Tải bản đầy đủ (.pdf) (112 trang)

Quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người dưới 18 tuổi (trên cơ sở thực tiễn địa bàn tỉnh hà tĩnh)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.4 MB, 112 trang )

I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT

NGUYN TH T AN

QUYềN BàO CHữA CủA
Bị CAN, Bị CáO Là NGƯờI DƯớI 18 TUổI
(Trên cơ sở thực tiễn địa bàn tỉnh Hà Tĩnh)

LUN VN THC S LUT HC

H NI - 2017


I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT

NGUYN TH T AN

QUYềN BàO CHữA CủA
Bị CAN, Bị CáO Là NGƯờI DƯớI 18 TUổI
(Trên cơ sở thực tiễn địa bàn tỉnh Hà Tĩnh)
Chuyờn ngnh: Lut hỡnh s v t tng hỡnh s
Mó s: 60 38 01 04

LUN VN THC S LUT HC

Ngi hng dn khoa hc: PGS.TS CAO TH OANH

H NI - 2017



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong
bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã
hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN

Nguyễn Thị Tú An


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các chữ viết tắt
Danh mục bảng, biểu đồ
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN BÀO CHỮA
CỦA BỊ CAN, BỊ CÁO LÀ NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI..................... 7
1.1.

Một số khái niệm ................................................................................ 7


1.1.1. Quyền bào chữa .................................................................................... 7
1.1.2. Quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người dưới 18 tuổi .................. 12
1.2.

Đặc điểm quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người dưới 18 tuổi ....... 15

1.2.1. Đặc điểm về nội dung......................................................................... 15
1.2.2. Đặc điểm về hình thức ....................................................................... 17
1.3.

Vai trò quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người dưới 18 tuổi ....... 21

1.4.

Ý nghĩa của việc quy định quyền bào chữa của bị can, bị cáo
là người dưới 18 tuổi ........................................................................ 23

1.4.1. Ý nghĩa chính trị ................................................................................. 23
1.4.2. Ý nghĩa xã hội .................................................................................... 24
1.4.3. Ý nghĩa pháp lý .................................................................................. 25
Kết luận chương 1 ......................................................................................... 27
Chương 2: THỰC TIỄN QUYỀN BÀO CHỮA CỦA BỊ CAN, BỊ
CÁO LÀ NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH
HÀ TĨNH ........................................................................................... 28
2.1.

Lịch sử lập pháp về quyền bào chữa của bị can, bị cáo là
người dưới 18 tuổi ............................................................................ 28



2.1.1. Quy định về quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người dưới 18
tuổi trước khi pháp điển hóa (trước năm 1988) ................................. 28
2.1.2. Quy định về quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người dưới 18
tuổi theo Bộ luật Tố tụng hình sự 1988.............................................. 30
2.1.3. Quy định về quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người dưới 18
tuổi theo Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 ...................................... 31
2.1.4. Quy định về quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người dưới 18
tuổi theo Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 ...................................... 35
2.2.

Khái quát chung về tình hình tội phạm là người dưới 18 tuổi ......... 39

2.3.

Kết quả thực hiện quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người
dưới 18 tuổi ....................................................................................... 40

2.3.1. Kết quả chung..................................................................................... 40
2.3.2. Kết quả thực hiện quyền tự bào chữa ................................................. 42
2.3.3. Kết quả thực hiện quyền nhờ người khác bào chữa ........................... 43
2.4.

Hạn chế, vướng mắc trong việc thực hiện quyền bào chữa
của bị can, bị cáo là người dưới 18 tuổi.......................................... 50

2.4.1. Hạn chế của hệ thống pháp luật ......................................................... 50
2.4.2. Những khó khăn, vướng mắc từ phía các cơ quan tiến hành tố
tụng, người tiến hành tố tụng ............................................................. 55
2.4.3. Hạn chế của bị can, bị cáo là người dưới 18 tuổi khi thực hiện
quyền bào chữa ................................................................................... 61

2.4.4. Hạn chế từ phía người bào chữa......................................................... 62
2.4.5. Các hạn chế khác ................................................................................ 70
2.5.

Nguyên nhân của những hạn chế, vướng mắc trong quyền
bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo ............................... 70

2.5.1. Nguyên nhân về pháp luật .................................................................. 70
2.5.2. Nguyên nhân về mặt nhận thức .......................................................... 71
2.5.3. Nguyên nhân về tổ chức ..................................................................... 72
2.5.4. Các nguyên nhân khác........................................................................ 73
Kết luận chương 2 ......................................................................................... 75


Chương 3: GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN
QUYỀN BÀO CHỮA CỦA BỊ CAN, BỊ CÁO LÀ NGƯỜI
DƯỚI 18 TUỔI ................................................................................. 76
3.1.

Phương hướng hoàn thiện quyền bào chữa của bị can, bị
cáo là người dưới 18 tuổi ................................................................. 76

3.1.1. Nâng cao hiệu quả quyền bào chữa đáp ứng yêu cầu của cải
cách tư pháp........................................................................................ 76
3.1.2. Nâng cao hiệu quả quyền bào chữa để bảo vệ tốt hơn quyền
con người ........................................................................................... 79
3.2.

Các giải pháp cụ thể đảm bảo quyền bào chữa của bị can, bị
cáo là người dưới 18 tuổi ................................................................. 80


3.2.1. Hoàn thiện hệ thống pháp luật về quyền bào chữa của bị can, bị
cáo là người dưới 18 tuổi ................................................................... 80
3.2.2. Đổi mới mô hình tổ chức hoạt động của cơ quan tiến hành tố
tụng và nâng cao năng lực, ý thức trách nhiệm của người tiến
hành tố tụng ........................................................................................ 87
3.2.3. Nâng cao ý thức pháp luật cho bị can, bị cáo là người dưới 18 tuổi ...... 91
3.2.4. Xây dựng, phát triển đội ngũ luật sư .................................................. 92
3.2.5. Tăng cường hoạt động trợ giúp pháp lý ............................................. 94
3.2.6. Tổ chức tuyên tuyền phổ biến giáo dục pháp luật ............................. 96
Kết luận chương 3 ......................................................................................... 98
KẾT LUẬN .................................................................................................... 99
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................... 101


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BCVND:

Bào chữa viên nhân dân

BLHS:

Bộ luật Hình sự

BLTTHS:

Bộ luật Tố tụng hình sự

CCTP:


Cải cách tư pháp

CQĐT:

Cơ quan điều tra

CTN:

Chưa thành niên

NBC:

Người bào chữa

QBC:

Quyền bào chữa

TGPL:

Trợ giúp pháp lý

TGTT:

Tham gia tố tụng

THTT:

Tiến hành tố tụng


TNHS:

Trách nhiệm hình sự

TTHS:

Tố tụng hình sự

VAHS:

Vụ án hình sự


DANH MỤC BẢNG, BIỂU ĐỒ
Số hiệu

Tên bảng

Trang

Bảng 2.1: Thống kê tình hình xét xử sơ thẩm

41

Bảng 2.2: Thống kê tình hình thực hiện quyền bào chữa

42

Bảng 2.3: Số vụ án hình sự có Luật sư tham gia bào chữa


44

Bảng 2.4: Thống kê tình hình TGPL cho người dưới 18 tuổi

46

Biểu đồ 2.1: Thống kê tình hình thực hiện quyền nhờ người khác
bào chữa của người dưới 18 tuổi

47


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong những năm gần đây, các vụ án do người dưới 18 tuổi phạm tội
thực hiện trong cả nước nói chung và trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh nói riêng đã
tăng lên đáng kể về số lượng và diễn biến hành vi phạm tội ngày càng nguy
hiểm, phức tạp. Đây là hồi chuông cảnh báo đối với gia đình, nhà trường và
toàn xã hội về loại đối tượng phạm tội này. Tuy nhiên, đây cũng là đối tượng
dễ bị xâm phạm các quyền con người trong quá trình tham gia tố tụng
(TGTT). Do vậy, vấn đề đặt ra cho nhà nước và xã hội đó là phải làm sao vừa
giáo dục, trừng trị, răn đe vừa bảo đảm các quyền, lợi ích của họ. Để làm
được điều này trước tiên cần bảo vệ các quyền của bị can, bị cáo là người
dưới 18 tuổi trong đó quan trọng nhất là quyền bào chữa (QBC).
Quyền bào chữa là một quyền lợi đặc thù, cơ bản của công dân. Việc
bảo đảm QBC của bị can, bị cáo giúp cho cơ quan tiến hành tố tụng (THTT)
xác định được sự thật khách quan của vụ án, đảm bảo hoạt động tố tụng được
tiến hành đúng trình tự, xét xử công minh, kịp thời, không để lọt tội phạm và
không làm oan người vô tội.
Qua thực tiễn pháp lý tại địa bàn tỉnh Hà Tĩnh trong nhiều năm qua cho

thấy việc đảm bảo QBC của bị can, bị cáo là người dưới 18 tuổi còn nhiều bất
cập. Việc áp dụng thủ tục đặc biệt khi tiến hành hoạt động khởi tố, điều tra,
truy tố và xét xử đối với những vụ án mà người bị buộc tội là bị can, bị cáo
dưới 18 tuổi tuy đạt được những kết quả nhất định nhưng vẫn còn bộc lộ
nhiều hạn chế và vướng mắc. Nguyên nhân chủ yếu vẫn là do cơ quan THTT
chưa nắm vững và vận dụng chưa chính xác, triệt để các quy định của pháp
luật tố tụng liên quan đến quá trình giải quyết vụ án do bị can, bị cáo là người
dưới 18 tuổi thực hiện. Đồng thời, do nhận thức của một bộ phận cán bộ

1


THTT còn xem nhẹ vai trò cải cách tư pháp (CCTP), thậm chí vì lợi ích cục
bộ, không chấp hành nghiêm ngặt các quy định của pháp luật TTHS, thiếu tôn
trọng và chưa quan tâm đúng mức đến quyền lợi của bị can, bị cáo là người
dưới 18 tuổi.
Mặt khác, sau thời gian dài áp dụng pháp luật cho thấy những quy định
của Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS) năm 2003 đối với bị can, bị cáo là
người dưới 18 tuổi phạm tội có một số nội dung đã bộc lộ sự thiếu chặt chẽ,
chưa đầy đủ và cần thiết phải có sự điều chỉnh, bổ sung cho phù hợp với tình
hình hiện nay. Những bất cập này đã dẫn đến sự tùy tiện của cơ quan THTT,
người THTT khi áp dụng pháp luật, dẫn đến xâm phạm quyền và lợi ích hợp
pháp của bị can, bị cáo là người dưới 18 tuổi. Xuất phát từ yêu cầu thực tiễn
đó, BLTTHS năm 2015 ra đời với những sửa đổi, bổ sung hợp lý, quy định
một cách cụ thể, thống nhất hơn về thủ tục tố tụng đối với bị can, bị cáo là
người dưới 18 tuổi. Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 đã ghi nhận rất nhiều
sự đổi mới, tiến bộ và phù hợp hơn với pháp luật quốc tế về QBC của bị can,
bị cáo là người dưới 18 tuổi. Tuy nhiên, vẫn còn một số vấn đề mà BLTTHS
năm 2015 chưa quy định hoặc quy định thiếu chặt chẽ dẫn đến khó khăn trong
việc áp dụng. Vì vậy, cần tiếp tục nghiên cứu và hoàn thiện hệ thống pháp

luật về QBC của bị can, bị cáo là người dưới 18 tuổi để bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp cho đối tượng này và tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Từ các góc độ quy định pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật nói
trên tại địa bàn tỉnh Hà Tĩnh cho thấy việc nghiên cứu làm sáng tỏ vấn đề
QBC của bị can, bị cáo là người dưới 18 tuổi trong tố tụng hình sự (TTHS)
theo tinh thần CCTP ở Việt Nam hiện nay là vấn đề có ý nghĩa lớn và mang
tính cấp thiết.
Xuất phát từ những lý do trên, tác giả chọn đề tài “Quyền bào chữa
của bị can, bị cáo là người dưới 18 tuổi (trên cơ sở thực tiễn địa bàn tỉnh
Hà Tĩnh)” làm Luận văn Thạc sĩ.
2


2. Tình hình nghiên cứu đề tài
QBC của bị can, bị cáo là người dưới 18 tuổi trong TTHS là vấn đề
được nhiều nhà khoa học quan tâm nghiên cứu. Thời gian qua đã có một số
công trình đề cập trực tiếp hoặc gián tiếp đến đề tài này hoặc xem xét dưới sự
tương quan là một phần, mục trong Giáo trình, sách chuyên khảo, bình luận
hay đề cập chung khi nghiên cứu vấn đề về QBC đối với người bị buộc tội nói
chung và đối với bị can, bị cáo là người dưới 18 tuổi nói riêng.
Một số Giáo trình, sách chuyên khảo nổi bật như: Giáo trình Luật Tố
tụng hình sự Việt Nam, Nxb Công an nhân dân năm 2002, Giáo trình Luật Tố
tụng hình sự Việt Nam, Nxb Tư pháp Hà Nội năm 2006…; Sách Bình luận
khoa học Bộ luật Tố tụng hình sự Việt Nam năm 2003 của tác giả Đinh Văn
Quế, Nxb Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh năm 2007…; Sách nghiên cứu:
Đảm bảo quyền bào chữa của người bị buộc tội, PGS.TS Phạm Hồng Hải,
Nxb công an nhân dân năm 1999. Báo cáo quyền bào chữa trong pháp luật
hình sự và thực tiễn tại Việt Nam trong khuôn khổ chương trình phát triển
Liên Hợp Quốc tháng 8 năm 2010.
Bên cạnh đó, một số tác giả đã nghiên cứu và bảo vệ thành công các

Luận án tiến sĩ, Luận văn thạc sĩ liên quan đến QBC của bị can, bị cáo là
người dưới 18 tuổi như: Luận án “Quyền bào chữa của bị can, bị cáo là
người chưa thành niên trong tố tụng hình sự Việt Nam” của Nguyễn Hữu Thế
Trạch, Luận án Tiến sỹ Luật học, Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh năm
2014; Luận án “Bảo đảm quyền có người bào chữa của người bị buộc tội – so
sánh giữa luật tố tụng hình sự Việt Nam, Đức và Mỹ” của Lương Thị Mỹ
Quỳnh, Luận án Tiến sỹ Luật học, Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh năm
2011 và của Nguyễn Thị Thuỷ Tiên với Luận án “Bảo đảm quyền bào chữa
của người bị buộc tội chưa thành niên theo pháp luật tố tụng hình sự Việt
Nam từ thực tiễn tỉnh Quãng Trị”, Luận án Thạc sỹ Luật học, Học viện Khoa
học xã hội năm 2016.
3


Có thể thấy, hầu hết các đề tài, bài viết, sách chuyên khảo đều chỉ đề
cập đến một số vấn đề nhất định có liên quan đến QBC của bị can, bị cáo là
người chưa thành niên nhưng lại chưa có đề tài luận văn nào phân tích QBC
của bị can, bị cáo là người dưới 18 tuổi. Kể từ khi ban hành BLTTHS năm
2015 thì đã sử dụng thuật ngữ “người dưới 18 tuổi” thay thế thuật ngữ “người
chưa thành niên”. Vì vậy, đây là đề tài Luận văn đầu tiên sử dụng thuật người
dưới 18 tuổi và phân tích các vấn đề liên quan đến quyền bào chữa của đối
tượng này trong pháp luật hiện hành so sánh với BLTTHS năm 2015.
Bên cạnh đó, trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh việc nghiên cứu về bị can, bị cáo
là người dưới 18 tuổi chỉ dừng lại ở đánh giá về tình hình phạm tội chứ chưa có
một công trình nào nghiên cứu một cách đầy đủ, có hệ thống và toàn diện về
QBC của bị can, bị cáo là người dưới 18 tuổi trong pháp luật TTHS và Luận văn
này không trùng lặp với bất kỳ một công trình nghiên cứu nào khác.
3. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là QBC của bị can, bị cáo là người dưới 18 tuổi
theo quy định của pháp luật TTHS Việt Nam.

4. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn chủ yếu phân tích các quy định của pháp luật TTHS Việt
Nam từ năm 1988 cho đến nay. Đồng thời, đánh giá tình hình thực tiễn thi
hành QBC đối với bị can, bị cáo là người dưới 18 tuổi từ giai đoạn 2012-2016
trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh.
5. Cơ sở phương pháp luận và các phương pháp nghiên cứu
5.1.Cơ sở phương pháp luận
Để giải quyết nhiệm vụ nghiên cứu mà đề tài đặt ra, tác giả đã sử dụng
phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, tư
tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật, những quan điểm của Đảng và
Nhà nước ta về Nhà nước pháp quyền, về bảo đảm quyền con người để thấy

4


rằng QBC là một quyền cơ bản, mang tính lịch sử và có sức ảnh hưởng lớn
đến hiện thực xã hội.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Bên cạnh các phương pháp luận nêu trên, Luận văn kết hợp với các
phương pháp nghiên cứu khoa học cụ thể:
- Phương pháp phân tích, tổng hợp nhằm hệ thống hóa cơ sở lý luận, khái
quát, đánh giá thực trạng và đề xuất các quan điểm, giải pháp hoàn thiện pháp
luật có liên quan đến bảo đảm QBC của bị can, bị cáo là người dưới 18 tuổi.
- Phương pháp phân tích lịch sử, thống kê, so sánh được sử dụng để
đánh giá quá trình phát triển, thực trạng pháp luật về bảo đảm QBC của bị
can, bị cáo là người dưới 18 tuổi từ thực tiễn tỉnh Hà Tĩnh.
- Phương pháp so sánh cũng được sử dụng trong việc xác định quan
điểm, giải pháp hoàn thiện pháp luật về bảo đảm QBC của bị can, bị cáo là
người dưới 18 tuổi từ thực tiễn tỉnh Hà Tĩnh.
- Phương pháp thu thập số liệu thứ cấp.

- Phương pháp tổng hợp, xử lý số liệu.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Luận văn nghiên cứu một cách có hệ thống, toàn diện về vấn đề QBC
bị can, bị cáo là người dưới 18 tuổi trong TTHS và các biện pháp bảo đảm
thực hiện QBC của bị can, bị cáo là người dưới 18 tuổi, góp phần làm phong
phú thêm những vấn đề lý luận và hoàn thiện pháp luật trong việc bảo đảm
QBC của bị can, bị cáo là người dưới 18 tuổi.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Với những phân tích các vấn đề lý luận về thủ tục TTHS đối với bị can, bị
cáo là người dưới 18 tuổi phạm tội và những khảo sát, đánh giá thực tiễn áp
dụng các quy định pháp luật TTHS về QBC của bị can, bị cáo là người dưới 18

5


tuổi, Luận văn sẽ đóng góp những thông tin có giá trị giúp các nhà hoạch định
chính sách, các nhà lập pháp, các cán bộ làm công tác nghiên cứu, giảng dạy
cũng như các cán bộ làm công tác áp dụng pháp luật có cách nhìn toàn diện, cụ
thể đối với pháp luật về QBC của bị can, bị cáo là người dưới 18 tuổi. Đồng thời,
tăng cường cơ sở pháp lý trong việc đảm bảo QBC đối với bị can, bị cáo là
người dưới 18 tuổi ở Việt Nam hiện nay.
Kết quả nghiên cứu của luận văn cũng có thể được sử dụng làm tài liệu
nghiên cứu, tài liệu tham khảo có giá trị trong hoạt động lập pháp TTHS,
trong thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử cũng như trong nghiên cứu, giảng dạy
về tố tụng hình sự.
7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo,
luận văn cấu trúc gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về quyền bào chữa của bị can, bị cáo

là người dưới 18 tuổi theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam.
Chương 2: Thực trạng bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo là
người dưới 18 tuổi tại địa bàn tỉnh Hà Tĩnh.
Chương 3: Các giải pháp tăng cường bảo đảm quyền bào chữa của bị
can, bị cáo là người dưới 18 tuổi trong tố tụng hình sự.

6


Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN BÀO
CHỮA CỦA BỊ CAN, BỊ CÁO LÀ NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI
1.1. Một số khái niệm
1.1.1. Quyền bào chữa
Lịch sử phát triển của xã hội loài người là lịch sử của các cuộc đấu
tranh giành các quyền dân chủ, tiến bộ. Các quyền tự do, dân chủ mà con
người có được ngày nay là kết quả của quá trình đấu tranh lâu dài, bền bỉ của
những lực lượng tiến bộ trong xã hội chống lại thế lực độc tài, phản dân chủ
trên thế giới. Một trong những quyền dân chủ mà con người giành được trong
cuộc đấu tranh đó là quyền bào chữa.
“Quyền bào chữa là một chuẩn mực bắt buộc trong quyền được xét xử
công bằng” [46]. và được xem là một trong những quyền cơ bản của con
người. Những biểu hiện ban đầu của quyền này được tìm thấy trong thời kỳ
Trung cổ và phát triển mạnh mẽ ở các quốc gia có nguồn gốc Common Law.
Sau đó, những ảnh hưởng tiến bộ về quyền có người bào chữa đã lan tỏa sang
các nước Châu Âu lục địa. Người bào chữa có vai trò hỗ trợ người bị buộc tội
tại phiên tòa để chống lại sự cáo buộc của nhà vua. Mô hình này xuất hiện từ
những năm đầu của thế kỷ 12 ở Anh và phát triển mạnh mẽ vào thế kỷ 16, 17.
Đặc biệt nó được Liên hiệp quốc thừa nhận và đưa vào Công ước quốc tế về
quyền dân sự, chính trị được Đại hội đồng Liên hiệp quốc thông qua năm

1966, mà Việt Nam gia nhập ngày 24/9/1982. Công ước này đã quy định
trong quá trình xét xử về một tội hình sự, mỗi người đều có quyền đòi hỏi một
cách bình đẳng đầy đủ những bảo đảm sau:
(i) Được thông báo không chậm trễ và chi tiết bằng một ngôn
ngữ mà người đó hiểu về bản chất và lý do buộc tội mình;

7


(ii) Có đủ thời gian và điều kiện thuận lợi để chuẩn bị bào
chữa và liên hệ với người bào chữa do chính mình lựa chọn;
(iii) Được xét xử mà không bị trì hoãn một cách vô lý;
(iv) Được có mặt trong khi xét xử và được tự bào chữa hoặc
thông qua sự trợ giúp pháp lý theo sự lựa chọn của mình; được
thông báo về quyền này nếu chưa có sự trợ giúp pháp lý; và được
nhận sự trợ giúp pháp lý theo chỉ định trong trường hợp lợi ích của
công lý đòi hỏi và không phải trả tiền cho sự trợ giúp đó nếu không
có đủ điều kiện trả;
(v) Được thẩm vấn hoặc yêu cầu thẩm vấn những nhân chứng
buộc tội mình, và được mời người làm chứng gỡ tội cho mình tới
phiên toà và thẩm vấn họ tại toà với những điều kiện tương tự như
đối với những người làm chứng buộc tội mình;
(vi) Được có phiên dịch miễn phí nếu không hiểu hoặc không
nói được ngôn ngữ sử dụng trong phiên toà;
(vii) Không bị buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình
hoặc buộc phải nhận là mình có tội [15].
Hiện nay, trong khoa học pháp luật tố tụng hình sự thế giới nói chung
và Việt Nam nói riêng vẫn chưa có định nghĩa chính thức nào về QBC. Quyền
bào chữa là một chế định quan trọng trong luật TTHS và cho đến nay nó vẫn
cần được làm sáng tỏ từ góc độ lý luận để làm tiền đề cho việc thực hiện QBC

của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo nói chung và của bị can, bị cáo là người
dưới 18 tuổi nói riêng. Tuy nhiên, khái niệm QBC hiện vẫn còn nhiều quan
điểm khác nhau, những quan điểm này đã được các học giả đề cập trong các
công trình nghiên cứu khoa học, các bài viết.
Về khái niệm QBC theo các học giả nước ngoài cũng có rất nhiều
quan điểm khác nhau. Đầu tiên phải kể đến một trong những quan điểm phổ

8


biến trong các sách báo pháp lý về QBC trong TTHS là quan điểm của nhà
luật học Xô viết Stragovich M.S cho rằng:
Quyền bào chữa của bị cáo là tất cả các quyền năng tố tụng
mà pháp luật quy định cho bị can để bảo vệ khỏi mọi sự buộc tội
và được bị can sử dụng để bác bỏ sự buộc tội, để đưa ra các lý lẽ
và chứng cứ trong việc biện minh hoặc làm giảm nhẹ trách nhiệm
của mình [45, tr. 196].
Xuất phát từ quan điểm buộc tội và bào chữa phải song song tồn tại, ở
đâu có buộc tội, ở đó có bào chữa, bị can, bị cáo có QBC vì họ bị buộc tội,
những người tham gia tố tụng khác không bị buộc tội nên vấn đề bào chữa
không đặt ra đối với họ. Trong pháp luật TTHS Nga quy định QBC là quyền
của bị can, bị cáo được tự mình hoặc nhờ người bào chữa đưa ra các chứng cứ
hoặc yêu cầu để bác bỏ sự buộc tội hay làm giảm nhẹ trách nhiệm của mình;
sự tham gia của người bào chữa không bị hạn chế ở giai đoạn xét xử mà được
bắt đầu ngay từ giai đoạn điều tra [49].
Bên cạnh đó, theo Hiến pháp Nhật Bản quy định tại Điều 34 “không ai
bị bắt hay giam giữ mà không có ngay đặc quyền được bào chữa”. Ngoài ra,
tại Điều 37 cũng quy định rằng “vào mọi thời điểm bị can, bị cáo phải được
luật sư bào chữa có đủ năng lực trợ giúp - người có thể được nhà nước chỉ
định sử dụng nếu bị cáo không thể tự bào chữa” [48].

Còn ở trong nước cũng đang tồn tại một số ý kiến như sau:
Theo Bách khoa toàn thư mở Wikipedia thì “bào chữa” là: “Dùng
nhiều lý lẽ, chứng cớ để bênh vực cho hành vi của ai đó đang bị xem là
phạm pháp hoặc đang bị lên án”. Còn “quyền” là: “Những việc mà một
người được làm mà không bị ai ngăn cản, hạn chế”. Do đó, “quyền bào chữa
sẽ là việc mà một người được làm mà không bị ai ngăn cản, hạn chế khi
dùng nhiều lý lẽ, chứng cớ để bênh vực cho hành vi của ai đó đang bị xem là
phạm pháp hoặc đang bị lên án.”

9


Theo Từ điển tiếng Việt của Nhà xuất bản Thanh Niên năm 2000 thì
“bào chữa” là: Chống cãi, bênh vực (bào chữa cho người bị cáo); “quyền” là:
Thế lực có thể định đoạt được việc này hay việc khác... 2. Phương tiện dùng
trong lúc biến... 3. Tạm làm, tạm giữ một chức gì... Do đó, quyền bào chữa sẽ
là việc được chống cãi, bênh vực cho bị cáo [34, tr. 38]
Theo PGS, TS. Phạm Hồng Hải:
Quyền bào chữa trong tố tụng hình sự là tổng hòa các hành
vi tố tụng do người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người bị kết án
thực hiện trên cơ sở phù hợp với quy định của pháp luật nhằm
phủ nhận một phần hay toàn bộ sự buộc tội của cơ quan THTT,
làm giảm nhẹ hoặc loại trừ trách nhiệm hình sự của mình trong
vụ án hình sự [10, tr. 29-30].
PGS, TS. Hoàng Thị Sơn đưa ra quan điểm của mình về quyền bào
chữa như sau:
Quyền bào chữa bị can, bị cáo là tổng thể các quyền mà pháp
luật quy định bị can, bị cáo có thể sử dụng nhằm bác bỏ một phần
hay toàn bộ sự buộc tội hoặc giảm nhẹ trách nhiệm cho họ [44].
Theo PGS. TS Võ Khánh Vinh cho rằng:

Quyền bào chữa là tổng hợp các quyền tố tụng tạo khả năng
cho bị can, bị cáo bào chữa về hành vi do mình thực hiện đã bị buộc
tội và bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp khác [50, tr. 71].
Còn theo TS. Nguyễn Ngọc Chí cho rằng:
Quyền bào chữa là tổng hợp các hành vi tố tụng của bị can,
bị cáo trên cơ sở phù hợp với các quy định của pháp luật nhằm đưa
ra các chứng cứ để bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của mình
trước các cơ quan tiến hành tố tụng [7, tr. 59]
Có thể thấy khái niệm QBC trong pháp luật quốc tế và trong TTHS

10


Việt Nam đã được tiếp cận ở nhiều góc độ khác nhau nhưng mục đích chung
duy nhất vẫn là bảo đảm quyền của con người khi tham gia TTHS. Tuy nhiên,
cần phải thống nhất là: bào chữa được hiểu là việc dùng lý lẽ, chứng cứ, để
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can,
bị cáo. Còn quyền là khái niệm pháp lý để chỉ những điều mà luật công nhận
và bảo đảm thực hiện đối với cá nhân, tổ chức để theo đó cá nhân được
hưởng, được làm, được đòi hỏi mà không ai được ngăn cản, hạn chế.
Bên cạnh đó, bản Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng
hòa quy định quyền bào chữa: “Người bị cáo được quyền tự bào chữa hoặc
mượn luật sư” [21, Điều 67]. Những bản Hiến pháp tiếp theo đều quy định
quyền bào chữa của bị cáo.
Theo BLTTHS năm 2003 quy định QBC thuộc về người tạm giữ, bị
can, bị cáo và quyền này chỉ giới hạn trong việc bác bỏ một phần hay toàn bộ
lời buộc tội hoặc giảm nhẹ trách nhiệm cho người bị buộc tội. Đối với việc
bảo vệ các quyền và lợi ích các chủ thể đó không trực tiếp liên quan tới việc
bác bỏ sự buộc tội hoặc giảm nhẹ trách nhiệm cho họ trong vụ án thì không
thuộc về giới hạn của quyền bào chữa.

Như vậy, từ những hiểu biết của mình, kế thừa các quan điểm của các
nghiên cứu được tham khảo và quy định của Hiến pháp, pháp luật TTHS tác
giả xin đưa ra khái niệm QBC trong TTHS như sau: Quyền bào chữa trong tố
tụng hình sự là tổng hợp các quyền của người bị buộc tội được đưa ra lý lẽ,
chứng cứ hoặc thực hiện các hành vi tố tụng khác phù hợp pháp luật nhằm
xác định sự vô tội hay giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, bảo vệ quyền và lợi ích
hợp, góp phần làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ án, bảo vệ công lý.
Có thể thấy, qua sự phân tích, so sánh các quan điểm khoa học và quy
định pháp luật của các nước về khái niệm QBC cho thấy, chế định QBC trong
TTHS Việt Nam mang tính tính ổn định, tính lịch sử và kế thừa. Tính ổn định

11


được thể hiện ở chỗ QBC được ghi nhận như một nguyên tắc Hiến định nhằm
đảm bảo cho bị can, bị cáo sử dụng tất cả các biện pháp theo quy định của
pháp luật để bảo vệ mình trước Tòa án; pháp luật dành cho bị can, bị cáo mọi
quyền cần thiết để chứng minh sự vô tội của mình và các tình tiết giảm nhẹ
TNHS, đưa ra các yêu cầu của mình, xuất trình chứng cứ… Tính lịch sử được
thể hiện ở những bảo đảm pháp lý về QBC của bị can, bị cáo được ghi nhận
và ngày càng hoàn thiện để phù hợp với từng giai đoạn lịch sử, đáp ứng với
khả năng thực tế của các cơ quan THTT và người THTT trong quá trình giải
quyết vụ án hình sự (VAHS). Còn tính kế thừa được thể hiện qua các Bộ luật
TTHS từ năm 1988 đến nay đều quy định về quyền bào chữa và đảm bảo
quyền bào chữa được thực thi trong thực tiễn.
1.1.2. Quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người dưới 18 tuổi
Người dưới 18 tuổi là người chưa phát triển đầy đủ về thể chất, tinh
thần, khả năng nhận thức, kiểm soát được suy nghĩ, hành vi của mình còn hạn
chế. Do đó, dễ bị chi phối bởi tác động bên ngoài và thực hiện các hành vi
thiếu suy nghĩ chín chắn. Chính từ đặc điểm về lứa tuổi và các đặc thù nêu

trên nên pháp luật Việt Nam cũng như pháp luật nhiều nước trên thế giới đều
có những quy định phù hợp để bảo vệ, giáo dục, phòng ngừa các hành vi xâm
phạm hoặc xử lý đối với họ.
So sánh pháp luật quốc tế trong đó có Công ước quốc tế về quyền trẻ
em được Đại hội đồng Liên hiệp quốc thông qua ngày 20/11/1989 cho thấy,
tại Điều 1 có ghi: “Trong phạm vi Công ước này, trẻ em có nghĩa là người
dưới 18 tuổi, trừ trường hợp luật pháp áp dụng đối với trẻ em có quy định tuổi
thành niên sớm hơn” [14].
Theo Quy tắc tiêu chuẩn tối thiểu của Liên hiệp quốc về việc áp dụng
pháp luật đối với người chưa thành niên (còn gọi là Quy tắc Bắc Kinh), được
Đại hội đồng Liên hiệp quốc thông qua ngày 29-11-1985 nêu rõ: "Người chưa

12


thành niên là trẻ em hay người ít tuổi tuỳ theo từng hệ thống pháp luật có thể
bị xét xử vì phạm pháp theo một phương thức khác với việc xét xử người lớn"
(Quy tắc số 2.2 mục a) [16].
Hay tại Quy tắc tối thiểu phổ biến của Liên hiệp quốc về bảo vệ người
chưa thành niên bị tước quyền tự do thông qua ngày 14-12-1990 nêu cụ thể:
"Người chưa thành niên là người dưới 18 tuổi. Giới hạn tuổi dưới mức này
cần phải được pháp luật xác định và không được tước quyền tự do của người
chưa thành niên" (Quy tắc 2.1 mục a) [16].
Ở Việt Nam, Hiến pháp và các bộ luật liên quan đều quy định người từ
đủ 18 tuổi trở lên (người thành niên) mới có đầy đủ quyền và nghĩa vụ công
dân. Như vậy hệ thống pháp luật nước ta đã thống nhất quy định người dưới
18 tuổi là người chưa thành niên. Trong TTHS Việt Nam từ trước tới nay
thường sử dụng thuật ngữ “người chưa thành niên”, tuy nhiên đến BLTTHS
năm 2015 đã sử dụng thuật ngữ “người dưới 18 tuổi” được thay thế cho thuật
ngữ “người chưa thành niên”. Và độ tuổi này là ranh giới để phân biệt người

chưa trưởng thành đầy đủ (chưa thành niên) và người trưởng thành đầy đủ
(thành niên). Việc phân biệt như vậy để phân hóa TNHS. Theo quy định của
Bộ luật Hình sự (BLHS) năm 1999 việc xác định TNHS của người dưới 18
tuổi phạm tội được quy định như sau: “1. Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải
chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm; 2. Người từ đủ 14 tuổi trở lên,
nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm
trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng”.
Như vậy, không phải tất cả những người dưới 18 tuổi đều phải chịu
TNHS khi phạm tội mà chỉ những người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ
16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý
hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng và từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách
nhiệm hình sự về mọi tội phạm. Tội phạm do người dưới 18 tuổi gây ra chỉ
xuất hiện (phát sinh) khi có đầy đủ 3 điều kiện sau đây:
13


Một là, có hành vi phạm tội do người dưới 18 tuổi thực hiện.
Hai là, người thực hiện hành vi phạm tội đã đủ tuổi chịu trách nhiệm
hình sự tương ứng với loại tội phạm và lỗi nào?
Ba là, người đó thực tế phải chịu trách nhiệm hình sự sau khi các cơ
quan có thẩm quyền cân nhắc tính cần thiết phải xử lý bằng hình sự mà không
thể áp dụng các biện pháp tư pháp hoặc các biện pháp khác để quản lý, giáo
dục và phòng ngừa tội phạm.
Từ những quy định trên cho thấy pháp luật thế giới và cả Việt Nam
thường quy định người dưới 18 tuổi là người chưa thành niên. Pháp luật luôn
coi người dưới 18 tuổi là đối tượng đặc biệt cần được bảo vệ không chỉ trong
cuộc sống hàng ngày mà ngay cả khi các họ là chủ thể của hành vi nguy hiểm
cho xã hội đến mức phải truy cứu trách nhiệm hình sự (TNHS).
Trên cơ sở tiếp thu những điểm tích cực của các quan điểm nêu trên về
khái niệm QBC, tôi mạnh dạn đưa ra khái niệm QBC của bị can, bị cáo là

người dưới 18 tuổi trong TTHS Việt Nam như sau: Quyền bào chữa của bị
can, bị cáo là người dưới 18 tuổi trong tố tụng hình sự Việt Nam là tổng hợp
các quyền của bị can, bị cáo là người dưới 18 tuổi được đưa ra lý lẽ, chứng
cứ và thực hiện các hành vi tố tụng khác phù hợp pháp luật nhằm xác định sự
vô tội hay giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp,
góp phần làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ án, bảo vệ công lý.
Quyền bào chữa là tổng thể các quyền và hành vi tố tụng cần thiết đảm
bảo cho người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, bị can, bị cáo tích cực tham gia
TTHS; có khả năng thực tế để bày tỏ thái độ của mình trước cơ quan THTT;
lưu ý các cơ quan THTT về những tình tiết này hay tình tiết khác của vụ án;
khả năng nêu ra những tình tiết minh oan hoặc giảm nhẹ tội cho bị can, bị
cáo. Nếu như QBC là khả năng sử dụng những quyền tố tụng để bảo vệ những
quyền và lợi ích hợp pháp thì hành vi bào chữa là các hành động cụ thể để
thực hiện quyền ấy (viết đơn khiếu nại, kháng cáo, tranh luận…).
14


Khái niệm QBC phản ánh những quyền cụ thể mà BLTTHS đã quy
định cho bị can, bị cáo được thực hiện để bảo vệ lợi ích chính đáng của mình
trước việc các cơ quan và những người THTT đã khởi tố VAHS, khởi tố họ
với tư cách bị can, hoặc đã quyết định truy tố và đưa họ ra xét xử; bao gồm cả
quyền họ được chứng minh là mình không có tội hoặc có những tình tiết giảm
nhẹ trách nhiệm hình sự.
1.2. Đặc điểm quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người dưới 18 tuổi
1.2.1. Đặc điểm về nội dung
Trong lịch sử TTHS thế giới, trải qua nhiều thế kỷ người ta thấy rằng
hầu như không có sự phân biệt đáng kể trong thái độ của nhà nước và xã hội
đối với bị can là người thành niên và bị can là người chưa thành niên trong
VAHS. Người ta quan niệm giản đơn bị can là người CTN chỉ là bị can thành
niên còn nhỏ. Sở dĩ như vậy là bản thân giai đoạn phát triển CTN đã không

được nhìn nhận là giai đoạn phát triển có ý nghĩa xã hội quan trọng đối với cá
nhân, đối với nhà nước và xã hội. Chỉ đến cuối thế kỷ 19 mới hình thành thái
độ mới của nhà nước về bị can là người CTN trong VAHS. Lúc này trong tư
duy lập pháp TTHS đã thay đổi cách nhìn về bị can là người CTN như là đối
tượng cần được bảo vệ đặc biệt và hình thành chiến lược lập pháp TTHS đối
với bị can là người CTN. Sự phát triển của tư duy lập pháp này tùy thuộc rất
nhiều vào các yếu tố khác nhau ở mỗi quốc gia như chính sách hình sự của
nhà nước, sự phát triển của khoa học pháp lý, tình trạng tội phạm của người
CTN, sự phát triển và chuyên môn hóa trong tổ chức và hoạt động của các cơ
quan THTT và đã trở thành xu hướng chung ngày càng có tính nhân văn, hình
thành những chuẩn mực chung về thái độ của nhà nước đối với bị can, bị cáo
là người CTN.
Công ước quốc tế về quyền trẻ em năm 1989 quy định: “Trẻ em, do còn
non nớt về thể chất và trí tuệ cần được bảo vệ, chăm sóc đặc biệt, kể cả sự bảo
vệ thích hợp về mặt pháp lý trước cũng như sau khi ra đời” [14].
15


Theo pháp luật về nhân quyền quốc tế và tập quán quốc tế thì quyền
bào chữa được cấu thành bởi 9 quyền, bao gồm:
(i) Quyền được có người bào chữa do mình lựa chọn
(ii) Quyền được có đủ thời gian để chuẩn bị cho phiên
toà, bao gồm tiếp xúc với người bào chữa;
(iii) Quyền được giao tiếp bí mật với luật sư;
(iv) Quyền bào chữa thông qua trợ giúp pháp lý;
(v) Quyền được tạm hoãn thủ tục tố tụng để được tham
vấn luật sư;
(vi) Quyền được tự bào chữa;
(vii) Quyền bào chữa là hành vi bảo vệ quyền lợi của bị cáo;
(viii)Quyền không phải tiến hành tố tụng với luật sự bào

chữa là người không đủ năng lực hoặc thiếu tính cẩn trọng
trong khi bị can, bị cáo đã có luật sư phù hợp;
(ix) Quyền bào chữa trong tất cả các giai đoạn tố tụng
với hình phạt án tử hình [46].
Có thể thấy trong hoạt động tố tụng hình sự, QBC là quyền quan trọng
nhất của bị can, bị cáo. Về nội dung, bào chữa là tất cả các hoạt động của
người bị buộc tội và người bào chữa từ khi bị buộc tội đến khi có bản án,
quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án không bị kháng cáo, kháng nghị.
Thông qua hành vi cụ thể, họ sử dụng các quyền luật định để làm sáng tỏ
những tình tiết chứng minh cho sự vô tội hoặc làm giảm nhẹ TNHS cũng như
những tình tiết khác có lợi cho người bị buộc tội. Đó có thể là hành vi tố tụng
hướng tới việc bác bỏ một phần hoặc toàn bộ sự buộc tội của cơ quan THTT
hoặc nhằm đưa ra chứng cứ nhằm làm giảm nhẹ trách nhiệm của người bị
buộc tội; hoặc các hành vi tố tụng nhằm đảm bảo các quyền và lợi ích được
pháp luật bảo vệ của người bị buộc tội kể cả khi chúng không trực tiếp liên
quan tới việc làm giảm TNHS trong vụ án.
16


Theo quy định của BLTTHS năm 2003 thì NBC có những quyền
như: Có mặt khi hỏi cung; xem các biên bản về hoạt động tố tụng có sự
tham gia của mình và các quyết định tố tụng liên quan đến người mà mình
bào chữa. Đề nghị Cơ quan điều tra báo trước về thời gian và địa điểm hỏi
cung bị can để có mặt khi hỏi cung bị can. Thu thập tài liệu, đồ vật, tình
tiết liên quan đến việc bào chữa từ người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người
thân thích của những người này hoặc từ cơ quan, tổ chức, cá nhân theo yêu
cầu của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo nếu không thuộc bí mật Nhà nước,
bí mật công tác [26, Khoản 2 Điều 58].
1.2.2. Đặc điểm về hình thức
Quyền bào chữa của bị can, bị cáo là những quyền lợi cơ bản được thể

hiện dưới hai hình thức đó là tự bào chữa và nhờ người khác bào chữa. Theo
Bộ luật TTHS năm 2003 quy định về việc bảo đảm QBC của người bị tạm
giữ, bị can, bị cáo: “Người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có quyền tự bào chữa
hoặc nhờ người khác bào chữa” [26, Điều 11]. Tại Điều này tuy không quy
định rõ quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa của bị can, bị cáo là
người dưới 18 tuổi nhưng với quy định chung về quyền này của người bị tạm
giữ, bị can, bị cáo thì đương nhiên người dưới 18 tuổi trong trường hợp là
bị can, bị cáo cũng sẽ có đầy đủ quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác
bào chữa. Bộ luật TTHS năm 2003 quy định bị can, bị cáo có quyền tự bào
chữa hoặc nhờ người khác bào chữa [26, Điều 49, 50]. “Người đại diện hợp
pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là người chưa thành niên có thể
lựa chọn người bào chữa hoặc tự mình bào chữa cho người bị tạm giữ, bị
can, bị cáo” [26, Điều 305]. Quyền bào chữa là một quyền quan trọng của bị
can, bị cáo là người dưới 18 tuổi trong tố tụng hình sự. Chủ thể này được
quyền sử dụng tất cả những biện pháp gì mà pháp luật không cấm để chống
lại, bác bỏ, phủ nhận lời buộc tội của cơ quan điều tra (CQĐT), Viện kiểm sát
hoặc để giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của mình trong vụ án.
17


×