Kháng chiến chống thực dân Pháp (1945 - 1954)
Tháng 9 năm 1945, quân đội Đồng Minh vào giải giáp quân đội Nhật
ở Việt Nam. Phía Bắc, 20 vạn quân Tưởng vượt qua biên giới Việt - Trung
vào Hà Nội , kéo theo bọn phản động Việt Nam quốc dân Đảng và Việt
Nam cách mạng đồng minh. Tình hình trở nên phức tạp. Dựa vào lực lượng
của Tưởng Giới Thạch, bọn phản động tìm mọi cách để chống phá Cách
mạng Việt Nam . Từ sau vụ án ở phố Ôn Như Hầu (nay là phố Nguyễn Gia
Thiều) bộ mặt thật của chúng bị nhân dân lên án. Hoạt động của chúng chủ
yếu là ở nội thành, ít có ảnh hưởng ra ngoại ô.
Quân Tưởng Giới Thạch, có một đơn vị chiếm đóng doanh trại của
Nhật trước đây (giáp phía Bắc làng Phương Liệt) sau này là xí nghiệp 250
gần sở Thú Y. Bọn này sinh hoạt nhếch nhác, dân ta gọi là Tầu Ô, quân lệnh
của chúng không nghiêm, nhiều tên mang quân trang, quân dụng và súng
đạn đi bán, ta muốn mua để trang bị tự vệ nhưng không có tiền "quan kim".
Ở miền Nam, quân Anh, Ấn vào tiếp quản Sài Gòn, đã công khai
giúp Pháp chiếm lại miền Nam bằng vũ lực. Ngày 23 tháng 9 năm 1945,
quân đội Pháp núp sau quân đội Anh - Ấn chiếm các vị trí quan trọng trong
thành phố. Nhân dân Sài Gòn vùng dậy chống trả quyết liệt bằng gậy tầm
vông và dáo mác. ở Nam Bộ, lúc này có ông Nguyễn Văn Phẩm làm cán bộ
vô tuyến điện của Uỷ ban Kháng chiến. Anh Trần Sĩ Ngạn tham gia chiến
đấu trong lực lượng thanh niên tiền phong, thuộc đoàn Vĩnh Thoả ở quận I .
Anh Nguyễn Văn Hồng phụ trách trung đội tự vệ chiến đấu của công nhân
cao su Phú Riềng. Trong một trận chiến đấu không cân sức ở phía Bắc tỉnh
Thủ Đầu Một anh Hồng đã hi sinh năm 1946.
Theo lời gọi của Đảng, phong trào ủng hộ Nam Bộ kháng chiến sôi
nổi ở miền Bắc. Uỷ ban Kháng chiến Phương Liệt chỉ đạo các đoàn thể phụ
nữ cứu quốc và thanh niên tổ chức quyên tiền và quần áo giúp đồng bào
1
miền Nam. Một số thanh niên ghi tên xung phong vào đoàn quân tiếp
phòng để được vào Nam chiến đấu.
Sau khi chiếm Nam Bộ và Nam Trung Bộ, tháng 2 năm 1946 Thực
dân Pháp kéo quân ra Bắc uy hiếp chính quyền non trẻ của ta. Trước tình
hình ngàn cân treo sợi tóc, Hồ Chủ Tịch đã có những hoạt động ngoại giao
khôn khéo . Bác đã ký hiệp định sở bộ ngày 6/3/1946 cho phép Pháp đưa
15 nghìn quân vào thay thế 20 vạn quân Tưởng Giới Thạch rút về nước.
Chiều 16/3/1946 xe tăng và bộ binh Pháp đổ bộ lên thành phố Hải Phòng
reo rắc mầm mống chiến tranh. Tình hình ngày càng căng thẳng khi Pháp
đánh chiếm Hải Phòng, Hòn Gai, Bắc Ninh, Sơn La (11/1946) ở Hà nội có
nhiều trận đấu súng lẻ tẻ ở nội thành khi quân Pháp từ trong thành ra khiêu
khích tự vệ chiến đấu của ta. Chúng ta được lệnh sẵn sàng. Uỷ ban kháng
chiến Phương Liệt trực tiếp đôn đốc việc luyện tập quân sự và tổ chức canh
gác của đơn vị tự vệ. Nhiều phương án chiến đấu giữ làng được thực tập,
đồng thời thực tập cả việc sơ cứu của tổ cứu thương như băng bó, vận
chuyển thương binh. Đội tiếp tế vay thóc gạo của các gia đình để chuẩn bị
khi có tình huống chiến đấu xẩy ra. Nhiều gia đình đã tích cực góp gạo,
thóc giao cho đội tiếp tế. Tổ tuyên truyền hoạt động liên tục, phát tin trên
loa truyền thanh về lời kêu gọi của thành phố, thông tin những vụ việc
khiêu khích của địch trong nội thành, vẽ áp phích cổ động phong trào thi
đua của các đoàn thể và nhân dân trong làng. Nhiều gia đình đã liên hệ
trước các cơ sở ở vùng quê và các gia đình thân thuộc để chuẩn bị cho ông
bà già, con trẻ sơ tán khi chiến sự xẩy ra. Công tác chuẩn bị rất khẩn
trương. Dân Phương Liệt sẵn sàng làm vườn không nhà trống, quyết tâm
sống chết với thủ đô, theo lời kêu gọi của Hồ Chủ Tịch.
Trong điều kiện so sánh giữa ta và địch, Đảng ta chủ trương kháng
chiến lâu dài, chống chiến lược đánh nhanh, thắng nhanh của thực dân
Pháp. Khẩu hiệu "Trường kỳ kháng chiến nhất định thắng lợi" được quán
triệt trong cán bộ và nhân dân ta. Ở Hà Nội , Bộ chỉ huy mặt trận đã có kế
2
hoạch chiến đấu nhằm tiêu hao và giam chân địch càng lâu càng tốt để hậu
phương có điều kiện chuẩn bị tốt hơn. Với tinh thần chủ động tấn công, 20
giờ, ngày 19 tháng 12 năm 1946, vệ quốc quân, thanh niên thành Hoàng
Diệu và công an xung phong đồng loạt nổ súng tấn công các vị trí quân
Pháp ở Hà Nội , sau loạt đại bác ở Pháo Đài Láng làm hiệu lệnh.
Ngay đêm hôm đó, người tự vệ chiến đấu Bùi Văn Đe bị viên đạn lạc
hy sinh trước bảng tin của làng. Theo lời kêu gọi của Chính phủ "Tản cư là
yêu nước, tản cư là kháng chiến" cụ già, trẻ con nhanh chóng chuyển ra
vùng tự do. Ngày 23 tháng 12 năm 1946, ba chiếc máy bay chiến đấu của
Pháp bắn phá một số làng ngoại thành đồng thời bắn cháy nhà của ông
Nguyến Văn Nuôi, ông Trần Sĩ Liêm, và nhà cụ Cuông ở xóm giữa làng
Phương Liệt nhưng không có thương vong.
Đầu tháng giêng năm 1947 một cánh quân của Pháp đánh thăm dò ra
phía Việt Nam Học Xá (nay là đại học Bách Khoa) bị quân chủ lực của ta
chặn đánh chúng phải rút vào thành. Đề phòng địch đánh phá bệnh viện
Bạch Mai, nhân viên bệnh viện gấp rút chuyển dụng cụ y tế, máy móc ra
vùng tự do. Một số anh em tự vệ Phương Liệt cũng góp sức vận chuyển
một số dụng cụ thuốc men ra để nhờ nhà ông Mai Xuân Trang.
Ngày 15 tháng 1 năm 1947 Pháp tung một lực lượng mạnh đánh ra
Bạch Mai, ngã tư Trung Hiền, cơ sở vô tuyến điện Đại La và làng Hoàng
Mai. Trung đội tự vệ Phương Liệt cho hai tiểu đội sang phối hợp chiến đấu
ở Hoàng Mai, chặn đường xuống Đuôi Cá. Còn một tiểu đội chắn giữ ở cầu
Trắng, đầu làng Tám trên đường số 1, anh em đắp ụ chiến đấu ở đầu cầu và
đánh sập cầu không cho địch qua, đồng thời chuẩn bị chai "xăng kếp" đánh
xe tăng nếu chúng tiến xuống. Nhưng xe tăng địch dừng ở chùa Phương
Liệt, dùng pháo bắn xuống, không tiến quân bằng bộ binh. ở phía Hoàng
Mai và Tương Mai, tự vệ Phương Liệt cùng tự vệ địa phương cầm cự với
địch nhưng không đủ sức chống lại, nên bị thương vong tại chỗ 6 chiến sĩ
là các anh Bùi Văn Tiến, Bùi Văn Vi, Nguyễn Văn Ruộng, Nguyễn Gia
3
Chắt, Nguyễn Gia Thị. Các anh là những liệt sĩ đầu tiên của Phương Liệt
được tổ quốc ghi công từ những ngày đầu chống Pháp.
Trước tình hình đó, cấp trên cho đơn vị rút về làng Quang Tó, làng
Quỳnh Đô dưới Văn Điển để củng cố lực lượng. Một số tự vệ được chuyển
vào đơn vị tập trung của thành phố, có người được tổ chức đưa vào làm
nòng cốt trong hậu địch. Sau ngày toàn quốc kháng chiến, nhiều thanh niên
Phương Liệt tự nguyện tham gia chiến đấu và phục vụ chiến đấu trong
đoàn quân vệ quốc. Một số vào đơn vị công binh, một số vào cục quân y,
nhiều nhất là cục thông tin liên lạc ngành vô tuyến điện, có anh bổ sung
vào ban liên lạc đặc biệt quốc phòng tổng tư lệnh. Các anh lăn lộn trên
khắp chiến trường trong toàn quốc, có anh sát cánh cùng quân dân Pathet
Lào chiến đấu với tình nghĩa anh em cùng một chiến hào.
Nhiều thanh niên tham gia trong các tổ chức kháng chiến ở vùng tự
do như các ngành y tê, giáo dục, công nhân nhà in hoặc trong cơ quan của
Đảng và Chính phủ. Các cán bộ nòng cốt cũng được rút ra vùng tự do ở
phía Thanh Trì, Thường Tín. Chủ trương của thành uỷ và quận V là nhanh
chóng tập hợp lực lượng, chấn chỉnh đội ngũ ngay ở vùng tự do, dần dần
đưa lực lượng vào hoạt động tại địa bàn.
60 ngày đêm kiên cường đánh địch trong lòng Hà Nội , quân và dân
thủ đô đã hoàn thành nhiệm vụ vẻ vang. Đềm ngày 17 rạng ngày 18 tháng 2
năm 1947 trung đoàn thủ đô được lệnh rút khỏi thành phố, sau đó trung
đoàn Thăng Long cũng chuyển sang vùng tự do. Quân Pháp rảnh tay, tập
trung lực lượng đánh chiếm đường số 1, số 2, số 5 và các xã ngoại thành.
Phương Liệt nằm trong vùng tạm chiếm. Tháng 8 năm 1947 địch lập tề ở
làng để làm công cụ cho chúng. Lúc đầu, chúng đưa ông Mai Xuân Chung
ra làm tiên chỉ và ông Mai Xuân Trang ra làm lý trưởng. Các ông này làm
được một thời gian thì công an của ta bắt đưa ra vùng tự do vì ông Trung
yếu không đi được nên bị bắn tại chỗ còn ông Trang sau bị ốm chết ngoài
vùng kiểm soát của lực lượng kháng chiến.
4
Mặt trận Hà Nội sáp nhập khu Đề Thám, một số làng của khu Đống
Đa và Liên khu III thành lập quận V. Lúc đầu do đồng chí Minh Quang, sau
là đồng chí Nguyễn Kỷ làm bí thư quận uỷ. Tháng 4 năm 1947, hội nghị
quận uỷ bầu đồng chí Hồ Chúc làm bí thư quận uỷ và đồng chí Hà Đăng
Ấn làm chủ tịch uỷ ban kháng chiến quận V. Quận uỷ chủ trương đưa dân
về làng, đồng thời xây dựng cơ sở tổ chức kháng chiến ngay trong lòng
địch. Giữa năm 1947 dân về ngày càng đông, ta cũng đưa cán bộ về theo để
khôi phục lại phong trào. Quận V cử ông Nguyễn Văn Vĩnh người làng
Phương Liệt về tham gia tổ chức uỷ ban kháng chiến của làng. Các ông sau
đây tham gia uỷ ban từ cuối năm 1947:
- Ông Nguyễn Văn Túc chủ tịch uỷ ban kháng chiến
- Ông Nguyễn Văn Dậu phó chủ tịch
- Ông Nguyễn Văn Quảng thư ký
- Ông Nguyễn Văn Ứng thủ quỹ
Sau này bổ sung anh Bùi Văn Diệm, tự vệ chiến đấu làm uỷ viên
quân sự.
Công việc của uỷ ban kháng chiến là nhanh chóng ổn định cuộc sống
của nhân dân, chủ yếu là làm ruộng, một số làm nghề tự do và buôn bán vặt
- vận động nhân dân ủng hộ kháng chiến, trực tiếp giúp cán bộ vào hoạt
động ở nội thành đồng thời tổ chức lại lực lượng tự vệ chiến đấu. Nơi hội
họp của uỷ ban thường là ở nhà riêng của cán bộ uỷ ban. Việc cân nhắc
người ra lập tề là công việc phải tính toán ngoài mặt làm cho địch nhưng
ngầm giúp, che giấu cán bộ vào hoạt động cho ta. Sau khi ông Trang được
đưa ra vùng tự do, ta đưa ông Lê Trọng Giệc ra làm lý trưởng. Trước cách
mạng tháng 8 năm 1945 thời Pháp thuộc ông Giệc đã làm phó lý. Thời đó,
ông Giệc làm việc cho Pháp nhưng khéo léo che chở cho dân, nên bây giờ
uỷ ban chọn ông ra làm lý trưởng. Năm 1948 ông đã che chở một số cán bộ
ở vùng tự do vào vùng hoạt động và giữ được bí mật cho cán bộ uỷ ban làm
việc ngay trong làng. Một thời gian ngắn ông Giệc gần như bị lộ ta thay
5
ông Nguyễn Văn Khẩn làm lý trưởng. Năm 1949 ông Khẩn bị địch bắt vì
che dấu cán bộ nằm vùng. Năm 1950 - 1951, địch thay đổi tổ chức chính
quyền cơ sở là hội đồng hương chính. Lúc này ta vận động ông Mai Xuân
Long làm chủ tịch hội đồng, anh Nguyễn Gia Khánh làm thư ký, ông Lê
Trọng Giệc làm lý trưởng, ông Hoàng Văn Triệu làm phó lý, ông Nguyễn
Văn Cống làm thủ quỹ. Trong những năm gay go ác liệt nhất, chính quyền
này đã giúp, che chở cho cán bộ và cơ sở kháng chiến của ta tránh được
nhiều thiệt hại. Quan hệ nhân dân và những ngừơi kháng chiến với những
người ra làm việc cho địch không có hiềm khích, oán thù. Phong trào cách
mạng vẫn âm ỉ trong lòng dân Phương Liệt và luôn được giữa vững, phát
triển trong lòng địch. Cuộc sống của nhân dân lúc đầu có vất vả, làm ruộng
thì lỡ vụ, buôn bán thì không có vốn , không có cửa hàng. Sau dần cũng ổn
định nhờ có tình làng nghĩa xóm. Một số người làm quen với việc mua bán
trao tay, mau hàng trong thành phố ra vùng tự do bán, nhất là các hàng
dược phẩm vì ngoài tự do rất hiếm. Hàng thuốc và dụng cụ y tế được
khuyến khích nên nhiều người buôn bán từ vùng địch ra vùng tự do. Lợi
dụng số người này, lực lượng kháng chiến sử dụng làm đượng dây liên lạc,
đôi khi chuyển tài liệu trong số hàng hoá. Có người mang hàng ra bán ở
Phú Xuyên - Thường Tín, có người ra Cống Thần, Chợ Đại (Mỹ Đức) hoặc
rứng Thông của tỉnh Thanh Hoá. Giữ vùng tự do và vùng tạm chiến thường
xuyên được trao đổi tin tức nên những tin chiến thắng ở các chiến trường
cũng động viên và củng cố lòng tin cho nhân dân. Các lực lượng công an,
tình báo quân đội có điều kiện thâm nhập thuận lợi hơn. Năm 1948 - 1949
là năm lực lượng phát triển, phong trào nhân dân lên mạnh, sau khi có nghị
quyết của thành uỷ Hà Nội là "làm thất bại kế hoạch phòng tuyến của địch
và phát động phong trào du kích chiến tranh rộng rãi ở sau lưng địch để bao
vây lại chúng" thành uỷ chỉ thị: tăng cường cán bộ trong ngoại thành, đưa
thêm cán bộ vào nội thành lúc này, tránh được các cuộc càn quét của địch
6
ra vùng tự do đang diễn ra ác liệt, đồng thời khôi phục các phong trào trong
vùng địch.
Lực lượng công an trong thời gian này cử anh Trần Văn Bình (tức
Ngọ) anh Nguyễn Đắc Chi, anh Nguyễn Văn Tiến (tức Cấp) vào hoạt động
dựa vào gia đình cơ sở là bà Nguyến Thị Thận. Nhiều điệp báo viên như
chị Trương Thị Nhiễm, Trịnh Thị Hiên (người Hải Phòng) và anh Dưỡng
hoạt động thường xuyên vẫn không bị lộ. Cán bộ công an quận V là anh Lê
Văn Tám ẩn náu ở gia đình bà Mai Thị Liên. Anh Tăng và anh Đường do
gia đình ông Bùi Văn Khái nuôi dưỡng. Tình báo viên Nguyễn Khắc Thứ
được cụ Trần Văn Được nghèo khó nhất làng che dấu. Cụ Được bị địch bắt,
tra khảo rất giã man, vừa bị đánh đập, vừa bị chúng dùng lửa đốt râu, đưa
cụ đi khắp làng bắt chỉ điểm, nhưng cụ không khai báo. Chúng đưa về bốt
sen đầm ngã tư Vọng do tên Tây Lùn lấy cung cũng không được một lời
khai. Cụ đau ốm, không đủ điều kiện thuốc thang nên cụ chết trong sự
thương cảm của dân làng. Gia đình bà Lê Thị Nhàn và chồng là Trần Văn
Đức nuôi dưỡng công an Phạm Gia Đốc bị bắt cùng với con gái là điệp báo
viên Trần Thị Thuyết. Cả 3 người đều bị sát hại năm 1948. Sau này, năm
1997 Chính phủ tra truy tăng bà Lê Thị Nhàn là "bà mẹ Việt Nam anh
hùng" và cả 3 người là liệt sĩ (làng Phương Liệt chỉ có 1 bà mẹ Việt Nam
anh hùng đã hy sinh). Một đơn vị quân báo 250A và 310 của mặt trận Hà
Nội cử anh Vũ Ba, Nguyễn Văn Hậu và Nguyễn Văn Hồng vào hoạt động,
dựa vào cơ sở là gia đình bà Ba Đắng.
Thời gian này địch khủng bố gắt gao, nhưng ta cũng hoạt động rất
mạnh. Địch dựng lại bốt sen đầm (Gendarmerie) ở ngã tư Vọng do tên Tây
Lùn phụ trách. Trước đây năm 1942 chúng đã xây dựng bốt sen đầm này để
giữ an ninh ở khu vực ngoại thành, đến năm 1945 ta xoá bỏ. Tên Tây Lùn
đặc biệt nguy hiểm cho dân, ngoài ra nó còn tuyển dụng một số tên việt
gian, tay sai ác ôn có tiếng như: xếp trưởng Mai, xếp phó Cận, ác ôn Sử (ở
Thanh Nhàn) tên Cương con (ở Quỳnh Lôi) tên Thịnh răng Vàng, tên Nãi
7
(ở Định Công). Chúng thay nhau đi rình mò ở các xóm, ngõ ngách. Chúng
đánh và hành hạ cán bộ kháng chiến bị bắt, hoặc những người bị tình nghi
không ghê tay. Tuy vậy phong trào cách mạng vẫn giữa vững. Cuối năm
1948 tự vệ Phương Liệt quyết định diệt trừ tên Tây Lùn gian ác. Đồng chí
Minh được cử đi làm nhiệm vụ, chẳng may bị chúng xát hại nên tên Tây
Lùn thoát chết, nhưng địch cũng phải chuyển nó đi nơi khác. Năm 1949 ,
du kích Phương Liệt tổ chức đặt mìn ở đường xe lửa khu vực cầu Trắng
đầu làng Tám . Tầu bị trật đường ray bị hư hỏng một số toa xe. Du kích
thuộc đơn vị anh Hậu đã có kế hoạch giải vây, cướp tù ở nghĩa địa tây (nay
là khu vực tập thể Nguyễn Công Trứ) đã cứu hai anh Vũ Ba đại đội trưởng
và anh Cương là chính trị viên chốn thoát. Tháng 5 năm 1949 tổ du kích
Phương Liệt gồm các anh Diệm, Cơ, Chăm cùng với anh Thắng, anh Bình,
anh Đạt cán bộ công án vào nội thành nắm tình hình địch đồng thời tìm chỗ
sơ hở của chúng để phá hoại nhằm gây khí thế và rút kinh nghiệm cho việc
tổ chức chiến đấu sau này. Các anh đã bí mật đột nhập vào nhà máy làm
nước đá ở phố Trần Nhật Duật, dùn mìn phá hỏng một máy làm nước đá.
Chúng phải ngừng hoạt động một số ngày.
Ta ra vào hoạt động ít bị lộ và không mấy người bị bắt vì có cơ sở
che dấu tốt. Nếu có ai bị lộ thì không chuyển ra vùng tự do mà lại chuyển
vào vùng nội thành nên địch bị bất ngờ. Việc thâm nhập vào làng theo ám,
tín hiệu bí mật của gia đình cơ sở nhà ông Đãng ở giữa làng. Nhà này cạnh
đường đi từ cuối làng lên đầu làng trông ra ao Hạ. Cán bộ từ vùng tự do
vào làng nếu thấy ánh lửa của chiếc đèn treo ở cửa nhà ông Đãng bật sáng
tức là không có địch , không nguy hiểm. Ngược lại nếu không có ánh đèn
đành phải ngâm mình dưới ao hoặc phải trở ra. Tài liệu, vũ khí và nơi hội
họp của cán bộ thường là ở hậu cung đình làng, ở gầm sàn gỗ trong đình,
hoặc ở bốn lò gạch giưã cánh đồng, có khi dấu ở chùa, sau này địch chiếm
chùa thì chuyển lên miếu cụ Trạng ở đầu làng.
8
Trong những năm 1949 - 1950 và sau này, địch dáo diết bắt lính bổ
sung cho các đơn vị chiến đấu bị tổn thất nặng nề trong chiến tranh.
Phương Liệt có khoảng 30 người bị bắt làm quân dịch, trong đó có 6 người
được ông Nguyễn Văn Diêu là người làng, làm chánh quản trong quân đội
Pháp ở sân bay Bạch Mai cho làm lính thợ và làm dịch vụ. Nhiều người
vào lính tìm cách chốn ra vùng tự do hoặc gia đình dùng vật chất, tiền bạc
xin được về. Rất ít người tham gia chiến đấu trong các binh chủng của
nguỵ quân. Sau năm 1954 những người này đều trở về làng sinh sống.
Cuối năm 1949 tổ quân báo của mặt trận Hà Nội vào điều tra sân bay
Bạch Mai để có kế hoạch chiến đấu. Tổ quân báo này do anh Nguyễn Văn
Hậu chỉ huy (lúc này anh Hậu từ du kích chuyển sang lực lượng tập trung)
liên lạc với ông Nguyễn Văn Diêu là người của ta cung cấp tài liệu, giúp tổ
quân báo về cách bố trí của địch, khu vực để máy bay và các thiết bị khí tài
của không quân. Hướng trinh sát từ phía Đông là hướng nghi binh, hướng
chủ yếu là từ phía Nam (Định Công) và Tây Nam từ Khương Trung,
Khương Hạ vào. Đềm 17 tháng 1 năm 1950 tiểu đoàn 108 đưa đội hình vào
sân bay. Đúng 24 giờ, toàn bộ sân bay chìm trong khói lửa, bộ đội ta rút lui
an toàn. Trận này địch thiệt hại 60 vạn lít xăng dầu, 32 tấn vũ khí đạn dược,
cháy 25 máy bay và nhiều trang bị kĩ thuật của không quân.
Sau đêm đó, các làng xung quanh bị địch kiểm tra ngắt ngao. Làng
Khương Trung bị địch khủng bố mạnh nhân dân phải chạy đi nơi khác.
Địch phong toả ngã tư Vọng và Phương Liệt đề phòng quân ta phát triển
vào nội thành. Chúng lục soát trong làng, từng toán có chỉ điểm vào các
xóm nghi ta dấu quân. Chúng bắt nhiều cán bộ và cơ sở như chị Nguyễn
Thị Hoàn, NguyễnThị Biên, Nguyễn Thị Tám, anh Nguyễn Văn Lơ,
Nguyễn Văn Kính, Hoàng Văn Hoạch và ông Nguyễn Văn Khẩn (bỏ tù ở
các trại giam Hà Nội ) chúng bắt được anh Nguyễn Văn Hậu và 13 chiến sĩ
ở đội quân báo đưa về trại giam. Riêng anh Hậu là người làng Phương Liệt,
chúng tập họp dân ở sân đình, bắt anh Hậu ra tra tấn và chỉ điểm những cơ
9
sở của ta. Anh Hậu không khai báo gì, chúng đưa về trại giam xét hỏi, sau
đưa đi tù ở Côn Đảo. Thành tích của đơn vị đánh sân bay sau này được
tuyên dương và được nhận kỷ niệm chương. Phương Liệt có 10 đồng chí
được nhận huy chương chiến thắng sân bay Bạch Mai. Cuối năm 1952 địch
khủng bố mạnh, vì bị thiệt hại quá lớn ở các chiến trường và ngay trong
vùng chúng kiểm soát. Do có người bị địch tra khảo đã cung khai những
người trong uỷ ban kháng chiến của làng nên tất cả 5 cán bộ uỷ ban đều bị
bắt tù.
Ban chấp hành đảng bộ Hà Nội chỉ đạo quận V cử cán bộ vào gây
dựng lại phong trào, chủ trương nắm tề hơn phá tề ở ngoại thành, tiếp tục
chuẩn bị cho chiến trường làm nhiệm vụ "chuyển mạnh sang tổng phản
công". Tháng 1 năm 1952 Hội nghị Ban chấp hành đảng bộ Hà Nội đề ra
nhiệm vụ chính là "tích cực tranh thủ quần chúng, phá âm mưu lấy chiến
tranh nuôi chiến tranh, lấy người Việt đánh người Việt của chúng". Chấp
hành chủ trương trên cán bộ được tiếp tục tăng cường thâm nhập các làng
tề, cơ sở Phương Liệt lại nối với vùng tự do. Anh Nguyễn Văn Hồng và
một số người lại tiếp tục buôn bán tân dược và hàng tạp hoá ra vùng tự do
mang tín tức qua lại giữa hai vùng, nhóm lại lòng tin trong nhân dân. Năm
1953, địch chủ trương mở rộng sân bay Bạch Mai, bắt nhân dân chuyển ra
vùng Mơ Táo, khu vực Mai Động. Địch cưỡng ép các gia đình phải rời nhà
và san phẳng nhiều xóm làm bãi để xe tăng, khu gia binh, đồng thời chiếm
một số nhà gạch làm nhà ở. Chúng cấp cho mỗi gia đình di chuyển một căn
nhà lợp tôn ở nơi định cư mới và một số tiền để ổn định lúc đầu. Một số gia
đình chuyển ra sinh sống ở trước bệnh viện Bạch Mai (nay là phố Đồng
Tâm thuộc quận Hai Bà Trưng). Cuối năm 1953 và giữa năm 1954 địch
thua to dân lại chuyển về làng nơi ở cũ. Đông xuân năm 1953 - 1954, thực
dân Pháp bộc lộ chỗ yếu cơ bản là "vừa tập trung quân thành quả đấm
mạnh, vừa phải dải quân giữ đất" , trong khi chiến thắng của quân ta khắp
các chiến trường trong thế tổng phản công. Nhân dân ta phấn khởi, tinh
10
thần quân địch càng rệu rã, bọn sĩ quan Pháp gia sức quản lý, kìm kẹp,
không cho lính nguỵ chạy chốn về hàng quân ta.
Chiến dịch Điện Biên Phủ thắng lợi, ngày 20 tháng 7 năm 1954 hiệp
định Genève được ký kết. Ngày 25 tháng 7 năm 1954, ban chấp hành trung
ương Đảng ra lời kêu gọi vạch rõ "cuộc chiến tranh aí quốc của nhân dân ta
bước sang giai đoạn mới. Nhiệm vụ trước mắt lúc này là đòi thực dân Pháp
chấp hành nghiêm chỉnh hiệp định Genève giải phóng hoàn toàn miền
Bắc". Theo quy định Hà Nội nằm trong khu vực tập kết 80 ngày của quân
đội Pháp. Lúc này chúng tìm mọi cách phá cơ sở vật chất của ta. ở bệnh
viện Bạch Mai các nhân viên tranh thủ cất dấu các máy móc có giá trị và
nhiều dụng cụ y tế ra các vùng xung quanh bệnh viện. Phương Liệt được
cán bộ công an nằm vùng chỉ đạo theo dõi những phần tử nghi là địch cài
cắm tay chân ở lại. Một số bà con ở quanh vùng và du kích Phương Liệt
tiếp tục truy lùng bọn ác ôn ở bốt sen đầm ngã tư Vọng nhưng chúng đã kịp
lẩn chốn. Ta cũng phải nghiêm chỉnh thực hiện hiệp hiệp định Genève nên
không phá bốt Vọng để sau này các đơn vị tiếp quản của ta sử dụng.
Mặc dù hiệp định đã ban hành, nhưng quân đội Pháp vẫn mở các
cuộc hành quân ra vùng ngoại ô để uy hiếp tinh thần nhân dân ta , ngăn cản
việc chuẩn bị tiếp quản của các lực lượng kháng chiến. Địch rút khỏi làng
Phương Liệt, chúng bị nhân dân đấu tranh không cho phá phách đình chùa,
nhà cửa của dân, nhưng chúng cũng kịp vơ vét một số tài sản của dân. Việc
tổ chức đón tiếp các lực lượng tiếp quản cũng được chuẩn bị khẩn trương.
Thanh niên thực hiện tốt việc tuyên truyền chiến thắng của quân và dân ta
thông báo về nhiệm vụ của mọi người dân Hà Nội về chính sách của ta
trong tình hình mới. Các bà, các chị ở hội phụ nữ chuẩn bị may cờ đỏ sao
vàng. Cờ tổ quốc tung bay trên các đường làng ngõ xóm, các gia đình
chuẩn bị đón người thân trở về. Một số gia đình có người làm việc trong
các công sở của địch đã khéo léo động viên, ngăn không cho xuống Hải
Phòng theo địch vào Nam.
11
Ngày 9 tháng 10 năm 1954, đại tướng Võ Nguyên Giáp ra nhật lệnh
cho các đơn vị vào tiếp quản, uỷ ban hành chính Hà Nội ra thông cáo cho
đồng bào, chiến sĩ thủ đô. Nhân dân Phương Liệt hân hoan đón đoàn quân
từ vùng tự do vào tiếp quản sân bay Bạch Mai và nhà thương Vong. Sớm
ngày 10 tháng 10 năm 1954 từ sân bay Bạch Mai, hơn 100 xe quân sự và
bộ binh cơ giới của đại đoàn 308 hàng ngũ chỉnh tề, diễu qua ngã tư
Phương Liệt đến ngã tư Vọng kéo quân qua ô Đồng Lầm lên ga Hà Nội,
một cánh quân từ ngã tư Trung Hiền lên ô Cầu Dền vào thành phố. Cảnh
tượng trên đây ghi dấu ấn không bao giờ phai mờ trong lòng người dân Hà
Nội . Trong các đoàn quân chiến thắng trở về, có những người con dân
Phương Liệt tham gia tiếp quản quê hương. Nhưng cũng trong niềm vui
trung này, có một số người lặng lẽ chốn vào Nam cùn vợ con, hoặc vì mặc
cảm với bạn bè trong đoàn người chiến thắng, không giám gặp lại.
Thắng lợi trong cuộc chiến đấu giải phóng hoàn toàn miền Bắc mởi
là thắng lợi bước đầu. Hồ Chủ Tịch kêu gọi "không có gì quý hơn độc lập
tự do". Nhân dân ta có lòng yêu nước, khát khao độc lập tự do, được Đảng
cộng sản lãnh đạo đã giành được độc lập tự do năm 1945, nhưng phải hi
sinh sương máu gần 8 năm trời mớ bảo vệ được độc lập tự do. Nhân dân
Phương Liệt tự hào vì đã góp phần vào cuộc đấu tranh bảo vệ độc lập tự do
hôm nay.
12