Tải bản đầy đủ (.doc) (92 trang)

Hoàn thiện công tác quản lý rủi ro tín dụng tại agribank chi nhánh huyện kinh môn hải dương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (689.81 KB, 92 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong những năm gần đây hoạt động tín dụng của các Ngân hàng Thương
mại (NHTM) ngày càng có vai trò quan trọng đối với sự phát triển và tăng trưởng
kinh tế của mỗi quốc gia trên thế giới. Nguồn vốn tín dụng của các NHTM được ví
như huyết mạch của nền kinh tế, góp phần thúc đẩy quá trình luân chuyển hàng
hóa, tiền tệ, kiểm soát lạm phát. Thông qua hoạt động tín dụng, khối lượng tiền
trong lưu thông sẽ được điều tiết từ nơi thừa vốn đến nơi thiếu vốn, góp phần thúc
đẩy hoạt động sản xuất của các doanh nghiệp trong và ngoài nước. Sự hội nhập
kinh tế của Việt Nam trong những năm qua đã tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát
triển của các NHTM nói chung, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn
Việt Nam (Agribank) - Chi nhánh huyện Kinh Môn Hải Dương nói riêng. Tuy
nhiên hoạt động kinh doanh Ngân hàng được đánh giá là một trong những hoạt
động kinh doanh tiềm ẩn nhiều nguy cơ rủi ro. Để giữ vững vai trò chủ đạo trong
hoạt động kinh doanh, hệ thống Agribank đã và đang triển khai nhiều biện phát
đồng bộ nhằm hạn chế tối đa những rủi ro tín dụng có thể xảy ra góp phần giảm
thiểu nợ xấu, nâng cao chất lượng tín dụng và hiệu quả kinh doanh. Tuy nhiên, do
ảnh hưởng của môi trường kinh doanh, tác động của nền kinh tế, tỷ lệ rủi ro trong
hoạt động tín dụng ngày càng cao và ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả hoạt động
kinh doanh của hệ thống Agribank.
Agribank Chi nhánh huyện Kinh Môn Hải Dương là một chi nhánh trực
thuộc hệ thống Agribank, hoạt động trên địa bàn huyện Kinh Môn, tỉnh Hải
Dương, một trong những địa bàn đang diễn ra sự cạnh tranh rất gay gắt giữa các
NHTM và các quỹ tín dụng Nhân dân. Để phát triển bền vững, mở rộng thị phần
tín dụng, đảm bảo tỷ lệ nợ xấu, nợ quá hạn theo kế hoạch cấp trên giao Ban lãnh
đạo Agribank Chi nhánh huyện Kinh Môn Hải Dương cần có những những biện
pháp đồng bộ về mọi mặt trong đó cần chú trọng đặc biệt đến công tác quản lý rủi
ro tín dụng (QLRRTD). Bởi lẽ, hiện tại công tác QLRRTD tại Agribank Chi nhánh
huyện Kinh Môn Hải Dương vẫn còn nhiều hạn chế, chưa đem lại hiệu quả cho

1




hoạt động kinh doanh tại Chi nhánh. Trong những năm qua, Agribank Chi nhánh
huyện Kinh Môn Hải Dương đã có những bước phát triển vượt bậc, thị phần hoạt
động tín dụng không ngừng được mở rộng, luôn giữ vai trò chủ đạo trong việc cấp
tín dụng cho khu vực tam nông trên địa bàn huyện Kinh Môn. Tuy nhiên rủi ro tín
dụng có thể xảy ra ở bất kỳ món vay nào, bất kỳ khách hàng nào, bất kỳ địa bàn
hoạt động nào. Mặt khác, sự biến động không ngừng của môi trường kinh doanh đã
đang và sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động kinh doanh Ngân hàng nói chung và
hoạt động cấp tín dụng của Agribank Chi nhánh huyện Kinh Môn Hải Dương nói
riêng. Sự thay đổi về chính sách quản lý của Nhà nước cũng tác động mạnh mẽ đến
hoạt động cấp tín dụng tại các NHTM. Chính vì vậy, việc nâng cao công tác
QLRRTD sẽ là một trong những biện pháp giảm thiểu rủi ro và đem lại hiệu quả
kinh doanh tốt hơn cho Chi nhánh trong thời gian tới.
Cho đến nay, chưa có đề tài nào nghiên cứu về công tác QLRRTD tại
Agribank Chi nhánh huyện Kinh Môn Hải Dương. Chí vì lẽ đó, việc nghiên cứu và
đưa ra các biện pháp hoàn thiện công tác QLRRTD tại Agribank Chi nhánh huyện
Kinh Môn Hải Dương là rất cần thiết.
Xuất phát từ thực tiễn trên, đề tài “Hoàn thiện công tác quản lý rủi ro tín
dụng tại Agribank Chi nhánh huyện Kinh Môn Hải Dương” được lựa chọn làm đề
tài nghiên cứu.
2. Mục đích nghiên cứu
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản về rủi ro tín dụng và quản lý rủi
ro tín dụng của các NHTM.
- Đi sâu phân tích và đánh giá thực trạng quản lý rủi ro tín dụng tại Agribank
Chi nhánh huyện Kinh Môn Hải Dương.
- Đề xuất một số biện pháp nhằm hoàn thiện công tác quản lý rủi ro tín dụng
tại Agribank Chi nhánh huyện Kinh Môn Hải Dương.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng: Nghiên cứu cơ sở lý luận chung về rủi ro tín dụng và quản lý

rủi ro tín dụng tại các Ngân hàng thương mại. Trên có sở lý thuyết đi sâu phân tích

2


thực trạng công tác QLRRTD tại Agribank Chi nhánh huyện Kinh Môn Hải
Dương. Từ đó đưa ra những biện pháp nhằm hoàn thiện công tác quản lý rủi ro tín
dụng tại Agribank Chi nhánh huyện Kinh Môn Hải Dương.
- Phạm vi: Nghiên cứu hoạt động QLRRTD tại Agribank Chi nhánh huyện
Kinh Môn Hải Dương từ năm 2010 đến năm 2015.
4. Phương pháp nghiên cứu
Các phương pháp được sử dụng trong quá trình thực hiện luận văn là
phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, thống kê, so sánh, tổng hợp,
phân tích những dữ liệu đã được thu thập từ các báo cáo tổng kết các năm, bảng
cân đối kế toán, báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh tại Agribank Chi nhánh
huyện Kinh Môn từ năm 2010 đến năm 2015, đi từ cơ sở lý thuyết đến phân tích
thực tế công tác quản lý rủi ro tín dụng tại Agribank Chi nhánh huyện Kinh Môn
Hải Dương. Từ đó đưa ra những biện pháp nhằm hoàn thiện công tác quản lý rủi ro
tín dụng tại Agribank Chi nhánh huyện Kinh Môn Hải Dương.
5. Những đóng góp của luận văn
- Về mặt lý luận: Góp phần hệ thống hóa những vấn đề cơ bản về rủi ro tín
dụng và QLRRTD tại các NHTM.
- Về mặt thực tiễn: Phân tích thực trạng công tác QLRRTD tại Agribank Chi
nhánh huyện Kinh Môn Hải Dương, làm rõ những nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín
dụng và đưa ra một số biện pháp nhằm hoàn thiện công tác QLRRTD tại Agribank
Chi nhánh huyện Kinh Môn Hải Dương.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, luận văn được kết cấu làm 3 chương
Chương 1: Lý luận chung về rủi ro tín dụng và quản lý rủi ro tín dụng tại các
Ngân hàng thương mại.

Chương 2: Thực trạng công tác quản lý rủi ro tín dụng tại Agribank Chi
nhánh huyện Kinh Môn Hải Dương.
Chương 3: Một số biện pháp hoàn thiện công tác quản lý rủi ro tín dụng tại
Agribank Chi nhánh huyện Kinh Môn Hải Dương.

3


CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ RỦI RO TÍN DỤNG VÀ QUẢN LÝ
RỦI RO TÍN DỤNG TẠI CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. Rủi ro tín dụng của NHTM
1.1.1. Tín dụng Ngân hàng
1.1.1.1. Khái niệm tín dụng Ngân hàng
Tín dụng được hiểu chung là mối quan hệ cho vay có hoàn trả giữa hai đối
tác là người cho vay và người đi vay. Đó là sự dịch chuyển quyền sử dụng vốn tạm
thời giữa người đi vay và người cho vay. Trong quan hệ tín dụng, người vay phải
hoàn trả cả gốc và lãi cho người sở hữu vốn sau một thời gian thoả thuận. Quan hệ
này được tạo lập dựa trên mức độ tín nhiệm của người đi vay với người cho vay.
Theo luật các Tổ chức tín dụng năm 2010: "Cấp tín dụng là việc thỏa thuận
để tổ chức, cá nhân sử dụng một khoản tiền hoặc cam kết cho phép sử dụng một
khoản tiền theo nguyên tắc có hoàn trả bằng nghiệp vụ cho vay, chiết khấu, cho
thuê tài chính, bao thanh toán, bảo lãnh Ngân hàng và các nghiệp vụ cấp tín dụng
khác" [7, tr.2].
Hiện nay, hoạt động tín dụng vẫn là hoạt động kinh doanh mang lại phần lớn
thu nhập cho các NHTM tại Việt Nam. Nguồn thu từ hoạt động tín dụng là khoản
thu từ lãi cho vay, nguồn thu này phụ thuộc vào qui mô dư nợ, thời gian cho vay và
lãi suất của khoản vay. Hoạt động tín dụng chịu rất nhiều tác động từ môi trường
kinh doanh, từ bản thân khách hàng và tiềm ẩn rất nhiều rủi ro.
1.1.1.2. Phân loại tín dụng Ngân hàng [1]
Tín dụng Ngân hàng được phân ra nhiều loại theo các tiêu chí khác nhau.

* Căn cứ vào thời hạn vay:
- Tín dụng ngắn hạn: Là loại tín dụng có thời hạn dưới 1 năm. Khoản tín
dụng này chủ yếu tài trợ cho nhu cầu vay vốn lưu động hoặc tiêu dùng cá nhân.
- Tín dụng trung hạn: Là loại tín dụng có thời hạn từ 1 đến 5 năm, được sử
dụng cho hoạt động đầu tư mua sắm tài sản cố định, mở rộng sản xuất kinh doanh
với quy mô nhỏ, thu hồi vốn nhanh.

4


- Tín dụng dài hạn: Là loại tín dụng có thời hạn trên 5 năm. Loại tín dụng
này để tài trợ cho nhu cầu xây dựng nhà xưởng, đầu tư dự án mới với quy mô lớn,
thời gian thu hồi vốn từ 5 năm trở lên.
* Căn cứ vào mức độ tín nhiệm của khách hàng:
- Tín dụng có bảo đảm bằng tài sản: Là việc cấp tín dụng dựa trên việc
khách hàng cam kết sử dụng tài sản của mình để trả nợ cho Ngân hàng hoặc có sự
bảo lãnh của người thứ ba khi không có khả năng trả nợ gốc và lãi theo đúng thời
hạn trong hợp đồng tín dụng.
- Tín dụng không có tài sản đảm bảo: Là hình thức cho vay không có tài sản
thế chấp, cầm cố hoặc bảo lãnh của người thứ ba. Việc cấp tín dụng này chỉ dựa
vào uy tín của người đi vay. Do vậy, rủi ro của loại tín dụng này thường rất cao, và
ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả hoạt động kinh doanh của Ngân hàng.
* Căn cứ vào mục đích vay vốn:
- Cho vay phục vụ sản xuất kinh doanh: Là việc cấp tín dụng nhằm phục vụ
cho mục đích sản xuất, kinh doanh của tổ chức kinh tế, hộ sản xuất và cá nhân.
- Cho vay tiêu dùng: phục vụ cho nhu cầu đời sống cho cá nhân, hộ gia đình.
* Căn cứ vào phương thức cho vay:
- Cho vay từng lần: Là hình thức cho vay tương đối phổ biến của Ngân
hàng, áp dụng đối với khách hàng có nhu cầu vốn không thường xuyên, không có
điều kiện để được cấp hạn mức tín dụng.

- Cho vay theo hạn mức tín dụng: Là việc cấp tín dụng cho những khách
hàng có nhu cầu vốn lưu động thường xuyên, có uy tín với Ngân hàng. Khách hàng
chỉ cần ký hợp đồng tín dụng một lần, xác định thời hạn của hạn mức tín dụng và
những lần giải ngân tiếp theo chỉ cần giấy nhận nợ, không cần ký lại hợp đồng tín
dụng với điều kiện tổng dư nợ không vượt quá hạn mức đã ký.
- Cho vay đầu tư dự án: Là hình thức cấp tín dụng để thực hiện các dự án
đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh.
- Cho vay trả góp: Thường áp dụng đối với cá nhân, để phục vụ cho nhu cầu
tiêu dùng như mua xe, mua nhà…

5


1.1.2. Rủi ro tín dụng của NHTM
1.1.2.1. Khái niệm rủi ro tín dụng
Đặc điểm hoạt động của Ngân hàng là vai trò trung gian trong nền kinh tế,
hoạt động kinh doanh rất nhạy cảm, có liên quan đến nhiều lĩnh vực khác nhau của
nền kinh tế và chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố khách quan và chủ quan. Ngoài
ra, Ngân hàng còn có đặc điểm đó là Ngân hàng có hệ số đòn bẩy (hệ số nợ) cao.
Chính vì những đặc điểm trên mà hoạt động kinh doanh của Ngân hàng chứa đựng
nhiều rủi ro, trong đó lớn nhất là rủi ro tín dụng.
Rủi ro tín dụng là khả năng xảy ra tổn thất ngoài dự kiến cho Ngân hàng do
khách hàng không trả nợ đúng hạn, không trả hoặc không trả đầy đủ gốc và lãi.
Theo thông tư số 02/2013/TT-NHNN ban hành ngày 21 tháng 01 năm 2013 của
Thống đốc Ngân hàng Nhà nước (NHNN): " Rủi ro tín dụng trong hoạt động Ngân
hàng là tổn thất có khả năng xảy ra đối với nợ của tổ chức tín dụng, chi nhánh
Ngân hàng nước ngoài do khách hàng không thực hiện hoặc không có khả năng
thực hiện một phần hoặc toàn bộ nghĩa vụ của mình theo cam kết". [4, tr.2]
Tổn thất khi khách hàng không trả hoặc trả không đầy đủ vốn và lãi sẽ làm
giảm thu nhập của Ngân hàng; Ngân hàng vừa không thu được nợ, trong khi phải

trả gốc và lãi cho nguồn vốn huy động được để cho vay. Do vậy, Ngân hàng phải
tìm cách huy động nguồn khác vào để bù đắp. Chi phí phát sinh này có thể là khá
đắt (Ngân hàng phải tìm cách huy động vốn trên thị trường liên Ngân hàng hoặc đi
vay tái cấp vốn…). Nếu các khoản nợ quá hạn này lớn, có thể đặt Ngân hàng vào
tình thế khó khăn về thanh khoản. Đồng thời, khi khách hàng trả nợ không đúng
hạn, Ngân hàng sẽ phải trích dự phòng rủi ro cho món vay, khoản dự phòng này sẽ
làm tăng chi phí của Ngân hàng. Như vậy, có thể nói rằng rủi ro tín dụng luôn gây
ra tổn thất cho Ngân hàng, trước hết về mặt tài chính. Tín dụng là loại tài sản có
chiếm tỷ trọng cao nhất trong tổng tài sản của Ngân hàng, mang lại thu nhập lớn
nhất cho Ngân hàng nhưng cũng là loại tài sản rủi ro lớn nhất của Ngân hàng. Rủi
ro tín dụng xảy ra từ nhiều nguyên nhân khác nhau, có thể do tác động của môi
trường kinh doanh, có thể do đạo đức của người vay.

6


1.1.2.2. Phân loại rủi ro tín dụng [3, tr.43]
- Rủi ro vỡ nợ là rủi ro khi người đi vay không thể thực hiện được nghĩa vụ
trả nợ theo cam kết trong hợp đồng tín dụng đã ký.
- Rủi ro chuyển hạng là loại rủi ro uy tín tín dụng của người phát hành một
trái phiếu hay cổ phiếu suy giảm. Trong thị trường sự giảm uy tín tín dụng của
người đi vay trở thành thua lỗ vì nó khiến giá trị giảm.
- Rủi ro nguy cơ bắt nguồn từ những nguy cơ tương lai, lượng tiền nợ - có
nhiều bất trắc, có nguy cơ trong tương lai gây ra thua lỗ.
- Rủi ro đối tác của phát sinh là những rủi ro đối với những công cụ không
chính thức như hợp đồng hoán đổi, hợp đồng quyền trọn khi bán đi không khả thi
bởi giả trị của những công cụ này liên tục thay đổi.
- Rủi ro tín dụng trong danh mục đầu tư buôn bán là rủi ro do giá trị giấy tờ
trong danh mục đầu tư buôn bán bị giảm xuống do tác động của thị trường.
1.1.2.3. Nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng [2]

Nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng có rất nhiều, tuy nhiên, dựa trên mối
quan hệ trong hoạt động tín dụng (bao gồm Ngân hàng, khách hàng, môi trường
kinh doanh), có thể chia các nguyên nhân này thành nguyên nhân khách quan và
nguyên nhân chủ quan.
a) Nguyên nhân khách quan
* Nguyên nhân từ môi trường kinh doanh:
Đây là những nguyên nhân vượt tầm kiểm soát của cả Ngân hàng và khách
hàng vay vốn. Môi trường kinh doanh không thuận lợi, có sự biến động lớn làm
cho người đi vay lâm vào tình trạng khó khăn và không có khả năng trả nợ Ngân
hàng. Có thể thấy một số nguyên nhân chủ yếu sau:
+ Môi trường tự nhiên: Môi trường tự nhiên có ảnh hưởng rất lớn đến đời
sống kinh tế xã hội. Rủi ro mà môi trường tự nhiên gây ra cho Ngân hàng đó là
thiên tai, dịch bệnh. Thiên tai gây ra tác động tiêu cực trực tiếp đến hoạt động sản
xuất kinh doanh của con người, nhất là đến hoạt động sản xuất nông nghiệp, làm
đình trệ hoạt động sản xuất của con người. Do tác động của thiên tai làm cho người

7


đi vay bị thiệt hại về tài sản, hoạt động sản xuất kinh doanh, đời sống…dẫn đến
không có nguồn trả nợ Ngân hàng và rủi ro tín dụng sẽ phát sinh.
+ Môi trường kinh tế - xã hội: Ngân hàng và các khách hàng dù là cá nhân
hay tổ chức kinh tế đều chịu tác động của môi trường kinh tế - xã hội. Khi nền kinh
tế tăng trưởng ổn định, bền vững, các cá nhân và doanh nghiệp kinh doanh có điều
kiện thuận lợi để phát triển, khi đó, rủi ro tín dụng thấp. Và ngược lại với nền kinh
tế bất ổn, có nhiều biến động về chính trị, xã hội (lạm phát, thất nghiệp, kinh tế suy
thoái, khủng hoảng, hay sự bất ổn của thị trường chứng khoán, bất động sản…)
đều gây khó khăn cho đời sống cá nhân, hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp và tất yếu là Ngân hàng bị ảnh hưởng. Rủi ro tín dụng cao, Ngân hàng càng
thắt chặt cho vay, doanh nghiệp và hộ sản xuất kinh doanh càng gặp khó khăn và

những món đã giải ngân càng có nguy cơ rủi ro cao.
+ Môi trường pháp lý: Các chủ thể trong nền kinh tế luôn chịu tác động của
hệ thống pháp luật. Hệ thống pháp luật chưa đồng bộ, chồng chéo gây khó khăn
cho các chủ thể hoạt động sản xuất kinh doanh, từ đó có thể dẫn đến một số rủi ro,
gọi là rủi ro pháp lý.
Các chính sách kinh tế của Nhà nước cũng có tác động lớn đến hoạt động
kinh doanh của doanh nghiệp, cá nhân. Doanh nghiệp, các hộ sản xuất kinh doanh
hoạt động theo qui định của các chính sách kinh tế, luật pháp. Các chính sách
không phù hợp, hay thay đổi sẽ gây khó khăn cho các chủ thể kinh tế này và đương
nhiên là gây rủi ro cho các khoản tín dụng của Ngân hàng.
* Nguyên nhân thuộc về người vay
Đây là một trong những nguyên nhân chính dẫn đến rủi ro tín dụng Ngân
hàng. Bao gồm những nguyên nhân chính là:
- Trình độ, năng lực yếu kém, kinh nghiệm quản lý kinh doanh của khách
hàng còn hạn chế dẫn đến họ không có khả năng điều hành, dự đoán các vấn đề
kinh doanh. Do vậy, khi hoạt động kinh doanh gặp rủi ro, khách hàng không có khả
năng chống đỡ. Mặt khác, do trình độ quản lý, điều hành yếu kém, việc quản lý tài
chính và thực hiện phương án, dự án vay vốn không hiệu quả có thể dẫn đến khách

8


hàng mất khả năng thanh toán. Nguyên nhân này thường dẫn đến khả năng tài
chính giảm sút, thậm chí phá sản và không còn khả năng trả nợ cho Ngân hàng.
- Sự yếu kém về tư cách đạo đức, cố tình lừa đảo, hoặc chây ỳ, không muốn
trả nợ Ngân hàng là nguyên nhân gây ra rủi ro lớn cho Ngân hàng. Khi khách hàng
đưa ra những thông tin sai lệch, không trung thực (về nhân thân, tình hình tài
chính, về tài sản đảm bảo, phương án vay vốn…) thì cán bộ tín dụng có thể không
phát hiện ra và khả năng bị rủi ro của món cho vay là rất lớn. Có thể nói đây là
những nguyên nhân chính gây rủi ro cho Ngân hàng. Yếu tố ý thức đạo đức của

khách hàng đóng vai trò quan trọng trong việc trả nợ Ngân hàng. Một khách hàng
có ý thức trả nợ cao thì dù có khó khăn đến mấy họ cũng cố gắng trả nợ cho Ngân
hàng và ngược lại, một khách hàng có thể có tiềm năng về tài chính nhưng thiếu tư
cách đạo đức sẽ chây ỳ không trả nợ để chiếm dụng vốn của Ngân hàng. Chính vì
vậy, trong quá trình thẩm định món vay, thẩm định về tư cách đạo đức, ý thức của
người vay là yếu tố hết sức quan trọng.
b) Nguyên nhân chủ quan
Đây là những nguyên nhân thuộc về Ngân hàng, bao gồm:
- Sự hạn chế của chính sách tín dụng.
Chính sách tín dụng là toàn bộ những nội dung có liên quan đến việc cấp tín
dụng nói chung như: qui mô cho vay, lãi suất, thời hạn, tài sản đảm bảo, phạm vi
cho vay, qui trình cho vay và các nội dung khác liên quan. Một chính sách tín dụng
còn bất cập như: đề cao việc tăng doanh số cho vay hơn là chú trọng nâng cao chất
lượng tín dụng, quan tâm đến tài sản đảm bảo nhiều hơn là tính hiệu quả của
phương án vay vốn, nguồn trả nợ Ngân hàng...sẽ có thể gây rủi ro tín dụng. Bởi vì,
chính sách tín dụng giữ vai trò định hướng hoạt động cho vay của Ngân hàng.
- Do sai sót khi thực hiện quy trình cho vay
Rủi ro tín dụng có thể phát sinh khi thực hiện qui trình cho vay. Những thao
tác nghiệp vụ cho vay không đầy đủ, sai sót với qui trình đã đề ra có thể gây ra rủi
ro cho Ngân hàng như sau:
+ Không tuân thủ đầy đủ nội dung của qui trình cho vay.

9


Điều này dẫn đến rủi ro rất lớn cho Ngân hàng. Trong đó có những nguyên
nhân chủ yếu sau:
> Việc thẩm định, đánh giá về khách hàng không chính xác.
Việc thẩm định khách hàng không chuẩn xác có thể bắt nguồn từ việc thu
thập thông tin khách hàng không đầy đủ, kỹ lưỡng, phân tích thông tin không

chính xác trong quá trình thẩm định hồ sơ vay vốn. Cán bộ tín dụng có thể thu thập
không đầy đủ hoặc không phát hiện ra những điểm bất hợp lý trong thông tin tài
chính, pháp lý của khách hàng cung cấp, không thẩm định kỹ tư cách đạo đức của
khách hàng, năng lực điều hành của ban lãnh đạo…điều này sẽ dẫn đến quyết định
cho vay sai. Mặt khác, dữ liệu phải luôn thường xuyên được cập nhật, phản ánh
thay đổi về tình hình tài chính, nhân thân…của khách hàng trong quá trình trong và
sau khi cho vay. Nếu không, Ngân hàng cũng có thể gặp rủi ro nếu khách hàng gặp
bất lợi, lúc đó khó có thể xoay chuyển được tình thế cho Ngân hàng.
Việc thẩm định không chính xác cũng có thể dẫn đến việc đưa ra mức cho
vay không phù hợp, cao hơn hoặc thấp hơn nhu cầu thực sự, khả năng trả nợ của
khách hàng, không dựa trên mức độ rủi ro của khách hàng cũng như tính hiệu quả,
khả thi, mức độ rủi ro của dự án, phương án…sẽ đặt món vay đó vào tình trạng rủi
ro cao. Đồng thời, không khuyến khích được khách hàng cân nhắc kỹ trước khi ra
quyết định đầu tư. Kết quả của việc thẩm định, đánh giá khách hàng còn thể hiện ở
việc cấp giới hạn tín dụng cho khách hàng. Do đó, nếu đánh giá mức độ rủi ro
không phù hợp sẽ làm tăng rủi ro cho Ngân hàng.
> Công tác kiểm soát sau cho vay chưa được chú trọng
Công tác kiểm soát sau cho vay có vai trò rất quan trọng, việc phát hiện ra
dấu hiệu rủi ro của món vay chủ yếu nằm trong khâu này. Nội dung mấu chốt của
việc kiểm soát sau là kiểm soát dòng tiền của khách hàng (sau khi bán hàng, xuất
kho), kiểm tra việc sử dụng vốn vay của khách hàng có đúng mục đích vay vốn
hay không, kiểm tra tình trạng tài sản đảm bảo…Thông qua nội dung kiểm tra này,
cán bộ tín dụng có thể phát hiện dấu hiệu có vấn đề trong khoản vay. Việc chủ
quan, lơ là, không quan tâm đến việc kiểm soát sau có thể dẫn đến các khoản vay

10


có vấn đề thực sự. Lúc đó sẽ là quá muộn đề có thế loại bỏ được rủi ro tín dụng
cho Ngân hàng.

+ Các quyết định liên quan đến việc cho vay không chính xác như: định kỳ
hạn, thời hạn trả nợ của khách hàng, nếu xác định không đúng đắn, không khoa
học, có thể dẫn đến nợ quá hạn, nợ bị cơ cấu thời hạn, kỳ hạn trả nợ (kỳ hạn, thời
hạn trả nợ không phù hợp với chu kỳ kinh doanh, nguồn trả nợ của khách hàng), từ
đó phát sinh các khoản nợ bị rủi ro (do khách hàng không trả nợ đúng hạn).
+ Việc cho vay đưa ra chủ yếu dựa vào tài sản đảm bảo.
Thực tế, nhiều quyết định cho vay lại được dựa trên lý do chính là tài sản
đảm bảo (chủ yếu là bất động sản), trong khi các điều kiện quan trọng khác bị bỏ
qua như tính hiệu quả của phương án, tình hình tài chính, nhân thân của khách
hàng... Điều này đưa Ngân hàng vào tình trạng rủi ro cao. Thực tế, tài sản đảm bảo
chỉ là "cứu cánh cuối cùng" của khoản nợ nhưng cũng chưa đảm bảo là biện pháp
tối ưu nhất để thu hồi nợ vì biến động của giá trị tài sản đảm bảo. Nếu tại thời điểm
phát mại tài sản để thu hồi nợ, bất động sản đó bị giảm giá trị thì số tiền thu hồi về
thậm chí không đủ trả gốc cho Ngân hàng. Ngoài ra, tính pháp lý liên quan đến tài
sản không được đảm bảo như: tư cách pháp lý người bảo lãnh, người thế chấp
không đảm bảo, bản thân tài sản đảm bảo (có bị tranh chấp, giả mạo hay không…)
cũng là một nguyên nhân gây rủi ro cho Ngân hàng.
- Sự yếu kém tư cách đạo đức của cán bộ tín dụng và hạn chế trong trình độ
chuyên môn, năng lực làm việc của cán bộ. Sự hạn chế trong việc điều hành hoạt
động cho vay của lãnh đạo Ngân hàng.
Cán bộ tín dụng không đủ năng lực, trình độ để thẩm định món vay dẫn đến
việc không phát hiện ra sự thiếu trung thực, chính xác, bất hợp lý trong thông tin
của khách hàng cung cấp. Từ đó, nhận định về khả năng tài chính của khách hàng
chưa đúng và đưa ra quyết định sai. Ngoài ra, sự yếu kém trong quá trình kiểm soát
sau, cán bộ cũng không phát hiện ra dấu hiệu bất thường, rủi ro cho khoản vay,
không kiểm soát được dòng tiền đi ra từ Ngân hàng…Đây là một nguyên nhân
chính gây ra rủi ro tín dụng.

11



Rủi ro đạo đức phát sinh khi cán bộ Ngân hàng trục lợi trong quá trình tác
nghiệp. Thực tế, trong một nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường, nhiều cán
bộ tín dụng có quan hệ mờ ám với khách hàng, bị khách hàng mua chuộc... Mặc dù
khách hàng không đủ tư cách hay điều kiện vay vốn những cán bộ tín dụng vẫn
chấp nhận cho vay. Việc cán bộ tín dụng móc ngoặc với khách hàng để đảo nợ, vay
ké; hay cấp trên, do trục lợi nên ép buộc cấp dưới phải cho vay khách hàng...đều
đưa Ngân hàng vào trình trạng gặp rủi ro tín dụng.
Ngoài ra, sự thiếu năng lực điều hành hoạt động kinh doanh trong đó có hoạt
động tín dụng của ban lãnh đạo cũng dẫn đến rủi ro tín dụng cho Ngân hàng. Sự
hạn chế trong năng lực điều hành dẫn đến việc phổ biến, kiểm soát thực hiện chủ
trương, qui định của Ngân hàng về tín dụng, định hướng hoạt động cho vay, giám
sát việc thực hiện qui trình cho vay, tuyển dụng, bố trí cán bộ tín dụng…không tốt
sẽ là một trong những lý do dẫn đến rủi ro tín dụng cho Ngân hàng.
1.1.2.4. Các dấu hiệu nhận biết rủi ro tín dụng
Trong hoạt động cho vay, việc nhận biết dấu hiệu rủi ro của món vay chủ
yếu nằm ở khâu kiểm soát sau. Một số dấu hiệu cảnh báo rủi ro tín dụng chủ yếu
trong hoạt động cho vay của Ngân hàng như sau:
- Dấu hiệu về khoản vay của khách hàng
Một khoản cho vay có thể là dấu hiệu của rủi ro nếu có những biểu hiện sau:
+ Đến kỳ hạn hoặc thời hạn trả nợ nhưng khách hàng trả không đầy đủ gốc
lãi, hoặc trả không đúng hạn.
+ Khách hàng có nhu cầu điều chỉnh kỳ hạn trả nợ hoặc xin gia hạn nợ.
+ Chu kì vay tăng (chủ yếu đối với món vay theo hạn mức).
Những dấu hiệu này đều xuất phát từ nguyên nhân giảm sút về tài chính của
khách hàng. Mặt khác, việc sử dụng tiền vay không đúng mục đích cũng sẽ là cơ
sở cho việc khó thu hồi nợ hoặc thu hồi không đầy đủ cho Ngân hàng
- Các dấu hiệu liên quan đến khách hàng vay.
+ Trình độ và cách thức tổ chức quản lý hoạt động kinh doanh, nhân sự của
khách hàng.


12


Trình độ và phương thức quản lý còn hạn chế làm cho bộ máy nhân sự
không phát huy hết khả năng cuả mình, không khuyến khích được tinh thần hăng
say làm việc của người lao động điều này có thể phát hiện thông qua thái độ làm
việc của đội ngũ lao động của khách hàng. Điều này còn dẫn đến nội bộ không
đoàn kết, sự mâu thuẫn nhau. Chính sự yếu kém trong trình độ quản lý sẽ gây ra
phát sinh nhiều khoản chi phí không hợp lý, giảm lợi nhuận và làm cho tình hình
tài chính của doanh nghiệp giảm sút.
+ Tình hình tài chính của khách hàng:
> Sự giảm sút về doanh thu (thông qua việc kiểm tra tình hình tài chính,
hàng tồn kho, dòng tiền vào của khách hàng…).
> Sự chậm trễ trong thanh toán lương cho nhân viên, người lao động.
> Các hệ số thanh toán, hệ số quay vòng vốn lưu động thấp…biểu hiện khả
năng thanh toán của khách hàng giảm.
> Các khoản nợ của khách hàng (nợ người bán, nợ tổ chức tín dụng khác…),
các khoản phải thu tăng lên…cũng là một nguyên nhân gây ra tình trạng khách
hàng khó khăn về tài chính, chậm thanh toán nợ cho Ngân hàng.
> Có biểu hiện giảm vốn điều lệ, nguyên nhân là do lợi nhuận âm và làm
giảm vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp.
> Khách hàng chậm chễ nộp báo cáo tài chính; các số liệu trong báo cáo tài
chính không trung thực, thiếu chính xác, bất hợp lý. Mặc dù tăng doanh số, doanh
thu bán hàng nhưng lãi thấp hoặc lỗ. Nguyên nhân của dấu hiệu này có thể là do
khách hàng cố tình che dấu tình trạng khó khăn về tài chính hoặc cố tình chiếm
dụng vốn của Ngân hàng. Khách hàng không nộp báo cáo tài chính đã được
chuyển sang cơ quan thuế mà nộp bản báo cáo tài chính khác.
> Các tài sản có tính lỏng cao như tiền mặt, khoản phải thu ngắn hạn…giảm,
làm giảm hệ số về khả năng thanh toán của khách hàng.

> Thực trạng về sản xuất, kinh doanh không đạt kết quả như phương án, kế
hoạch đã đưa ra.
+ Xuất hiện các rủi ro cho hoạt động sản xuất kinh doanh của khách hàng

13


như: giá cả mặt hàng giảm sút (so với thời điểm cho vay và thời điểm lập phương
án, dự án) hay giá cả nguyên vật liệu đầu vào tăng, khách hàng bị mất đối tác cung
cấp nguồn nguyên liệu đầu vào hoặc tiêu thụ mặt hàng của doanh nghiệp…Mặt
khác, rủi ro có thể xảy ra nếu doanh nghiệp chuyển hoặc mở rộng lĩnh vực sản
xuất, kinh doanh những ngành nghề, mặt hàng mà không thuộc chuyên môn của
mình hoặc lĩnh vực có độ rủi ro cao.
+ Mặt khác, một cơ cấu vốn không hợp lý, sử dụng vốn sai mục đích ví dụ
như: dùng vốn vay ngắn hạn để mua sắm, tài trợ cho TSCĐ, nhà xưởng...đều làm
cho đồng vốn vay nằm trong khả năng rủi ro cao.
+ Sự vi phạm pháp luật của người đứng đầu doanh nghiệp hay khách hàng…
cũng đưa Ngân hàng vào tình trạng bị rủi ro tín dụng
+ Bên cạnh những dấu hiệu trên, Ngân hàng có thể nhận biết thêm một dấu
hiệu rủi ro nữa là sự biến động của giá trị tài sản đảm bảo (nhất là bất động sản)
+ Tác động của thiên tai, hoả hoạn gây tổn thất tài sản, ảnh hưởng tiêu cực
tới hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
Ngoài những yếu tố nằm trong phạm vi của doanh nghiệp còn có những yếu
tố được coi là những dấu hiệu rủi ro nằm ngoài doanh nghiệp. Đó là tình trạng lạm
phát, sự tăng lãi suất đầu vào, nền kinh tế lâm vào khó khăn, khủng hoảng hoặc
suy thoái; sự thay đổi chính sách kinh tế gây khó khăn cho doanh nghiệp (chính
sách thay đổi tiền lương, chính sách giá cả…). Sự biến động bất lợi trong ngành
nghề của khách hàng. Sự biến động về tỷ giá hối đoái làm cho doanh nghiệp xuất
nhập khẩu bị thua lỗ hoặc không mua được ngoại tệ để nhập khẩu hàng hoá phục
vụ sản xuất kinh doanh hoặc để thanh toán các khoản nợ cho đối tác hay Ngân

hàng…Những yếu tố này phát sinh cũng chính là những dấu hiệu rủi ro tín dụng.
Nhận biết các dấu hiệu này rất quan trọng, giúp Ngân hàng có thể phòng
ngừa rủi ro tín dụng. Công tác phòng ngừa rủi ro tín dụng rất quan trọng đối với
bất kỳ một NHTM nào. Bởi lẽ nếu thực hiện tốt công tác phòng ngừa rủi ro tín
dụng sẽ hạn chế được tối đa những rủi ro, thiệt hại có thể xảy ra trong công tác cấp
tín dụng, đem lại hiệu quả kinh doanh cho Ngân hàng.

14


1.1.2.5. Các chỉ tiêu phản ánh rủi ro tín dụng
Để có thước đo mức độ rủi ro tín dụng, Ngân hàng thường sử dụng các chỉ
tiêu đo lường. Mỗi chỉ tiêu có một ý nghĩa nhất định trong việc phản ánh mức độ
rủi ro tín dụng. Từ việc lượng hoá rủi ro tín dụng bằng các chỉ tiêu, Ngân hàng có
căn cứ để đưa ra các biện pháp nhằm hạn chế rủi ro tín dụng, hạn chế những tổn
thất cho Ngân hàng.
Những chỉ tiêu đó là:
- Tỷ lệ nợ quá hạn:
Nợ quá hạn
x 100%
Tổng dư nợ
Nợ quá hạn là khoản nợ phát sinh do khi đến thời hạn đã thoả thuận trên
Tỷ lệ nợ quá hạn

=

Hợp đồng tín dụng, khách hàng không trả được. Do vậy, toàn bộ số nợ gốc của lần
nhận nợ đó bị chuyển sang nợ quá hạn. Nợ quá hạn là thước đo quan trọng nhất
đánh giá sự lành mạnh của TCTD.
Chỉ tiêu tỷ lệ nợ quá hạn phản ánh phần trăm các khoản nợ đến hạn chưa

được thanh toán đã chuyển thành nợ quá hạn trong tổng dư nợ của Ngân hàng. Tỷ
lệ càng cao cho thấy khả năng Ngân hàng bị tổn thất càng lớn (tổn thất do các chi
phí phát sinh khi tìm kiếm nguồn thanh toán cho các khoản đến hạn, tổn thất do
mất vốn, không thu được lãi cho vay…). Tỷ lệ nợ quá hạn tỷ lệ thuận với rủi ro tín
dụng của Ngân hàng.
Trong quá trình phân tích mức độ rủi ro do nợ quá hạn, cần cân nhắc đến
những vấn đề làm cho các chỉ tiêu này không phản ánh chính xác, đầy đủ mức độ
rủi ro tín dụng. Đó là do việc xác định kỳ hạn, thời hạn trả nợ không phù hợp (với
chu kỳ kinh doanh, nguồn trả nợ của khách hàng) dẫn đến việc khách hàng không
trả nợ đúng hạn đã thoả thuận làm phát sinh nợ quá hạn, nợ bị cơ cấu thời hạn, kỳ
hạn trả nợ mà đáng lẽ ra có thể không phát sinh nếu định kỳ hạn, thời hạn trả nợ
hợp lý hơn. Ngoài ra, việc cấu kết với khách hàng để giãn nợ, đảo nợ cũng che dấu
được việc phát sinh nợ quá hạn, nhưng thực chất những món vay này đều hàm
chứa rủi ro cho Ngân hàng. Các vấn đề này càng nhiều thì càng làm tăng "sai số"
của các chỉ tiêu trên trong việc phản ánh rủi ro tín dụng của Ngân hàng.
15


- Tỷ lệ các khoản nợ xấu:
Tỷ lệ nợ xấu

=

Số dư nợ xấu
Tổng dư nợ

x 100%

Theo Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN, nợ xấu là các khoản nợ từ nhóm 3,
đến nhóm 5. Chỉ tiêu tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ cũng là chỉ tiêu nhằm đánh giá

chất lượng tín dụng của Ngân hàng. Tỷ lệ này càng cao, rủi ro của Ngân hàng càng
cao và ngược lại. Ngân hàng có tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ thấp phản ánh chất
lượng tín dụng của Ngân hàng khá tốt.
- Tỷ lệ dự phòng rủi ro tín dụng:
Dự phòng RRTD được trích lập
x 100%
Tổng dư nợ
Dự phòng rủi ro là khoản tiền được trích lập để dự phòng cho những tổn thất

Tỷ lệ dự phòng RRTD

=

có thể xảy ra do khách hàng không thực hiện nghĩa vụ tín dụng theo cam kết. Dự
phòng rủi ro được tính theo dư nợ gốc và hạch toán vào chi phí hoạt động của
Ngân hàng. Dự phòng rủi ro bao gồm dự phòng cụ thể (được trích theo tỷ lệ phần
trăm trên dư nợ gốc sau khi khấu trừ phần trăm giá trị tài sản đảm bảo trên cơ sở
phân loại cụ thể các khoản nợ) và dự phòng chung (được trích theo tỷ lệ phần trăm
trên tổng dư nợ từ nhóm 1 đến nhóm 4).
Chỉ tiêu này càng cao phản ánh mức rủi ro tín dụng của Ngân hàng cao,
cũng thể hiện sự chuẩn bị của Ngân hàng đối với các khoản vay không đủ tiêu
chuẩn, các khoản nợ xấu và sự chuẩn bị đối phó với trường hợp khó khăn về tài
chính khi chất lượng các khoản vay bị giảm sút.
- Các chỉ tiêu khác: Ngoài các chỉ tiêu định lượng trên, Ngân hàng còn
dùng rất nhiều chỉ tiêu khác để đánh giá rủi ro tín dụng như: tính đa dạng hoá
của tín dụng, chấm điểm khách hàng…
+ Điểm khách hàng: Thông qua các chỉ tiêu về tài chính, hiệu quả phương
án, dự án vay vốn, năng lực quản lý của doanh nghiệp, ngành nghề kinh doanh,
tình hình quan hệ tín dụng, việc thanh toán với Ngân hàng … Ngân hàng sẽ lập
một bộ hồ sơ khách hàng và dựa vào những tiêu chí phân loại khách hàng để xếp

loại và chấm điểm. Khách hàng loại A hoặc điểm cao, rủi ro tín dụng thấp, loại C
16


hoặc điểm thấp, rủi ro cao. Căn cứ vào việc chấm điểm, xếp loại này, Ngân hàng sẽ
có chính sách tín dụng khác nhau đối với từng loại khách hàng. Ví dụ, đối với
khách hàng có điểm xếp hạng cao hoặc loại A, có thể thực hiện cho vay ưu đãi về
lãi suất, phí…, cho vay tín chấp, tiếp tục duy trì quan hệ tín dụng...và ngược lại,
đối với khách hàng xếp loại C, Ngân hàng sẽ đưa ra biện pháp thu hẹp tín dụng,
thực hiện cho vay có tài sản đảm bảo, thu hồi nợ vay...
+ Tính kém đa dạng của tín dụng: Để giảm thiểu rủi ro tín dụng, đa dạng hoá
là biện pháp cần làm. Việc đa dạng hoá rủi ro tín dụng có thể được thực hiện thông
qua việc đa dạng hoá đối tượng cho vay, nhóm khách hàng, ngành nghề cho
vay...Bởi lẽ, nếu tập trung vào một đối tượng, một nhóm khách hàng...nếu có vấn
đề bất trắc xảy ra, rủi ro, tổn thất sẽ là rất lớn. Ngày nay, nhiều NHTM sử dụng
phương pháp chấm điểm xếp loại khách hàng, dựa trên các chỉ tiêu tài chính và các
chỉ tiêu về ngành nghề, năng lực lãnh đạo, tình hình trả nợ, quan hệ tín dụng với
các tổ chức tín dụng…để đo lường rủi ro tín dụng để có chính sách cụ thể đối với
các khách hàng khác nhau, phù hợp với mức độ rủi ro đo lường và phân tích được.
1.1.2.6. Ảnh hưởng của rủi ro tín dụng
Rủi ro tín dụng thường chiếm tỷ lệ lớn nhất trong các rủi ro khác của Ngân
hàng, (rủi ro tín dụng thường lớn là rủi ro quan trọng nhất đối với các Ngân hàng
châu Á, chiếm tới 60% so với rủi ro khác: rủi ro con người, công nghệ, uy tín, rửa
tiền chỉ chiếm 20%, rủi ro thị trường: rủi ro lãi suất, ngoại hối, giá hàng hoá…
chiếm 20%). Rủi ro tín dụng ảnh hưởng rộng rãi tới các yếu tố của nền kinh tế và
trước hết là tới Ngân hàng, cụ thể là.
- Đối với Ngân hàng
Rủi ro tín dụng gây hậu quả tiêu cực đến hoạt động kinh doanh và gây tổn
thất vốn cho Ngân hàng.
Trước hết, tổn thất từ hoạt động tín dụng gây ra làm giảm thu nhập của Ngân

hàng khi Ngân hàng không thu đủ lãi cho vay (trong khi thu nhập từ lãi cho vay
thường chiếm 40-80% tổng thu nhập của Ngân hàng). Việc giảm sút thu nhập làm
cho cho tỷ suất lợi nhuận và thị giá của cổ phiếu Ngân hàng (đối với Ngân hàng cổ

17


phần) bị sụt giảm.
Bên cạnh đó, rủi ro tín dụng còn có thể đặt Ngân hàng đặt Ngân hàng vào
nguy cơ mất khả năng thanh khoản với việc rút tiền ồ ạt ra khỏi Ngân hàng. Tình
thế này có thể buộc Ngân hàng phải đóng cửa và tuyên bố phá sản nếu như Ngân
hàng mất khả năng thanh toán. Ngoài ra, các chi phí phát sinh khi Ngân hàng phải
tìm nguồn vốn bù đắp cho các khoản thanh toán đến hạn là một trong những tổn
thất lớn của Ngân hàng, chi phí này càng cao nếu lãi suất trên thị trường tăng. Một
Ngân hàng bị khó khăn về thanh khoản sẽ bị nằm trong tầm ngắm của NHNN, phải
chịu những hạn chế nhất định trong hoạt động kinh doanh.
Rủi ro tín dụng cao làm tăng chi phí của Ngân hàng, để đảm bảo lợi nhuận
không bị giảm, Ngân hàng buộc phải giảm chi phí khác như tiền lương, giảm lao
động, giảm đầu tư vào công nghệ, hạn chế việc mở rộng mạng lưới chi
nhánh...Điều này ảnh hưởng không tốt về mặt nhân sự, cộng nghệ và thị phần
hoạt động của Ngân hàng.
- Đối với nền kinh tế
Tác động của rủi ro tín dụng đến nền kinh tế là tác động gián tiếp, thông qua
tác động đến Ngân hàng. Ngân hàng là kênh huy động vốn, trung gian của nền
kinh tế; Ngân hàng nhận tiền gửi từ dân cư và tổ chức kinh tế để cho vay, đầu tư
vào nền kinh tế. Rủi ro tín dụng dẫn đến mất khả năng thanh toán của Ngân hàng
do việc rút tiền ồ ạt của dân cư có thể gây hiệu ứng lan truyền sang các Ngân hàng
khác và như vậy, khủng hoảng tài chính rất dễ xảy ra. Mặt khác, rủi ro tín dụng còn
có thể dẫn đến việc hạn chế cho vay. Điều này sẽ gây khó khăn về vốn cho các
doanh nghiệp, hộ sản xuất kinh doanh. Sự hạn chế cho vay sẽ dẫn đến luồng vốn

đầu tư vào nền kinh tế bị gián đoạn và gây bất lợi cho sự tăng trưởng, phát triển
kinh tế do những doanh nghiệp bị gián đoạn hoạt động có thể dẫn đến khó khăn về
tài chính, mất bạn hàng thậm chí phá sản...Việc cho vay bị hạn chế, người dân có
nhu cầu vay vốn để phục vụ nâng cao đời sống cũng gặp khó khăn.
Khi xảy ra rủi ro tín dụng, Ngân hàng mất khả năng thanh toán, nếu không
có cứu cánh cuối cùng là Ngân hàng Trung ương đảm bảo cho khả năng thanh toán

18


của Ngân hàng thì một thực tế sẽ xảy ra là người gửi tiền, cho vay Ngân hàng sẽ
gặp khó khăn do không thu hồi được tiền gửi, tiền vay, đời sống của họ cũng như
hoạt động sản xuất kinh doanh của các tổ chức cho vay, gửi tiền bị ảnh hưởng tiêu
cực. Như vậy, hiệu ứng lan truyền xảy ra không chỉ với Ngân hàng mà còn với
những đối tượng cung cấp vốn hoạt động cho Ngân hàng.
Tín dụng cũng là một trong những công cụ điều hành vĩ mô nền kinh tế của
chính phủ. Khi Ngân hàng bị phá sản, gặp khó khăn hay hoạt động bị đình trệ cũng
làm giảm hiệu quả của chính sách tiền tệ của chính phủ, làm giảm hiệu quả việc
điều hành vĩ mô nền kinh tế và có thể gây xáo trộn vĩ mô nền kinh tế. Vì vậy, hoạt
động tín dụng Ngân hàng có ảnh hưởng rất lớn đến sự tăng trưởng và phát triển
kinh tế của bất kỳ quốc gia nào trên thế giới.
1.2. Quản lý rủi ro tín dụng
1.2.1. Khái niệm, mục tiêu của quản lý rủi ro tín dụng [2]
1.2.1.1. Khái niệm
QLRRTD là một nội dung quan trọng gắn liền với mọi hoạt động của
NHTM. QLRRTD không có nghĩa là né tránh rủi ro mà là việc xác định một mức
rủi ro có thể chấp nhận được. Trên cơ sở đó đề ra các biện pháp để đảm bảo mức
độ rủi ro tín dụng của Ngân hàng không vượt quá mức độ xác định đã đề ra.
Việc QLRRTD là quá trình đo lường, đánh giá mọi rủi ro trong quá trình cho
vay, theo dõi, giám sát, phát hiện và xử lý kịp thời để đảm bảo quyền lợi của Ngân

hàng khi có bất kỳ một sự thay đổi hoàn cảnh nào xảy ra kể từ khi cho vay đến khi
khoản vay được hoàn trả cả gốc và lãi. Chính sách QLRRTD có tính chất pong
ngừa, làm giảm thiểu những tổn thất có thể xảy ra trong hoạt động tín dụng của các
NHTM, đảm bảo cho các khoản vay được hoàn trả đầy đủ và đúng hạn theo hợp
đồng tín dụng đã ký.
“QLRRTD là quá trình Ngân hàng tác động đến hoạt động tín dụng thông
qua bộ máy và công cụ quản lý để phòng ngừa, cảnh báo và đưa ra các biện pháp
nhằm hạn chế tối đa việc không thu được đầy đủ nợ gốc, lãi của khách hàng vay
theo hợp đồng tín dụng đã ký” [2]. Rủi ro tín dụng không chỉ phát sinh ở hoạt động

19


cho vay mà còn phát sinh trong hoạt động bảo lãnh, cam kết, tài trợ thương mại…..
1.2.1.2. Mục tiêu của quản lý rủi ro tín dụng
- Tạo lập được một danh mục sản phẩm tín dụng hợp lý, có khả năng sinh lời
cao, ít rủi ro và khi cần thiết có thể chứng khoán hóa để hỗ trợ thanh toán.
- Tạo ra sự chủ động, nâng cao tinh thần trách nhiệm của các bộ phận tác
nghiệp đặc biệt là bộ phận tín dụng nhằm tìm kiếm các dự án, phương án vay vốn
có khả năng sinh lời cao, rủi ro thấp.
- Quy định một cách thống nhất, minh bạch các bước trong quá trình cho vay
- Đảm bảo phản ánh chính xác chất lượng danh mục tín dụng, trích lập dự
phòng để bù đắp những rủi ro phát sinh trong quá trình cấp tín dụng.
- Quy định hệ thống kiểm tra, kiểm soát thích hợp nhằm phát hiện và xử lý
kịp
thời
các
Nhận biết rủi ro
tín dụng


rủi ro
tín
dụng

Kiểm soát và xử
lỷ rủi ro tín dụng

Đo lường rủi
ro tín dụng

phát
sinh.

Quản lý rủi ro
tín dụng

1.2.2. Quy trình quản lý rủi ro tín dụng [22]

20


Sơ đồ 1.1. Quy trình QLRRTD
1.2.2.1. Nhận biết rủi ro tín dụng
Để nhận biết rủi ro Ngân hàng cần phân tích danh mục tín dụng, phân tích
đánh giá khách hàng. Việc phân tích danh mục tín dụng nhằm nhận biết những rủi
ro về quy mô tín dụng, về cơ cấu tín dụng, về ngành, về loại tiền có thể xảy ra.
Phân tích danh mục tín dụng kết hợp với dự báo kinh tế vĩ mô về kinh tế để có cái
nhìn tổng quát nhất về rủi ro chung của danh mục tín dụng. Việc phân tích đánh giá
khách hàng nhằm phát hiện ra những rủi ro tiềm ẩn có thể xảy ra trong từng khoản
vay cụ thể của từng khách hàng cụ thể. Trong quá trình cho vay cần đi sâu, đi sát,

kiểm soát thông tin về khoản vay, về khách hàng để hạn chế tối đa những rủi ro có
thể xảy ra. Quá trình phân tích sau khi cho vay hết sức cần thiết và quan trọng,
giúp cho Ngân hàng nhận biết được những rủi ro có thể xảy ra trong tương lai trên
cơ sở phân tích khách hàng theo các tiêu chí định lượng và định tính.
* Phân tích chỉ tiêu định lượng: Mỗi hệ thống Ngân hàng có những tiêu chí
khác nhau trên cơ sở thu thập thông tin và phân tích tình hình tài chính của từng
khách hàng và đưa ra kết luận chung nhất về khách hàng. Các tiêu chí phân tích
định lượng bao gồm: Tỷ suất lợi nhuận, khả năng thanh toán nhanh, khả năng
thanh toán hiện hành, hệ số nợ, vòng quay vốn lưu động, vòng quay hàng tồn
kho….Việc phân tích các chỉ tiêu định lượng được tiến hành thống qua 3 bước:
- Bước 1: Thu thập mọi thông tin liên quan đến tình hình tài chính của khách
hàng và tiến hành tính toán các chỉ tiêu cụ thể theo quy định chung của mỗi hệ
thống Ngân hàng
- Bước 2: Xử lý thông tin: Trên cơ sở các thông tin thu thập và phân tích Cán
bộ thẩm định đưa ra những đánh giá sơ bộ về năng lực tài chính của khách hàng,
xác định có thể cho vay hay không thể cho vay.
- Bước 3: Xác định các nguy cơ rủi ro có thể xảy ra đối với khách hàng: Căn
cứ vào thông tin đã được phân tích, những đánh giá sơ bộ về năng lực tài chính của
khách hàng cán bộ thẩm định tiến hành xác định các nguy cơ rủi ro có thể xảy ra

21


đối với khách hàng nhằm đưa ra những biện pháp hạn chế tối đa các rủi ro đó.
* Phân tích chỉ tiêu định tính: Mô hình 6C được xem như một công cụ hữu
hiệu trong việc phân tích các chỉ tiêu định tính để đưa ra những nhận định về khả
năng thanh toán của khách hàng khi đến hạn thanh toán. Việc phân tích chính xác
các chỉ tiêu định tính sẽ giúp cho cán bộ thẩm định có cái nhìn tổng quát về tình
hình tài chính hiện tại của khách hàng, trên cơ sở đó đưa ra quyết định cho vay hay
không cho vay. Để có quyết định chính xác đòi hỏi cán bộ thẩm định phải thu thập

nhiều nguồn thông tin, phải có kỹ năng phân tích và sàng lọc thông tin, cần phân
tích định tính và phân tích định lượng đồng thời.
Character
(Tư cách)
Control
(Kiểm soát)

Capacity
(Năng lực)

6C
Cash
(Thu nhập)

Conditions
(Điều kiện)
Collateral
(Bảo đảm
tiền vay)

Sơ đồ 1.2. Mô hình 6C
- Tư cách: Khách hàng trước tiên cần phải có mục đích vay vốn rõ ràng,
không bị pháp luật cấm, có thiện chí trả nợ khi đến hạn
- Năng lực: Khách hàng cần phải có đủ năng lực hành vi dân sự, năng lực
pháp luật dân sự
- Thu nhập: Đây là cơ sở để xác định nguồn trả nợ của khách hàng
- Bảo đảm tiền vay: Là một trong những điều kiện cho vay, đảm bảo có khả
năng thu hồi khi khách hàng không còn khả năng trả nợ.
- Điều kiện: Tùy theo quy định mà mỗi hệ thống Ngân hàng đưa ra các chính
sách, các điều kiện khác nhau trong từng thời kỳ.


22


- Kiểm soát: Đánh giá những ảnh hưởng do sự thay đổi của môi trường kinh
doanh đến khả năng đáp ứng các tiêu chuẩn, các quy định của Ngân hàng.
Tuy mô hình 6C tương đối giản đơn nhưng nó phụ thuộc rất nhiều vào mức
độ chính xác của thông tin thu thập được từ khách hàng, khả năng phân tích, đánh
giá của cán bộ thẩm định. Thông tin luôn luôn méo do đó để có cơ sở phân tích,
đánh giá đúng đòi hỏi cán bộ thẩm định cần nâng cao năng lực thu thập và phân
tích thông tin. Kỹ năng phân tích và nhìn nhận sự chính xác các nguồn thông tin về
khách hàng là cơ sở để cán bộ thẩm định đưa ra những đánh giá đúng đắn nhất về
khách hàng.
1.2.2.2. Đo lường rủi ro tín dụng
Để đo lường mức độ rủi ro tín dụng các NHTM có thể sử dụng một trong
những mô hình sau:
* Mô hình điểm số Z [22, tr. 6-7]
Mô hình điểm số Z là mô hình đo lường rủi ro tín dụng do Edward I.Altman
xây dựng để tính điểm tín dụng đối với các doanh nghiệp tại Mỹ. Đại lượng Z là
thước đo tổng hợp để phân loại rủi ro tín dụng đối với người vay và phụ thuộc vào
giá trị số của các chỉ số tài chính của người vay và tầm quan trọng của các chỉ số
này trong việc xác định xác suất vỡ nợ của người vay trong quá khứ. Trên cơ sở đó
Edward I.Altman đã xây dựng mô hình cho điểm số Z để đo lường rủi ro tín dụng
cụ thể như sau:
Z = 1.2 X1 + 1.4 X2 + 3.3 X3 + 0.6 X4 + 1.0 X5
Trong đó:
X1

=


Tỷ số vốn lưu động ròng
Tổng tài sản

X2

=

Tỷ số lợi nhuận giữ lại
Tổng tài sản

X3

=

X4

=

Tỷ số lợi nhuận trước thuế và lãi
Tổng tài sản
Tỷ số thị giá cổ phiếu
23


Giá trị gi sổ của nợ dài hạn
X5

=

Tỷ số doanh thu

Tổng tài sản

- Nếu Z < 1.81: Doanh nghiệp có rủi ro vỡ nợ lớn
- Nếu 1.81 < Z < 2.99: Doanh nghiệp được coi là có rủi ro vỡ nợ trung bình
- Nếu Z > 2.99: Doanh nghiệp có rủi ro vỡ nợ thấp.
Như vậy theo mô hình điểm số Z thì khách hàng có trị số Z càng cao thì xác
suất rủi ro càng thấp và ngược lại. Mô hình này tuy giản đơn nhưng chỉ cho phép
phân loại khách hàng vay vỡ nợ hoặc vỡ nợ thấp dựa trên kết quả tài chính trong
quá khứ. Tuy nhiên trên thực tế mức độ rủi ro tín dụng của mỗi khách hàng là khác
nhau và còn tùy thuộc vào rất nhiều yếu tố, đặc biệt là yếu tố về môi trường kinh
doanh, chính sách tín dụng của Ngân hàng trong từng thời kỳ. Mặt khác mô hình
này chỉ áp dụng được đối với khách hàng là doanh nghiệp.
* Mô hình xếp hạng của Moody’s
Mô hình xếp hạng của Moody’s được xây dựng rất chi tiết, thường xuyên
cập nhật những thay đổi của môi trường kinh tế để đưa ra được những đánh giá tốt
nhất. Mô hình này xếp hạng tình trạng hoạt động của các doanh nghiệp dựa trên ty
lệ rủi ro hàng năm, chất lượng này có thể thay đổi qua từng năm. Các doanh nghiệp
đầu tư tỷ lệ rủi ro dưới 0,1%, các doanh nghiệp đầu cơ thì tỷ lệ rủi ro khoảng từ
0,2% đến 0,8%.
* Đo lường rủi ro khoản vay theo Basel II
EL = PD x LGD x EAD
Trong đó:
- EL: Tổn thất dự kiến
- PD: Xác suất vỡ nợ của khách hàng/ngành hàng
- LGD: Tỷ trọng% số dư rủi ro Ngân hàng sẽ bị tổn thất khi khách hàng
không trả được nợ
- EAD: Số dư nợ vay của khách hàng/ngành hàng khi xảy ra vỡ nợ

24



Dựa trên kết quả tính toán PD, LGD, EAD các Ngân hàng có thể đo lường
được tổn thất dự kiến của khách hàng. Trên cơ sở những tổn thất dự kiến của khách
hàng Ngân hàng đưa ra biện pháp đồng ý hay từ chối cho vay nhằm hạn chế tối đa
những rủi ro tín dụng có thể xảy ra.
1.2.2.3. Quản lý rủi ro tín dụng
Việc quản lỷ rủi ro tín dụng có vai trò hết sức quan trọng trong quy trình
quản lý rủi ro. Sau khi đã nhận biết và tính toán các chỉ tiêu để đo lường rủi ro
Ngân hàng cần có những biện pháp QLRRTD cụ thể như sau:
- Xây dựng chiến lược QLRRTD: Bởi lẽ để phát triển bền vững và hạn chế
tối đa những rủi ro tín dụng có thể xảy ra các Ngân hàng cần xác định cho mình
một chiến lược QLRRTD cụ thể trên cơ sở xác định tầm nhìn, mục tiêu, sứ mệnh
kinh doanh của chính Ngân hàng mình.
- Xây dựng chính sách QLRRTD: Đây là cơ sở để hình thành nên quy trình
tín dụng, đưa ra những hướng dẫn chi tiết các bước cụ thể trong quá trình cấp tín
dụng. Chính sách QLRRTD của Ngân hàng bao gồm cả quy định về giới hạn cho
vay đối với khách hàng, quy trình phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro tín
dụng.
- Quản lý danh mục cho vay và phân tán rủi ro: Để đưa ra được các biện
pháp xử lý kịp thời khi phát sinh rủi ro tín dụng Ngân hàng phải thường xuyên
phân tích và theo dõi danh mục cho vay. Thông qua việc quản lý danh mục cho vay
Ngân hàng có thể biết được nguồn vốn của mình đang đầu tư vào đâu, có rủi ro hay
không. Trên cơ sở đó có thể điều chỉnh danh mục cho vay theo từng thời kỳ thích
hợp nhằm phân tán rủi ro. Việc đa dạng hóa danh mục cho vay không chỉ nhằm
phân tán rủi ro mà còn đem lại hiệu quả kinh doanh cao.
1.2.2.4. Kiểm soát và xử lý rủi ro tín dụng
- Kiểm soát rủi ro tín dụng nhằm mục đích phòng chống và đưa ra các biện
pháp kịp thời trước những rủi ro tín dụng có thể xảy ra trong hoạt động kinh doanh
của Ngân hàng. Kiểm soát rủi ro tín dụng bao gồm kiểm soát trước, trong và sau
khi cho vay. Kiểm soát trước khi cho vay là hoạt động kiểm tra thông tin về khách


25


×