Tải bản đầy đủ (.pdf) (123 trang)

Trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng đối với việc bảo đảm quyền của người bào chữa trong luật tố tụng hình sự việt nam (trên cơ sở thực tiễn địa bàn tỉnh hà tĩnh)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.28 MB, 123 trang )

I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT

Lấ TH VIT PHNG

TRáCH NHIệM CủA CáC CƠ QUAN TIếN HàNH Tố TụNG
ĐốI VớI VIệC BảO ĐảM QUYềN CủA NGƯờI BàO CHữA
TRONG LUậT Tố TụNG HìNH Sự VIệT NAM
(Trên cơ sở thực tiễn địa bàn tỉnh Hà Tĩnh)

LUN VN THC S LUT HC

H N I - 2017


I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT

Lấ TH VIT PHNG

TRáCH NHIệM CủA CáC CƠ QUAN TIếN HàNH Tố TụNG
ĐốI VớI VIệC BảO ĐảM QUYềN CủA NGƯờI BàO CHữA
TRONG LUậT Tố TụNG HìNH Sự VIệT NAM
(Trên cơ sở thực tiễn địa bàn tỉnh Hà Tĩnh)
Chuyờn ngnh: Lut Hỡnh s v T tng hỡnh s
Mó s: 60 38 01 04

LUN VN THC S LUT HC

Ngi hng dn khoa hc: TS. NGUYN VN TUN


H N I - 2017


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng
tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ
công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm
bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các
môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định
của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi
có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƢỜI CAM ĐOAN

Lê Thị Việt Phƣơng


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
Danh mục các bảng
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
Chƣơng 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TRÁCH NHIỆM CỦA CÁC

1.1.
1.1.1.


CƠ QUAN TIẾN HÀNH TỐ TỤNG ĐỐI VỚI VIỆC BẢO ĐẢM
QUYỀN CỦA NGƢỜI BÀO CHỮA .........................................................7
Một số vấn đề chung về quyền bào chữa trong tố tụng hình sự .............7
Quyền bào chữa và ngƣời bào chữa trong tố tụng hình sự ...........................7

1.1.2.

Quyền của ngƣời bào chữa và cơ chế bảo đảm quyền của ngƣời bào
chữa trong tố tụng hình sự ...........................................................................13

1.2.

Trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng đối với việc bảo
đảm quyền của ngƣời bào chữa ...............................................................20

1.2.1.

Sự cần thiết và ý nghĩa của việc quy định trách nhiệm của các cơ quan
tiến hành tố tụng đối với việc bảo đảm quyền của ngƣời bào chữa ............20
Khái niệm trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng đối với việc
bảo đảm quyền của ngƣời bào chữa ............................................................22

1.2.2.
1.3.

1.3.1.

Khái quát sự hình thành và phát triển quy định của pháp luật
TTHS về trách nhiệm của các CQTHTT đối với việc bảo đảm

quyền của ngƣời bào chữa trƣớc khi BLTTHS năm 2003 ....................28
Giai đoạn từ sau cách mạng tháng Tám năm 1945 đến trƣớc khi

BLTTHS năm 1988 .....................................................................................28
1.3.2. Giai đoạn từ khi BLTTHS năm 1988 đến khi có BLTTHS năm 2003 .......32
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1..........................................................................................35
Chƣơng 2: QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
VỀ TRÁCH NHIỆM CỦA CÁC CƠ QUAN TIẾN HÀNH TỐ TỤNG
ĐỐI VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN CỦA NGƢỜI BÀO CHỮA VÀ
THỰC TIỄN THI HÀNH TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH HÀ TĨNH ..................... 36


2.1.

Những quy định của pháp luật tố tụng hình sự về trách nhiệm
của các cơ quan tiến hành tố tụng đối với việc bảo đảm quyền của
ngƣời bào chữa ..........................................................................................36

2.1.1.

Trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng đối với việc bảo đảm

2.1.2.

quyền của ngƣời bào chữa trong BLTTHS 2003 ........................................36
Trách nhiệm của các CQTHTT đối với việc bảo đảm quyền của ngƣời
bào chữa trong quy định của các văn bản pháp luật khác ..............................58

2.2.


Thực tiễn thực hiện trách nhiệm của các CQTHTT đối với việc
bảo đảm quyền của ngƣời bào chữa trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh
giai đoạn từ năm 2011 đến 2016 ...............................................................61

2.2.1.

Những kết quả đạt đƣợc ..............................................................................61

2.2.2.
2.2.3.

Những tồn tại và hạn chế .............................................................................66
Nguyên nhân của thực trạng trên ................................................................78

KẾT LUẬN CHƢƠNG 2..........................................................................................84
Chƣơng 3: GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO TRÁCH NHIỆM CỦA CÁC
CƠ QUAN TIẾN HÀNH TỐ TỤNG ĐỐI VỚI VIỆC BẢO ĐẢM
QUYỀN CỦA NGƢỜI BÀO CHỮA .......................................................85
3.1.

Giải pháp về pháp luật ..............................................................................85

3.1.1.

Những quy định mới về trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng đối
với việc bảo đảm quyền của ngƣời bào chữa trong BLTTHS năm 2015 .......85
Một số kiến nghị để tiếp tục hoàn thiện các quy định của pháp luật
trách nhiệm của các CQTHTT của trong việc bảo đảm quyền của
ngƣời bào chữa trong thời gian tới ............................................................100
Giải pháp khác .........................................................................................104

Các giải pháp đối với chủ thể tiến hành tố tụng ........................................104
Các giải pháp đối với các chủ thể khác .....................................................106

3.1.2.

3.2.
3.2.1.
3.2.2.

3.2.3. Các giải pháp để tăng cƣờng cơ chế giám sát ...........................................108
3.3.
Các giải pháp đối với tỉnh Hà Tĩnh .......................................................109
KẾT LUẬN CHƢƠNG 3........................................................................................110
KẾT LUẬN ............................................................................................................111
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................112


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BLTTHS:

Bộ luật tố tụng hình sự

CHXHCN:

Cộng hòa xã hội chủ nghĩa

CQĐT:

Cơ quan điều tra


CQTHTT:

Cơ quan tiến hành tố tụng

HĐXX:

Hội đồng xét xử

TANDTC:

Tòa án nhân dân tối cao

TGPL:

Trợ giúp pháp lý

TGVPL:

Trợ giúp viên pháp lý

TTHS:

Tố tụng hình sự

VKS:

Viện kiểm sát

VKSND:


Viện kiểm sát nhân dân


DANH MỤC CÁC BẢNG

Số hiệu

Tên bảng

Trang

Bảng 2.1: Số vụ án hình sự có ngƣời bào chữa tham gia ở hai cấp xét
xử từ năm 2011-2016

62

Bảng 2.2: Số bị cáo trong các vụ án hình sự ở hai cấp xét xử có ngƣời
bào chữa từ năm 2011-2016

63

Bảng 2.3: Thống kê số vụ án hình sự có ngƣời bào chữa tham gia từ
năm 2011-2016

63

Bảng 2.4: Số bị can, bị cáo thuộc diện ngƣời đƣợc TGPL đƣợc bào
chữa miễn phí qua các năm từ 2011 đến 2016

65



MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Vấn đề bảo đảm quyền bào chữa nói chung và bảo đảm quyền của ngƣời bào
chữa nói riêng là một trong những vấn đề quan trọng trong tố tụng hình sự. Bảo
đảmquyền của ngƣời bào chữa là góp phần bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của
các chủ thể bị buộc tội cũng nhƣ các chủ thể khác có quyền và nghĩa vụ liên quan,
hạn chế sự lạm quyền từ phía các cơ quan tiến hành tố tụng (CQTHTT) cũng nhƣ
làm sáng tỏ sự thật của vụ án và bảo đảm pháp chế trong tố tụng hình sự (TTHS).
Việc nâng cao hơn nữa chất lƣợng tranh tụng tại phiên tòa xét xử là một
trong những nội dung quan trọng của cải cách tƣ pháp nhận đƣợc nhiều sự quan tâm
của Đảng và Nhà nƣớc trong thời gian qua. Lần đầu tiên, nguyên tắc tranh tụng
trong xét xử đƣợc Hiến pháp năm 2013 - văn bản có giá trị pháp lý cao nhất ghi
nhận. Bên cạnh đó, Nghị quyết 49-NQ-TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về
chiến lƣợc Cải cách tƣ pháp đến năm 2020 cũng đã nhấn mạnh sự cần thiết phải xác
định vị trí, quyền hạn, trách nhiệm của ngƣời tiến hành tố tụng và ngƣời tham gia tố
tụng theo hƣớng bảo đảm tính công khai, dân chủ, nghiêm minh, nâng cao chất
lƣợng tranh tụng tại phiên tòa xét xử. Trong đó, nâng cao vị trí, vai trò của ngƣời
bào chữa là một trong những yếu tố quan trọng để góp phần nâng cao chất lƣợng
tranh tụng tại phiên tòa xét xử.
Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS) năm 2003 đã có những quy định cụ thể về
quyền của ngƣời bào chữa, đồng thời cũng quy định trách nhiệm của các CQTHTT
đối với việc bảo đảm cho ngƣời bào chữa đƣợc thực hiện các quyền của mình trong
hoạt động bào chữa. Tuy nhiên, pháp luật TTHS hiện hành về bảo đảm quyền của
ngƣời bào chữa vẫn đang còn tồn tại nhiều bất cập. Các cơ chế bảo đảm và xác định
trách nhiệm của các CQTHTT đối với việc phải bảo đảm quyền của ngƣời bào chữa
vẫn còn chƣa thật đầy đủ. Chƣa có những quy định mang tính bắt buộc thực hiện;
chƣa chỉ rõ trách nhiệm của các CQTHTT trong việc bảo đảm thực hiện quyền đó,
thiếu cơ chế giám sát việc thực hiện các quyền của ngƣời bào chữa. Chƣa có đủ


1


những chế tài cần thiết đối với các CQTHTT khi vi phạm các quyền của ngƣời bào
chữa trên thực tế vẫn còn tồn tại những vƣớng mắc.
Mặc dù nhận đƣợc rất nhiều sự quan tâm của Đảng và nhà nƣớc đối với vấn
đề bảo đảm quyền bào chữa nói chung và đối với vị trí vai trò của ngƣời bào chữa
trong TTHS nói riêng nhƣng thời gian qua, các quyền của ngƣời bào chữa vẫn chƣa
thực sự nhận đƣợc sự bảo đảm từ phía các CQTHTT. Thực tiễn thi hành BLTTHS
năm 2003 trong cả nƣớc nói chung và trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh nói riêng thời gian
qua đã bộc lộ rõ một số tồn tại, hạn chế trong công tác bảo đảm quyền của ngƣời
bào chữa, họ chƣa thực sự đƣợc các CQTHTT tạo điều kiện trong quá trình tham
gia tố tụng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho ngƣời bị tạm giữ, bị can, bị cáo.
Điều này đã gây ảnh hƣởng trực tiếp đến việc thực hiện quyền bào chữa của ngƣời
bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Yêu cầu nâng cao hơn nữa trách nhiệm của các CQTHTT
là một trong những giải pháp quan trọng để bảo đảm quyền của ngƣời bào chữa và
quyền bào chữa đƣợc thực hiện trên thực tế.
Nhận thức đƣợc sự cần thiết và tầm quan trọng của vấn đề trong giai đoạn
hiện nay, tác giả đã chọn “Trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng đối với
việc bảo đảm quyền của người bào chữa trong luật tố tụng hình sự Việt Nam (trên cơ
sở thực tiễn địa bàn tỉnh Hà Tĩnh)” làm đề tài cho Luận văn tốt nghiệp của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Trong khoa học pháp lý nƣớc ta cũng nhƣ quốc tế, vấn đề trách nhiệm của
các CQTHTT đối với việc bảo đảm quyền của ngƣời bào chữa trong TTHS đã đƣợc
một số nhà khoa học pháp lý quan tâm, nghiên cứu và đề cập đến ở những góc độ
và mức độ khác nhau nhƣ: Những điểm mới về chế định bào chữa trong Bộ luật Tố
tụng hình sự năm 2015 (Nxb Chính trị quốc gia) của TS. Luật sƣ Phan Trung Hoài;
Bảo đảm quyền của người bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam ở cấp xét xử sơ
thẩm (Đại học luật Hà Nội) của tác giả Phạm Văn Hiến; Bảo đảm quyền bào chữa

của bị cáo trong tố tụng hình sự, (Khoa Luật, Trƣờng Đại học Quốc gia Hà Nội)
của tác giả Nguyễn Thị Phƣơng Thảo; “Hoàn thiện quy định của Bộ luật Tố tụng
hình sự nhằm nâng cao hiệu quả việc tham gia tố tụng của người bào chữa” (Đại
học Luật Hà Nội) của tác giả Đinh Kiều Anh;...

2


Trên các tạp chí khoa học chuyên ngành cũng có nhiều bài viết nhƣ: Các yếu
tố bảo đảm sự tham gia tố tụng của người bào chữa trong giai đoạn điều tra vụ án
hình sự (Tạp chí Tòa án nhân dân, Số 8/2013, tr. 12-15) của tác giả Vũ Huy Khánh;
Thực trạng quy định của pháp luật về hoạt động tham gia tố tụng của luật sư với tư
cách là người bào chữa và hướng hoàn thiện (Tạp chí Tòa án nhân dân, Số 8/2012,
tr. 23-26) của tác giả Vũ Huy Khánh; Một số vấn đề lý luận và thực tiễn trong việc
thực thi các quy định của pháp luật nhằm đảm bảo quyền của luật sư trong quá
trình tham gia tố tụng hình sự, dân sự (Tạp chí Kiểm sát, Số 4/2007, tr. 7-14) của
tác giả Phan Trung Hoài; Nâng cao vị thế của người bào chữa tại phiên toà hình sự
(Tạp chí Luật học, Số 7/2008, tr. 25-30) của tác giả Nguyễn Ngọc Khanh; Cần bảo
đảm các quyền và nghĩa vụ của người bào chữa(Tạp chí Toà án nhân dân, Số
15/2004, tr. 17-19) của tác giả Phạm Thanh Bình;...
Các công trình này đã đề cập đến các góc độ khác nhau về lý luận của vấn đề
trách nhiệm của các CQTHTT đối với việc bảo đảm quyền của ngƣời bào chữa và hoàn
thiện quy định của pháp luật về vấn đề này. Tuy nhiên, chƣa có một công trình nào
nghiên cứu khoa học nào nghiên cứu một cách toàn diện, hệ thống và đồng bộ về trách
nhiệm của các CQTHTT đối với việc bảo đảm quyền của ngƣời bào chữa trong tố tụng
hình sự. Điều này một lần nữa cho phép khẳng định việc nghiên cứu đề tài: “Trách
nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng đối với việc bảo đảm quyền của người bào
chữa trong luật Tố tụng hình sự Việt Nam (Trên cơ sở thực tiễn địa bàn tỉnh Hà Tĩnh)”
là đòi hỏi khách quan, cấp thiết, vừa có tính lý luận vừa có tính thực tiễn.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của việc nghiên cứu đề tài này là phân tích khoa học để làm rõ
những vấn đề mang tính chất lý luận và thực tiễn về trách nhiệm của các CQTHTT
đối với việc bảo đảm quyền của ngƣời bào chữa theo quy định của BLTTHS để tìm
ra những hạn chế, thiếu sót và nguyên nhân của những hạn chế đối với vấn đề này.
Trên cơ sở đó đề ra những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả trách nhiệm của các
CQTHTT đối với việc bảo đảm quyền của ngƣời bào chữa, góp phần hoàn thiện
quy định của BLTTHS.

3


3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Từ mục đích nghiên cứu nêu trên, luận văn có những nhiệm vụ chủ yếu sau:
- Làm rõ những vấn đề lý luận về quyền của ngƣời bào chữa và trách nhiệm
của các CQTHTT đối với việc bảo đảm quyền của ngƣời bào chữa.
- Chỉ ra trách nhiệm của các CQTHTT đối với việc bảo đảm quyền của
ngƣời bào chữa, ý nghĩa khoa học và thực tiễn của việc nghiên cứu vấn đề này.
- Phân tích các quy định của BLTTHS và các văn bản khác liên quan đến
trách nhiệm của các CQTHTT đối với việc bảo đảm quyền của ngƣời bào chữa; tìm
ra những hạn chế và bất cập về bảo đảm quyền của ngƣời bào chữa trong quy định
của pháp luật, đƣa ra các kiến nghị hoàn thiện quy định của pháp luật về vấn đề này.
- Nghiên cứu, đánh giá thực tiễn thi hành trách nhiệm của các CQTHTT đối
với bảo đảm quyền của ngƣời bào chữa, so sánh đối chiếu với những quy định liên
quan đã đƣợc sửa đổi bổ sung ở BLTTHS năm 2015, qua, từ đó phân tích những điều
đã đạt đƣợc, từ đó đề xuất các giải pháp nhằm tiếp tục nâng cao trách nhiệm của các
CQTHTT đối với việc bảo đảm quyền của ngƣời bào chữa trong TTHS nói chung.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu và giải quyết những vấn đề liên quan đến trách nhiệm
của các CQTHTT đối với việc bảo đảm quyền của ngƣời bào chữa trong luật TTHS

kết hợp với việc nghiên cứu, đánh giá tình hình áp dụng những quy định này. Từ đó
tìm ra những nguyên nhân của tồn tại, hạn chế để đề xuất những giải pháp hoàn
thiện pháp luật thực định và nâng cao trách nhiệm của các CQTHTT đối với việc
bảo đảm quyền của ngƣời bào chữa.
Luận văn nghiên cứu thực tiễn áp dụng các quy định về trách nhiệm của các
CQTHTT đối với việc bảo đảm quyền của ngƣời bào chữa trong luật TTHS trên địa
bàn tỉnh Hà Tĩnh trong giai đoạn 2011-2016.
5. Cơ sở khoa học
5.1. Cơ sở lý luận
Đề tài thực hiện trên cơ sở phƣơng pháp luận chủ nghĩa duy vật lịch sử và
chủ nghĩa duy vật biện chứng Mác-xít, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng

4


và Nhà nƣớc ta về xây dựng nhà nƣớc pháp quyền, về chính sách hình sự, về vấn đề
cải cách tƣ pháp đƣợc thể hiện trong Hiến pháp, trong các nghị quyết Đại hội Đảng,
Nghị quyết số 49-NQ-TW ngày 2/6/2005 về Chiến lƣợc cải cách tƣ pháp đến năm
2020 của Bộ Chính trị.
5.2. Cơ sở thực tiễn
Đề tài thực hiện trên cơ sở thực tiễn áp dụng các quy định về trách nhiệm của
các CQTHTT đối với việc bảo đảm quyền của ngƣời bào chữa trong luật TTHS trên
địa bàn tỉnh Hà Tĩnh giai đoạn 2011-2016.
6. Phƣơng pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tác giả đã sử dụng các phƣơng pháp cụ thể
và đặc thù của khoa học TTHS nhƣ: phƣơng pháp phân tích và tổng hợp; phƣơng
pháp so sánh, đối chiếu; phƣơng pháp diễn dịch; phƣơng pháp quy nạp; phƣơng
pháp thống kế, điều tra xã hội học để tổng hợp các tri thức khoa học về luật TTHS
và luận chứng các vấn đề tƣơng ứng đƣợc nghiên cứu trong luận văn.
7. Điểm mới của luận văn

Những điểm mới cơ bản của luận văn là:
- Xây dựng khái niệm khoa học về trách nhiệm của các CQTHTT đối với
việc bảo đảm quyền của ngƣời bào chữa trong TTHS.
- Nghiên cứu làm rõ một số nội dung liên quan đến trách nhiệm của các
CQTHTT đối với bảo đảm quyền của ngƣời bào chữa, ý nghĩa khoa học và thực
tiễn của việc nghiên cứu về trách nhiệm của các CQTHTT đối với việc bảo đảm
quyền của ngƣời bào chữa trong tố tụng hình sự.
- Trên cơ sở kết quả nghiên cứu lý luận và thực tiễn, Luận văn chỉ ra những
hạn chế về trách nhiệm của các CQTHTT đối với việc bảo đảm quyền của ngƣời
bào chữa trong quy định của BLTTHS năm 2003, đồng thời so sánh đối chiếu với
những quy định liên quan đã đƣợc sửa đổi bổ sung ở BLTTHS năm 2015, phân tích
những điều đã đạt đƣợc đồng thời tiếp tục bổ sung một số kiến nghị nhằm hoàn
thiện quy định của pháp luật về vấn đề này.
- Luận văn góp phần bổ sung, hoàn thiện lý luận về trách nhiệm của các

5


CQTHTT đối với việc bảo đảm quyền của ngƣời bào chữa trong TTHS Việt Nam,
đƣa ra các kiến nghị hoàn thiện pháp luật để tiếp tục hoàn thiện quy định của pháp
luật tố tụng hình sự, đƣa ra các giải pháp giúp các cơ quan tố tụng có thể tham khảo
để nâng cao hiệu quả công tác góp phần nâng cao trách nhiệm trong việc bảo đảm
quyền của ngƣời bào chữa.
8. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, nội dung chính của luận
văn chia làm 03 chƣơng. Cụ thể:
- Chương 1: Một số vấn đề lý luận về trách nhiệm của các CQTHTT đối với
việc bảo đảm quyền của ngƣời bào chữa.
- Chương 2: Quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về trách
nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng đối với việc bảo đảm quyền của ngƣời bào

chữa và thực tiễn thi hành trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh.
- Chương 3: Giải pháp nhằm nâng cao trách nhiệm của các cơ quan tiến hành
tố tụng đối với việc bảo đảm quyền của ngƣời bào chữa.

6


Chƣơng 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TRÁCH NHIỆM CỦA CÁC
CƠ QUAN TIẾN HÀNH TỐ TỤNG ĐỐI VỚI VIỆC BẢO ĐẢM
QUYỀN CỦA NGƢỜI BÀO CHỮA
1.1. Một số vấn đề chung về quyền bào chữa trong tố tụng hình sự
1.1.1. Quyền bào chữa và người bào chữa trong tố tụng hình sự
1.1.1.1. Quyền bào chữa và nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa trong tố
tụng hình sự
Quyền bào chữa là một trong các quyền cơ bản của công dân đƣợc Hiến
pháp nƣớc CHXHCN Việt Nam ghi nhận nhƣ sau: “Người bị bắt, tạm giữ, tạm
giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử có quyền tự bào chữa, nhờ luật sư hoặc người
khác bào chữa” [35, Điều 31]. Đây là một trong những quyền quan trọng nhất của
ngƣời bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Có thể hiểu rằng:
Quyền bào chữa trong TTHS là tổng hòa các hành vi tố tụng do
ngƣời bị tạm giữ, bị can, bị cáo thực hiện trên cơ sở phù hợp với các quy
định của pháp luật nhằm phủ nhận một phần hay toàn bộ sự buộc tội của
các CQTHTT, làm giảm nhẹ hoặc loại trừ trách nhiệm hình sự của mình
trong vụ án hình sự [46, tr.10].
Quyền bào chữa không những đƣợc pháp luật ghi nhận mà còn đƣợc bảo vệ.
Quá trình giải quyết vụ án hình sự phải tuân thủ những trình tự, thủ tục đƣợc quy
định chặt chẽ trong pháp luật. Quyền bào chữa đƣợc cụ thể hóa bằng các nguyên tắc
cơ bản của BLTTHS và đƣợc quy định chi tiết thông qua các điều luật quy định về
trách nhiệm của các CQTHTT, quyền, nghĩa vụ của ngƣời bào chữa cũng nhƣ các

điều luật khác trong BLTTHS. Theo quy định của BLTTHS năm 2003, quyền bào
chữa chỉ thuộc về những chủ thể bao gồm: ngƣời bị tạm giữ, bị can, bị cáo.
Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa là một trong những nguyên tắc quan
trọng đƣợc ghi nhận tại Điều 31 Hiến pháp năm 2013, Điều 12 BLTTHS năm 2003.
Nguyên tắc này bảo đảm cho ngƣời bị buộc tội nói chung quyền chống lại việc buộc

7


tội hoặc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự từ phía các CQTHTT. Nó có ý nghĩa to lớn
và là điều kiện thiết thực để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình, đồng thời
cũng là điểu kiện để Tòa án xem xét một các khách quan, toàn diện đối với vụ án.
Quyền bào chữa là một trong những quyền cơ bản của ngƣời bị tạm giữ, bị
can, bị cáo theo đó quyền bào chữa đƣợc pháp luật bảo đảm bằng hai hình thức là
Tự bào chữa" (bào chữa do chính bị cáo thực hiện) hoặc "Nhờ người khác bào
chữa" (bào chữa dƣới sự giúp đỡ của ngƣời bào chữa) [31, Điều 50]. Theo đó:
Tự bào chữa là một hình thức để bị can, bị cáo, ngƣời bị tạm giữ tự bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Tự bào chữa là một quyền năng tố tụng đặc
thù, theo đó, pháp luật ghi nhận và bảo đảm cho phép ngƣời bị tạm giữ bị can, bị
cáo tự mình thực hiện các biện pháp phù hợp với quy định của pháp luật để bào
chữa nhằm minh oan, bác bỏ việc buộc tội của các CQTHTT hoặc giảm nhẹ trách
nhiệm hình sự của mình. Tuy nhiên, trong quá trình giải quyết vụ án hình sự họ
thƣờng có vai trò thụ động và phụ thuộc nhiều vào các CQTHTT. Trên thực tế,
những trƣờng hợp ngƣời bị tạm giữ, bị can, bị cáo tự bào chữa thƣờng mang lại hiệu
quả không cao, bởi lẽ khi bị bắt giữ, họ bị hạn chế một số quyền cơ bản, nên họ
không đƣợc thu thập chứng cứ, không đƣợc xem xét tài liệu do CQĐT thu thập, vì
vậy việc tự bào chữa của bị cáo rất khó khăn và hạn chế.
Nhờ người khác bào chữa là một hình thức bào chữa khác đƣợc pháp luật
TTHS ghi nhận trong trƣờng hợp ngƣời bị tạm giữ, bị can, bị cáo không thể tự mình
thực hiện việc bào chữa. Đó là các trƣờng hợp ngƣời bị tạm giữ, bị can, bị cáo hạn chế

về hiểu biết các quy định của pháp luật cũng nhƣ do bị áp dụng các biện pháp cƣỡng
chế nên họ không thể thực hiện đƣợc đầy đủ và có hiệu quả quyền tự bào chữa của
mình. Do đó, họ cần phải nhờ đến sự giúp đỡ của ngƣời bào chữa để thực hiện việc bảo
chữa cho mình. Việc tham gia tố tụng của ngƣời bào chữa là rất cần thiết trong việc
thực hiện nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của ngƣời bị tạm giữ, bị can, bị cáo
1.1.1.2. Người bào chữa bào chữa trong tố tụng hình sự
Ngƣời bào chữa có vai trò quan trọng trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp cho ngƣời bị buộc tội, hầu hết pháp luật của các nƣớc trên thế giới đều ghi

8


nhận việc tham gia tố tụng của ngƣời bào chữa. Khác với sự tham gia tố tụng của
các chủ thể khác, ngƣời bào chữa tham gia tố tụng không bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp cho chính bản thân mình mà để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho
ngƣời đang bị cáo buộc có hành vi phạm tội. Sự tham gia tố tụng của ngƣời bào
chữa cũng góp phần bảo vệ công lý, xây dựng xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Mối quan hệ giữa ngƣời bào chữa với ngƣời bị tạm giữ, bị can, bị cáo chỉ
xuất hiện trên cơ sở một trong hai trƣờng hợp: ngƣời bị tạm giữ, bị can, bị cáo,
ngƣời đại diện hoặc ngƣời thân thích của họ mời ngƣời bào chữa và đƣợc các
CQTHTT chấp thuận; hoặc do các CQTHTT cử ngƣời bào chữa cho bị can, bị cáo
và đƣợc họ chấp nhận. Trên cơ sở những quyền đã đƣợc pháp luật ghi nhận tại Điều
58 BLTTHS ngƣời bào chữa có thể làm sáng tỏ những tình tiết của vụ án nhằm
chứng minh sự vô tội hoặc làm giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đồng thời giúp đỡ về
mặt pháp lý cần thiết cho ngƣời bị tạm giữ, bị can, bị cáo.
Trong BLTTHS 2003 chƣa nêu đƣợc khái niệm thống nhất về ngƣời bào chữa
dẫn đến tình trạng có nhiều cách hiểu và khái niệm riêng về ngƣời bào chữa đƣợc xây
dựng trên cơ sở cách hiểu của từng nhà nghiên cứu. Tuy nhiên, nếu căn cứ vào quy
định tại các Điều 56, 57 và 58 BLTTHS 2003 thì có thể hiểu một cách chung nhất:
Ngƣời bào chữa là ngƣời đƣợc các CQTHTT chứng nhận, tham

gia tố tụng để đƣa ra những tình tiết xác định ngƣời bị tạm giữ, bị can, bị
cáo vô tội, những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của ngƣời bị
tạm giữ, bị can, bị cáo và giúp đỡ ngƣời bị tạm giữ, bị can, bị cáo về mặt
pháp lý nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ [40, tr.137,].
Bào chữa là một chức năng quan trọng không thể thiếu trong quá trình giải
quyết các vụ án hình sự nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của ngƣời bị tạm
giữ, bị can, bị cáo. Muốn bào chữa đúng đắn, khách quan trên cơ sở các quy định
của pháp luật và thực sự có tác dụng đòi hỏi những ngƣời bào chữa phải có năng lực
thực sự, trong đó quan trọng là nắm chắc pháp luật, hiểu biết rõ về những ngƣời mà
họ đứng ra bảo vệ. Đối với các chủ thể có tƣ cách của ngƣời bào chữa, Khoản 1
Điều 56 BLTTHS 2003 quy định ba chủ thể bào chữa đó là (a) Luật sƣ; (b) Ngƣời
đại diện hợp pháp của ngƣời bị tạm giữ, bị can, bị cáo; (c) Bào chữa viên nhân dân.

9


Ngoài ba chủ thể đƣợc BLTTHS 2003, còn một chủ thể đƣợc tham gia bào
chữa là Trợ giúp viên pháp lý theo quy định tại điểm b khoản 3 Điều 21 Luật Trợ
giúp pháp lý 2006 quy định: “Trợ giúp viên pháp lý được tham gia tố tụng với tư
cách người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo để thực hiện việc
bào chữa” [33, tr.56]. Cụ thể hóa quy định cho phép Trợ giúp viên pháp lý đƣợc tham
gia tố tụng, Điều 10 Thông tƣ liên tịch số 11/2013/TTLT-BTP-BCA-BQP-BTCVKSNDTC-TANDTC ngày 04/7/2013 cũng đã quy định trách nhiệm của các
CQTHTT trong việc cấp giấy chứng nhận bào chữa cho ngƣời bào chữa.
(a) Luật sƣ
Luật sƣ là ngƣời hoạt động chuyên nghiệp tham gia trong một Đoàn Luật sƣ
theo quy định của pháp luật. Trong thời đại hiện nay, vị trí, vai trò của Luật sƣ ngày
càng đƣợc nâng cao. Ở Việt Nam, sau khi Luật Luật sƣ 2006 sửa đổi bổ sung năm
2012 có hiệu lực thì đội ngũ luật sƣ của chúng ta ngày càng đƣợc nâng cao cả về số
lƣợng lẫn chất lƣợng.
Luật Luật sƣ quy định: “Luật sư là người có đủ tiêu chuẩn, điều kiện hành

nghề theo quy định của Luật này, thực hiện dịch vụ pháp lý theo yêu cầu của cá
nhân, cơ quan, tổ chức” [34, Điều 2]. Để đƣợc công nhận là một luật sƣ thì cá nhân
phải đáp ứng các điều kiện: là công dân Việt Nam trung thành với Tổ quốc, tuân thủ
Hiến pháp và pháp luật, có phẩm chất đạo đức tốt, có bằng cử nhân luật, đã đƣợc
đào tạo nghề luật sƣ, đã qua thời gian tập sự hành nghề luật sƣ, có sức khoẻ bảo
đảm hành nghề luật sƣ thì có thể trở thành luật sƣ, đã đƣợc cấp chứng chỉ hành nghề
luật sƣ và gia nhập một Đoàn Luật sƣ (Điều 10 và Điều 11 Luật Luật sƣ).
Luật sƣ đƣợc lựa chọn hình thức để hành nghề theo một trong hai hình thức
là hành nghề trong tổ chức hành nghề luật sƣ hoặc hành nghề với tƣ cách cá nhân
(Điều 23 Luật Luật sƣ). Đây là quy định mới của luật Luật sƣ năm 2006 sửa đổi bổ
sung 2012 so với quy định của pháp lệnh Luật sƣ năm 2001, quy định này là sự mở
rộng diện các luật sƣ đƣợc tham gia bào chữa trong các vụ án hình sự, qua đó các
luật sƣ không còn bị giới hạn bởi việc phải tham gia vào tổ chức hành nghề luật sƣ
mới có thể thực hiện vai trò ngƣời bào chữa trong vụ án hình sự mà có thể thực hiện
vai trò này ngay cả khi hoạt động dƣới hình thức cá nhân.

10


(b) Ngƣời đại diện hợp pháp của ngƣời bị tạm giữ, bị can, bị cáo
Chủ thể bào chữa thứ hai có tƣ cách của ngƣời bào chữa là ngƣời đại diện
hợp pháp của ngƣời bị tạm giữ, bị can, bị cáo; pháp luật TTHS không quy định cụ
thể ai là ngƣời đại diện hợp pháp của ngƣời bị tạm giữ, bị can, bị cáo; nhƣng có thể
hiểu dựa trên các quy định khác của luật hôn nhân và gia đình và luật dân sự: ngƣời
đại diện hợp pháp của ngƣời bị tam giữ, bị can, bị cáo là bố, mẹ đẻ, bố mẹ nuôi,
ngƣời đỡ đầu, ngƣời giám hộ, anh chị em ruột và những ngƣời khác theo quy định
của pháp luật đối với những trƣờng hợp ngƣời bị tạm giữ, bị can, bị cáo là ngƣời
chƣa thành niên, ngƣời có nhƣợc điểm về thể chất hoặc tinh thần.
BLTTHS năm 2003 quy định “người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị
can, bị cáo là người chưa thành niên và có thể lựa chọn người bào chữa hoặc tự mình

bào chữa cho người bị tạm giam, bị can, bị cáo” [31, Điều 305]. Nhƣ vậy, ngƣời đại
diện hợp pháp của ngƣời bị tạm giữ, bị can, bị cáo nếu không bào chữa cho bị cáo
thì họ cũng có những quyền nhƣ ngƣời bị tạm giữ, bị can, bị cáo, họ tham gia tố
tụng với tƣ cách là ngƣời đại diện hợp pháp, nếu họ tham gia tố tụng với tƣ cách là
ngƣời bào chữa thì họ có quyền và nghĩa vụ nhƣ đối với ngƣời bào chữa.
Ngƣời đại diện hợp pháp của ngƣời bị tạm giữ, bị can, bị cáo nhất thiết phải
là ngƣời đã thành niên; không bị tâm thần; có quốc tịch Việt Nam và cƣ trú tại Việt
Nam, trừ trƣờng hợp pháp luật có quy định khác đối với ngƣời bị tạm giữ, bị can, bị
cáo là ngƣời Việt Nam ở nƣớc ngoài.
(c) Bào chữa viên nhân dân
Bào chữa viên nhân dân là chủ thể bào chữa rất ít khi tham gia bào chữa
trong TTHS vị trí, vai trò của họ trên thực tế cũng hết sức mờ nhạt.
Chức danh Bào chữa viên nhân dân ở nƣớc ta ra đời trên cơ sở Sắc lệnh số
69/SL ngày 08/6/1949, Nghị định số 01/NĐ-VY ngày 12/01/1950 của Bộ Tƣ pháp
quy định rõ tiêu chuẩn đối với Bào chữa viên nhân dân phải: Có quốc tịch Việt
Nam, không phân biệt đàn ông hay đàn bà; Từ 21 tuổi trở lên; có hạnh kiểm tốt,
chƣa can án. Theo đó, cũng qui định những trƣờng hợp không đƣợc cử làm Bào
chữa viên nhân dân để tránh tình trạng xét xử không vô tƣ, bảo đảm quyền và lợi

11


ích hợp pháp của bị can, bị cáo: Các nhân viên Ủy ban kháng chiến khu hay tỉnh,
Thẩm phán xử án hay buộc tội, các Lục sự và Thƣ ký thuộc quản hạt Tòa án đang
xét xử, các Trƣởng ty, Phó Trƣởng ty Công an thuộc tỉnh mà việc của đƣơng sự
đang mang ra xét xử. Trong suốt thời gian dài (từ năm 1949 đến năm 1987) Bào
chữa viên nhân dân đã giữ một vai trò quan trọng trong TTHS.
Tuy nhiên, kể từ khi Pháp lệnh tổ chức luật sƣ ban hành năm 1987 và sau
này là quy định tại khoản 3 - mục III Thông tƣ của Bộ Tƣ pháp số 313 – TT/LS
ngày 15/4/1989 Hƣớng dẫn thực hiện quy chế đoàn luật sƣ thì Bào chữa viên nhân

dân gần nhƣ chỉ tồn tại trên “phƣơng diện pháp lý”.
Khi BLTTHS năm 2003 ra đời mới có một số quy định rõ ràng hơn về Bào
chữa viên nhân dân, theo đó thủ tục cử Bào chữa viên nhân dân nhƣ sau:
“Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức thành viên của mặt trận tổ
quốc có quyền cử bào chữa viên nhân dân để bào chữa cho ngƣời bị tạm giam, bị
can, bị cáo là thành viên của tổ chức mình” [31, Điều 57].
Mặc dù hoạt động bào chữa của Bào chữa viên nhân dân chỉ mang tính chất
nghiệp dƣ nhƣng khi tham gia tố tụng với tƣ cách là ngƣời bào chữa, họ vẫn có đầy
đủ các quyền và nghĩa vụ mà pháp luật quy định chung cho ngƣời bào chữa.
(d) Trợ giúp viên pháp lý trong trƣờng hợp ngƣời bị buộc tội thuộc đối
tƣợng đƣợc trợ giúp pháp lý
Trợ giúp viên pháp lý là chủ thể bào chữa đƣợc pháp luật TTHS bổ sung để
phù hợp với quy định của Luật Trợ giúp pháp lý nhằm bảo đảm quyền bào chữa cho
những đối tƣợng yếu thế trong xã hội. Luật Trợ giúp pháp lý đã ra đời từ năm 2006
nhƣng địa vị pháp lý của Trợ giúp viên vẫn chƣa đƣợc ghi nhận với tƣ cách là ngƣời
bào chữa, điều này đã gây ra nhiều khó khăn cho Trợ giúp viên pháp lý trong việc
tham gia tố tụng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho ngƣời bị tạm giữ, bị can,
bị cáo là đối tƣợng đƣợc trợ giúp pháp lý.
Với tính chất là một hoạt động bổ trợ tƣ pháp, hoạt động Trợ giúp pháp lý đã
góp phần nâng cao trình độ hiểu biết pháp luật trong nhân dân, góp phần giữ vững
ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội, tạo cơ chế hữu hiệu thực thi nguyên tắc bình

12


đẳng giữa các công dân trƣớc pháp luật không phân biệt vị thế xã hội. Đồng thời,
hoạt động tham gia tố tụng của Trợ giúp viên pháp lý còn góp phần xác định sự thật
khách quan của vụ việc đƣợc chính xác, tránh làm oan ngƣời vô tội, để lọt tội phạm,
giúp các CQTHTT giải quyết công việc công bằng và đúng pháp luật; góp phần tích
cực thực hiện cải cách tƣ pháp, mở rộng điều kiện để thực hiện nguyên tắc tranh

tụng trƣớc toà, bảo đảm cho ngƣời nghèo, đối tƣợng chính sách, ngƣời già cô đơn,
dân tộc thiểu số,... không có điều kiện thuê luật sƣ cũng đƣợc Trợ giúp viên pháp lý
bảo vệ, bào chữa quyền và lợi ích hợp pháp miễn phí cho họ trƣớc các CQTHTT.
Nhìn chung, hoạt động tham gia tố tụng của Trợ giúp viên pháp lý gần giống
nhƣ của luật sƣ nhƣng cũng có một số điểm khác nhau cơ bản nhƣ: Thứ nhất, luật
sƣ thực hiện hoạt động tố tụng cho nhiều đối tƣợng, trong khi đó, đối tƣợng của Trợ
giúp viên pháp lý thu hẹp chỉ những ngƣời thuộc diện đƣợc Trợ giúp pháp lý theo
pháp luật Trợ giúp pháp lý mới đƣợc hƣởng dịch vụ pháp lý này. Thứ hai, luật sƣ
thực hiện hoạt động tố tụng ở tất cả các lĩnh vực, còn Trợ giúp viên pháp lý thực
hiện hoạt động tố tụng ở các lĩnh vực, trừ lĩnh vực kinh doanh, thƣơng mại. Thứ
ba, hoạt động tham gia tố tụng của luật sƣ là hoạt động có thu phí, còn hoạt động
tham gia tố tụng của Trợ giúp viên pháp lý là hoạt động miễn phí. Tuy nhiên sự
khác nhau này là do quy định của pháp luật và xuất phát từ tính chất miễn phí, bản
chất nhân đạo của hoạt động Trợ giúp pháp lý chứ không phải do trình độ, chuyên
môn nghiệp vụ của đội ngũ Trợ giúp viên pháp lý.
Tóm lại, dù chủ thể của ngƣời bào chữa là Luật sƣ, ngƣời đại diện hợp pháp
của ngƣời bị tạm giữ, bị can, bị cáo, bào chữa viên nhân dân hay trợ giúp viên pháp
lý thì mục đích chung của sự tham gia của ngƣời bào chữa trong TTHS vẫn là nhằm
“chứng minh người bị tạm giữ, bị can, bị cáo vô tội hoặc giảm nhẹ trách nhiệm
hình sự, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của họ, góp phần đảm bảo pháp chế
xã hội chủ nghĩa” [1, tr.3].
1.1.2. Quyền của người bào chữa và cơ chế bảo đảm quyền của người bào
chữa trong tố tụng hình sự
1.1.2.1. Quyền của người bào chữa trong tố tụng hình sự
Nghiên cứu về quyền của ngƣời bào chữa trƣớc hết chúng ta cần hiểu rõ

13


đƣợc khái niệm “quyền của người bào chữa”. Xét dƣới góc độ ngôn ngữ học,

“quyền” đƣợc hiểu là điều mà pháp luật hoặc xã hội công nhận cho đƣợc hƣởng,
đƣợc làm, đƣợc đòi hỏi [26, tr. 786], dƣới góc độ pháp lý: Quyền là những việc mà
một ngƣời đƣợc làm mà không bị ai ngăn cản, hạn chế [6, tr.395- 396]. Khi tham
gia tố tụng, các chủ thể đƣợc pháp luật ghi nhận một số quyền năng pháp lý nhất
định và đƣợc bảo đảm thực hiện bằng các cách thức, phƣơng tiện, biện pháp khác
nhau tùy thuộc vào mục tiêu của các hoạt động tố tụng [41, tr.13-14]. Trên cơ sở
nghiên cứu các vấn đề lý luận về quyền bào chữa và ngƣời bào chữa ở trên, có thể
hiểu về quyền của ngƣời bào chữa nhƣ sau: Quyền của người bào chữa là những
hoạt động, biện pháp, cách thức mà pháp luật cho phép người bào chữa được thực
hiện nhằm chứng minh người bị tạm giữ, bị can, bị cáo vô tội hoặc giảm nhẹ trách
nhiệm hình sự, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của họ, góp phần bảo đảm
pháp chế xã hội chủ nghĩa.[15, Tr.22]
Theo quy định tại Điều 58 BLTTHS năm 2003, ngƣời bào chữa đƣợc pháp
luật ghi nhận những quyền sau:
Thứ nhất, quyền có mặt khi lấy lời khai của ngƣời bị tạm giữ, khi hỏi cung bị
can và nếu Điều tra viên đồng ý thì đƣợc hỏi ngƣời bị tạm giữ, bị can và có mặt
trong những hoạt động điều tra khác; xem các biên bản về hoạt động tố tụng có sự
tham gia của mình và các quyết định tố tụng liên quan đến ngƣời mà mình bào
chữa. Việc ngƣời bào chữa đƣợc quyền có mặt trong các hoạt động điều tra có ý
nghĩa quan trọng. Khi có mặt ngƣời bào chữa, ngƣời bị tạm giữ, bị can, bị cáo sẽ ổn
định về mặt tâm lý hơn, những ngƣời tiến hành các hoạt động điều tra thận trọng,
tuân thủ pháp luật hơn. Ngƣời bào chữa theo dõi đƣợc quá trình điều tra và tình
hình chứng cứ điều đó có ý nghĩa rất lớn cho việc chuẩn bị lời bào chữa và tham gia
tranh tụng của họ sau này tại phiên tòa. Ngƣời bào chữa có quyền hỏi ngƣời bị tạm
giữ, bị can khi điều tra viên đồng ý để làm sáng tỏ những tình tiết có lợi cho ngƣời
bị tạm giữ, bị can. Khi tham gia các hoạt động điều tra, xem các biên bản về hoạt
động tố tụng có sự tham gia của mình và các quyết định tố tụng liên quan đến ngƣời
mà mình bào chữa, nếu phát hiện những vi phạm pháp luật, ngƣời bào chữa có
quyền khiếu nại đến cơ quan có thẩm quyền.


14


Thứ hai, quyền đề nghị CQĐT báo trƣớc về thời gian địa điểm hỏi cung bị
can để có mặt khi hỏi cung bị can. Quy định quyền này nhằm tạo điều kiện để ngƣời
bào chữa có thể chủ động sắp xếp thời gian để thực hiện quyền có mặt trong các lần
hỏi cung mà mình thấy cần thiết. Tuy nhiên, BLTTHS năm 2003 chỉ quy định
ngƣời bào chữa có quyền “đề nghị” nhƣng lại không quy định trách nhiệm của
CQĐT trong việc thông báo về thời gian, địa điểm lấy lời khai ngƣời bị tạm giữ, hỏi
cung bị can. Do đó, trên thực tế ngƣời bào chữa cũng gặp rất nhiều khó khăn để
thực hiện đƣợc quyền này.
Thứ ba, quyền đề nghị thay đổi ngƣời tiến hành tố tụng, ngƣời giám định,
ngƣời phiêm dịch nếu có căn cứ theo luật định và xét thấy việc những ngƣời này
tiến hành hoặc tham gia tố tụng có thể ảnh hƣởng không tốt tới quyền và lợi ích hợp
pháp của ngƣời mà mình bào chữa. Thực hiện quyền này sẽ góp phần bảo đảm sự
vô tƣ, khách quan trong quá trình giải quyết vụ án, bảo đảm cho những quyết định
có liên quan đến quyền, lợi ích hợp pháp của ngƣời bị tạm giữ, bị can, bị cáo đƣợc
chính xác, công bằng.
Thứ tƣ, quyền thu thập tài liệu, đồ vật và tình tiết liên quan đến việc bào
chữa từ ngƣời bị tạm giữ, bị can, bị cáo, ngƣời thân thích của những ngƣời này hoặc
từ cơ quan tổ chức, cá nhân theo yêu cầu của ngƣời bị tạm giữ, bị can, bị cáo nếu
không thuộc bí mật nhà nƣớc, bí mật công tác. Muốn bào chữa tốt cho thân chủ của
mình ngƣời bào chữa không chỉ dựa vào những chứng cứ, tài liệu do CQĐT thu
thập đƣợc, làm nhƣ vậy sẽ bị ảnh hƣởng của kết quả điều tra mà CQĐT đƣa ra hoặc
kết luận. Vì vậy ngƣời bào chữa phải có quyền tự mình thu thập tài liệu, đồ vật.
Việc pháp luật ghi nhận quyền này đã giúp ngƣời bào chữa chủ động hơn trong việc
tìm ra những chứng cứ có lợi cho thân chủ của mình. Đây cũng có thể coi là quyền
phục vụ cho các quyền khác của ngƣời bào chữa nhƣ quyền gặp ngƣời bị tạm giữ,
bị can, bị cáo; quyền đề nghị đƣợc gặp cơ quan, tổ chức, cá nhân để thu thập tài
liệu, đồ vật. BLTTHS năm 2003 cũng đã quy định về phạm vi, cách thức tiến hành

thu thập tài liệu, đồ vật tình tiết liên quan đến việc bào chữa của ngƣời bào chữa.
Nếu những đồ vật, tài liệu mà ngƣời bào chữa thu thập đƣợc bảo đảm tính khách

15


quan, hợp lí của chứng cứ thì nhất định nó cũng đƣợc coi nhƣ chứng cứ có giá trị
chứng minh trong vụ án.
Thứ năm, quyền đƣa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu trong qua trình tham gia bào
chữa. Ngƣời bào chữa có quyền đƣa ra đồ vật, tài liệu yêu cầu theo hƣớng có lợi
cho ngƣời bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Ngƣời bào chữa cũng có quyền đƣa ra yêu cầu
nhƣ triệu tập thêm ngƣời làm chứng, trƣng cầu giám định nếu xét thấy điều đó là có
lợi cho ngƣời đƣợc bào chữa. CQTHTT phải tôn trọng quyền đƣa ra tài liệu, đồ vật,
yêu cầu của ngƣời bào chữa. BLTTHS năm 2003 cũng quy định trách nhiệm của
CQTHTT phải trả lời cho ngƣời bào chữa biết về việc giải quyết những yêu cầu của
ngƣời bào chữa [31, Điều 122].
Thứ sáu, quyền gặp ngƣời bị tạm giữ; bị can, bị cáo đang bị tạm giam. Ngƣời
bào chữa phải có sự gặp gỡ, trao đổi, tiếp xúc với ngƣời bị tạm giữ, bị can, bị cáo để
có thể nắm đƣợc đầy đủ các tình tiết của vụ án, các đặc điểm nhân thân và diễn biến
tâm lí, tâm tƣ, nguyện vọng của ngƣời bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Giải thích những
vấn đề về pháp luật và cũng có thể tác động đến ngƣời bị tạm giữ, bị can, bị cáo làm
cho họ có thái độ khai báo tốt hơn để làm căn cứ giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, qua
đó thu thập đƣợc những tình tiết gỡ tội, giảm nhẹ tội đồng thời có kế hoạch và
chuẩn bị bản luận cứ bào chữa tại phiên tòa để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
cho đối tƣợng bào chữa một cách tốt nhất.
Thứ bảy, quyền đƣợc đọc, ghi chép và sao chụp những tài liệu trong hồ sơ vụ
án liên quan đến việc bào chữa sau khi kết thúc điều tra. Việc ghi nhận quyền đọc,
ghi chép hồ sơ vụ án, giúp ngƣời bào chữa nắm đƣợc nội dung vụ án, nắm đƣợc
những chứng cứ buộc tội cũng nhƣ gỡ tội đối với ngƣời đƣợc bào chữa, trên cơ sở
đó ngƣời bào chữa chuẩn bị cho việc bào chữa, tham gia tố tụng tại phiên tòa. Bên

cạnh đó, việc đọc hồ sơ, tài liệu vụ án cũng tạo điều kiện cho ngƣời bào chữa phát
hiện những sai lầm, thiếu sót, vi phạm pháp luật trong quá trình điều tra trên cơ sở
đó đƣa ra những yêu cầu, khiếu nại cần thiết đối với cơ quan có thẩm quyền.
Thứ tám, quyền tham gia hỏi và tranh luận dân chủ tại phiên tòa trong giai
đoạn xét xử. Tại phiên tòa xét xử, vai trò của ngƣời bào chữa đƣợc thể hiện rõ nét

16


nhất. Ngƣời bào chữa có quyền hỏi bị cáo và những ngƣời khác về những vấn đề
của vụ án để có đƣợc những câu trả lời theo hƣớng có lợi cho bị cáo. Khi tranh luận
ngƣời bào chữa phải phân tích, lập luận, đƣa ra những lí lẽ để bảo vệ bị cáo và bác
bỏ những lời buộc tội bị cáo. BLTTHS năm 2003 đã sửa đổi, bổ sung những quy
định về tranh luận, xét hỏi, đối đáp tại phiên tòa; tăng cƣờng tranh luận dân chủ
giữa VKS và ngƣời bào chữa. Đây là những quy định tiến bộ, thể hiện sự bình đẳng,
dân chủ của ngƣời bào chữa trƣớc các CQTHTT, phù hợp với tinh thần cải cách tƣ
pháp, góp phần tăng cƣờng yếu tố tranh tụng tại phiên tòa, bảo đảm tính khách
quan, dân chủ và minh bạch trong việc xác minh chứng cứ tại phiên tòa.
Thứ chín, quyền khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, ngƣời có
thẩm quyền tiến hành tố tụng. Quy định ngƣời bào chữa có quyền này bảo đảm cho
các hoạt động tố tụng đƣợc khách quan và toàn diện, không thể thiếu đƣợc sự giám
sát, kiểm tra đối với các quyết định cũng nhƣ hành vi tố tụng của các CQTHTT.
Quy định này là sự cụ thể hóa nguyên tắc bảo đảm quyền khiếu nại, tố cáo trong
TTHS tại Điều 31 BLTTHS năm 2003, dẫn chiếu tới một chƣơng mới để quy định
điều này, đó là chƣơng XXV về quyền khiếu nại trong tố cáo trong TTHS.
Cuối cùng là quyền kháng cáo bản án, quyết định của Tòa án nếu bị cáo là
ngƣời chƣa thành niên hoặc có nhƣợc điểm về tâm thần hoặc thể chất quy định tại
điểm b Khoản 2 Điều 57 của BLTTHS năm 2003. Đây là quyền độc lập của ngƣời
bào chữa, ngƣời bào chữa kháng cáo không phụ thuộc ý chí của bị cáo cũng nhƣ đại
diện hợp pháp của bị cáo. Kháng cáo của ngƣời bào chữa phải có lợi cho bị cáo.

Bằng việc quy định quyền của ngƣời bào chữa trong TTHS đã góp phần đề
cao vị trí, vai trò của ngƣời bào chữa trong TTHS, tạo điều kiện cho ngƣời bào chữa
đƣợc tham gia một cách bình đẳng, dân chủ với các CQTHTT, tránh sự lạm quyền
từ phía các CQTHTT, giúp giải quyết vụ án một cách khách quan, công minh, chính
xác, đúng pháp luật, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho ngƣời đƣợc bào chữa.
1.1.2.2. Cơ chế bảo đảm quyền của người bào chữa
“Khi tham gia tố tụng, các chủ thể đƣợc pháp luật ghi nhận một số quyền năng
pháp lý nhất định và đƣợc bảo đảm thực hiện bằng các cách thức, phƣơng tiện, biện

17


pháp khác nhau tùy thuộc vào mục tiêu của các hoạt động tố tụng” [45, tr.13-14]. Các
quyền năng của ngƣời bào chữa đƣợc pháp luật TTHS bảo đảm bằng các cơ chế
khác nhau nhƣ bảo đảm bằng quy định của pháp luật, bảo đảm từ phía CQTHTT và
các tổ chức liên quan và bảo đảm qua cơ chế giám sát hoạt động bảo đảm quyền của
ngƣời bào chữa.
Thứ nhất, bảo đảm bằng quy định pháp luật
Sự ghi nhận của pháp luật chính là cơ chế bảo đảm đầu tiên và cũng là sự bảo
đảm cao nhất của nhà nƣớc đối với những những quyền năng đã trao cho ngƣời bào
chữa. Pháp luật TTHS ghi nhận nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa là một trong
những nguyên tắc quan trọng đồng thời quy định quyền bào chữa là một trong những
quyền cơ bản của ngƣời bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Bên cạnh đó, pháp luật cũng quy
định cụ thể những quyền của ngƣời bào chữa để trên cơ sở đó, ngƣời bào chữa có thể
thực hiện tốt những chức năng của mình khi tham gia TTHS. Những quyền của ngƣời
bào chữa đƣợc pháp luật ghi nhận tại Điều 58 không chỉ là quyền mà còn là biện pháp
quan trọng để ngƣời bào chữa bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của ngƣời bị buộc tội.
Trong BLTTHS không có điều luật cụ thể quy định nghĩa vụ bảo đảm quyền
của ngƣời bào chữa của các CQTHTT nhƣng lại có một điều luật riêng quy định
quyền và nghĩa vụ của ngƣời bào chữa. Thông qua việc phân tích các quyền, ta có

thể thấy đƣợc trách nhiệm tƣơng ứng của các CQTHTT trong việc thực hiện những
nghĩa vụ nhằm bảo đảm cho những quyền năng của ngƣời bào chữa đƣợc thực hiện
theo quy định của pháp luật.
Thứ hai, bảo đảm từ phía CQTHTT và các tổ chức liên quan
Trách nhiệm bảo đảm quyền bào chữa của ngƣời bị tạm giữ, bị can, bị cáo
nói chung gắn liền với nhiệm vụ các CQTHTT và ngƣời tiến hành tố tụng. Sự bảo
đảm từ chính các CQTHTT chính là sự bảo đảm cần thiết nhất để những quy định
của pháp luật đƣợc đƣa vào thực tiễn. Để làm đƣợc điều này đòi hỏi mỗi CQTHTT
cần có các biện pháp để mỗi cán bộ tiến hành tố tụng nhận thức đƣợc trách nhiệm
của mình đối với việc bảo đảm quyền của ngƣời bào chữa là góp phần bảo đảm tính
khách quan của vụ án và bảo đảm pháp chế. Ngoài ra, việc thƣờng xuyên kiểm tra

18


×