Tải bản đầy đủ (.pdf) (50 trang)

Khóa luận tốt nghiệp GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP THƯƠNG mại QUỐC tế BẰNG TRỌNG tài – lý LUẬN và THỰC TIỄN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (816.84 KB, 50 trang )

BỘ TƯ PHÁP
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
--------------

GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ BẰNG
TRỌNG TÀI – LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP

Hà Nội - 2015

1


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Viết tắt

Viết đầy đủ

AAA

Hiệp hội Trọng tài Hoa Kỳ
(American Arbitration Association)

HKIAC

Trung tâm Trọng tài quốc tế Hồng Kông
(Hongkong International Arbitration Centre)

ICC


Phòng thương mại quốc tế
(International Chamber of Commerce)

ICSID

Trung tâm giải quyết các tranh chấp đầu tư quốc tế
(International Centre for the Settlement of Investment Disputes)

LCIA

Tòa án Trọng tài quốc tế London
(London Court of International Arbitration)

SIAC

Trung tâm Trọng tài quốc tế Singapore
(Singapore International Arbitration Centre)

UNCITRAL

Ủy ban về luật thương mại quốc tế của Liên hợp quốc
(United Nations Commission on International Trade Law)

VIAC

Trung tâm Trọng tài quốc tế Việt Nam
(Vietnam International Arbitration Centre)

1



MỤC LỤC

Trang
Trang bìa phụ

i

Lời cảm ơn

ii

Lời cam đoan

iii

Danh mục các chữ viết tắt

iv

Mục lục

v

LỜI NÓI ĐẦU

1

1. Tính cấp thiết của đề tài


1

2. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn

1

3. Mục đích nghiên cứu

1

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

1

5. Phương pháp nghiên cứu

2

6. Kết cấu của khóa luận

2

NỘI DUNG

3

Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ GIẢI
QUYẾT TRANH CHẤP THƢƠNG MẠI QUỐC TẾ BẰNG

3


TRỌNG TÀI
1.1. Khái niệm tranh chấp thương mại quốc tế

3

1.1.1. Khái niệm thương mại quốc tế

3

1.1.2. Khái niệm tranh chấp thương mại quốc tế

4

1.2. Trọng tài thương mại quốc tế

5

1.2.1. Về tính “thương mại”

5

1.2.2. Về tính “quốc tế”

6

1.3. Các nguyên tắc trong giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế bằng
trọng tài
1


7


1.3.1. Nguyên tắc thỏa thuận

8

1.3.2. Nguyên tắc bình đẳng giữa các bên tranh chấp

9

1.3.3. Nguyên tắc độc lập và vô tư của trọng tài viên trong quá

10

trình giải quyết tranh chấp
1.3.4. Nguyên tắc giữ bí mật trong giải quyết tranh chấp

11

1.3.5. Nguyên tắc xét xử một lần

12

1.4. Phân loại trọng tài thương mại quốc tế

13

1.4.1. Trọng tài thường trực


13

1.4.2. Trọng tài ad-hoc

14

Chương 2: PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP
THƢƠNG MẠI QUỐC TẾ BẰNG TRỌNG TÀI

2.1. Thẩm quyền của trọng tài

16

16

2.1.1. Thẩm quyền theo vụ việc

16

2.1.2. Thẩm quyền theo thỏa thuận trọng tài

16

2.2. Luật áp dụng đối với tố tụng trọng tài

19

2.3. Luật áp dụng đối với nội dung tranh chấp

22


2.4. Luật áp dụng đối với thỏa thuận trọng tài

26

2.5. Công nhận và thi hành phán quyết trọng tài quốc tế

29

2.5.1. Cơ sở pháp lý

29

2.5.2. Công nhận và thi hành phán quyết trọng tài nước ngoài theo

29

Công ước New York
Chương 3: THỰC TIỄN VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM
KHẮC PHỤC NHỮNG HẠN CHẾ VỀ GIẢI QUYẾT

32

TRANH CHẤP THƢƠNG MẠI QUỐC TẾ
BẰNG TRỌNG TÀI
3.1. Thực tiễn giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế tại một số trung

2

32



tâm trọng tài trên thế giới
3.1.1. Tòa án Trọng tài Quốc tế của Phòng Thương mại Quốc tế

32

3.1.2. Tòa án Trọng tài Quốc tế London LCIA

32

3.1.3. Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam VIAC

33

ICC

3.2. Những hạn chế trong việc giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế

33

bằng trọng tài và một số kiến nghị nhằm khắc phục những hạn chế đó
3.2.1. Vấn đề chi phí

33

3.2.2. Vấn đề thẩm quyền hạn chế của trọng tài viên

34


3.2.3. Vấn đề giải quyết tranh chấp nhiều bên

34

3.2.4. Vấn đề các quyết định trọng tài mâu thuẫn

39

3.2.5. Vấn đề công nhận và thi hành phán quyết trọng tài chưa

39

hiệu quả
41

KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

3


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nền kinh tế nước ta sau khi đổi mới và mở cửa đã có những chuyển biến tích cực,
hợp tác và giao lưu thương mại ngày càng phát triển. Song cũng trong bối cảnh đó, các
quan hệ thương mại ngày càng trở nên đa dạng và phức tạp. Các quan hệ này không chỉ
được thiết lập giữa các chủ thể kinh doanh trong nước mà còn mở rộng ra với các chủ
thế nước ngoài. Chính vì vậy, tranh chấp thương mại quốc tế là điều không thể tránh
khỏi.
Pháp luật trên thế giới quy định nhiều hình thức giải quyết tranh chấp như: thương

lượng, hòa giải, tòa án hay trọng tài. Việc lựa chọn phương thức nào để giải quyết
tranh chấp có tầm quan trọng đặc biệt bởi nó có thể quyết định mức độ thiệt hại của
doanh nghiệp khi một thương vụ bị đổ bể. Hiện nay, không có phương thức giải quyết
tranh chấp nào chiếm vị thế tuyệt đối cả. Tuy nhiên, với những ưu điểm vượt trội của
mình thì trọng tài đã và đang trở thành phương thức được các thương nhân “ưu ái” hơn
hẳn. Từ thực tiễn trên, tác giả quyết định lựa chọn vấn đề: “Giải quyết tranh chấp
thương mại quốc tế bằng trọng tài – lý luận và thực tiễn” làm đề tài cho khóa luận tốt
nghiệp của mình.
2. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn
Khóa luận đi sâu phân tích các vấn đề lý luận chung và pháp luật giải quyết tranh
chấp thương mại quốc tế bằng trọng tài, tìm hiểu về thực tiễn giải quyết tranh chấp
bằng trọng tài trên thế giới. Căn cứ vào những vấn đề lý luận đã xây dựng và thực tiễn
nghiên cứu, khóa luận đề ra những giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật để hoạt động
giải quyết tranh chấp bằng trọng tài có hiệu quả hơn.
3. Mục đích nghiên cứu
Khóa luận hướng tới mục đích nhằm làm sáng tỏ pháp luật hiện hành và thực tiễn
về việc giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế bằng trọng tài. Từ đó, đưa ra ý kiến
đóng góp, đề xuất phương hướng hoàn thiện, hạn chế rủi ro trong hoạt động giải quyết
tranh chấp bằng trọng tài.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4


Khóa luận chủ yếu nghiên cứu các quy định của pháp luật trên thế giới về việc giải
quyết tranh chấp thương mại quốc tế bằng trọng tài, được quy định cụ thể trong luật
trọng tài của các quốc gia, các tổ chức trọng tài quốc tế; trên cơ sở có sự so sánh pháp
luật trọng tài của các quốc gia với nhau.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng phối hợp các phương pháp phân tích, so sánh và tổng hợp các nguồn
tài liệu mà tác giả sưu tầm được trong quá trình chuẩn bị và viết luận văn. Hệ thống tài

liệu được sưu tầm tại các thư viện của Việt Nam, các phương tiện thông tin đại chúng
như báo, đài, truyền hình, internet...
6. Kết cấu của khóa luận
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn được chia thành ba chương chính:
Chương 1: Những vấn đề lý luận chung về giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế
bằng trọng tài.
Chương 2: Pháp luật về giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế bằng trọng tài.
Chương 3: Thực tiễn và một số kiến nghị nhằm khắc phục những hạn chế về giải quyết
tranh chấp thương mại quốc tế bằng trọng tài.

5


CHƢƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP
THƢƠNG MẠI QUỐC TẾ BẰNG TRỌNG TÀI
1.1. Khái niệm tranh chấp thƣơng mại quốc tế
Trong bối cảnh toàn cầu hóa, cùng với sự bùng nổ các quan hệ thương mại quốc
tế, những tranh chấp thương mại quốc tế cũng không ngừng gia tăng về số lượng và về
mức độ phức tạp. Chính vì vậy, một trong những vấn đề mà các chủ thể tham gia vào
các giao dịch thương mại quốc tế cân nhắc đầu tiên đó là việc giải quyết những tranh
chấp có thể phát sinh trong hoạt động thương mại quốc tế. Để tìm kiếm được một cơ
chế giải quyết có hiệu quả các tranh chấp này, trước tiên cần phải hiểu một cách thống
nhất về thương mại quốc tế cũng như tranh chấp thương mại quốc tế hiện nay.
1.1.1. Khái niệm thƣơng mại quốc tế
Hoạt động thương mại quốc tế đã ra đời từ rất sớm và trải qua nhiều giai đoạn
phát triển khác nhau. Cùng với quá trình đó cũng có rất nhiều quan điểm khi bàn về
khái niệm “thương mại quốc tế”.
Luật Thương mại Việt Nam 2005 đưa ra khái niệm “thương mại” tại Điều 3.1:
“hoạt động thương mại là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng

hóa, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục đích
sinh lợi khác”.
Trong giáo trình Luật thương mại quốc tế của trường Đại học Kinh tế quốc dân
[36], PGS.TS Nguyễn Hữu Viện và TS. Trần Văn Nam đã đưa ra quan điểm của mình
về “thương mại quốc tế”, theo đó, “thương mại quốc tế là sự trao đổi hàng hóa và dịch
vụ giữa các thương nhân có quốc tịch khác nhau ở các nước khác nhau nhằm mục đích
lợi nhuận”. Yếu tố “quốc tế” trong khái niệm này thể hiện ở chỗ các bên có quốc tịch
hoặc trụ sở thương mại hoặc nơi cư trú thường xuyên khác nhau.
Tìm hiểu giáo trình Luật thương mại quốc tế của trường Đại học Luật Hà Nội
[38], có nhận định cho rằng: “Hoạt động thương mại quốc tế là những hành vi thương
mại có yếu tố nước ngoài được thực hiện bởi các thương nhân”. Khái niệm này mở
rộng phạm vi của yếu tố “quốc tế” hơn so với khái niệm trước, đó là một hoạt động

6


thương mại còn được coi là có yếu tố quốc tế nếu hợp đồng được ký kết ở nước ngoài
hoặc đối tượng của quan hệ hợp đồng tồn tại ở nước ngoài.
Như vậy, dù có nhiều cách giải thích về “thương mại quốc tế” nhưng về bản chất,
chúng đều có những điểm chung. Vì vậy, có thể khái quát lại như sau: thương mại quốc
tế là sự trao đổi, mua bán hàng hóa, cung ứng các dịch vụ giữa các thương nhân với
nhau nhằm mục đích lợi nhuận và luôn tồn tại trong những giao dịch này ít nhất một
yếu tố quốc tế. Đó có thể là quốc tịch của các bên trong quan hệ thương mại khác nhau
hoặc có sự dịch chuyển qua biên giới quốc gia của hàng hóa là đối tượng của hợp đồng
hoặc hợp đồng thương mại giữa các thương nhân được thực hiện ở những quốc gia
khác nhau.
1.1.2. Khái niệm tranh chấp thƣơng mại quốc tế
Trong thương mại quốc tế, tranh chấp sẽ phát sinh khi một trong hai bên không
thực hiện hoặc thực hiện không đúng các thỏa thuận giữa các bên. Tranh chấp thương
mại quốc tế luôn là những tranh chấp phát sinh từ các giao dịch thương mại quốc tế

cho dù nó có hợp đồng hay không. Về bản chất, tranh chấp thương mại quốc tế là
những mâu thuẫn, xung đột về lợi ích giữa các chủ thể tham gia vào quan hệ thương
mại quốc tế.
Trên thế giới, quan hệ thương mại quốc tế được phân biệt bằng hai thuật ngữ
tiếng Anh, một là “International trade” chỉ quan hệ thương mại quốc tế được thiết lập
giữa các quốc gia và các tổ chức liên chính phủ. Hai là “International commerce” chỉ
quan hệ thương mại quốc tế giữa các thương nhân với nhau. Xuất phát từ bản chất
“công” của quan hệ thương mại quốc tế giữa các quốc gia với nhau mà tranh chấp phát
sinh từ loại quan hệ này sẽ được giải quyết bằng các phương thức được ghi nhận trong
các điều ước quốc tế hoặc các nghị quyết của các tổ chức quốc tế mà quốc gia là thành
viên như: đàm phán trực tiếp, hòa giải, trọng tài công (tòa trọng tài thường trực
Lahaye, trung tâm giải quyết các tranh chấp đầu tư giữa quốc gia và công dân của quốc
gia khác ICSID…), tòa án quốc tế… [33, tr.53]. Trong trường hợp các quốc gia chưa
ký kết hoặc tham gia điều ước quốc tế về thương mại thì, “không có nghĩa vụ chung
nào ràng buộc các nhà nước trong quan hệ thương mại với nhau” [43, tr.9] và tranh

7


chấp thường được giải quyết theo thủ tục ngoại giao do chính các bên thỏa thuận [38,
tr.9]. Ví dụ: tranh chấp thương mại giữa các quốc gia là thành viên WTO được giải
quyết bởi Cơ quan giải quyết tranh chấp DSB (Dispute Settlement Body). Đối với
tranh chấp phát sinh từ quan hệ thương mại quốc tế giữa các thương nhân thì phương
thức giải quyết tranh chấp khá đa dạng: thương lượng, hòa giải, trọng tài tư, tòa án
quốc gia… Trong phạm vi đề tài luận văn về “giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế
bằng trọng tài”, tác giả xin chủ yếu đi sâu vào nghiên cứu về trọng tài thương mại quốc
tế.
1.2. Trọng tài thƣơng mại quốc tế
Việc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài đang ngày càng trở nên phổ biến. Tuy
nhiên, hiện nay khi đặt ra câu hỏi: “trọng tài là gì?” thường nhận được những câu trả

lời không thống nhất [50, tr.1]. Luật mẫu UNCITRAL không đưa ra khái niệm mà chỉ
giải thích: “Trọng tài là bất cứ hình thức Trọng tài có hoặc không có sự giám sát của
tổ chức” còn theo Hiệp hội trọng tài Hoa Kỳ (AAA) thì: “Trọng tài là cách thức giải
quyết tranh chấp bằng cách đệ trình vụ tranh chấp cho một hoặc một số người khách
quan xem xét giải quyết và họ sẽ đưa ra quyết định cuối cùng có giá trị bắt buộc các
bên tranh chấp phải thi hành”.
Ngày nay, khi đề cập đến việc giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế bằng
trọng tài với tư cách là một phương thức giải quyết tranh chấp ngoài tòa án, khoa học
pháp lý, văn kiện pháp lý quốc tế cũng như pháp luật các quốc gia đều sử dụng thuật
ngữ “International Commercial Arbitration” với nghĩa là trọng tài thương mại quốc tế.
Trọng tài thương mại quốc tế luôn mang những đặc điểm chung của một trọng tài. Bên
cạnh đó, nó còn có những đặc điểm riêng đó là tính thương mại và tính quốc tế.
1.2.1. Về tính “thƣơng mại”
Nhìn chung, dưới góc độ lý luận, các học giả trên thế giới đưa ra nhiều khái niệm
về “thương mại” được giải thích chi tiết mà điểm chung của nó là đều là những giao
dịch kinh doanh giữa các thương nhân với nhau và mục đích chính của họ là lợi
nhuận. Điều này khác hẳn với mục đích sinh hoạt, tiêu dùng của các giao dịch dân sự
như việc chia tài sản thừa kế, hợp đồng tặng cho hoặc việc chia tài sản trong ly hôn.

8


Dưới góc độ pháp luật quốc gia, khái niệm “thương mại” lại không thống nhất
như vậy. Mặc dù Công ước New York 1958 về công nhận và thi hành phán quyết
trọng tài nước ngoài đã cố gắng ghi nhận một sự giải thích về thuật ngữ “thương mại”
nhưng lại dành cho các nước quyền bảo lưu đối với khái niệm này. Luật mẫu
UNCITRAL tuy không đưa ra định nghĩa về khái niệm “thương mại” nhưng ở chú
giải Điều I đã nêu ra: “Các quan hệ mang tính chất thương mại bao gồm các giao
dịch mua bán hàng hóa, dịch vụ; thỏa thuận phân phối, đại diện hoặc đại lý thương
mại, thuê mua xây dựng công trình; tư vấn kỹ thuật; li xăng, đầu tư; tài chính ngân

hàng, bảo hiểm; hợp đồng thăm dò, khai thác; liên doanh và các hình thức hợp tác
kinh doanh; vận tải hành khách, hàng hóa bằng đường hàng không, đường sắt, đường
bộ hoặc đường biển”. Tuy nhiên, cách giải thích này chỉ được sử dụng như một tài
liệu tham khảo cho các quốc gia xây dựng khái niệm thương mại trong pháp luật nước
mình.
1.2.2. Về tính “quốc tế”
Tính “quốc tế” được xác định dựa trên hai yếu tố:
a. Tính chất của quan hệ phát sinh tranh chấp
Tính chất quốc tế của trọng tài không có nghĩa là buộc các bên nhất định phải có
quốc tịch khác nhau. Hợp đồng vẫn có thể mở rộng phạm vi ra khỏi biên giới quốc gia
khi ví dụ như, một hợp đồng được kí kết giữa các chủ thể cùng quốc tịch nhưng việc
thực hiện hợp đồng lại ở một nước khác, hoặc trong trường hợp, hợp đồng được kí kết
giữa một nhà nước và một chi nhánh của công ty nước ngoài kinh doanh trên lãnh thổ
nước đó [38, tr.19]. Như vậy, phạm vi tính chất “quốc tế” của quan hệ được giải quyết
bởi trọng tài của ICC khá rộng. Tóm lại, có thể khái quát rằng: một tranh chấp được coi
là có tính quốc tế nếu nó có liên quan đến bất kì yếu tố nước ngoài nào, ví dụ: địa điểm
kí kết hợp đồng ở nước ngoài, địa điểm thực hiện hợp đồng ở nước ngoài, địa điểm xảy
ra hành vi vi phạm ở nước ngoài…
b. Đặc điểm các chủ thể tham gia tranh chấp
Đặc điểm này thường được xác định dựa vào: các chủ thể tham gia tranh chấp có
quốc tịch khác nhau hoặc trụ sở thương mại ở các nước khác nhau. Cách xác định yếu

9


tố “quốc tế” dựa vào yếu tố chủ thể đã được ghi nhận trong công ước châu Âu 1961 về
trọng tài thương mại quốc tế tại Điều 1.1(a):
“Công ước này sẽ áp dụng đối với:
(a). Thỏa thuận trọng tài được ký kết với mục đích giải quyết tranh chấp phát
sinh từ thương mại quốc tế giữa các cá nhân hoặc pháp nhân có nơi cư trú thường

xuyên hoặc trụ sở ở các nước ký kết khác nhau…”.
Bên cạnh đó, để xác định tính quốc tế của trọng tài, có thể áp dụng theo Điều 1.3
Luật mẫu UNCITRAL:
“ Trọng tài là quốc tế nếu:
(a) Vào thời điểm ký kết thoả thuận trọng tài các bên ký kết có trụ sở thương mại ở các
nước khác nhau, nếu các bên có nhiều trụ sở kinh doanh thì tính đến trụ sở kinh
doanh có quan hệ mật thiết nhất đối với thỏa thuận trọng tài, còn nếu các bên
không có trụ sở kinh doanh thì sẽ căn cứ theo nơi cư trú thường xuyên của các bên;
hoặc:
(b) Một trong các địa điểm sau đây nằm ở ngoài lãnh thổ của nước nơi các bên có trụ
sở:
(i) Địa điểm tiến hành trọng tài, nếu điều này được qui định trong thoả thuận trọng
tài hoặc được xác định phù hợp với thoả thuận này
(ii) Địa điểm nơi một phần chủ yếu của các nghĩa vụ phát sinh từ quan hệ thương
mại phải được thực hiện hoặc nơi đối tượng của vụ tranh chấp có liên hệ gắn
bó nhất.
(c) Các bên ký kết đã thoả thuận với nhau là đối tượng của thoả thuận trọng tài có liên
hệ đến hai hoặc nhiều nước”.
Như vậy, trọng tài thương mại quốc tế là phương thức giải quyết tranh chấp mà
sự bắt đầu của nó dựa trên thỏa thuận của các bên nhằm giải quyết các tranh chấp
thương mại có yếu tố nước ngoài bằng một Hội đồng trọng tài gồm một hoặc nhiều
trọng tài viên trên cơ sở trình tự, thủ tục và pháp luật do các bên tự do lựa chọn.
1.3. Các nguyên tắc trong giải quyết tranh chấp thƣơng mại quốc tế bằng trọng
tài

10


1.3.1. Nguyên tắc thỏa thuận
Nguyên tắc thỏa thuận được coi là nguyên tắc nền tảng của trọng tài thương mại

quốc tế. Theo Điều 7.1 Luật mẫu UNCITRAL: “Thỏa thuận trọng tài là thỏa thuận
mà các bên đưa ra trọng tài mọi hoặc các tranh chấp nhất định phát sinh giữa các
bên về quan hệ pháp lý xác định, dù là quan hệ hợp đồng hay không phải là quan hệ
hợp đồng…”. Thỏa thuận trọng tài chính là điều kiện để giải quyết tranh chấp bằng
trọng tài. Hay nói cách khác, sẽ không có trọng tài nếu như không có thỏa thuận trọng
tài.
Nguyên tắc thỏa thuận được ghi nhận với hai nội dung:
Thứ nhất: các yêu cầu về trọng tài viên
Theo Luật mẫu UNCITRAL, các bên có quyền tự do thỏa thuận về số lượng
trọng tài viên cũng như cách thức bổ nhiệm trọng tài viên. Trong trường hợp các bên
không có thỏa thuận, Luật mẫu ấn định hội đồng trọng tài gồm 03 thành viên (Điều
10.1, Điều 11.1 và Điều 11.2 Luật mẫu UNCITRAL). Quy định này cũng được pháp
luật Đức kế thừa. Luật trọng tài thương mại Việt Nam 2010 cũng có quy định tương tự
tại Điều 39. Điều 13.2 Luật Trọng tài Anh quy định thành phần trọng tài được mặc
định là 01 thành viên trong trường hợp các bên không có thỏa thuận; trong trường hợp
các bên thỏa thuận có 02 trọng tài viên thì cần phải chỉ định thêm một người làm chủ
tịch, trừ khi các bên có thỏa thuận khác.
Về cách thức chỉ định trọng tài viên thì luật các nước cơ bản là giống với quy
định trong Luật mẫu UNCITRAL. Thông thường, hội đồng trọng tài gồm có 03 thành
viên, mỗi bên sẽ chỉ định một trọng tài viên và hai trọng tài viên đó sẽ chỉ định người
thứ ba làm chủ tịch hội đồng trọng tài. Trong trường hợp các bên không lựa chọn trọng
tài viên hoặc hai trọng tài viên do hai bên lựa chọn không thỏa thuận được chủ tịch hội
đồng trọng tài thì quyền chỉ định sẽ thuộc về một bên thứ ba (thường do các bên thỏa
thuận trước) hoặc nếu không có thỏa thuận thì việc chỉ định sẽ do tòa án có thẩm quyền
của nước sở tại thực hiện. Ngoài ra, luật của một số nước còn tạo điều kiện thuận lợi
hơn cho một bên khi bên kia không hợp tác trong việc chỉ định trọng tài viên. Theo
Luật Trọng tài Anh, nếu các bên đã thỏa thuận trước là hội đồng trọng tài sẽ bao gồm

11



03 thành viên song một bên không chịu chỉ định trọng tài viên của mình thì bên kia có
quyền đề nghị chỉ định trọng tài viên của mình là trọng tài viên duy nhất và phán quyết
của trọng tài viên duy nhất này sẽ có hiệu lực giống như các bên đã thỏa thuận hội
đồng trọng tài chỉ bao gồm một trọng tài viên duy nhất mà thôi (Điều 17 – Luật Trọng
tài Anh).
Thứ hai: về thủ tục tố tụng trọng tài
Các vấn đề liên quan đến địa điểm tiến hành trọng tài, ngôn ngữ sử dụng trong tố
tụng trọng tài, thủ tục ra phán quyết… thì Luật mẫu UNCITRAL cho phép các bên tự
do thỏa thuận. Nếu không có thỏa thuận, hội đồng trọng tài sẽ có thẩm quyền quyết
định thủ tục tố tụng, phù hợp với quy định của pháp luật trọng tài có liên quan. Điều 2
Luật Trọng tài Brazil quy định rằng, các bên có thể tự do lựa chọn “luật áp dụng trong
quá trình trọng tài miễn là sự lựa chọn của họ không vi phạm chuẩn mực đạo đức và
chính sách công cộng” và Điều 21 cho phép “thủ tục trọng tài tuân theo những thủ tục
được thỏa thuận bởi các bên trong thỏa thuận trọng tài”. Luật Trọng tài Anh 1996 đã
thể hiện sự tôn trọng nguyên tắc thỏa thuận của các bên khi quy định tại Điều 46.1:
“Hội đồng trọng tài sẽ giải quyết tranh chấp theo luật được lựa chọn bởi các bên với
tư cách là luật áp dụng cho nội dung tranh chấp”.
Như vậy, có thể thấy nguyên tắc thỏa thuận của các bên là một nguyên tắc được
hầu hết các quốc gia trên thế giới ghi nhận. Tuy nhiên, những vấn đề được thỏa thuận
trong trọng tài phải luôn nằm trong khuôn khổ của pháp luật, phù hợp với các quy định
của quốc gia nơi tiến hành trọng tài và nơi phán quyết được thi hành bởi nếu không,
phán quyết trọng tài sẽ có nguy cơ bị vô hiệu.
1.3.2. Nguyên tắc bình đẳng giữa các bên tranh chấp
Nguyên tắc này yêu cầu hội đồng trọng tài phải đối xử với các bên công bằng,
trao cho họ cơ hội đầy đủ để trình bày lý lẽ của mình về tranh chấp trong quá trình
trọng tài, được thể hiện rất rõ trong Điều 18 Luật mẫu UNCITRAL: “Các bên phải
được đối xử một cách công bằng và mỗi bên phải có cơ hội đầy đủ để trình bày về vụ
kiện”. Tuy nhiên, “cơ hội đầy đủ” ở đây có nghĩa là các bên chỉ được phép trình bày lý


12


lẽ của mình tại phiên tòa trong một khoảng thời gian nhất định, không được kéo dài
thời gian giải quyết tranh chấp làm ảnh hưởng đến lợi ích của phía bên kia.
Nguyên tắc bình đẳng không chỉ được ghi nhận trong Luật mẫu UNCITRAL mà
trong hầu hết pháp luật về trọng tài của các quốc gia. Điều 1039 Luật Trọng tài Hà Lan
quy định: “Các bên sẽ được đối xử công bằng. Hội đồng trọng tài sẽ trao cho mỗi bên
một cơ hội để diễn giải về những khiếu kiện của mình và trình bày về vụ việc của
mình”. Tương tự, tại Điều 24 Luật Trọng tài Thụy Điển, Điều 1042.1 Luật Trọng tài
Đức, Điều 33.1 Luật Trọng tài Anh 1996 và Điều 4.3 Luật Trọng tài thương mại Việt
Nam 2010.
Có thể thấy, việc các bên được bình đẳng không chỉ trong khi trình bày quan
điểm của mình về vụ kiện (gồm cả việc cung cấp chứng cứ, tài liệu có liên quan) mà
còn trong việc thực hiện quyền và nghĩa vụ trong quá trình tố tụng trọng tài đã tạo
niềm tin cho các bên vào phương thức trọng tài khi giải quyết tranh chấp hơn là các
phương thức khác.
1.3.3. Nguyên tắc độc lập và vô tƣ của trọng tài viên trong quá trình giải quyết
tranh chấp
Tính độc lập, vô tư của trọng tài viên ảnh hưởng rất lớn đến tính đúng đắn, chính
xác, khách quan và khả năng thi hành phán quyết của trọng tài. Vì vậy, nguyên tắc độc
lập, vô tư của trọng tài viên đã trở thành nguyên tắc trung tâm trong quá trình giải
quyết tranh chấp. Nguyên tắc này đã được nêu ra trong Luật mẫu UNCITRAL, các quy
định của ICSID, LCIA và pháp luật trọng tài của nhiều nước. Điều 7.1 Quy tắc trọng
tài ICC quy định: “Các trọng tài viên phải độc lập với các bên liên quan đến trọng
tài”; Điều 3 Quy tắc trọng tài LCIA yêu cầu: “Thành viên Hội đồng trọng tài phải duy
trì sự độc lập và vô tư của họ trong suốt quá trình trọng tài, không được phép hành
động với tư cách là người biện hộ cho các bên”. Điều 10.1 Quy tắc trọng tài viện trọng
tài Hà Lan quy định cụ thể và rõ ràng hơn: “Trọng tài viên phải vô tư và độc lập.
Trọng tài viên không thể có quan hệ nghề nghiệp và nhân thân gần gũi với các trọng

tài khác trong Hội đồng xét xử hay với bất kì một bên tranh chấp nào. Trọng tài viên
không thể có lợi ích nghề nghiệp hoặc lợi ích nhân thân trực tiếp nào trong kết quả

13


giải quyết vụ việc. Trước khi được bổ nhiệm, trọng tài viên không được tiết lộ quan
điểm về vụ việc với một trong các bên tranh chấp”.
Ngoài ra, theo Điều 14 Quy tắc tố tụng trọng tài VIAC cũng chỉ rõ: “Trọng tài
viên không được gặp hoặc liên lạc riêng với bất kì bên nào và ngược lại các bên tranh
chấp cũng không được phép gặp hay liên lạc với trọng tài viên để trao đổi về các vấn
đề có liên quan đến tranh chấp”.
Trường hợp Hội đồng trọng tài chỉ gồm một thành viên duy nhất hoặc Chủ tịch
Hội đồng trọng tài có cùng quốc tịch với trọng tài viên đã làm nảy sinh ra một vấn đề:
liệu quốc tịch của trọng tài viên có ảnh hưởng đến sự độc lập, vô tư của trọng tài viên
hay không? Vấn đề này đã được nêu ra trong Điều 11.1 Luật mẫu UNCITRAL:
“Không ai bị cản trở để trở thành trọng tài viên vì lý do quốc tịch nếu các bên không
có thỏa thuận khác”. Tuy nhiên, trên thực tế, nhằm tránh những nghi ngờ không đáng
có của các bên, hầu hết các tổ chức trọng tài đều quy định trọng tài viên duy nhất hoặc
chủ tịch hội đồng trọng tài nên có quốc tịch khác với quốc tịch của các bên tranh chấp.
Chẳng hạn, Điều 9.5 Quy tắc Trọng tài ICC quy định: “Trọng tài viên duy nhất hoặc
chủ tịch hội đồng trọng tài sẽ có quốc tịch khác với quốc tịch của các bên” hay Điều
6.4 Quy tắc trọng tài UNCITRAL 1976 chỉ rõ: “Trong quá trình chỉ định, cơ quan có
thẩm quyền chỉ định phải cân nhắc để đảm bảo chỉ định được một trọng trọng tài viên
khách quan và độc lập và sẽ xét tới khả năng chỉ định một trọng tài viên có quốc tịch
khác với quốc tịch của các bên”.
Thực tiễn cho thấy, có khá nhiều thỏa thuận trọng tài đã bị tuyên bố vô hiệu vì
không đảm bảo nguyên tắc này. Vì vậy, trong quá trình trọng tài, nếu thấy có bất kì sự
việc nào có thể gây nghi ngờ về sự độc lập của mình, trọng tài viên phải có nghĩa vụ
báo với các bên; hoặc nếu các bên nhận thấy những yếu tố ảnh hưởng đến sự độc lập

của trọng tài viên thì các bên có quyền yêu cầu thay thế trọng tài viên để tránh trường
hợp hủy phán quyết trọng tài hoặc phán quyết bị tuyên bố vô hiệu.
1.3.4. Nguyên tắc giữ bí mật trong giải quyết tranh chấp

14


Nguyên tắc này xuất phát từ tính đặc thù của hoạt động kinh doanh. Trong môi
trường tự do kinh doanh, việc bảo vệ các bí mật trong sản xuất kinh doanh và giữ uy
tín cho các doanh nghiệp trên thương trường là một trong những vấn đề rất quan trọng.
Theo quy định này, các buổi xét xử trọng tài chỉ gồm các trọng tài viên, các
đương sự và những người có liên quan đến vụ tranh chấp. Những người không có trách
nhiệm hoặc không liên quan đến vụ tranh chấp không được có mặt. Theo Luật Trọng
tài thương mại Việt Nam 2010 thì trọng tài viên có nghĩa vụ: “giữ bí mật nội dung vụ
tranh chấp mà mình giải quyết, trừ trường hợp phải cung cấp thông tin cho cơ quan
nhà nước có thẩm quyền theo quy định của pháp luật” (Điều 21.5) đồng thời có quyền:
“từ chối cung cấp các thông tin liên quan đến vụ tranh chấp” (Điều 21.3). Quyết định
trọng tài cũng như các căn cứ để trọng tài ra phán quyết sẽ không được công bố công
khai nếu các bên đương sự không có yêu cầu.
Nguyên tắc về tính bảo mật cũng chính là một trong những yếu tố làm nên ưu việt
của phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài.
1.3.5. Nguyên tắc xét xử một lần.
Nếu như trong tố tụng tòa án, một tranh chấp có thể được xét xử nhiều lần thì
trong tố tụng trọng tài, tranh chấp đó chỉ được xét xử một lần. Nguyên tắc này bắt
nguồn từ bản chất của tố tụng trọng tài là nhân danh ý chí tối cao và quyền tự định đoạt
của các bên đương sự. Các bên đương sự đã tự do lựa chọn và tín nhiệm người phân xử
cho mình thì đương nhiên phải phục tùng quyết định cuối cùng của người đó. Bản chất
của tố tụng trọng tài là tố tụng một cấp và quyết định trọng tài khi ban hành có giá trị
chung thẩm nên các bên không thể kháng cáo và phải tự nguyện thi hành phán quyết.
Tuy nhiên, tòa án vẫn có quyền hạn trong việc hủy quyết định trọng tài hoặc tuyên bố

phán quyết trọng tài vô hiệu theo đề nghị của một bên nếu thấy phán quyết của trọng
tài hoặc quá trình tố tụng có sự vi phạm pháp luật.
Với nguyên tắc này, phán quyết trọng tài sẽ nhanh chóng được thực thi, tránh tình
trạng bên phải thực hiện nghĩa vụ cố tình kéo dài thời gian thi hành đồng thời giúp bên
kia có thể sớm khắc phục thiệt hại về tiền, tài sản do bên vi phạm gây ra.

15


Như vậy, có thể nhận thấy, trọng tài đang ngày càng phát huy được những lợi thế
và ngày càng thể hiện được tính ưu việt của mình: tốc độ giải quyết tranh chấp nhanh
chóng, tính trung lập đối với trọng tài viên và các bên tranh chấp, tính bí mật trong
xét xử, tính chung thẩm trong phán quyết của trọng tài và cuối cùng là tính chuyên
nghiệp của trọng tài viên trong từng lĩnh vực. Những nguyên tắc giải quyết tranh
chấp mà pháp luật trọng tài nêu trên đã giúp các bên đương sự giải quyết tranh chấp
một cách nhanh chóng, chính xác và hiệu quả; đảm bảo tốt nhất nhu cầu về một cơ chế
giải quyết tối ưu cho các doanh nghiệp.
1.4. Phân loại trọng tài thƣơng mại quốc tế
1.4.1. Trọng tài thƣờng trực
Trọng tài thường trực là một giải pháp trọng tài được quản lý bởi một tổ chức
trọng tài nhất định và tuân theo những quy tắc trọng tài của tổ chức trọng tài đó [41].
Trên thế giới, trọng tài thường trực thường được tổ chức dưới nhiều hình thức: các
trung tâm trọng tài (Trung tâm Trọng tài quốc tế Hồng Kông, Việt Nam), các hiệp hội
trọng tài (Hiệp hội Trọng tài Nhật Bản, Hoa Kỳ) hay các viện trọng tài (Viện Trọng tài
Stockholm -Thụy Điển) nhưng chủ yếu được tổ chức dưới dạng các trung tâm trọng tài.
a. Ưu điểm của trọng tài thường trực
Thứ nhất: Mỗi tổ chức trọng tài thường trực đều lập ra một bộ quy tắc trọng tài
của riêng mình. Bộ quy tắc này độc lập và tương đối ổn định. Tuy nhiên, trong quá
trình tố tụng, có thể xảy ra một số trường hợp không mong muốn, ví dụ: trong trường
hợp một bên tranh chấp từ chối lựa chọn trọng tài viên của mình, bộ quy tắc cho phép

tổ chức trọng tài được lựa chọn trọng tài viên cho một bên tranh chấp mà không cần
yêu cầu tòa án bổ nhiệm giúp. Điều này được thể hiện trong Điều 5 Bộ quy tắc trọng
tài của Viện trọng tài Stockholm: “Nếu một bên không bổ nhiệm trọng tài viên của
mình trong thời hạn đã được xác định bởi Viện trọng tài, thì Viện trọng tài sẽ thực hiện
việc bổ nhiệm đó”. Một trường hợp khác đó là nếu một trong các bên tranh chấp vắng
mặt tại phiên tòa không có lý do chính đáng thì phiên họp vẫn được tiến hành bình
thường. Điều này được ghi nhận tại Điều 23 Bộ quy tắc trọng tài của Viện trọng tài
Stockholm: “Nếu một bên vắng mặt tại phiên tòa trọng tài hoặc không tuân theo một

16


lệnh triệu tập của hội đồng trọng tài mà không có lý do chính đáng thì điều này không
cản trở hội đồng trọng tài tiếp tục phiên xử và đưa ra phán quyết trọng tài”.
Thứ hai: Các tổ chức trọng tài hầu hết đều có đội ngũ trọng tài viên là những
chuyên gia thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau. Ngoài ra, các trọng tài viên ở một số tổ
chức trọng tài chỉ chuyên sâu xét xử một lĩnh vực nhất định thường có trình độ, chuyên
môn cao góp phần đảm bảo cho phán quyết trọng tài chính xác hơn. Đội ngũ nhân viên
chuyên về giám sát và quản lí trọng tài có trách nhiệm trợ giúp trong toàn bộ quá trình
trọng tài: thông báo cho Hội đồng trọng tài về khoảng thời gian phải ra phán quyết
trọng tài, nếu đến hạn cuối cùng, phán quyết chưa được ban hành thì tổ chức trọng tài
có thể gia hạn… [35, tr.91] nhằm hạn chế tối đa những rủi ro có thể xảy ra.
b. Nhược điểm của trọng tài thường trực
Thứ nhất: chi phí cho quá trình trọng tài này thường khá đắt bởi ngoài phí trả cho
các trọng tài viên còn phải trả phí cho các dịch vụ hành chính.
Thứ hai: các thủ tục hành chính cũng làm mất một khoảng thời gian đáng kể.
Tuy nhiên, các bên không thể cắt bỏ những thủ tục này, điều này khiến cho quá trình
giải quyết tranh chấp của trọng tài thường trực kéo dài hơn quá trình giải quyết của
trọng tài ad-hoc.
1.4.2. Trọng tài ad-hoc

Trọng tài ad-hoc là một phương thức trọng tài được quản lý theo những quy tắc
trọng tài do chính các bên tham gia trọng tài xây dựng nên [41, tr.44]. Trong phương
thức trọng tài này, các bên được tự do thỏa thuận về các quy tắc tố tụng: địa điểm trọng
tài, ngôn ngữ trọng tài, cách thức bổ nhiệm trọng tài viên… mà không bị điều khiển bởi
bộ quy tắc nào.
a. Ưu điểm của trọng tài ad-hoc
Phương thức này đáp ứng được mong muốn, nguyện vọng của các bên và phù
hợp với thực tiễn của tranh chấp vì các bên được thỏa thuận về quy tắc tố tụng theo ý
chí của mình. Ngoài ra, trọng tài ad-hoc giúp tiết kiệm thời gian (có thể rút ngắn các
thủ tục tố tụng), tiết kiệm chi phí (chi phí cho dịch vụ hành chính) hơn trọng tài thường
trực.

17


b. Nhược điểm của trọng tài ad-hoc
Thứ nhất: vì các bên không bị ràng buộc bởi một quy tắc tố tụng nào, nên nếu
một bên không có thiện chí hợp tác giải quyết tranh chấp thì sẽ gặp rất nhiều khó khăn
trong quá trình tố tụng.
Thứ hai: thủ tục tố tụng do các bên tự thỏa thuận, vì vậy nếu các bên không có
những kiến thức cơ bản về tố tụng trọng tài thì rất dễ gây ra sơ suất dẫn đến việc phán
quyết bị tuyên bố vô hiệu hoặc hủy phán quyết trọng tài. Đồng thời, vì không có cơ
quan nào giám sát quá trình tố tụng nên phán quyết mà trọng tài đưa ra phụ thuộc hoàn
toàn vào trình độ của trọng tài viên.
Thứ ba: vì trọng tài ad-hoc không có biểu phí cụ thể nên chi phí hoàn toàn do các
bên trực tiếp thỏa thuận với trọng tài viên. Các bên có thể thỏa thuận mức thù lao theo
giờ và kết quả là tổng chi phí cuối cùng phải trả có thể cao hơn chi phí nếu giải quyết
tại một trung tâm trọng tài theo quy tắc của một tổ chức trọng tài thường trực.
Như vậy, cả hình thức trọng tài thường trực và hình thức trọng tài ad-hoc đều có
những ưu điểm và còn tồn tại những nhược điểm riêng. Vì vậy, các bên tranh chấp cần

dựa vào thực tế từng vụ việc để quyết định sử dụng hình thức trọng tài nào là phù hợp
và giải quyết có hiệu quả tranh chấp đang xảy ra.
Tóm lại, trong bối cảnh hiện nay, giải quyết nhanh gọn, hiệu quả các tranh chấp
thương mại đang trở nên cần thiết đối với mục tiêu thúc đấy hoạt động kinh doanh
thương mại. Bởi lẽ, việc các tranh chấp được giải quyết nhanh và hợp lý sẽ không
những tạo điều kiện để hoạt động kinh doanh thương mại diễn ra một cách suôn sẻ, lợi
ích hợp pháp của các chủ thể kinh doanh được bảo đảm mà còn tạo môi trường tâm lý
tốt cho các thương nhân yên tâm, mạnh dạn bỏ vốn đầu tư, kinh doanh. Với những đặc
điểm ưu việt của mình, việc giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài sẽ hứa hẹn
một bước phát triển trong những năm tới, đáp ứng được nhu cầu của các doanh nghiệp
trong giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế.

18


CHƢƠNG 2
PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP THƢƠNG MẠI QUỐC TẾ
BẰNG TRỌNG TÀI
Luật áp dụng trong trọng tài thương mại quốc tế được xem xét theo ba phạm vi:
luật áp dụng đối với tố tụng trọng tài, luật áp dụng đối với nội dung tranh chấp và luật
áp dụng cho thỏa thuận trọng tài. Vấn đề này phải được nghiên cứu cẩn thận, tránh
những sai sót gây ra những hậu quả pháp lý nguy hiểm.
2.1. Thẩm quyền của trọng tài
2.1.1. Thẩm quyền theo vụ việc
Ở thời kỳ đầu hình thành trọng tài với tư cách là một cơ chế giải quyết tranh chấp
tư, hầu hết các nước trên thế giới chỉ cho phép giải quyết bằng trọng tài với các tranh
chấp thương mại. Các tranh chấp thuộc lĩnh vực khác như hôn nhân gia đình, cạnh
tranh, lao động, nhà nước thường can thiệp trực tiếp bằng việc bắt buộc các tranh
chấp này phải được giải quyết tại Tòa án hoặc tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền vì
chúng được coi là vấn đề thuộc chính sách công [42]. Ngày nay, nhiều quốc gia như

Anh, Đức, Trung Quốc, Mỹ… khi ban hành luật về trọng tài đều mở rộng phạm vi
thẩm quyền cho trọng tài, theo đó, trọng tài còn có thể giải quyết các tranh chấp về
lao động và dân sự khác trừ tranh chấp bắt nguồn từ quan hệ liên quan đến lợi ích và
trật tự công.
2.1.2. Thẩm quyền theo thỏa thuận trọng tài
Như đã nói ở mục 1.3.1, Luật mẫu UNCITRAL định nghĩa về thỏa thuận trọng tài
tại Điều 7.1 như sau: “Thỏa thuận trọng tài là thỏa thuận mà các bên đưa ra trọng tài
mọi hoặc các tranh chấp nhất định phát sinh giữa các bên về quan hệ pháp lý xác định,
dù là quan hệ hợp đồng hay không phải là quan hệ hợp đồng. Thỏa thuận trọng tài có
thể dưới hình thức điều khoản trọng tài trong hợp đồng hoặc dưới hình thức thỏa
thuận tiêng”. Thỏa thuận trọng tài là cơ sở pháp lý quan trọng nhất để xác định thẩm
quyền của trọng tài. Không có thỏa thuận trọng tài thì sẽ không xuất hiện thẩm quyền
của trọng tài. Việc các bên thiết lập thỏa thuận trọng tài nghĩa là họ đã trao cho hội
đồng trọng tài thẩm quyền giải quyết vụ tranh chấp và tòa án không có thẩm quyền giải
19


quyết tranh chấp đó trừ khi thỏa thuận trọng tài vô hiệu, không thể thực hiện được hoặc
bị hủy bỏ bởi chính các bên. Luật mẫu UNCITRAL quy định tại Điều 8.1 như sau:
“Tòa án khi nhận được đơn kiện về một vấn đề tranh chấp thuộc đối tượng của một
thỏa thuận trọng tài, sẽ đưa các bên tới trọng tài nếu một bên yêu cầu như vậy vào thời
điểm không muộn hơn khi bên đó đệ trình bản tường trình đầu tiên của mình về nội
dung tranh chấp trừ khi tòa án nhận định rằng thỏa thuận đó là vô hiệu và không có
hiệu lực, không có hiệu quả hoặc không có khả năng thực hiện”.
Tương tự, Điều 6 Luật Trọng tài thương mại Việt Nam 2010 chỉ rõ: “Trong
trường hợp các bên tranh chấp đã có thỏa thuận trọng tài mà một bên khởi kiện tại tòa
án thì tòa án phải từ chối thụ lý, trừ trường hợp thỏa thuận trọng tài vô hiệu hoặc thỏa
thuận trọng tài không thể thực hiện được”.
Thẩm quyền của trọng tài đối với một tranh chấp được xác định dựa trên ba yếu
tố: năng lực chủ thể lập thỏa thuận trọng tài, hình thức của thỏa thuận trọng tài và khả

năng giải quyết bằng trọng tài.
Về năng lực chủ thể: yêu cầu đặt ra là các bên lập thỏa thuận trọng tài phải có
đầy đủ năng lực giao kết hợp đồng chính cũng như thỏa thuận trọng tài, đồng thời thỏa
thuận trọng tài phải được thiết lập trên cơ sở ý chí chung của các bên chứ không đại
diện cho ý chí của bất kỳ bên nào hay thỏa thuận đến từ sức ép, đe dọa từ nguyên nhân
bên ngoài. Nguyên tắc phổ biến xác định luật điều chỉnh năng lực chủ thể là nguyên tắc
luật nhân thân. Điều V Công ước New York 1958 về công nhận và thi hành phán quyết
trọng tài nước ngoài quy định: “Việc công nhận và thi hành phán quyết có thể bị từ
chối, theo yêu cầu của bên phải thi hành, chỉ khi nào bên đó chuyển tới cơ quan có
thẩm quyền nơi việc công nhận và thi hành yêu cầu, bằng chứng rằng: các bên của
thỏa thuận nói ở Điều II, theo luật áp dụng đối với các bên, không có đủ năng lực…”.
Về hình thức của thỏa thuận trọng tài: hầu hết các quốc gia cũng như các điều
ước quốc tế về trọng tài chỉ công nhận hiệu lực của thỏa thuận trọng tài nếu nó được
lập theo một hình thức nhất định, thường là bằng văn bản [34, tr.20], [47, tr.4]. Quy
định này đã được ghi nhận tại Điều 1443 Bộ Luật Tố tụng dân sự Cộng hòa Pháp: “Để

20


được coi là có hiệu lực, một điều khoản trọng tài phải được làm bằng văn bản và được
chứa đựng trong hợp đồng hoặc trong một tài liệu nào đó”.
Tuy nhiên, một số quốc gia hiện nay đã mở rộng hình thức của thỏa thuận trọng
tài, ví dụ thỏa thuận trọng tài có thể dưới dạng fax hay email… Điều 178.1 Đạo Luật
về Tư pháp Quốc tế Thụy Sỹ quy định: “… thỏa thuận trọng tài sẽ là hợp pháp và có
hiệu lực nếu được làm bằng văn bản, điện tín, telex, điện báo hoặc bất kỳ các phương
thức liên lạc nào được chứng tỏ là bằng văn bản”. Quy định tương tự cũng được tìm
thấy trong Luật Trọng tài Việt Nam 2010 tại Điều 16.2.a:
“ 2. Thoả thuận trọng tài phải được xác lập dưới dạng văn bản. Các hình thức
thỏa thuận sau đây cũng được coi là xác lập dưới dạng văn bản:
a) Thoả thuận được xác lập qua trao đổi giữa các bên bằng telegram, fax, telex,

thư điện tử và các hình thức khác theo quy định của pháp luật”.
Một câu hỏi được đặt ra tiếp theo đó là: hiệu lực của một thỏa thuận trọng tài có
phụ thuộc vào hiệu lực của hợp đồng chứa đựng nó hay không. Hầu hết pháp luật các
nước đều quy định thỏa thuận trọng tài “độc lập” và “tách biệt” với những điều khoản
còn lại của hợp đồng, vì vậy, hội đồng trọng tài vẫn có thẩm quyền quyết định quyền
và nghĩa vụ tương ứng của các bên và giải quyết khiếu kiện và yêu cầu của họ, mặc dù
hợp đồng có thể không tồn tại hoặc vô hiệu. Phòng thương mại quốc tế ICC là tổ chức
đầu tiên ghi nhận nguyên tắc về tính độc lập của thỏa thuận trọng tài vào năm 1955:
“Trừ trường hợp có thỏa thuận khác, hội đồng trọng tài sẽ không dừng quyền tài phán
của mình trên cơ sở bất kì tuyên bố nào cho rằng hợp đồng không còn hiệu lực hoặc
viện cớ hợp đồng không tồn tại, nhằm làm cho hội đồng trọng tài tuyên bố thỏa thuận
trọng tài là vô hiệu. Hội đồng trọng tài sẽ tiếp tục có thẩm quyền xác định quyền tương
ứng của các bên, phân xử các yêu cầu và lời tự biện hộ, dù cho bản thân hợp đồng có
thể không tồn tại hoặc không còn hiệu lực” (Điều 6.4 Quy tắc ICC 1998). Tương tự,
Trọng tài Brazil 1996 quy định: “Điều khoản trọng tài độc lập với hợp đồng chứa
đựng nó, có nghĩa rằng sự vô hiệu của hợp đồng không ám chỉ tới sự vô hiệu của điều
khoản trọng tài”.

21


Về khả năng giải quyết bằng trọng tài: trọng tài có thể bị giới hạn phạm vi xét
xử trong những quan hệ hợp đồng, cũng có thể không bị giới hạn với bất kỳ tranh chấp
thương mại nào dù có hợp đồng hay không. Ví dụ, Quy tắc Trọng tài UNCITRAL
1976 đã giới hạn thẩm quyền của trọng tài trong phạm vi các quan hệ hợp đồng, việc
sử dụng Bộ quy tắc này với những tranh chấp ngoài hợp đồng là không được phép
(Điều 1.1). Trong khi đó, đa số các pháp luật các nước cũng như pháp luật và tập quán
trọng tài quốc tế đều cho phép giải quyết bằng trọng tài các tranh chấp dù có hợp đồng
hay không: Luật Trọng tài Đức, Canada, Quy tắc Trọng tài ICC, LCIA…
Ngày nay, pháp luật các nước còn cho phép trọng tài có khả năng giải quyết các

tranh chấp lao động, dân sự ngoài các tranh chấp thương mại. Điều 1 Luật Trọng tài
Brazil 1996 quy định: “Mọi người có khả năng ký kết hợp đồng đều có thể đưa ra
trọng tài để giải quyết các tranh chấp liên quan tới các quyền về tài sản mà họ có
quyền quyết định”. Tuy nhiên, các tranh chấp bắt nguồn từ quan hệ liên quan đến lợi
ích và trật tự công vẫn phải do tòa án hay cơ quan nhà nước có thẩm quyền giải quyết
(xem thêm mục 1.4.1).
Một điểm tạo nên tính khác biệt về thẩm quyền của trọng tài thương mại quốc tế
chính là “thẩm quyền của thẩm quyền”. Thầm quyền của thẩm quyền được áp dụng
trong trường hợp một bên không thừa nhận thẩm quyền của hội đồng trọng tài với lý
do thỏa thuận trọng tài không có hiệu lực, khi đó, hội đồng trọng tài sẽ có quyền tự
quyết định thẩm quyền của mình. Quyết định về thẩm quyền sẽ được hội đồng trọng
tài đưa vào quyết định tạm thời hoặc quyết định cuối cùng. Nguyên tắc này được cụ
thể hóa tại Điều 21.1 Quy tắc Trọng tài UNCITRAL: “Hội đồng trọng tài có quyền
quyết định về việc phản đối hội đồng trọng tài không có thẩm quyền giải quyết, kể cả
những sự phản đối về sự tồn tại hoặc giá trị pháp lí của điều khoản trọng tài hoặc
thỏa thuận trọng tài riêng biệt”. Ngoài ra, có thể tìm thấy nguyên tắc này trong pháp
luật trọng tài của Đức, Anh…
2.2. Luật áp dụng đối với tố tụng trọng tài
Luật áp dụng đối với tố tụng trọng tài có thể được hiểu là các quy định mà hội
đồng trọng tài áp dụng để thực hiện thẩm quyền giải quyết tranh chấp và ban hành

22


phán quyết theo thỏa thuận trọng tài của các bên [46, tr.3]. Như vậy, luật áp dụng cho
tố tụng trọng tài cung cấp các cách thức tiến hành trọng tài từ khâu thành lập Hội đồng
trọng tài, thay thế trọng tài viên, đến các thủ tục để giải quyết tranh chấp như quy trình
gửi các văn bản, chứng cứ của các bên, của nhân chứng, ngôn ngữ trọng tài, trưng cầu
giám định, khiếu nại các quyết định trọng tài, xác định phạm vi can thiệp của tòa án địa
phương vào tố tụng trọng tài và cuối cùng là giúp tòa án xem xét việc công nhận và

cho thi hành quyết định trọng tài.
Nhìn chung, việc xác định luật áp dụng trong tố tụng trọng tài bị chi phối bởi
nguyên tắc tự do thỏa thuận của các bên và nguyên tắc nơi tọa lạc của trọng tài [32,
tr.4].
Thứ nhất: nguyên tắc tự do thỏa thuận của các bên tranh chấp
Trên cơ sở nguyên tắc tôn trọng sự thỏa thuận của các bên tranh chấp, trọng tài
của đa số các nước đều dành quyền lựa chọn luật điều chỉnh tố tụng trọng tài cho các
bên tranh chấp. Trong trường hợp các bên không thỏa thuận được thì hội đồng trọng tài
sẽ quyết định. Quy định này dựa trên nguyên tắc được ghi nhận tại Điều 19.1 Luật mẫu
UNCITRAL: “Theo quy định của luật này, các bên được tự do thỏa thuận về tố tụng
mà hội đồng trọng tài phải thực hiện khi tiến hành tố tụng”. Trong trường hợp các bên
không có thỏa thuận thì “hội đồng trọng tài có thể, theo quy định của luật này, tiến
hành trọng tài theo cách thức mà hội đồng trọng tài cho là thích hợp” (Điều 19.2 Luật
mẫu UNCITRAL). Tương tự, Luật Trọng tài Anh tại Điều 34.1 quy định: “Dành cho
Hội đồng trọng tài quyền quyết định mọi vấn đề về thủ tục tố tụng và chứng cứ, trên cơ
sở tuân thủ theo quyền của các bên về việc được thỏa thuận bất cứ vấn đề nào”.
Tuy nhiên, do đặc thù của hai hình thức trọng tài thương mại quốc tế là trọng tài
thường trực và trọng tài ad-hoc khác nhau nên thỏa thuận chọn luật áp dụng đối với tố
tụng trọng tài của các bên cũng có sự khác biệt. Nếu các bên đưa tranh chấp của mình
ra trước một tổ chức trọng tài có nghĩa là chấp nhận quy tắc tố tụng của tổ chức này.
Còn nếu các bên áp dụng hình thức trọng tài vụ việc thì trọng tài phải tuân theo thủ tục
mà các bên đã thỏa thuận. Trong trường hợp các bên không quy định rõ quá trình trọng

23


×