1
ĐẶT VẤN ĐỀ
Chăm sóc và bảo vệ sức khỏe học sinh là một trong những nhiệm vụ
trọng yếu trong chiến lược chăm sóc sức khỏe cộng đồng, không chỉ ở riêng
Việt Nam mà còn toàn thế giới. Lứa tuổi 6 đến 11 là lúc răng vĩnh viễn bắt
đầu xuất hiện trên cung hàm, đóng vai trò quan trọng trong chức năng nhai
của trẻ về sau nên rất cần được giữ gìn một cách tốt nhất để không bị sâu.
Theo Tổng cục thống kê (2008) 7,9% dân số cả nước là học sinh tiểu học [1].
Một trong số bệnh hay gặp phổ biến ở học sinh là bệnh sâu răng. Năm 1994,
WHO đánh giá bệnh sâu răng ở nước ta vào loại cao nhất thế giới và nằm
trong khu vực các nước có bệnh răng miệng đang tăng lên [2]. Kết quả điều
tra sức khỏe răng miệng do viện Răng Hàm Mặt và đại học Adelaide,
Australia tiến hành gần đây thì Việt Nam là một nước có tỷ lệ sâu răng rất
cao, chiếm tới gần 85% dân số cả nước, trong đó trẻ em là đối tượng bị ảnh
hưởng của sâu răng nhiều nhất [3].
Trong nhiều năm gần đây chương trình chăm sóc sức khỏe răng miệng
được triển khai ở hầu hết các tỉnh trong cả nước cho lứa tuổi đến trường. Tuy
nhiên trẻ em tại trường tiểu học Vĩnh Hưng, Hoàng Mai, Hà Nội chưa được
chăm sóc sức khỏe theo chương trình Nha học đường bao giờ. Hiện nay nhu
cầu được chăm sóc sức khỏe răng miệng là vấn đề cần thiết của ban lãnh đạo
Trường và các bậc phụ huynh.
Xuất phát từ lý do trên, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài "Thực
trạng bệnh sâu răng và một số yếu tố ảnh hưởng ở học sinh tuổi từ 6 đến 11
tại trường tiểu học Vĩnh Hưng, Hoàng Mai, Hà Nội năm 2014" với hai mục
tiêu sau đây:
2
1. Mô tả thực trạng bệnh sâu răng ở học sinh tuổi từ 6 đến 11 tại
trường tiểu học Vĩnh Hưng, Hoàng Mai, Hà Nội năm 2014.
2. Phân tích một số yếu tố liên quan với bệnh sâu răng ở nhóm
học sinh trên.
3
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN
Bệnh sâu răng là bệnh phổ biến, có chiều hướng gia tăng ở các nước
đang phát triển trên thế giới. Bệnh răng miệng có liên quan chủ yếu đến chế
độ ăn, ý thức vệ sinh răng miệng của cư dân và hệ thống dự phòng, điều trị
bệnh. Sự phát triển của xã hội hiện đại đã đem lại sự thay đổi dạng thức ăn
truyền thống, dân cư có cơ hội và thời gian tiêu thụ đường thường xuyên hơn,
chính điều này đã tạo ra những yêu cầu mới cho việc phòng, điều trị bệnh sâu
răng trong xã hội hiện đại. Những nước nghèo tỷ lệ sâu răng cao do nhiều yếu
tố như: không được fluor hoá nước uống, thiếu hiểu biết về giáo dục nha
khoa, chế độ ăn đường không đúng… Những nước phát triển có tỷ lệ sâu răng
giảm do Nhà nước coi trọng chương trình fluor hoá nước uống, thuốc chải
răng có fluor, trám bít hố rãnh, coi giáo dục nha khoa là quốc sách, đặc biệt là
có hệ thống khám chữa bệnh rộng khắp tại các cơ sở.
Sâu răng là một quá trình động, diễn ra trong mảng bám vi khuẩn dính
trên mặt răng, đưa đến mất cân bằng giữa mô răng với chất dịch xung quanh
và theo thời gian, hậu quả là sự mất khoáng của mô răng.
Khởi đầu sâu răng không đau, nhưng khi lỗ sâu phát triển sâu và rộng
phá huỷ nhiều tổ chức men và ngà, thì ăn các thức ăn nóng, lạnh, chua, ngọt
đều bị đau và hết đau khi hết các kích thích. Nếu không được điều trị kịp thời,
tổn thương sẽ lan tới tuỷ răng và quanh cuống răng...
Năm 1995 Hội Nha khoa Hoa Kỳ đã đưa ra khái niệm sâu răng là
bệnh nhiễm trùng với vai trò gây bệnh của vi khuẩn và giải thích nguyên
nhân sâu răng bằng sơ đồ với ba vòng tròn của các yếu tố vật chủ (răng:
gồm men răng, ngà răng, xương răng) môi trường (thức ăn có khả năng lên
4
men chứa carbohydrate) và tác nhân (vi khuẩn chủ yếu là Streptococcus
Mutans và Lactobacillus) [4].
Theo WHO năm 1997, các nước trong khu vực Châu Á cứ trên 80%
dân số bị sâu răng. Chỉ số SMT lứa tuổi 12 ở mức cao từ 0,7 đến 5,5 (ở
Trung Quốc là 0,7, ở Lào là 2,4, ở Campuchia là 4,9, ở Philippin là 5,5,
Việt Nam là 0,8) [5], [6].
Tại Thái Lan, năm 2000 tỷ lệ sâu răng ở tuổi 12 là 58-80% [7].
Cũng như nhiều nước đang phát triển, bệnh sâu răng gặp phổ biến ở
nước ta, nhu cầu cần được chăm sóc và điều trị rất cao. Theo Nguyễn Văn
Cát, tại Hà Nội 1983 -1984 có 1,1 triệu người sâu răng, chỉ số SMT 1,4 [8].
Năm 2004 Hoàng Tử Hùng đưa ra tỷ lệ sâu răng sữa ở một số tỉnh miền Nam
là 70,49%, ở Thuận Hải là 72,14% [9].
Trong 3 năm từ 2002 đến 2005, Viện Răng Hàm Mặt Hà Nội đã tiến
hành điều tra bệnh răng miệng ở Việt Nam và cho thấy tỷ lệ sâu răng và chỉ
số SMT của răng vĩnh viễn cũng tăng dần theo lứa tuổi.
Năm 2007, Đào Thị Dung đánh giá hiệu quả can thiệp chương trình
Nha học đường tại một số trường tiểu học quận Đống Đa Hà Nội cho thấy tỉ
lệ sâu răng vẫn còn cao (65,63%) [10].
Năm 2007, Nguyễn Cẩn và Ngô Đồng Khanh nghiên cứu tình trạng
bệnh sâu răng ở Việt Nam cho thấy tỷ lệ bệnh sâu răng và số trung bình răng
sâu mất trám (SMTR) gia tăng theo tuổi. SMTR ở trẻ 11 tuổi và lứa tuổi 35 44 là 1,2 và 1,3 ở các tỉnh thành phía Bắc và 2,9 [11].
1.1. Giải phẫu và tổ chức học răng
1.1.1. Các phần của răng
Mỗi răng có phần thân răng và chân răng. Giữa thân răng và chân răng là
đường cổ răng (cổ răng giải phẫu), là đường nối men - xương răng. Thân răng
được bao bọc bởi men, chân răng được xương răng bao bọc [12].
5
1.1.2. Cấu tạo của răng
Bao gồm men răng, ngà răng và tủy răng [13].
Hình 1.1. Giải phẫu Răng [13].
* Men răng
Men răng là mô cứng nhất trong cơ thể, có nguồn gốc từ ngoại bì, có tỷ
lệ chất vô cơ cao nhất (khoảng 96%). Men răng phủ toàn bộ thân răng dày
mỏng tùy vị trí khác nhau, dày nhất ở núm răng là 1,5mm và mỏng nhất ở
vùng cổ răng. Men răng không có sự bồi đắp thêm mà chỉ mòn dần theo tuổi,
nhưng có sự trao đổi về vật lý và hóa học với môi trường trong miệng.
Về mặt hóa học, chất vô cơ chiếm 96%, chủ yếu là 3 [Ca3(PO4)2]. 2H2O
còn lại là các muối cacbonat của magiê, và một lượng nhỏ clorua, fluorua và
muối sunfat của natri và kali. Thành phần hữu cơ chiếm khoảng 1% trong đó
chủ yếu là protit.
6
Về mặt lý học, men răng cứng, giòn, trong và cản tia X, với tỷ trọng từ
2,3-3 so với ngà răng.
Cấu trúc học của men răng: quan sát qua kính hiển vi thấy hai loại
đường vân:
- Đường retzius: trên tiêu bản cắt ngang là các đường chạy song song
nhau và song song với đường viền ngoài của lớp men cũng như với đường
ranh giới men ngà ở phía trong. Trên tiêu bản cắt dọc thân răng, đường
retzius hợp với đường ranh giới men ngà cũng như với mặt ngoài của men
thành một góc nhọn.
- Đường trụ men: chạy suốt chiều dày men răng và hướng thẳng góc
với đường ngoài trong của men răng, đôi khi có sự gấp khúc và thay đổi
hướng đi của trụ men. Trụ men có đường kính từ 3-6m, khi cắt ngang qua
trụ men ta thấy tiết diện có các loại hình thể: Vẩy cá 57%, lăng trụ 30%,
không rõ ràng 10%, hướng đi của trụ men tạo ra các dải sáng tối xen kẽ
chính là dải Hunter-schrenge.
* Ngà răng
Có nguồn gốc từ trung bì, kém cứng hơn men, chứa tỷ lệ chất vô cơ
thấp hơn men (75%), chủ yếu là 3 [Ca3(PO4)2]. 2H2O. Trong ngà răng có
nhiều ống ngà, chứa đuôi bào tương của nguyên bào ngà, bề dày ngà răng
thay đổi trong đời sống do hoạt động của nguyên bào ngà, ngà răng ngày càng
dày theo hướng về phía hốc tủy răng, làm hẹp dần ống tủy.
Về tổ chức học: ngà răng được chia làm hai loại:
- Ngà tiên phát chiếm khối lượng chủ yếu và được tạo nên trong quá
trình hình thành răng, nó bao gồm: ống ngà, chất giữa ống ngà, dây tôm.
7
- Ngà thứ phát được sinh ra khi răng đã hình thành rồi, nó gồm ngà thứ
phát sinh lý, ngà phản ứng và ngà trong suốt.
Ống ngà: có số lượng từ 15-50000/1 mm2, đường kính ống từ 3-5 m,
ống ngà chính chạy suốt chiều dày của ngà và tận cùng bằng đầu chốt ở ranh
giới men ngà, ống ngà phụ là ống nhỏ hoặc nhánh bên, nhánh tận cùng của
ống ngà chính.
Chất giữa ống ngà có cấu trúc sợi được ngấm vôi, sắp xếp thẳng góc
với ống ngà.
Dây tôm: nằm trong ống ngà là đuôi nguyên sinh chất của tế bào tạo ngà.
* Tủy răng
Là mô liên kết mềm, nằm trong hốc tủy gồm tủy chân và tủy thân. Tủy
răng trong buồng tủy gọi là tủy thân, tủy buồng, tủy răng trong ống tủy gọi là
tủy chân, các nguyên bào ngà nằm sát vách hốc tủy.
Tủy răng có nhiệm vụ duy trì sự sống của răng, cụ thể là sự sống của
nguyên bào ngà và tạo ngà thứ cấp, nhận cảm giác của răng. Trong tủy răng
có chứa nhiều mạch máu, mạch bạch huyết và đầu tận cùng của thần kinh.
Về tổ chức học, tủy răng gồm hai vùng: vùng cạnh tủy gồm các lớp tế
bào tạo ngà (2-3 lớp) và lớp không có tế bào gồm những tổ chức sợi tạo keo.
Vùng giữa tủy là tổ chức liên kết có nhiều tế bào, ít tổ chức sợi.
* Xương răng
Là tổ chức canxi hoá bao phủ vùng ngà chân răng bắt đầu từ cổ răng, cấu
trúc xương răng được chia làm hai loại.
8
- Xương răng tiên phát: ở lớp ngà vùng cổ răng và là loại xương răng
không có tế bào.
- Xương răng thứ phát: có tế bào tạo xương răng bao phủ vùng ngà 2/3
dưới chân răng và cuống răng. Độ dày của xương thay đổi theo vị trí và tuổi,
mỏng ở vùng cổ răng và dày hơn ở vùng cuống răng.
Hình 1.2. Lát cắt ngang răng người
1.2. Quá trình mọc răng
Quá trình mọc răng ở trẻ có 3 thời kỳ [14].
- Thời kỳ 1: mọc răng sữa, bắt đầu từ 6 tháng đến 2,5 tuổi.
- Thời kỳ 2: mọc răng vĩnh viễn, bắt đầu từ 6 đến 12 tuổi.
- Thời kỳ 3: mọc răng khôn từ 16 – 25 tuổi.
9
1.3. Chức năng của răng
Chức năng chính của răng là ăn nhai. Quá trình nhai là một quá trình
phức tạp, trong quá trình đó, các răng khác nhau có tác dụng khác nhau. Răng
cửa dùng để cắt thức ăn, răng nanh có chức năng chủ yếu là xé thức ăn, răng
hàm có tác dụng nghiền nát thức ăn [13].
Chức năng phát âm: răng có liên quan mật thiết đến ngôn ngữ và phát
âm. Răng nằm giữa môi và lưỡi, khi phát âm chúng phối hợp với nhau, không
thể thiếu bộ phận nào. Khi phát các âm môi răng và âm lưỡi răng, càng cần có
sự tham gia của răng. Các răng phía trước có ảnh hưởng rất lớn đối với ngôn
ngữ và phát âm, khi bị mất răng cửa do không thể khống chế tốt các luồng hơi
phát ra, khi nói sẽ thoát hơi, nếu hoạt động của lưỡi mất đi sự hạn chế của
răng trước cũng ảnh hưởng đến độ chính xác của việc phát âm. Hơn nữa, răng
còn có ảnh huởng quan trọng ngoại hình của mỗi người.
1.4. Bệnh sâu răng
1.4.1. Nguyên nhân và những hiểu biết về sâu răng
Sâu răng là một quá trình bệnh lý xuất hiện sau khi răng đã mọc, đặc
trưng bởi sự khử khoáng làm tiêu dần các chất vô cơ, hữu cơ ở men răng, ngà
răng tạo thành lỗ sâu.
Trước năm 1970, người ta cho rằng bệnh căn của sâu răng là do nhiều
nguyên nhân với sự tác động của 3 yếu tố [15]. Vi khuẩn trong miệng (chủ
yếu là streptococcus mutans) lên men các chất bột và đường còn dính lại răng
tạo thành acid, acid này đã phá hủy tổ chức cứng của răng tạo thành lỗ sâu. Sự
phối hợp của các yếu tố này để gây sâu răng được thể hiện bằng sơ đồ keyes:
10
Vi khuẩn
Đường
Đường
SR
Răng
Sơ đồ 1.1. Sơ đồ Keys [15]
Với sơ đồ keys, người ta chú ý nhiều đến chất đường và vi khuẩn
streptococcus mutans do đó, việc dự phòng cũng chú ý quan tâm đến chế độ
ăn hạn chế đường và VSRM. Khi áp dụng vào thực tế phòng bệnh sâu răng
thấy kết quả đạt được không cao, tỷ lệ sâu răng giảm xuống không đáng kể.
Sau năm 1975 người ta đã làm sáng tỏ hơn căn nguyên gây bệnh sâu
răng và đưa ra sơ đồ white thay thế một vòng tròn trong sơ đồ keys.
- Chất đường được thay thế bằng chất nền.
- Nhấn mạnh vai trò của nước bọt và PH của dòng chảy môi trường xung
quanh răng.
- Người ta cũng làm sáng tỏ tác dụng của fluor nó làm cho tổ chức của
răng cứng chắc hơn chống được sự phân huỷ của acid tạo thành tổn thương
sâu răng [9].
11
2F Ca10 ( PO4 ) 6 (OH ) 2 Ca10 ( PO4 ) 6 F2 2OH
Fluor + Hydroxyapatite -> Fluorapatite có sức đề kháng cao hơn, có khả
năng đề kháng sự phá huỷ của H+ -> chống sâu răng.
SR
Sơ đồ 1.2. Sơ đồ white [16]
Ta có thể tóm lược cơ chế sinh bệnh học của sâu răng được thể hiện
bằng hai quá trình tái khoáng và huỷ khoáng. Mỗi quá trình đều có một số yếu
tố thúc đẩy, nếu quá trình huỷ khoáng lớn hơn quá trình tái khoáng thì sẽ dẫn
đến sâu răng.
12
Sâu răng = Hủy khoáng > Tái khoáng
Các yếu tố gây mất ổn định làm sâu răng:
+ Mảng bám vi khuẩn
+ Chế độ ăn đường nhiều lần
+ Thiếu nước bọt hay nước bọt
Các yếu tố bảo vệ:
acid
+ Nước bọt
+ Acid từ dạ dày tràn lên miệng
+ Khả năng kháng acid của men
+PH< 5
+ F- có ở bề mặt men răng
+ Trám bít hố rãnh
+ Độ Ca++, NPO4- quanh răng
+ PH > 5,5
Sơ đồ 1.3. Sơ đồ tóm tắt cơ chế sâu răng [17]
13
1.4.2. Thực trạng bệnh sâu răng
Tổ chức y tế thế giới (WHO) đã đưa ra 5 mức độ sâu răng dựa vào chỉ số
SMT ở lứa tuổi 12 như sau:
Bảng 1.1. Mức độ sâu răng dựa vào chỉ số SMT ở lứa tuổi 12
Mức độ
SMT 12 tuổi
Rất thấp
0,0 – 1,1
Thấp
1,2 – 2,6
Trung bình
2,7 – 4,4
Cao
4,5 – 6,5
Rất cao
6,6
* Tình hình sâu răng trên thế giới
Sau năm 1975 căn nguyên bệnh sâu răng được làm sáng tỏ hơn. Người
ta cũng thấy rõ hơn tác dụng của fluor khi gặp Apatit thường của răng kết
hợp thành fluorid apatit rắn chắc chống được sự phân hủy tạo thương tổn
sâu răng. Do đó ở những nước phát triển Nhà nước coi chương trình fluor
hóa nước uống, thuốc chải răng và giáo dục nha khoa là quốc sách nên
bệnh sâu răng giảm mạnh. Ngược lại những nước kém phát triển không
được fluor hóa nước uống, thiếu sự giáo dục nha khoa, chế độ ăn đường
không đúng nên sâu răng tăng.
14
Ở các nước phát triển: từ những năm 1940 đến 1960, tình hình sâu
răng rất nghiêm trọng, trung bình mỗi trẻ em 12 tuổi có từ 8-10 răng sâu
hoặc răng đã bị mất do sâu. Tới năm 1993, chỉ số SMT tuổi 12 ở hầu hết
các nước công nghiệp hóa đã giảm xuống mức thấp từ 1,2 - 2,6. Nhìn
chung từ cuối những năm 1970 tới nay, tình hình sâu răng tại các nước phát
triển có xu hướng giảm dần, chỉ số SMT tuổi 12 tại hầu hết các nước ở mức
thấp và rất thấp. Điều này có được là do các nước phát triển đã áp dụng
triệt để các biện pháp phòng bệnh. Nghiên cứu của Pieper tại Đức cho thấy,
chỉ số SMT giảm từ 2,44 (năm 1994-1995) xuống còn 1,81 vào năm 1997
và 1,24 (2000) [18]. Đến năm 2006 nghiên cứu của Shulter chỉ ra sâu răng
ở Đức tiếp tục giảm, chỉ số SMT giảm xuống ở mức 0,98 [19].
Ở các nước đang phát triển: thời điểm những năm của thập kỷ 1960, tình
hình sâu răng ở mức thấp hơn nhiều so với các nước phát triển. Chỉ số SMT
tuổi 12 ở thời kỳ này nói chung từ 1,0-3,0, thậm chí một số nước dưới mức
1,0 như Thái Lan, Uganda. Tới thập kỷ 1970 và 1980 thì chỉ số này lại tăng
lên và ở mức từ 3,0 đến 5,0 và một số nước còn cao hơn như Chilê là 6,3. Đến
những năm gần đây sâu răng đã giảm nhưng nhìn chung, tình trạng sâu răng
vẫn còn ở mức cao.
Nghiên cứu của Emerich tại Ba Lan cho thấy chỉ số SMT của trẻ 11 tuổi
đã giảm từ mức 4,87 năm 1987 xuống còn 3,2 vào năm 2003 [20].
Theo tác giả Ayo -Yusuf tỷ lệ sâu răng của trẻ 12 tuổi tại Nam Phi đến
năm 2002 là 40,1%, chỉ số SMT ở mức 1,19 [21].
15
Bảng 1.2. Chỉ số SMT trẻ 12 tuổi của một số nước phát triển [22]
Tên nước
Năm
SMT
Năm
SMT
Thuỵ Điển
1980
1,7
2002
1,1
Anh
1981
1,8
2003
0,8
Na Uy
1979
4,5
2004
1,7
Mỹ
1980
2,0
2004
1,3
Australia
1982
2,1
2001
1,0
Thuỵ Sỹ
1980
1,7
2005
0,9
Phần Lan
1981
4,0
2003
1,2
Nhật Bản
1979
2,4
2005
1,7
Bảng 1.3. Chỉ số SMT trẻ 12 tuổi ở một số nước đang phát triển [22]
Tên nước
Năm
SMT
Năm
SMT
Chi Lê
1978
6,3
1999
3,4
Thái Lan
1977
2,7
2004
1,6
Mexico
1976
5,3
2001
2,0
Iran
1976
4,9
2001
1,8
16
Bảng 1.4. Chỉ số SMT trẻ 12 tuổi của một số nước trong khu vực [22]
Tên nước
Năm
SMT
Trung Quốc
1995
1,03
Lào
1991
2,0
Triều Tiên
1991
3,0
Brunei
1999
4,8
Campuchia
2002
2,3
Philippin
1998
4,6
* Tình hình bệnh sâu răng ở Việt Nam
So với kết quả điều tra cơ bản bệnh răng miệng toàn quốc năm 1991, kết
quả điều tra răng miệng toàn quốc năm 2001 cho thấy, tình hình sâu răng ở
Việt Nam có xu hướng tăng lên và không đồng đều giữa các vùng miền trong
cả nước.
Kết quả điều tra cơ bản bệnh răng miệng toàn quốc lần thứ nhất cho thấy
tỷ lệ sâu răng lứa tuổi 12 như sau [23]:
Miền bắc tỷ lệ sâu răng là 43,33%, chỉ số SMT là 1,15
Miền nam tỷ lệ sâu răng là 76,33%, chỉ số SMT là 2,93
Toàn quốc tỷ lệ sâu răng là 57,33%, chỉ số SMT là 1,82
Năm 2001, kết quả điều tra cơ bản bệnh răng miệng toàn quốc lần thứ
hai cho thấy [24].
17
Bảng 1.5. Tình trạng sâu răng trẻ em toàn quốc năm 2001
Răng sữa
Răng vĩnh viễn
Tuổi
% sâu răng
Chỉ số smt
% sâu răng
Chỉ số SMT
6–8
84,9
5,40
25,4
0,48
9 - 11
56,3
1,96
54,6
1,19
Năm 2000 theo nghiên cứu của Vũ Mạnh Tuấn tại thị xã Hoà Bình cho
thấy [25]:
* Trẻ 6 tuổi:
Tỷ lệ sâu răng sữa là 61,5%, chỉ số smt là 0,17
Tỷ lệ sâu răng vĩnh viễn là 14,5%.
* Trẻ 12 tuổi:
Tỷ lệ sâu răng vĩnh viễn là 62%.
Nghiên cứu của Đào Thị Ngọc Lan trên 1176 học sinh tại Yên Bái năm
2003 cho kết quả như sau [26]:
* Trẻ 6 tuổi:
Tỷ lệ sâu răng sữa là 64,95% - chỉ số smt là 3,58.
Tỷ lệ sâu răng vĩnh viễn là 13,97% - chỉ số SMT là 0,23.
* Trẻ 11 tuổi:
Tỷ lệ sâu răng vĩnh viễn là 51,82% - chỉ số SMT là 1,50.
Năm 2004 Lê Ngọc Tuyến, Nguyễn Quốc Trung, Trần Thị Lan Anh đã
thông báo kết quả điều tra răng miệng của học sinh tiểu học tại Hà Nội, có
80,95% các em sâu răng sữa, 30,95% em sâu răng vĩnh viễn [27].
18
Năm 2004 Nguyễn Lê Thanh công bố kết quả khảo sát bệnh răng miệng
của học sinh tiểu học từ 7-11 tuổi tại thị xã Bắc Cạn, có 62,6% em sâu răng [28].
Theo nghiên cứu của Nguyễn Đăng Nhỡn năm 2004 tại huyện Yên Sơn
tỉnh Tuyên Quang, qua nghiên cứu 128 học sinh 6 tuổi cho thấy tỷ lệ sâu răng
sữa là 76,56%, sâu răng vĩnh viễn là 14,84%, chỉ số SMT là 0,22. Cũng trong
nghiên cứu này ở lứa tuổi 12 tỷ lệ sâu răng vĩnh viễn là 64,06%, chỉ số SMT
là 1,67 [29].
Năm 2007 theo nghiên cứu của Nguyễn Văn Thành tại thị xã Hưng Yên
thì tỷ lệ sâu răng sữa của học sinh 6 tuổi là 87,74%, chỉ số smt là 3,72, tỷ lệ
sâu răng vĩnh viễn là 10,43%, chỉ số SMT là 0,12 [30].
Nghiên cứu của tác giả Lê Huy Nguyên tại Hoài Đức, Hà Tây năm 2007
tỷ lệ sâu răng của học sinh khối lớp 5 là 58,48%, chỉ số sâu mất trám răng
vĩnh viễn là 1,3 [31].
Qua các số liệu trên cho thấy tình trạng sâu răng còn rất phổ biến và
chưa có dấu hiệu suy giảm, tỷ lệ sâu răng vĩnh viễn tăng nhanh theo tuổi.
1.4.3. Các yếu tố liên quan đến bệnh sâu răng
Các yếu tố liên quan đến bệnh sâu răng
- Nhóm yếu tố nguy cơ về tập quán ăn uống.
- Nhóm yếu tố nguy cơ về chăm sóc, vệ sinh răng miệng.
- Nhóm yếu tố nguy cơ về các đặc trưng cá nhân của trẻ, của cha mẹ trẻ.
Các tác giả thường mô tả các yếu tố nguy cơ, không phân tích sâu về
các mối liên quan giữa chúng và bệnh sâu răng ở trẻ em [32].
19
1.4.3.1. Nhóm yếu tố nguy cơ về tập quán ăn uống
Nhiều tác giả trong và ngoài nước đã nghiên cứu các tập quán ăn uống
liên quan đến bệnh sâu răng ở trẻ em như tần suất sử dụng các đồ ăn thức
uống có nhiều đường, ăn thêm bữa phụ buổi tối, đồ ăn thức uống nóng lạnh,
đồ ăn cứng, tiền sử bú bình, khẩu phần ăn:
- Al Ghanin đã phân tích đa biến về các mối liên quan giữa chế độ ăn
có nhiều sữa hộp, tần suất sử dụng đồ ăn uống ngọt, trẻ có tiền sử bú bình với
các bệnh sâu răng và sâu - mất - trám răng, kết luận rằng những yếu tố này
liên quan chặt chẽ với các bệnh sâu răng [33]. Một nghiên cứu tại thành phố
Kerela, Ấn Độ năm 2005 do David và CS thực hiện cho biết trẻ ăn nhiều đồ
ngọt có nguy cơ mắc bệnh sâu răng cao gấp 1,4 lần những trẻ ăn ít đồ ngọt, sự
khác biệt này mang ý nghĩa thống kê [34]. Okeigbemen nghiên cứu ở Nigeria
năm 2004 cho thấy tỷ lệ học sinh có ăn phụ buổi tối là rất cao 87,5% nhưng tỷ
lệ sâu răng ở đây lại thấp. Điều này có thể là do những trẻ này sử dụng bàn
chải răng cao (95,8%) [35].
- Petersen và CS nghiên cứu ở Thái Lan (2001) công bố tỷ lệ sử dụng đồ
uống ngọt hàng ngày rất cao như sữa đường (34%), chè đường (26%), nước
ngọt (24%) liên quan đến tỷ lệ sâu răng rất cao 70-96,3% tùy độ tuổi và chỉ số
SMT là 8,1 răng/học sinh. Đồng thời tác giả cũng nêu lên tập quán sử dụng đồ
ngọt nhiều ở những người theo đạo Hồi và đặc biệt là ở nữ học sinh [36].
1.4.3.2. Nhóm yếu tố nguy cơ về chăm sóc vệ sinh răng miệng
Một số tác giả nước ngoài và trong nước đã nghiên cứu về các yếu tố
chăm sóc răng miệng như hiểu biết về chăm sóc răng, khám định kỳ răng, thói
quen chải răng, tuổi sử dụng bàn chải, thuốc, vật liệu chải răng:
20
- Rao và CS cho biết tại Ấn Độ có đến 59,2-62% học sinh có chải răng ít
nhất 1 lần/ngày nhưng chỉ có 5,7-13,6% sử dụng thuốc đánh răng; 3,1% dùng
tay làm sạch răng và 21,1% dùng tro và than để đánh răng hàng ngày [37].
- Okeigbemen và CS thông báo 81,4% học sinh chưa bao giờ được
khám răng tại các cơ sở y tế, 95,8% có sử dụng bàn chải răng [35].
- Petersen và CS cũng thông báo tỷ lệ học sinh chải răng 1 lần/ngày là
88% [36].
- David và CS cho rằng trẻ không sử dụng bàn chải răng thì có nguy cơ
sâu răng cao gấp 1,9 lần những trẻ khác [34].
1.4.3.3. Nhóm yếu tố nguy cơ về các đặc trưng cá nhân của trẻ em, của cha
mẹ học sinh
Các nghiên cứu trong và ngoài nước cho thấy nam học sinh mắc bệnh
sâu răng cao hơn nữ, tuy nhiên cũng có một số tác giả lại không có sự khác
biệt về sâu răng giữa nam và nữ [37]. Có nghiên cứu nhấn mạnh đến sự khác
biệt hay không khác biệt giữa nam và nữ còn phụ thuộc vào một số yếu tố
khác như lứa tuổi, địa dư, loại trường công/tư và hành vi chăm sóc sức khỏe
răng miệng.
- Rao và CS cho rằng học sinh nội thành có tỷ lệ sâu răng cao hơn ở
ngoại thành (22,8% so với 15%), học sinh dân tộc ít người có chất lượng răng
tốt hơn học sinh không phải là dân tộc ít người [37].
- Okeigbemen và CS cho biết học sinh thành thị có chỉ số SMT cao hơn
học sinh nông thôn (0,72 so với 0,53) và học sinh ở trường tư thục có chỉ số
SMT cao hơn học sinh ở trường công lập (0,75 so với 0,55) nhưng chỉ số
SMT ở nữ lại cao hơn học sinh nam (0,7 so với 0,59) [35].
21
- David và CS thông báo trẻ sống ở thành phố có nguy cơ sâu răng cao
hơn 1,5 lần trẻ ở nông thôn, trẻ em nghèo cũng có nguy cơ sâu răng 1,7 lần so
với trẻ em ở các gia đình giàu [34].
- Ciuffolo và CS cho rằng tỷ lệ sâu răng ở nam học sinh cao hơn ở nữ
học sinh [38].
1.5. Một số biện pháp dự phòng sâu răng
1.5.1. Dự phòng sâu răng
- Sử dụng Fluor.
- Trám bít hỗ rãnh: áp dụng đối với các mặt nhai để ngăn ngừa sâu ở hố
răng sau khi răng vĩnh viễn mọc.
- Chế độ ăn uống hợp lý: kiểm soát các thức ăn và đồ uống có đường.
- Hướng dẫn vệ sinh răng miệng.
Từ năm 1979 đến năm 1994, WHO đã nhiều lần đưa ra các mục tiêu và
bổ sung các mục tiêu toàn cầu về dự phòng sâu răng.
Bảng 1.6. Mục tiêu toàn cầu dự phòng sâu răng trẻ em cho năm 2000
Lứa tuổi
Mục tiêu
5-6
90% trẻ em không bị sâu răng
12
Răng sâu mất trám <1
18
100% giữ được toàn bộ răng
Ở Việt Nam, mục tiêu của chương trình nha học đường là đạt được
mục tiêu về dự phòng sâu răng của WHO và đảm bảo ít nhất 80% học sinh
tiểu học và trung học cơ sở được CSRM ổn định, dài lâu qua chương trình
nha học đường.
22
1.6. Chương trình nha học đường
Trong khoảng hai thập niên trở lại đây, các nước phát triển đã thành
công trong việc giảm tỷ lệ sâu răng nhờ vào các biện pháp phòng bệnh sâu
răng hữu hiệu, đó là việc sử dụng fluor trong cộng đồng, đặc biệt là trong
trường học. Xây dựng chương trình phòng chống sâu răng hiệu quả bằng
chăm sóc răng miệng trẻ em trong nhà trường là giải pháp tốt nhất. Đây
chính là cách thức mà Việt Nam và các nước đang phát triển đang triển
khai thực hiện.
Chương trình nha học đường là chương trình chăm sóc răng miệng trẻ
em tại trường học áp dụng chủ yếu cho học sinh tiểu học và THCS, có thể áp
dụng cho học sinh mẫu giáo. Lứa tuổi ưu tiên từ 6-15 tuổi do ở độ tuổi này
răng vĩnh viễn bắt đầu mọc, thời gian học sinh ở trường nhiều. Hoạt động của
chương trình gồm có 3 nội dung sau [39]:
- Nội dung 1: giáo dục nha khoa: hướng dẫn học sinh phương pháp chải
răng và các biện pháp khác làm sạch răng, giữ gìn VSRM. Khắc sâu thói quen
chải răng hàng ngày và kỹ năng chải răng đúng cho trẻ em.
- Nội dung 2: cho học sinh súc miệng nước có fluor 0,2% tại trường học
mỗi tuần một lần.
- Nội dung 3: dự phòng lâm sàng: bao gồm khám và VSRM răng miệng
định kỳ, trám bít hố rãnh, lấy cao răng, điều trị viêm lợi, hàn răng sâu sớm,
nhổ răng sữa thay...
Trong nhiều năm qua bộ y tế phối hợp với bộ giáo dục và đào tạo đã
triển khai chương trình này đạt được hiệu quả đáng kể.
Tuỳ theo điều kiện cụ thể của từng địa phương, từng trường có thể thực
hiện cả 3 nội dung trên hoặc một số nội dung của chương trình. Tuy nhiên cần
có sự đánh giá một cách khách quan, khoa học từng nội dung để chương trình
được thực hiện một cách có hiệu quả [40], [41], [42].
23
Chương trình Nha học đường chưa được triển khai với những nội dung
cụ thể và theo một hệ thống tại trường tiểu học Vĩnh Hưng, Hoàng Mai, Hà
Nội. Do đó, hiệu quả của chương trình đối với học sinh trường Vĩnh Hưng là
chưa cao chính vì vậy đây cũng là một trong những nguyên nhân khiến tỷ lệ
học sinh tiểu học gặp các bệnh về răng miệng tương đối nhiều.
Đối với ngành y tế, hệ thống cán bộ làm công tác chăm sóc sức khoẻ
răng miệng vẫn còn yếu (cán bộ y tế nha học đường không có mà chỉ có y sỹ,
y tá hoặc điều dưỡng đa khoa mà chưa có chứng chỉ về chuyên khoa RHM).
Trang thiết bị RHM tại các cơ sở khám chữa bệnh chưa được chú trọng nhiều
dành cho chương trình Nha Học Đường. Điều đó chứng tỏ cả 3 nội dung của
chương trình NHĐ tại các trường đều chưa được triển khai hiệu quả.
Nghiên cứu này được triển khai sẽ giúp cho trường tiểu học Vĩnh
Hưng, Hoàng Mai, Hà Nội có những bằng chứng cụ thể hơn, thuyết phục hơn,
để từ đó đưa ra các biện pháp can thiệp phù hợp nhằm giảm tỷ lệ mắc bệnh
răng miệng ở học sinh.
24
Chương 2
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu
- Học sinh đang học tại trường tiểu học Vĩnh Hưng, Hoàng Mai, Hà Nội.
- Tiêu chuẩn lựa chọn:
+ Học sinh từ 6-11 tuổi (HS có năm sinh từ
năm 2003 đến 2008).
+ Tự nguyện tham gia nghiên cứu.
- Tiêu chuẩn loại trừ:
+ Học sinh không nằm trong độ tuổi từ 6-11.
+ Không tự nguyện tham gia nghiên cứu.
+ Học sinh không học tại trường tiểu học
Vĩnh Hưng, Hoàng Mai, Hà Nội.
2.2. Thời gian và địa điểm nghiên cứu
- Thời gian: từ ngày 5 Tháng 05/ 2013 đến tháng 11/ 2014.
- Địa điểm nghiên cứu:
Tại trường tiểu học Vĩnh Hưng, Hoàng Mai, Hà Nội.
Viện đào tạo Răng Hàm Mặt - Đại Học Y Hà Nội.
2.3. Phương pháp nghiên cứu
2.3.1. Thiết kế nghiên cứu là: nghiên cứu mô tả cắt ngang.
25
2.3.2. Cỡ mẫu
Được tính theo công thức trong nghiên cứu mô tả cắt ngang là:
n=
Z
2
1
α
2
p( 1 p)
[43]
d2
Trong đó:
n: là cỡ mẫu nghiên cứu tối thiểu.
p: là tỷ lệ học sinh bị sâu răng của quần thể. Lấy p = 81,6% [44]
d: là khoảng sai lệch cho phép giữa tỷ lệ thu được từ mẫu và tỷ lệ của
quần thể. Chọn d = 0,05.
α: là Mức ý nghĩa thống kê; α = 0,05 thì Z1 -α /2 = 1,96 thay vào công thức
ta tính được cỡ mẫu tối thiểu cần nghiên cứu là n = 230. Trường tiểu học Vĩnh
Hưng, Hoàng Mai, Hà Nội có 5 khối lớp học. Chúng tôi chia thành hai nhóm
tuổi 6-8 và 9-11 tuổi. Như vậy cỡ mẫu tối thiểu cho hai nhóm tuổi trên là 230 x
2 = 460. Nhưng thực tế chúng tôi khám được 720 học sinh.
2.3.3. Cách chọn mẫu
Sử dụng phương pháp chọn mẫu ngẫu nhiên phân tầng.
- Chọn địa điểm: trường tiểu học Vĩnh Hưng, Hoàng Mai, Hà Nội.
- Chọn lớp: trong trường chọn ngẫu nhiên trong 5 khối học mỗi khối 5 lớp.
- Chọn học sinh: mỗi lớp chọn ngẫu nhiên 24 học sinh.
2.3.4. Kỹ thuật thu thập thông tin
- Phỏng vấn: tiến hành hỏi, ghi đầy đủ theo bộ câu hỏi đó được chuẩn bị
sẵn về các đặc trưng cá nhân, vệ sinh răng miệng của học sinh và phiếu thu
thập thông tin (phụ lục kèm theo).