt động sản xuất bình thường ở các cơ sở
kinh tế tăng thêm sản phẩm cho xã hội, việc làm cho người lao động. Hình
thức đại lý thương nghiệp và các hợp tác xã tư bản chủ nghĩa trong các lĩnh
vực sản xuất, tín dụng và tiêu thụ đã góp phần quan trọng trong việc hỗ trợ
thương nghiệp XHCN, đẩy nhanh quá trình trao đổi và lưu thông hàng hoá,
tiền tệ, làm sống động nền sản xuất hàng hoá nhỏ, qua đó cải biến những
người tiểu nông, nối liền quan hệ trao đổi Công - Nông nghiệp, Thành thị Nông thôn.
Những kết quả ấy có ý nghĩa tích cực đối với nước Nga Xô Viết. Nó

góp phần không nhỏ vào công cuộc phát triển kinh tế nước Nga sau chiến
tranh. Tuy nhiên so với sự mong muốn và mục tiêu ban đầu đặt ra của
Lênin thì kết quả thực hành chế độ này vẫn còn rất thấp.

9


Song kết quả lớn nhất là bắt đầu hình thành một khái niệm mới, và
CNTBNN đã thực sự là một phần đặc trưng của chính sách kinh tế mới. Và
chính nhờ chính sách kinh tế mới mà chính quyền Xô Viết đã giữ được vị
trí vững chắc trong Nông nghiệp và công nghiệp và có khả năng tiến lên
được. Nông dân vừa lòng Công nghiệp cũng như Thương nghiệp đang hồi
sinh và phát triển. Đó là một thắng lợi của chính quyền Xô Viết.

10


Chương II
Sự vận dụng lý luận của lênin về chủ nghĩa

tư bản nhà

nước ở việt nam
1. Sự cần thiết và khả năng sử dụng kinh tế TBNN ở nước ta.
Xét về phương diện vật chất, kinh tế, nước ta hiện nay ở mức độ nhất
định, chưa có đủ điều kiện để trực tiếp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Vì vậy
chúng ta cần suy nghĩ thấu đáo quá trình đi lên chủ nghiẽa xã hội thông qua
chủ nghĩa tư bản Nhà nước như Lênin từng vạch ra. Chúng ta cần sử dụng
chủ nghĩa tư bản Nhà nước như một phương tiện để thực hiện sự điịnh
hướng xã hội chủ nghĩa. Với đường lối đổi mới và chủ trương chiến lược

phát triển kinh tế nhiều thành phần của Đại hội VI và VII của Đảng, kinh tế
tư nhân, cá thể ở nước ta đã được mở rộng, hiện cung cấp khoảng 2/3 tổng
sản phẩm trong nước. Cần hướng kinh tế này vào con đường chủ nghĩa tư
bản Nhà nước.
Sự phát triển kinh tế nói chung và việc thực hành đường lối chủ
nghĩa tư bản Nhà nước nói riêng ở nước ta đặt trong cục diện chung của thế
giới có nhiều thuận lợi.
Cuộc cách mạng khoa học công nghệ ở cuối thể kỷ XX đến nay đã
mang đến những đảo lộn lớn lao trong cơ sở vật chất, kỹ thuật và kiến trúc
thượng tầng, trong thế chế chính trị kinh tế, xã hội, trong quan hệ quốc tế,
trong kết cấu giai cấp và xã hội ... Đó là sức mạnh thời đại. Sức mạnh này
có thể đưa một nền kinh tế kém phát triển cất cánh lên một cách nhẹ nhàng
nếu nước đó biết nắm bắt thời cơ và biết đi đúng hướng.
Đất nước ta có hoàn cảnh quốc tế thuận lợi cho việc bình thường hoá
quan hệ kinh tế quốc tế trong đó có sự “du nhập” CNTB từ bên ngoài, từ
các nước tư bản phát triển.
Nước ta nằm ngay giữa khu vực phát triển năng động nhất của thế
giới ngày nay, là vùng vành đai Thái Bình Dương thuộc khu vực Châu á.

11


Về khách quan, các nước phát triển không thể không mở rộng ảnh hưởng
và tìm những nguồn đầu tư mới ở vùng này. Chỉ cần có một chính sách hợp
tác khu vực đúng đắn với chính sách kinh tế mềm dẻo chúng ta có thể thu
hút được vốn đầu tư của nước ngoài dưới những hình thức khác nhau của
chủ nghĩa tư bản Nhà nước.
Sự phát triển mạnh mẽ của lượng sản xuất trong một nền sản xuất
toàn cầu hoá, trong một nền kinh tế thế giới đang chuyển hoá thành một thể
thống nhất, tính phụ thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia trên thế giới ngày

càng tăng lên. Phụ thuộc lẫn nhau là ta cần người và người cũng cần ta. Các
nước công nghiệp phàt triển đang chuyển sang một cơ sở vật chất kỹ thuật
mới về cho nên về khách quan họ có nhu cầu chuyển nhượng những kỹ
thuật được gọi là truyền thống cho những nước kém phát triển. Điều này
cũng tạo ra một só thuận lợi cho chúng ta trong việc thu hút những kỹ thuật
đó và các nguồn vốn gắn với kỹ thuật ấy từ các nước phát triển về công
nghiệp.
Cũng phải nói đến mặt mạnh của đất nước ta có thu hút đối với tư
bản nước ngoài. Cái mà chủ nghĩa tư bản thế giới cần là sự chuyển hướng
sang nền kinh tế thị trường (dĩ nhiên là theo quan điểm của họ), thì chúng
ta đã bắt đầu (dĩ nhiên là theo mục đích của ta). Về khách quan, việc
chuyển sang nền kinh tế thị trường là cái quan trọng nhất quyết định xu
hướng hoà nhập vào nền kinh tế thế giới, quyết định triển vọng phát triển
của nền kinh tế nước ta. Công cuộc đổi mới của đất nước ta đã thu được
những thành tựu bước đầu rất quan trọng. Nhà nước ta đã thiết lập được
nhiều mối quan hệ kinh tế với bên ngoài và đã có những chính sách kinh tế
đối ngoại được nước ngoài đánh giá là “rộng mở” và thức thời. Nước ta
cũng có một số tài nguyên quý giá, là một thị trường không phải nhỏ. Đặc
biệt sự ổn định chính trị là cái mà người nước ngoài có thể tin cậy trong
việc đầu tư lâu dài.

12


2. Những hình thức cụ thể của chủ nghĩa tư bản Nhà nước đang được
vận dụng ở nước ta.
2.1. Hình thức liên doanh, liên kết giữa Nhà nước với các chủ sở
hữu ngoài quốc doanh ở trong nước hoặc với các chủ sở hữu ử các nước tư
bản chủ nghĩa.
Sự liện doanh, liên kết được các nhà kinh tế kể cả tư bản chủ nghĩa

hiện đại coi là “Một ý tưởng tuyểt vời”. Sự khai thác triệ để tư tưởng về
chủ nghĩa tư bản Nhà nước đòi hỏi phải mở rộng khái niệm liên doanh liên
kết. Không chỉ liên doanh, liên kết với chủ nghĩa tư bản từ bên ngoài mà cả
chủ nghĩa tư bản nội địa với các cơ sở thuộc thành phần kinh tế tư nhân dể
cả hợp tác tư nhân.
Liên doanh, liên kết giữa các nước với nhau đang là xu hướng phát
triển kinh tế chung của thế giới.
Thực tiễn trong nước và trên thế giới cho thấy để liên doanh đạt hiệu
quả cần phải giải đáp một loạt các vấn đề liên quan. Chẳng hạn, liên doanh
để sản xuất cái gì ? Ta muốn có mặt hàng xuất khẩu nhưng phải tính đến
khả năng cạnh tranh bởi nếu không có mặt hàng xuất khẩu của ta thì các
nhà tư bản cũng đã gặp không ít đối thủ cạnh tranh. Không thể không trả
lời cho các câu hỏi về thị trường nói chung, thị trường được hưởng và
không được hưởng chế độ tối huệ quốc trong thương mại. Địa điểm xây
dựng xí nghiệp liên doanh cũng không thể bỏ qua vì có quan hệ đến hiệu
quả kinh tế và sức cạnh tranh.
Một số vấn đề cần xác định rõ là việc lựa chọn “bạn cùng chơi” ở
bên ngoài và cơ sở trong nước ở bên ngoài và cơ sở trong nước liên doanh
với nước ngoài. Nên tích cực, chủ độngtìm bạn hàng, đặt quan hệ nhiều
hãng, trước hết là các tập đoàn xuyên quốc gia, kinh doanh nhiều ngành.
Bởi vì những tập đoàn này có đặc trưng là rất linh hoạt, có những quan hệ
bền vững với nhiều nước, có bộ máy tiêu thụ đã được xếp đặt hoàn hảo.

13


Nhưng còn mặt trái của tấm huy chương cần phải lưu ý. Chẳng hạn như
trong phân công lao động thì các nước kém phát triển thường được phân
công làm những quy trình công nghệ cần nhiều lao động giản đơn, luồng
kỹ thuật, công nghệ tiên tiến không có là bao. Các Công ty liên doanh

thường đầu tư lớn vào các nước phát triển để sử dụng tiềm lực khoa học
lớn ở nơi đây nhằm đón trước các thành tựu khoa học - kỹ thuật. Như vậy,
trong buổi đầu liên doanh cũng khó mà hy vọng vào những nguồn đầu tư
lớn từ bên ngoài.
Việc lựa chọn cơ sở trong nước để liên doanh với nước ngoài cũng
cần phải xem xét cẩn thận nếu không muốn “đánh mất mình”. Ngoài yếu tố
phẩm chất chính trị của những nhà quản lý, còn phải tính đến phẩm chất
kinh doanh đạt chất lượng cao, nhờ đó mà giành được sự tín nhiệm.
2.2. Công ty cổ phần với tính cách là hình thức kinh tế tư bản Nhà
nước và cổ phần hoá xí nghiệp để thành lập xí nghiệp tư bản Nhà nước.
Công ty cổ phần xuất hiẹn là một tất yếu khách quan, cho yêu cầu
tập trung tư bản và có vai trò rất lớn trong việc phát triển lực lượng sản
xuất. Khi xuất hiện Công ty cổ phần có nhiều dạng. Xét theo khả năng
chuyển nhượng cổ phiếu mức quy định vốn pháp định tối thiểu, chia Công
ty cổ phần làm hai loại: Công ty trách nhiệm hữu hạn và Công ty vô danh.
Trong điều kiện hiện nay, trong nền kinh tế nhiều thành phần Công
ty cổ phần được xem là một tất yếu kinh tế, sự tồn tại của nó không những
chỉ là kết quả của quá trình tích tụ vốn mà còn là nhu cầu khách quan của
việc củng cố tính hiệu quả nền kinh tế nhiều thành phần nói chung, của
quốc doanh nói riêng.
Cùng với việc xây dựng các Công ty cổ phần bắt đầu từ việc bán cổ
phần và thu hút, Công ty cổ phần còn được thành lập trên cơ sở các xí
nghiệp quốc doanh bằng biện pháp “cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà
nước”.

14


Thực chất cổ phần hoá xí nghiệp quốc doanh hiện nay là chuyển từ
sở hữu Nhà nước thành sở hữu tập thể, hỗn hợp là làm gọn nhẹ, tối ưu

thành phần kinh tế quốc doanh tăng thành phần kinh tế tập thể, cá thể, tư
nhân. Nó là giải pháp nhằm thoát khỏi tình trạng làm ăn thua lỗ của các xí
nghịp quốc doanh.
Nó còn là giải pháp để góp phần khắc phục tình trạng phổ biến và
nghiêm trọng hiện nay là sự thất thoát tài sản, lãng phí dưới nhiều hình
thức.
Cho nên, cùng với việc sắp xếp lại kinh tế quốc doanh theo hướng
củng cố những cơ sở kinh tế cần thiết và có khả năng củng cố, càn thực
hiện biện pháp “cổ phần hoá” xí nghiệp quốc doanh.
Song, cần và chỉ nên củng cố số ít cơ sở quốc doanh có vị trí then
chốt trong nền kinh tế, có nguồn thu lớn cho ngân sách, hoặc ở những
ngành lĩnh vực mà tư nhân không muốn hoặc không đủ vốn, đủ sức đầu tư.
2.3. Đặc khu kinh tế.
Qua thực tiễn nhiều nước đặc khu kinh tế là một vùng lãnh thổ quốc
gia mà trên đó người ta áp dụng chế độ đặc biệt đối với các hoạt động kinh
tế đối ngoại. Mục tiêu của nó là : tăng cường khả năng cạnh tranh của nền
sản xuất, tăng cường khả năng xuất khẩu, thu hút đầu tư trực tiếp của nước
ngoài, đẩy nhanh các quá trình khai thác công nghệ kỹ thuật mới và học tập
kinh nghiệm quản lý tiên tiến của thế giới.
Đặc khu kinh tế là một nội dung quan trọng trong chính sách kinh tế
đối ngoại, mang tính chất mới của nền kinh tế thế giới. Với vai trò là “cầu
nối” nền kinh tế trong nước với nền kinh tế thế giới, các đặc khu kinh tế có
ý nghĩa rất quan trọng để biến các đường lối, chủ trương chính sách kinh tế
đối ngoại của các nước này thành hiện thực.
2.4 Khu công nghệ chế biến xuất khẩu (khu chế xuất)

15


“Khu công nghiệp chế biến xuất khẩu” là khu công nghiệp được quy

định chuyên môn xuất chủ yếu cho xuất khẩu trong đó người ta áp dụng
quy chế tự do thuế quan, tự do mậu dịch.
Đặc khu kinh tế cũng như khu chế xuất, về thực chất được coi là các
hình thức của chủ nghĩa tư bản Nhà nước, nơi đây không phải chỉ có một
loại hình kinh tế tư bản Nhà nước đơn độc, thuần tuý, mà có nhiều hình
thức cụ thể, như gồm cả hình thức tô nhượng, liên doanh, cho tư bản nước
ngoài thuê.v.v..
Hiện nay ở nước ta đang chủ trương thí điểm thành lập khu chế xuất
ở Tân thuận, vì vấn đề còn hết sức mới mẻ nên cần tham khảo kinh nghiệm
các khu chế xuất trên thế giới.
2.5. Cho tư bản trong và ngoài nước, cho nông dân thuê các cơ sở
sản xuất Kinh doanh và các tư liệu sản xuất thuộc sở hữu toàn dân.
Đây cũng là một hình thức kinh tế tư bản Nhà nước được Lênin rất
coi trọng. Trong cải cách, đổi mới kinh tế hiện nay ở nhiều nước đi theo
con đường xã hội chủ nghĩa và đã thực hiện hình thức kinh tế này.
Không thể liệt kê toàn bộ dạn mục các hình thức kinh tế tư bản Nhà
nước trong nông nghiệp vì quá trình thực hiện mới chỉ vừa bắt đầu. Nhưng
việc sử dụng các hình thức kinh tế này trong nông nghiệp cũng phải được
coi là “cần thiết, có lợi, đáng mong đợi”. Đó là con đường hữu hiệu nhất để
phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất trong nông nghiệp, chuyển nền sản
xuất từ phân tán đến tập trung, từ nền nông nghiệp nửa tự nhiên, tự nhiên
sang nền kinh tế hàng hoá. Đó là con đường xã hội hoá sản xuất nông
nghiệp trong thực tế.
2.6. Các Tổ chức hợp tác liên doanh với tính cách là các hình thức
kinh tế tư bản Nhà nước.
Những hợp tác xã được Tổ chức theo nguyên tắc xã hội chủ nghĩa,
đặc biệt là thực hiện phân phối theo lao động có sự hỗ trợ của Nhà nước, sự

16



lãnh đạo trực tiếp của Đảng Cộng Sản thì chúng thuộc thành phần kinh tế
tập thể mà chúng ta vẫn thường nói là một thành phần XHCN.
ở nước ta mấy năm nay cũng xuất hiện những Tổ chức hợp tác tương
tự như liên doanh liên hộ, tổ hợp dịch vụ, chế biến cung ứng vật tư, tiêu thụ
sản phẩm v.v.. Những Tổ chức hợp tác liên doanh mà có sử dụng đất đai
của sở hữu toàn dân, có vay vón của Nhà nước, và nhất là có sự kiểm dê
kiểm soát của nhà nước, thì với quan niệm rộng theo tư tưởng của Lênin đó
cũng đều là hình thức chủ nghĩa tư bản Nhà nước. Chúng ta cần nắm lấy để
phát triển nền kinh tế quốc dân.
3. Những hạn chế khi áp dụng CNTBNN vào nước ta.
Chỉ nguyên với thực trạng một nước nghèo, kém phát triển đang
nằm trong khủng hoảng kinh tế - xã hội, bên ngoài đang bị chính sách bao
vây, cấm vận đè nặng, chúng ta quả là đang ở vào vị trí xuất phát không
thuận lợi lắm trong cuộc đua kinh tế.
Nếu so sánh tổng sản phẩm quốc dân theo đầu người năm 1987, thì
nước ta kém Thái Lan 6 lần, kém Philipin hơn 4 lần, kém Malaixia hơn 13
lần, kém Inđonêxia gần 4 lần. Ta đứng trước nguy cơ là nếu không có một
chiến lược đúng, không có những cố gắng vươn lên thì khoảng cách về
trình độ phát triển kinh tế giữa nước ta và các nước láng giềng đi theo con
đường tư bản chủ nghĩa sẽ tăng lên, chứ không giảm. Phải nhìn vào thực
trạng nước ta trong bối cảnh quốc tế chung. Tuy có thuận lợi nào đó, song
trong bối cảnh quốc tế hiện nay, chúng ta cũng có khó khăn mới.
Mặc dù nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường song sự chuyển
biến ấy lại xuất phát từ một nền kinh tế chủ yếu là tự nhiên, tự cung tự cấp,
hiện vật. Do vậy cái thiếu thốn nhất và ỳ đó gây nhiều khó khăn nhất trong
quản lý kinh tế nói chung, quản lý sự hồi sinh, dung nạp, du nhập chủ nghĩa
tư bản nói riêng là chưa có thói quen “làm ăn theo kiểu buôn bán”, thiếu trí
thức và đội ngũ kinh doanh hiện đạo. Mặc dù đất nước ta có một số tài


17


nguyên thiên nhiên có sức hấp dẫn với người nước ngoài, song trước sự tác
động của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ, hai ưu thế của các nước
kem và đang phát triển là tài nguyên và sức lao động đã và đang mất đi
đáng kể sức hút đối với các Công ty xuyên quốc gia. Các nước này buộc
phải lao vào ngành kỹ thuật cao nhưng vấp phải vấn đề vốn và đội ngũ
khoa học, kỹ thuật không có hoặc yếu kém.
Một khó khăn mới tới là, sự chống phá con đường đi lên chủ nghĩa
xã hội ở nước ta của các thế lực thù địch, phản động trong và ngoài nước.
Chúng mưu toan thực hiện “diễn biến hoà bình” và hướng công cuộc đổi
mới của nước ta đi chệch khỏi con đường xã hội chủ nghĩa.
Những mặt trái của quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường,
thực hiện chủ nghĩa tư bản Nhà nước là những vấn đề hết sức phức tạp, đến
mức có thể gây ra sự bất bình của cả một tầng lớp dân cư nào đó trước sự
dung nạp, du nhập chủ nghĩa tư bản.
Nhìn chung lại, việc thực hành chủ nghĩa tư bản Nhà nước ở nước ta
sẽ có cả khó khăn và thuận lợi. Nhưng trước mắt khó khăn sẽ không nhỏ.
Nghĩa là phải dự báo trước cái giá phải trả không phải nhỏ. Chúng ta chỉ có
thể hạn chế cái giá phải trả, chứ không thể không phải trả. Phải trả giá để
phát triển. Vấn đề là phải dũng cảm và khôn ngoan, phải có chiến lược
bước đi, hình thức thực hiện hữu hiệu.

18


Chương III
Phương hướng để vận dụng thành công kinh tế


tư bản nhà

nước ở nước ta hiện nay.
1. phát huy mạnh mẽ tiềm năng của các thành phần kinh tế.
Vấn đề được đặt ra xuất phát từ thực trạng kinh tế - xã hội của nước ta
và từ việc tạo ra những tiền đề kinh tế xã hội cho sự chuyển hoá từ một kết
cấu kinh tế tiểu nông là chủ yếu sang nền kinh tế hàng hoá định hướng lên
chủ nghĩa xã hội.
Sản xuất hàng hoá không thể ra đời nếu không có sự phát triển của
phân công xã hội và chuyên môn hoá sản xuất là kết quả và biểu hiện trình
độ phát triển của lực lượng sản xuất đạt đến mức độ nào. Cái gốc của vấn
đề là phải phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất. Nền kinh tế thị trường tư
bản chủ nghĩa hiện đại sở dĩ được coi là hiện đại vì dựa trên trình độ lực
lượng sản xuất hiện đại.
Trên quan điểm vì lợi ích phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất, đẩy
mạnh sự phân công và chuyên môn hoá sản xuất, đẩy mạnh cạnh tranh và
tạo ra tỷ xuất hàng hoá và số lượng hàng hóa ngày cành nhiều, trên quan
điểm ấy thành phần kinh tế tư nhan có vị trí đăc biệt quan trọng trong điều
kiện nước ta hiện nay.
Do kinh tế tư nhân có vai trò quan trọng trong quá trình hàng hoá nền
kinh tế ở nước ta, tính tới thực tiễn tiềm lực của nền kinh tế ấy, cho nên
khác với những nước đã có nền kinh tế tương đối phát triển. Nhà nước ta
cần có chính sách khuyến khích và hôc trợ cho nền kinh tế ấy phát triển.
Đương nhiên, vấn đề nào cũng có mức độ, giới hạn của nó.
Nhà nước còn có chính sách khuyến khích kinh tế tư nhân phát triển và
chính sự phts triển này mà thực hiện nhiều khả năng thực hành chủa nghĩa
tư bản Nhà nước, ngăn ngừa được sự phát triển không lành mạnh của kinh
tế tư nhân làm cho chúng trở thành “cái không đáng sự, cái đáng mong

19



đợi”. Nhà nước có thể hướng dẫn sự phts triển của kinh tế tư nhân, đặc biệt
là tư nhân tư bản chủ nghĩa thông qua rát nhiều hình thức kinh tế tư bản
Nhà nước như sự liên kết giữa Nhà nước với tư nhân, với hợp tác xã tư
nhân, với cơ sở Kinh doanh tư bản chủ nghĩa, sự tham gia của Nhà nước
vào các Công ty cổ phần tư nhân thuê các cơ sở kinh tế hoặc tư liệu sản
xuất của toàn dân.v.v...
2. Phải biết học chủ nghĩa tư bản.
Vấn đề này không mới lạ. Nhưng do quan niệm thiển cận, cứng nhắc
và giản đơn về chủ nghĩa xã hội, đặc biệt quan niệm đã từng bị Lênin phán,
quan niệm “đối lập” chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản một cách trừu
tượng cho nên đã có thái độ không đúng với chủ nghĩa tư bản mà lẽ ra phải
biết kế thừa một cách nghiêm túc. Một trong những sai lầm trong quan
niệm xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa qua là đã phân chia sự tiến hoá của xã
hội loài người thành những “khúc lịch sử” biệt lập không có mối liên hệ gì
với nhau.
Chủ nghĩa tư bản là một giai đoạn lịch sử cực kỳ quan trọng trong
lịch sử phát triển của xã hội loài người. Suy đến cùng chủ nghĩa tư bnả
cũng là thành tựu của nhân loại, chứ không phải là từ trên trời rơi xuống.
Không có chủ nghĩa tư bản thì không có chủ nghĩa xã hội. Lý luận về chủ
nghĩa tư bản và việc giải quyết những mâu thuẫn cực kỳ gay gắt ấy làm nảy
sinh ý tưởng về chủ nghĩa xã hội. Chế độ nô lệ cổ đại - với cách nhìn ngày
nay - là cực kỳ dã man, nhưng nếu không có nó thì không có “chế độ nô lệ
văn minh” là chủ nghĩa tư bản.
Bất cứ chế độ xã hội nào với tính cách là nấc thang tất yếu lịch sử
của sự tiến hoá đều chứa đựng những giá trị mang tính nhân loại. Và chính
những cái đó đã thúc đẩy xã hội loài người tiến lên không ngừng và hoàn
thiện. Chủ nghĩa tư bản cũng không nằm ngoài thông lệ đó.


20


Những thành tựu tư duy kinh tế mới chỉ ra rằng : những nước kinh tế
lạc hậu chỉ có lợi dụng chủ nghĩa tư bản một cách đúng đắn, biết học tập
chủ nghĩa tư bản thì mới có thể làm cho đất nước phồn vinh giàu mạnh.
Thực tiẽn cũng chỉ ra rằng để quá độ lên chủ nghĩa xã hội cần phải phát
triển kinh tế hàng hoá, phát triển mậu dịch đối ngoại, tranh thủ vốn của
nước ngoài, thu hút kỹ thuật tiên tiến,kinh nghiệm quản lý khoa học, thu
hút các chuyên gia, nhân tài, sử dụng một số quan điểm mô hình và phương
pháp trong lý luận kinh tế vẫn được coi là chủ nghĩa tư bản hiện đại. Lợi
dụng chủ nghĩa tư bản bằng cách thực hành chủ nghĩa tư bản Nhà nước
trong điều kiện chính trị mới.
Những gì mà chúng ta học tập ở chủ nghĩa tư bản chính là những cái
chung phổ biến của nền kinh tế hàng hoá mà chủ nghĩa tư bản là người đi
trước dầy dặn kinh nghiệm.
Phải biết lợi dụng chủ nghĩa tư một cách đúng đắn, học tập chủ nghĩa
tư bản mới có thể làm cho đất nước phồn vinh giàu mạnh.
3. Xác định bước đi có hiệu quả.
Việc xác định những bước đi cũng là một quan điểm chiến lược.
Bước đi đúng hay sai có quan hệ mật thiết đến hiệu quả ít hay nhiều của
việc thực hành chủ nghĩa tư bản Nhà nước. Cũng có thể coi đây là chiến
lược kinh doanh từ đó mà có thể xác định phương hướng, hình thức, trình
độ cụ thể, những cái giá nào cần trả trong khi thực hành chủ nghĩa tư bản
Nhà nước qua các giai đoạn khác nhau.
Phải xuất phát từ xu hướng kinh tế khách quan là sự phân công lao
đọng quốc tế mới trong một nền sản xuất ngày càng quốc tế hoá, tính từ
phụ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế của các quốc gia ngày càng chặt
chẽ từ thực lực xuất phát của mình, kể cả cái thế trong bàn cân chính trị kinh tế thế giới. Yêu cầu phải đạt tới là làm sao nhanh chóng tìm ra được
chỗ đứng của mình trong trào lưu phát triển kinh tế thế giới.


21


Tóm lại để thực hành chủ nghĩa tư bản Nhà nước trong điều kiện
nước ta trước hết cần phải phát triển mạnh mẽ kinh tế thị trường phù hợp
với điểm xuất phát của nước ta và theo hướng thị trường văn minh nghĩa là
phải có sự điều tiết chín chắn của Nhà nước dựa vào sự tham gia dân chủ
của đông đảo quần chúng.
Phải biết tận dụng những thuận lợi sẵn có tạo ra những mặt mạnh thu
hút đầu tư nước ngoài, đồng thời cố gắng khắc phục những khó khăn do
hoàn cảnh hoặc do điều kiện khách quan gây ra. Chịu khó học hỏi và kế
thừa một cách nghiêm túc những thành tựu của Chủ nghĩa tư bản. Có lập
trường kiên định về vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước phải được xem là
dứt khoát, trước sau như một.

22


C. kết luận
Có thể nói chủ nghĩa tư bản là một yếu tố chủ yếu cấu thành nên
NEP. Thực chất của NEP là tăng cường cơ sở kinh tế của liên minh chặt chẽ
giữa giai cấp nông dân và giai cấp công nhân liên minh này là nguyên tắc
tối cao cảu giai cấp vô sản, là cơ sở của chính quyền Xô Viết, là điều kiện
quan trọng nhất đẻ xây dựng thắng lợi XHCN. Chính sách kinh tế mới
(NEP) để nước Nga Xô Viết đi lên chủ nghĩa xã hội. Sự phát triển của chủ
nghĩa tư bản Nhà nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội không có
mục đích tự thân mà là phương tiện, con đường để tăng lực lượng sản xuất,
là biện pháp biến các xí nghiệp tư bản chủ nghĩa thành các xí nghiệp
XHCN. Lênin nói: “... thường chúng ta vẫn còn lặp lại cái lý luận cho rằng

“ Chủ nghĩa tư bản là xấu chủ nghĩa xã hội là tốt”. Nhưng cái lý luận ấy là
sai, vì nó không đếm xỉa tới toàn thể các kết cấu kinh tế xã hội hiện có, mà
chỉ nhìn tháy có hai kết cấu trong đó thôi”. Chủ nghĩa tư bản là xấu so với
chủ nghĩa xã hội, nhưng là tốt so với nền tiểu sản xuất, “Chủ nghĩa tư bản
Nhà nước về kinh tế cao hơn nhiều so với nền kinh tế hiện nay của nước
ta”. Vì chưa có điều kiện để chuyển trực tiếp từ tiểu sản xuất lên chủ nghĩa
xã hội, chúng ta “phải lợi dụng chủ nghĩa tư bản (nhất là bằng cách hướng
nó vào con đường chủ nghĩa xã hội, làm phương tiện, con đường, phương
pháp, phương thức để tăng lực lượng sản xuất lên”. Và điều đó “sẽ đưa
chúng ta đến chủ nghĩa xã hội bằng con đường chắc chắn nhất”.
Mô hình kinh tế tư bản Nhà nước đã được Báo cáo chính trị tại Đại
hội Đảng CSVN lần thứ VIII xác định : “kinh tế tư bản Nhà nước bao gồm
các hình thức hợp tác liên doanh giữa kinh tế Nhà nước và tư bản tư nhân
trong nước và hợp tác liên doanh giữa kinh tế Nhà nước với tư bản nước
ngoài. Kinh tế tư bản Nhà nước có vai trò quan trọng trong việc động viên
tiềm năng to lớn về vốn, công nghệ, khả năng tổ chức quản lý ... của các

23


nhà tư bản vì lợi ích của bản thân họ, cũng như của công cuộc xây dựng và
phát triển đất nước ...”.
Đối với nước ta sử dụng kinh tế tư bản Nhà nước là điều kiện để
khắc chế tính tự phát trong sản xuất và chế độ sản xuất phân tán kém hiệu
quả của kinh tế sản xuất nhỏ, nhằm khai thác tối đa tiềm năng để tập trung
cho các nguồn lực hướng về mục tiêu kinh tế xã hội cao nhất như công
nghiệp hoá hiện đại hoá và các chương trình kinh tế lớn khác. Hơn nữa, tố
chất cạnh tranh vốn có của chủ nghĩa tư bản Nhà nước sẽ như chất xúc tác
cho một môi trường kinh tée cạnh tranh sôi động, giúp cho tất cả các thành
phần kinh tế trong xã hội có một nhận thức về bản thân mình đúng hơn, ý

thức hơn về nhu cầu tồn tại trong phát triển xã hội, và do đó sẽ đáp ứng sản
phẩm tốt hơn cho người tiêu dùng. Một hệ quả hết sức quan trọng cuả sự
phối hợp kinh tế trong nước với nhau và trong nước với nước ngoài và sự
giao lưu và tăng trưởng trí tuệ, kiến thức xã hội và do đó thúc đẩy mặt bằng
học vấn xã hội được nâng cao. Tuy nhiên việc vận dụng chủ nghĩa tư bản
Nhà nước ở nước ta còn nhiều hạn chế, sao chép một cách thiếu chọn lọc,
thậm chí áp dụng nguyên xi mô hình của nước ngoài, đây là điều tối kỵ. Vì
sẽ gây triệt tiêu dần khả năng cạnh tranh của sản xuất trong nước, việc quản
lý đầu tư nước ngoài còn lỏng lẻo, chưa đồng bộ, nguồn lực tư nhân còn
phân tán quá nhiều... Chúng ta nên vận dụng hình thức tư bản Nhà nước để
có thể khai thác tối đa những ưu điểm và hạn chế tối thiểu những nhược
điểm.
Tóm lại, cần phải nhạn rõ tầm quan trọng của việc thực hành chủ
nghĩa tư bản Nhà nước để xây dựng chủ nghĩa xã hội. Vì là chủ nghĩa tư
bản Nhà nước cho nên hiệu quả của việc thực hiện nó phụ thuộc vào năng
lực tổ chức của bộ máy Nhà nước ta - mà Nhà nước này là của dân, do dân
và vì dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Việt Nam.

24


Tài liệu tham khảo
1. V.I.Lênin: Bàn về thuế lương thực, toàn tập, NXB Tiến bộ,
Matxcơva 1984, tập 43, trang.244-296
2. V.I.Lênin: Chính sách kinh tế mới và những nhiệm vụ của các ban
giáo dục chính trị. Toàn tập, NXB Tiến bộ, Matxcơva 1984, tập 43, trang.
194-219.
3. Đảng Cộng Sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ VIII, NXB Chính trị Quốc gia, hiện nay 1996, trang. 91-96.
4. Vũ Hữu Ngoan: Mấy vấn đề về chủ nghĩa tư bản Nhà nước, NXB

Chính trị Quốc gia, hiện nay 1995.
5. Vũ Ngọc Long: Về cuộc cải cách kinh tế của Lênin, NXB Thanh
niên, hiện nay 1996.
6. Nghiên cứu lý luận số 226 - tháng 3/1997.
7. Nghiên cứu lý luận số 3 - 1998.
8. Tạp chí Cộng sản, số 8 tháng 7/1995.

25


×