Tải bản đầy đủ (.pdf) (97 trang)

Địa vị pháp lý của thẩm phán trong tố tụng hình sự việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.15 MB, 97 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN THỊ HẢI YẾN

§ÞA VÞ PH¸P Lý CñA THÈM PH¸N
TRONG Tè TôNG H×NH Sù VIÖT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2017


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN THỊ HẢI YẾN

§ÞA VÞ PH¸P Lý CñA THÈM PH¸N
TRONG Tè TôNG H×NH Sù VIÖT NAM
Chuyên ngành: Luật hình sự và Tố tụng hình sự
Mã số: 60 38 01 04

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS ĐỖ THỊ PHƯỢNG

HÀ NỘI - 2017


LỜI CAM ĐOAN


Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong
bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã
hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN

Nguyễn Thị Hải Yến


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1: LÝ LUẬN VÀ QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT MỘT SỐ
NƯỚC VỀ ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA THẨM PHÁN TRONG
TỐ TỤNG HÌNH SỰ .......................................................................... 7
1.1.

Khái niệm địa vị pháp lý của Thẩm phán trong Tố tụng hình sự ...... 7

1.2.

Vai trò và mối quan hệ của Thẩm phán trong Tố tụng hình sự ..... 11


1.2.1. Vai trò của Thẩm phán trong Tố tụng hình sự ................................... 11
1.2.2. Mối quan hệ của Thẩm phán trong tố tụng hình sự............................ 13
1.3.

Một số nguyên tắc cơ bản về địa vị của Thẩm phán trong Tố
tụng hình sự ....................................................................................... 16

1.3.1. Nguyên tắc “không ai bị coi là có tội khi chưa có bản kết tội của
Tòa án đã có hiệu lực pháp luật” ........................................................ 17
1.3.2. Nguyên tắc “khi xét xử Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ
tuân theo pháp luật” ............................................................................ 19
1.3.3. Nguyên tắc “tòa án xét xử tập thể và quyết định theo đa số” ............ 23
1.4.

Địa vị pháp lý của Thẩm phán trong pháp luật tố tụng hình
sự một số nước trên thế giới ............................................................ 24

1.4.1. Địa vị pháp lý của Thẩm phán trong Bộ luật tố tụng hình sự Liên
bang Nga ............................................................................................. 24
1.4.2. Địa vị pháp lý của Thẩm phán trong Bộ luật tố tụng hình sự
Cộng hòa Pháp .................................................................................... 28


1.4.3. Địa vị pháp lý của Thẩm phán trong Luật Tố tụng hình sự của
nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa.................................................. 31
Kết luận chương 1 ......................................................................................... 35
Chương 2: QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ
VIỆT NAM VỀ ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA THẨM PHÁN VÀ
THỰC TIỄN ÁP DỤNG .................................................................. 36

2.1.

Quy định của pháp luật Tố tụng Hình sự Việt Nam về địa vị
pháp lý của Thẩm phán..................................................................... 36

2.1.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1988 ............................................... 36
2.1.2. Giai đoạn từ năm 1988 đến trước khi Bộ luật Tố tụng Hình sự
năm 2003 có hiệu lực.......................................................................... 39
2.1.3. Địa vị pháp lý của Thẩm phán trong Bộ luật Tố tụng hình sự 2003 ....... 43
2.1.4. Những điểm mới của Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 về địa vị
pháp lý của Thẩm phán....................................................................... 49
2.2.

Thực tiễn áp dụng các quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự
hiện hành về địa vị pháp lý của Thẩm phán .................................. 51

2.2.1. Những kết quả đạt được và nguyên nhân ........................................... 51
2.2.2. Những hạn chế và nguyên nhân của hạn chế ..................................... 55
Kết luận chương 2 ......................................................................................... 64
Chương 3: NHỮNG GIẢI PHÁP VỀ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT
VÀ NÂNG CAO ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA THẨM PHÁN
TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM................................... 65
3.1.

Hoàn thiện các quy định của Bộ luật tố tu ̣ng Hình sự Việt
Nam về địa vị pháp lý của Thẩm phán ........................................... 65

3.1.1. Sự cần thiết của việc hoàn thiện các quy định của Bộ luật tố tu ̣ng
Hình sự Việt Nam về địa vị pháp lý của Thẩm phán ......................... 65
3.1.2. Hoàn thiện các quy định của Bộ luật tố tu ̣ng Hình sự Việt Nam

về địa vị pháp lý của Thẩm phán ........................................................ 69


3.2.

Một số giải pháp nhằm nâng cao địa vị pháp lý của thẩm
phán trong Tố tụng hình sự ............................................................. 74

3.2.1. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác xét xử của Tòa
án là nhân tố quan trọng trong việc nâng cao địa vị pháp lý của
Thẩm phán ........................................................................................... 74
3.2.2. Tăng cường giám sát của cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội, của
nhân dân đối với hoạt động xét xử ..................................................... 75
3.2.3. Đổi mới công tác tổ chức cán bộ ........................................................ 76
3.2.4. Nâng cao trách nhiệm phối hợp giữa Thẩm phán và Hội thẩm
trong hoạt động xét xử ........................................................................ 79
3.2.5. Tăng cường cơ sở vật chất cho ngành Tòa án .................................... 82
Kết luận chương 3 ......................................................................................... 85
KẾT LUẬN .................................................................................................... 86
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 88


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong nhà nước pháp quyền, Tòa án được nhắc tới với tư cách là cơ
quan thực thi quyền tư pháp. Hoạt động của Tòa án luôn luôn được quan tâm
và đổi mới nhằm đảm bảo xét xử đúng người, đúng tội, tránh làm oan người
vô tội. Điều này đã được nhấn mạnh tại Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày
02/6/2005 của Bộ chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, theo
đó: “Đổi mới việc tổ chức phiên tòa xét xử, xác định rõ hơn vị trí, quyền hạn,

trách nhiệm của người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng theo hướng
bảo đảm tính công khai, dân chủ, nghiêm minh; nâng cao chất lượng tại các
phiên tòa xét xử, coi đây là khâu đột phá của hoạt động tư pháp”. Đại hội
Đảng toàn quốc lần thứ X khẳng định nhiệm vụ: “Cải cách tư pháp khẩn
trương, đồng bộ, lấy cải cách hoạt động xét xử làm trung tâm,...” [10, tr.127].
Cùng với việc đổi mới toàn diện tổ chức và hoạt động của Tòa án thì việc xây
dựng, kiện toàn và nâng cao chất lượng đội ngũ thẩm phán là một nhiệm vụ
trọng tâm, Nghị quyết số 08- NQ/TW và Nghị quyết số 49- NQ/TW của Bộ
chính trị đã yêu cầu: “Rà soát đội ngũ cán bộ tư pháp để xây dựng đội ngũ cán
bộ tư pháp trong sạch vững mạnh” [2], “Xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp, bổ
trợ tư pháp, nhất là cán bộ có chức danh tư pháp, theo hướng đề cao quyền
hạn, trách nhiệm pháp lý, nâng cao và cụ thể hóa tiêu chuẩn về chính trị,
phẩm chất, đạo đức, chuyên môn nghiệp vụ và kinh nghiệm, kiến thức xã hội
đối với từng loại cán bộ” và “Đào tạo đủ số lượng cán bộ tư pháp có trình độ
nghiệp vụ và ngoại ngữ chuyên sâu về lĩnh vực tư pháp quốc tế nhằm bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp của Nhà nước, tổ chức, công dân Việt Nam, đáp ứng
yêu cầu hội nhập quốc tế và khu vực”…. Trong những năm qua ngành Tòa án
nhân dân đã không ngừng lớn mạnh. Song song với việc triển khai thực hiện

1


tốt các nhiệm vụ chuyên môn, lãnh đạo ngành Tòa án nhân dân rất chú trọng
tới công tác kiện toàn tổ chức và xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, đội ngũ
Thẩm phán, đảm bảo về chất lượng cũng như số lượng, đáp ứng yêu cầu
nhiệm vụ chính trị của ngành và của các địa phương. Tuy nhiên, quá trình này
diễn ra còn chậm, chưa đồng bộ và toàn diện, hoạt động xét xử của Toà án
chưa đáp ứng yêu cầu của cải cách tư pháp. Chất lượng xét xử của Tòa án
nhân dân các cấp vẫn còn thấp, tình trạng xét xử oan sai, án tồn đọng kéo dài
vẫn còn chiếm tỷ lệ cao. Bên cạnh đội ngũ Thẩm phán vừa thiếu về số lượng

vừa yếu về chất lượng, cơ sở vật chất, phương tiện làm việc của cơ quan tư
pháp còn thiếu thốn, nghèo nàn và lạc hậu. Những tồn tại trên đã được chỉ rõ
trong Báo cáo chính trị của Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá X tại Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI: “Chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức
chưa đáp ứng được yêu cầu cả về phẩm chất và năng lực, quá trình cải cách tư
pháp còn chậm, chưa đồng bộ.
Công tác điều tra, giam giữ, truy tố, xét xử trong một số trường hợp
chưa chính xác, án tồn đọng, án bị huỷ, bị sửa còn nhiều” [10].
Đứng trước yêu cầu xây dựng và kiện toàn đội ngũ cán bộ, công chức,
Thẩm phán ngành Tòa án nhân dân trong sạch vững mạnh, đáp ứng yêu cầu
hoàn thành nhiệm vụ chính trị trong tình hình hiện nay, đòi hỏi phải tiếp tục có
sự nghiên cứu sâu sắc hơn để có các giải pháp thiết thực. Vì vậy, em đã chọn
đề tài: “Địa vị pháp lý của Thẩm pháp trong tố tụng hình sự Việt Nam” để
làm luận văn tốt nghiệp cao học.
2 . Tình hình nghiên cứu
Đề tài liên quan đến địa vị pháp lý của thẩm phán trong tố tụng hình sự
Việt Nam đã thu hút sự chú ý của không ít các ho ̣c giả , nhà nghiên cứu. Qua
tìm hiểu, hiê ̣n nay có mô ̣t số công trình nghiên cứu về chế định Thẩm phán
dưới đạng sách chuyên khảo: GS.TSKH Lê Cảm (2003) “Nguyên tắc tranh

2


tụng trong hệ thống các nguyên tắc cơ bản của Luật tố tụng hình sự”, Tạp chí
luật học. GS.TSKH Lê Cảm (chủ biên) “Hệ thống tư pháp hình sự trong giai
đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền" Sách chuyên khảo, Khoa Luật Đại học
Quốc gia Hà Nội, Nxb Đại học Quốc Gia Hà Nội 2009. PGS. TS Võ Khánh
Vinh (2007) "Bình luận khoa học Bộ luật tố tụng hình sự". Nxb Công an nhân
dân…. Bên cạnh đó còn có các công trình nghiên cứu dưới dạng bài viết đăng
trên các tạp chí khoa học về hoạt động thực tiễn của Thẩm phán của các nhà

làm công tác thực tiễn: “Tăng cường tính độc lập của các Thẩm phán trong
hoạt động xét xử ở Việt Nam” Cổng thông tin điện tử Đoàn Luật sư thành phố
Hồ Chí Minh; Tiến sĩ Trần Thu Hạnh (2009) “Một số giải pháp nâng cao vị thế
của đội ngũ Thẩm phán trong tố tụng hình sự đáp ứng yêu cầu cải cách tư
pháp” Tạp chí khoa học Đại học Quốc gia Hà Nội, Luật học 25-2009; Nguyễn
Quang Lộc - Nguyên Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao “Kỹ năng viết Bản
án hình sự sơ thẩm”. Tạp chí Tòa án nhân dân – Tòa án nhân dân Tối cao số
17, tháng 9/2014… . Các công trình dưới dạng luận văn thạc sĩ như: "Địa vị
pháp lý của Chánh án, Phó chánh án Tòa án nhân dân, Thẩm phán, Thư ký
Tòa án và Hội thẩm nhân dân trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam" Nguyễn Thị Hằng; Nghiên cứu Mô hình nhân cách Thẩm phán trong hoạt động
xét xử - Luận văn tiến sĩ Bùi Kim Chi; Cơ sở khoa học của việc xây dựng đội
ngũ thẩm phán ở Việt Nam hiện nay - Đỗ Gia Thư; Chế định thẩm phán trong
tố tụng hình sự - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn - Trần Thu Trang; vai trò
của Thẩm phán trong tố tụng hình sự Việt Nam - Hà Duy Hiển……
Tuy nhiên, có thể thấy rằng, trong số các công trình kể trên, có một số
công trình nghiên cứu được tiến hành cách đây khá lâu, dẫn tới hệ quả là giá
trị về mặt lý luận cũng như thực tiễn sẽ có phần hạn chế. Mặt khác, có những
công trình nghiên cứu lại chỉ thiên về mặt lý luận như: khái niệm, lịch sử hình
thành và phát triển… của các quy định có liên quan tới đề tài này mà chưa

3


gắn nó với thực tiễn xét xử, hoặc nghiên cứu đề tài trên cơ sở Bộ luật tố tụng
Hình sự năm 2003 mà chưa có công trình nào đề cập tới các quy định tương
ứng tại Bộ luật tố tụng Hình sự năm 2015.
3. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là: Là các quy phạm của pháp luật
về địa vị pháp lý của thẩm phán trong tố tụng hình sự Việt Nam.
4. Phạm vi nghiên cứu

Địa vị pháp lý của Thẩm phán trong hoạt động tố tụng hình sự được thể
hiện ở tất cả các giai đoạn xét xử như: giai đoạn xét xử sơ thẩm, phúc thẩm,
giám đốc thẩm, tái thẩm. Phạm vi nghiên cứu về địa vị pháp lý của Thẩm
phán trong hoạt động tố tụng ở tất cả các giai đoạn trên có tính chất đa dạng,
phức tạp và rộng lớn và được nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác nhau. Tuy
nhiên bản thân tác giả hiện không công tác trong ngành Tòa án vì vậy trong
quá trình nghiên cứu viết Luận văn do nhận thức trong công tác nghiên cứu
còn có mặt hạn chế, nên tác giả chỉ giới hạn trong việc nghiên cứu về địa vị
pháp lý của Thẩm phán trong hoạt động tố tụng hình sự Việt Nam chủ yếu ở
giai đoạn xét xử sơ thẩm về các vụ án hình sự.
5. Cơ sở phương pháp luận và các phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở phương pháp luâṇ
Luận văn được thực hiện dựa trên nền tảng cơ sở phương pháp luận chủ
nghĩa duy vật lịch sử và chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các
quan điểm, tư tưởng của Đảng, Nhà nước về Nhà nước và pháp luật, về cải
cách tư pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác xét xử các vụ án hình sự đối
với ngành Tòa án nói chung và Thẩm phán nói riêng.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình tiếp cận và giải quyết những vấn đề mà luận văn đặt ra,
tôi đã sử dụng phương pháp biện chứng duy vật của chủ nghiã Mác

4

- Lênin,


dựa trên đường lối quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về chính sách kinh tế
- xã hội và các nội dung khác có liên quan.
Trong những trường hợp cụ thể, tôi kết hợp sử dụng các phương pháp
nghiên cứu phù hợp như thống kê, so sánh, tổng hợp, phân tích… nhằm kết

hợp nhuần nhuyễn giữa kiến thức lý luận và thực tiễn để góp phần làm sáng tỏ
những vấn đề
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Luận văn là một công trình khoa học ở cấp thạc sĩ luật học đề cập mô ̣t
cách chuyên sâu , đầ y đủ và toàn diê ṇ vấn đề lý luận , thực tiễn về địa vị pháp
lý của Thẩm phán . Luận văn chứa đựng mô ̣t số điể m mới cơ bản về mă ̣t lý
luâ ̣n như sau:
Thứ nhấ t : Nghiên cứu những vấn đề lý luận , pháp lý cơ bản về địa vị
pháp lý của Thẩm phán trong pháp luâ ̣t Tố tu ̣n g hình sự Việt Nam. Có sự đối
chiếu, so sánh để tìm ra điểm mới giữa Bộ luật tố tu ̣ng Hình sự năm 2003 và
Bộ luật tố tu ̣ng Hình sự năm 2015 về vấn đề này.
Thứ hai: Nghiên cứu thực tiễn thi hành các quy đinh
̣ về địa vị pháp lý của
Thẩm phán. Một số tồn tại, vướng mắc và những nguyên nhân của thực trạng này.
Thứ ba: Từ nghiên cứu về lý luận cũng như thực tiễn pháp luật

, kiến

nghị hướng sửa đổi , hoàn thiện pháp luật , nâng cao hiệu quả hoạt động của
Thẩm phán đáp ứng yêu cầ u cải cách tư pháp .
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ là một trong những tài liệu tham
khảo có thể được sử dụng để nghiên cứu , học tập, đồng thời cung cấp những
luận cứ khoa học phục vụ cho công tác lập pháp và hoạt động thực tiễn áp
dụng Bộ luật tố tu ̣ng hình sự Việt Nam liên quan đến vấ n đề về địa vị pháp lý
của Thẩm phán.

5



7. Bố cục luận văn
Ngoài phần mục lục , mở đầ u , kế t thúc, kế t quả luâ ̣n văn bao gồ m các
nô ̣i dung sau đây:
Chương 1: Lý luận và quy định của pháp luật một số nước về địa vị
pháp lý của Thẩm phán trong tố tụng hình sự.
Chương 2: Quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về địa vị
pháp lý của Thẩm phán và thực tiễn áp dụng.
Chương 3: Những giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng hiệu quả áp
dụng các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam về địa vị pháp lý của
Thẩm phán trong Tố tụng Hình sự.

6


Chương 1
LÝ LUẬN VÀ QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT MỘT SỐ NƯỚC
VỀ ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA THẨM PHÁN
TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ
1.1. Khái niệm địa vị pháp lý của Thẩm phán trong Tố tụng hình sự
Việc xây dựng Nhà nước pháp quyền của nhân dân, do nhân dân, vì
nhân dân; tất cả quyền lực thuộc về nhân dân tiếp tục được kế thừa trong Hiến
pháp mới của nước ta. Tư tưởng chủ quyền nhân dân và nguyên tắc tổ chức
thực hiện quyền lực nhà nước tiếp tục được phát triển trong bản Hiến pháp
mới. Nguyên tắc phân công, phối hợp thực hiện quyền lực nhà nước được thể
hiện rõ ràng, rành mạch hơn.
Bằng việc quy định "Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp" (khoản 1 Điều 102),
Hiến pháp 2013 xác định rõ ràng, cụ thể vị trí, vai trò của Tòa án nhân dân
trong bộ máy cơ quan nhà nước. Tòa án nhân dân là cơ quan duy nhất có

quyền ra phán quyết về các vi phạm pháp luật, các tranh chấp theo quy định
của pháp luật và về các vấn đề pháp lý liên quan đến quyền, lợi ích hợp pháp
của tổ chức, cá nhân. Xử lý các vi phạm pháp luật bằng chế tài nhà nước, giải
quyết các tranh chấp bằng quyền lực nhà nước đều thuộc thẩm quyền của Tòa
án. Trong Toà án nhân dân, Thẩm phán là người có vị trí và vai trò then chốt để
thực thi nhiệm vụ tố tụng của Toà án. Hoạt động của Thẩm phán là một trong
những yếu tố quyết định đến chất lượng hoạt động của các cơ quan tư pháp.
Tại Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân năm 2014 đã đưa ra
khái niệm "Thẩm phán là người được bổ nhiệm theo quy định của pháp luật
để làm nhiệm vụ xét xử những vụ án và giải quyết những việc khác thuộc
thẩm quyền của Tòa án" 40, Điều 1].

7


Theo khái niệm trên thì Thẩm phán phải có tiêu chuẩn và được bổ
nhiệm theo thủ tục do pháp luật quy định. Tức là chế độ bổ nhiệm Thẩm phán
được thực hiện đối với Tòa án các cấp. Việc bổ nhiệm Thẩm phán phải do
người có thẩm quyền bổ nhiệm, tương ứng với 3 cấp Tòa án có 3 ngạch Thẩm
phán tương ứng và thẩm quyền bổ nhiệm đối với các ngạch Thẩm phán này
cũng khác nhau. Và để được bổ nhiệm làm Thẩm phán thì cán bộ Tòa án phải
đáp ứng những tiêu chuẩn về bổ nhiệm Thẩm phán do pháp luật quy định.
Chức năng, nhiệm vụ xét xử của Tòa án được thực hiện thông qua hoạt
động xét xử trong đó Thẩm phán làm chủ tọa phiên tòa tham gia vào việc ra
bản án hoặc quyết định nhân danh Nhà nước, thay mặt Hội đồng xét xử tuyên
án hoặc các quyết định tố nhân danh Nhà nước như quyết định đình chỉ xét xử
sơ thẩm, quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm, quyết định trả tự do cho bị cáo
tại phiên tòa...
Trong quá trình giải quyết vụ án, Thẩm phán Chủ tọa phiên tòa được
phân công giải quyết vụ án có thẩm quyền ra các quyết định tố tụng như quyết

định đưa vụ án ra xét xử, quyết định trả hồ sơ, quyết định hoãn phiên tòa...
Bên cạnh đó, Thẩm phán còn tham gia giải quyết vụ án với vai trò là
Thẩm phán - thành viên của Hội đồng xét xử trong trường hợp xét xử theo trình
tự sơ thẩm khi Hội đồng xét xử gồm 5 người hoặc theo trình tự phúc thẩm.
Ngoài nhiệm vụ xét xử, Thẩm phán còn thực hiện các nhiệm vụ khác
thuộc thẩm quyền của Tòa án khi được lãnh đạo phân công. Ví dụ: tham gia
vào Hội đồng giảm án tha tù...
Công việc xét xử của Thẩm phán được coi là một nghề - nghề có tính
đặc thù. Bởi lẽ, chỉ có Tòa án mới có chức năng xét xử. Theo từ điển Tiếng
Việt của Nhà xuất bản văn hóa thông tin, 1994 đã định nghĩa: "nghề là công
việc chuyên làm theo sự phân công lao động của xã hội" [43]. Nghề Thẩm
phán là nghề đại diện cho quyền lực tư pháp, quyền lực nhà nước, là tượng

8


trưng cho khát vọng của mọi tầng lớp, giai cấp trong xã hội về chân, thiện, mỹ
về một hệ thống tiêu chí đạo đức: sống làm người.Thẩm phán nhân danh nhà
nước để đưa ra phán quyết và khi bản án có hiệu lực pháp luật thì tất cả mọi
cơ quan nhà nước, các tổ chức và mọi công dân đều phải chấp hành.
Thẩm phán là một chức danh tư pháp quan trọng không thể thiếu trong
tổ chức Tòa án nói riêng và trong bộ máy nhà nước nói chung và được xác
định là một chức danh tư pháp quan trọng và có ý nghĩa quyết định đến việc
thực hiện quyền tư pháp [32]. Ở nước ta Thẩm phán được coi là một chức
danh từ năm 2002 và được ghi nhận tại Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm
nhân dân năm 2002, còn trước đó về mặt pháp lý Thẩm phán chỉ được coi là
một chức vụ. Đây là một bước ngoặt quan trọng đánh dấu sự thay đổi về nhận
thức khoa học, muốn xây dựng đội ngũ Thẩm phán chuyên nghiệp thì trước
hết phải coi Thẩm phán là một nghề, có vị trí chức danh nhất định trong xã
hội có như vậy Thẩm phán mới có cơ sở điều kiện pháp lý để làm việc và yên

tâm cống hiến, phấn đấu cho sự nghiệp của mình. Ngoài ra, Thẩm phán còn
được coi là công chức nhà nước. Theo Pháp lệnh cán bộ công chức hiện hành,
Thẩm phán được xếp vào ngạch công chức nhà nước được hưởng mọi quyền
lợi, nghĩa vụ và chế độ của công chức nói chung. Vậy địa vị pháp lý của
Thẩm phán được hiểu như thế nào?
Địa vị pháp lý của chủ thể pháp luật là vị trí của chủ thể pháp luật trong
mối quan hệ với chủ thể pháp luật khác trên cơ sở các quy định của pháp luật;
là sự thể hiện thành một tổng thể các quyền và nghĩa vụ pháp lý của chủ thể,
qua đó xác lập cũng như giới hạn khả năng của chủ thể trong các hoạt động
của mình. Thông qua địa vị pháp lý có thể phân biệt chủ thể pháp luật này với
chủ thể pháp luật khác, đồng thời có thể xem xét vị trí và tầm quan trọng của
chủ thể pháp luật trong các mối quan hệ pháp luật.
Theo Đại từ điển tiếng Việt do Nguyễn Như Ý chủ biên thì "địa vị"

9


được hiểu là "vị trí, chỗ xứng đáng với vai trò tác dụng có được hay vị trí chỗ
đứng của cá nhân trong xã hội" [43] .
Thẩm phán thực hiện nghiệp vụ xét xử và có thẩm quyền ra bản án,
quyết định nhân danh Nhà nước. Đó là việc đưa ra các quyết định mang tính
chất bắt buộc chung bằng cách này hay cách khác liên quan đến các quyền và
tự do cơ bản, các lợi ích hợp pháp của công dân, của cơ quan nhà nước, của
các tổ chức xã hội.... . Các nhiệm vụ với những đặc điểm riêng biệt được đội
ngũ Thẩm phán đảm nhiệm đã tạo thành địa vị của các Tòa án, của các Thẩm
phán có sự khác biệt so với địa vị pháp lý của các cơ quan nhà nước với
những người có chức vụ quyền hạn trong các cơ quan đó. Những người Thẩm
phán có các quyền và nghĩa vụ đặc trưng cho họ. Tổng thể các quyền và nghĩa
vụ đó tạo thành cái mà chúng ta gọi là quy chế của Thẩm phán, địa vị pháp lý
của Thẩm phán.

Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân năm 2014, Bộ luật Tố tụng
hình sự hiện hành, Luật Tổ chức Tòa án nhân dân hiện hành đã quy định quyền
và nghĩa vụ riêng biệt của người Thẩm phán phù hợp với nghề nghiệp của Thẩm
phán. Đây là những cơ sở pháp lý và cũng là hành lang pháp lý cho người Thẩm
phán khi thực thi nhiệm vụ của mình được có căn cứ, đúng pháp luật.
Khoản 2, 3, 4, 5 Điều 15 Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm nhân nhân
2002 quy định: Thẩm phán không được: Tư vấn cho bị can, bị cáo, đương sự
hoặc người tham gia tố tụng khác làm cho việc giải quyết vụ án hoặc những
việc khác không đúng quy định của pháp luật; Can thiệp trái pháp luật vào việc
giải quyết vụ án hoặc lợi dụng ảnh hưởng của mình tác động đến người có
trách nhiệm giải quyết vụ án; Đem hồ sơ vụ án hoặc tài liệu trong hồ sơ vụ án
ra khỏi cơ quan, nếu không vì nhiệm vụ được giao hoặc không được sự đồng ý
của người có thẩm quyền; Tiếp bị can, bị cáo, đương sự hoặc người tham gia tố
tụng khác trong vụ án mà mình có thẩm quyền giải quyết ngoài nơi quy định.

10


Xuất phát từ những đặc thù, sự nhạy cảm của công việc xét xử nên Thẩm
phán cũng bị hạn chế bớt quyền hạn của mình khi đương nhiệm như: Thẩm
phán đương nhiệm không được làm luật sư đặc biệt tham gia tranh tụng.
Có thể nói địa vị pháp lý của Thẩm phán trong tố tụng hình sự đã tạo ra
một vị thế riêng biệt cho người Thẩm phán khi thực hiện nghiệp vụ xét xử
cũng như khi giải quyết các công việc khác thuộc thẩm quyền của Tòa án khi
được lãnh đạo phân công.
Như vậy, có thể rút ra khái niệm địa vị pháp lý của Thẩm phán trong
Tố tụng hình sự được hiểu là tổng thể các quy định của pháp luật về vị trí, vai
trò, các nghĩa vụ và quyền hạn được pháp luật trao cho họ khi thực hiện các
hoạt động tố tụng hình sự nhân danh Nhà nước và các hoạt động khác thuộc
thẩm quyền của Tòa án.

1.2. Vai trò và mối quan hệ của Thẩm phán trong Tố tụng hình sự
1.2.1. Vai trò của Thẩm phán trong Tố tụng hình sự
Trong hoạt động xét xử của Tòa án, Thẩm phán là nhân tố cơ bản, có
vai trò chủ yếu trong việc thực hiện chức năng nhiệm vụ của Tòa án. Theo
quy định của pháp luật tố tụng hình sự hiện hành, thì tại phiên toà sơ thẩm
hình sự, Chủ tọa phiên toà vừa là người tiến hành tố tụng vừa là người điều
khiển toàn bộ hoạt động tố tụng tại phiên tòa.
Kết quả xét xử của Toà án là sản phẩm cuối cùng của một quá trình tố
tụng. Chất lượng xét xử có cao hay không phụ thuộc phần lớn vào người
Thẩm phán, phụ thuộc vào chuyên môn nghiệp vụ, kỹ năng điều khiển phiên
toà, kinh nghiệm tích luỹ trong quá trình công tác. Vì sao lại hỏi bị cáo này
trước mà không hỏi bị cáo kia trước, vật chứng nào, nhân chứng nào, những
tình tiết nào trong vụ án có ý nghĩa quyết định đến việc bị cáo có tội hay
không có tội, nếu có tội thì được qui định tại điều khoản nào trong Bộ luật
Hình sự. Tất cả những vấn đề trên đòi hỏi người Thẩm phán phải có kiến

11


thức pháp luật sâu rộng, phải có kinh nghiệm tích luỹ trong quá trình xét
xử các vụ án thì mới làm tốt vị trí, vai trò của mình được. "Cơ sở của các
phán quyết là pháp luật, nhưng kết quả của các phán quyết có công bằng,
vô tư và khách quan hay không đòi hỏi mỗi Thẩm phán phải có cái tâm trong
sáng" [15, tr.38]. Thẩm phán phải có niềm tin nội tâm, đó là niềm tin vào
công lý. Bởi vì, trong quá trình xét xử Thẩm phán cũng sẽ không bao giờ dự
liệu hết được mọi tình huống xảy ra trong thực tế. Có những quy định của
pháp còn xung đột, không thống nhất, song khi xét xử Thẩm phán vẫn phải
đảm bảo nguyên tắc xét xử đúng người, đúng tội và đúng pháp luật. Mỗi phán
quyết của Thẩm phán có thể dẫn tới việc công dân, pháp nhân được hưởng
quyền và lợi ích hoặc phải gánh chịu các hậu quả pháp lý nhất định. Đặc biệt

là trong lĩnh vực hình sự, phán quyết của Thẩm phán dẫn đến hậu quả pháp l
ý vô cùng nghiêm trọng đối với người bị kết án. Sai lầm trong hoạt động xét
xử của Thẩm phán sẽ dẫn đến tình trạng xử oan, sai. Điều này không chỉ ảnh
hưởng đến một cá nhân mà có thể làm giảm lòng tin của quần chúng nhân
dân vào sự công bằng của xã hội, vào pháp luật của Nhà nước ta. Với mọi
người, Toà án không chỉ là bảo vệ pháp luật mà còn là biểu tượng của công
lý, sự công bằng xã hội và trong đó Thẩm phán là trụ cột, là chỗ dựa vững
chắc cho công dân, tổ chức, nhà nước trong việc đấu tranh và phòng chống
tội phạm. Bằng việc xét xử, Thẩm phán cũng góp phần về việc bảo vệ công
lý, bảo vệ quyền con người, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ quyền
làm chủ của nhân dân, bảo vệ tài sản của Nhà nước, của tập thể, bảo vệ tính
mạng, tài sản, tự do, danh dự và nhân phẩm của nhân dân. Cũng như góp
phần to lớn có hiệu quả trong công tác phổ biến tuyên truyền pháp luật đồng
thời thông qua công tác áp dụng pháp luật, rút kinh nghiệm kiến nghị sửa
đổi bổ sung hoàn thiện pháp luật.
Qua những phân tích trên, chúng ta nhận thấy công việc của Thẩm phán
hết sức nặng nề và nguy hiểm nhưng cũng không kém phần vinh quang.Từ

12


những vai trò cơ bản nêu trên của Thẩm phán, có thể thấy rằng địa vị pháp lý
của Thẩm phán đã được ghi nhận và khẳng định một cách rõ ràng trong hệ
thống pháp luật của nước ta. Tại Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02-6-2005
của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, tiếp tục khẳng
định vị trí, vai trò trung tâm của Tòa án và Thẩm phán cùng với việc đề ra các
yêu cầu về xây dựng, củng cố đội ngũ Thẩm phán để đáp ứng tốt hơn nữa yêu
cầu nhiệm vụ mà Đảng, Nhà nước và nhân dân giao cho trong tình hình hội
nhập quốc tế của đất nước hiện nay.
1.2.2. Mối quan hệ của Thẩm phán trong tố tụng hình sự

Thẩm phán có vị trí và vai trò đặc biệt quan trọng trong hệ thống Tòa
án, cũng như trong hệ thống các cơ quan tiến hành tố tụng. Tuy nhiên, nếu
chỉ một mình Thẩm phán thì không thể tiến hành tố tụng, mà việc tiến hành
tố tụng của Thẩm phán phải đặt trong mối quan hệ với những người và cơ
quan tiến hành tố tụng khác và thông qua các mối quan hệ đó sẽ cho chúng
ta cái nhìn tổng quan hơn về vị trí, vai trò của Thẩm phán. Mối quan hệ của
Thẩm phán trong công tác có hai dạng đó là: Mối quan hệ hành chính và mối
quan hệ tố tụng.
- Mối quan hệ hành chính: Là quan hệ giữa Thẩm phán và Chánh án
nhưng nó được hiểu dưới hai góc độ khác nhau:
Thứ nhất: Mối quan hệ giữa Thẩm phán- Chánh án là mối quan hệ với
tư cách cán bộ cơ quan và thủ trưởng cơ quan. Đây là mối quan hệ hành
chính. Chánh án phân công nhiệm vụ và quản lý Thẩm phán. Chánh án Tòa
án nhân dân tối cao có quyền ký quyết định bổ nhiệm, tái nhiệm, điều động
biệt phái Thẩm phán. Với tư cách là cán bộ Tòa án, Thẩm phán phải chịu
trách nhiệm, chấp hành nhiệm vụ được giao trước Chánh án.
Thứ hai: Mối quan hệ giữa Thẩm phán và Chánh án với tư cách là
Thẩm phán tham gia giải quyết vụ án hình sự. Đây là mối quan hệ tố tụng và
chịu sự điều chỉnh của luật tố tụng hình sự, phải độc lập trong xét xử.

13


- Mối quan hệ tố tụng: Mối quan hệ giữa Thẩm phán và người tiến
hành tố tụng, mối quan hệ của Thẩm phán với người tham gia tố tụng.
Mối quan hệ giữa Thẩm phán và những người tiến hành tố tụng (Hội
thẩm Tòa án, Thư ký Tòa án, Kiểm sát viên).
Mối quan hệ giữa Thẩm phán và Hội thẩm Tòa án: Hội thẩm Tòa án
đại diện cho quần chúng nhân dân tham gia vào công tác xét xử, giám sát
hoạt động của Tòa án góp phần làm cho hoạt động xét xử đúng pháp luật,

hợp lẽ công bằng, bảo đảm pháp chế. Hội thẩm cũng có trách nhiệm nghiên
cứu hồ sơ, tham gia xét xử và khi xét xử vụ án, mọi vấn đề phải được Thẩm
phán và Hội thẩm thảo luận và thông qua tại phòng nghị án. Mối quan hệ
giữa Thẩm phán và Hội thẩm là mối quan hệ độc lập, thể hiện trên hai
phương diện: độc lập với các cá nhân khác và độc lập với chính những thành
viên trong Hội đồng xét xử. Nhưng trong hoạt động xét xử thì vai trò của
Thẩm phán vẫn là trung tâm, được thể hiện trong toàn bộ quá trình xét xử từ
phần thủ tục đến phần tuyên án.
Mối quan hệ giữa Thẩm phán và Thư ký Tòa án: Thư ký là người giúp
việc cho Thẩm phán để thực hiện những tác nghiệp trong quá trình giải quyết
vụ án: Giúp Thẩm phán trong công tác chuẩn bị phiên toà khi cần thiết, trước
khi bắt đầu phiên toà, phổ biến nội quy phiên toà, báo cáo danh sách những
người được triệu tập hợp lệ, ghi biên bản phiên toà. Mặc dù là người giúp việc
cho Thẩm phán nhưng Thư ký tiến hành các hoạt động tố tụng theo quy định
của pháp luật và theo sự phân công của Chánh án, chịu trách nhiệm trước
pháp luật về những hành vi của mình. Không phải trong mọi trường hợp, Thư
ký đều phải chấp hành theo sự phân công của Thẩm phán, mà Thư ký có
quyền từ chối những công việc mà mình cho rằng là vi phạm pháp luật. Thẩm
phán giao việc cho Thư ký, tuy nhiên cả Thẩm phán và Thư ký đều phải hoạt
động tuân theo quy định của pháp luật.

14


Mối quan hệ giữa Thẩm phán và Kiểm sát viên giữ quyền công tố:
Kiểm sát viên giữ quyền công tố tại phiên tòa có nhiệm vụ tiến hành các hoạt
động kiểm sát xét xử, giám sát Hội đồng xét xử trong việc thực hiện các
nguyên tắc và trình tự tố tụng theo quy định pháp luật. Hiệu quả xét xử của
Toà án phụ thuộc không ít vào hoạt động của Kiểm sát viên. Kiểm sát viên
tham gia vào quá trình thẩm vấn, tranh luận tại phiên tòa phải nghiên cứu,

xem xét hỏi vấn đề gì, hỏi ai để làm sáng tỏ vụ án và đưa ra kết luận giải
quyết vụ án. Tại phiên tòa Kiểm sát viên phải tuân theo sự điều khiển của Chủ
tọa phiên tòa về mặt trình tự tố tụng.
Mối quan hệ của Thẩm phán với Luật sư: Vai trò của luật sư trong hoạt
động tố tụng có vị trí đặc biệt quan trọng, góp phần bảo vệ công lý, bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp cho bị can, bị cáo, giúp giải quyết vụ án khách quan,
đúng pháp luật. Luật sư có quyền nghiền cứu hồ sơ vụ án, sao chép các tài
liệu cần thiết trong hồ sơ vụ án, được biết về thời gian địa điểm mở phiên tòa.
Vì vậy, Thẩm phán phải tạo điều kiện để họ thực hiện những quyền và nghĩa
vụ theo quy định của pháp luật trong quá trình tác nghiệp tại phiên tòa.
Mối quan hệ của Thẩm phán với người giám định, người phiên dịch:
Trong nhiều vụ án, để đánh giá chính xác, đúng đắn, khách quan các tình tiết,
sự kiện phức tạp, các cơ quan điều tra, công tố, xét xử phải huy động sự hỗ
trợ của các cơ quan, tổ chức chuyên môn cung cấp các kết luận giám định
khoa học, chuyên môn sâu trong các lĩnh vực khác nhau. Thẩm phán phải đưa
ra quyết định trưng cầu giám định, người giám định có quyền tìm hiểu tài liệu
vụ án có liên quan đến đối tượng giám định, yêu cầu Thẩm phán cung cấp tài
liệu cần thiết, tham gia vào việc xét hỏi và đặt câu hỏi liên quan đến đối tượng
giám định tại phiên tòa.
Trong trường hợp người tham gia tố tụng không sử dụng được tiếng
Việt thì Thẩm phán phải mời người phiên dịch cho họ hoặc đương sự là người

15


câm điếc. Thẩm phán có trách nhiệm giải thích thêm về những vấn đề cần
phiên dịch khi người phiên dịch yêu cầu. Luật tố tụng không quy định người
phiên dịch có quyền nghiên cứu hồ sơ vụ án nhưng thực tế khi cần tìm hiểu về
những vấn đề chuyên môn, những thuật ngữ pháp lý, hoặc những cử chỉ cần
diễn đạt để hiểu về một khái niệm, một từ nào đó thì Thẩm phán có thể cung

cấp cho họ những tài liệu cần thiết hoặc có thể cho họ nghiên cứu hồ sơ vụ án
trong phạm vi nhất định.
Mối quan hệ của Thẩm phán với bị cáo, người bị hại và các đương sự
khác: Đây là mối quan hệ tố tụng phát sinh khi giải quyết vụ án hình sự.
Quyền và nghĩa vụ của bị cáo, người bị hại và các đương sự khác đã được quy
định rất cụ thể trong Bộ luật Tố tụng hình sự .Trước pháp luật họ đều được
đối xử một cách bình đẳng, Thẩm phán phải xử sự đúng mức, tôn trọng ý kiến
của đương sự, không áp đặt chủ quan những mặc cảm ban đầu có thể dẫn đến
định kiến làm sai lệch vụ án. Tại phiên tòa các đương sự phải tuân thủ theo sự
điều khiển của chủ tọa phiên tòa.
1.3. Một số nguyên tắc cơ bản về địa vị của Thẩm phán trong Tố
tụng hình sự
Nguyên tắc của tố tụng hình sự có chức năng điều chỉnh hành vi tố
tụng. Đây cũng là biểu hiện cụ thể chức năng của pháp luật nói chung. Tính
điều chỉnh của nguyên tắc thể hiện ở hiệu lực của nó đối với các chủ thể tố
tụng mà trước hết là các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.
Các chủ thể đó có nghĩa vụ nghiêm chỉnh chấp hành các quy định của pháp
luật tố tụng hình sự, thực hiện đúng giới hạn thẩm quyền, tuân thủ các nguyên
tắc đã được pháp luật quy định. Không chỉ vi phạm các quy định pháp luật tố
tụng cụ thể mà vi phạm các nguyên tắc của tố tụng hình sự cũng phải được
xem là căn cứ để hủy các quyết định tố tụng và vô hiệu các hành vi tố tụng. vì
vậy, trong quá trình giải quyết vụ án các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến

16


hành tố tụng phải thực hiên nghiêm chỉnh các nguyên tắc cơ bản của Luật Tố
tụng Hình sự, mọi biểu hiện không tuân thủ đều có thể dẫn đến sai lầm trong
quá trình giải quyết vụ án [7].
Theo quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự 2003, Thẩm phán phải tuân

thủ các nguyên tắc sau: Bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa trong tố tụng hình
sự; bảo đảm quyền bình đẳng của mọi công dân trước pháp luật; không ai bị
coi là có tội khi chưa có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật;
xác định sự thật của vụ án;bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị
can, bị cáo; thực hiện chế độ xét xử có Hội thẩm tham gia; khi xét xử Thẩm
phán và Hội thẩm độc lập xét xử và chỉ tuân theo pháp luật; xét xử tập thể và
quyết định theo đa số; việc xét xử của Tòa án được tiến hành công khai, trừ
trường hợp do Bộ luật Tố tụng hình sự quy định; bảo đảm quyền bình đẳng
trước Tòa án; Tòa án thực hiện chế độ hai cấp xét xử; bảo đảm quyền được
bồi thường thiệt hại và phục hồi danh dự, nhân phẩm, quyền lợi của người bị
oan; bảo đảm quyền khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự; bảo đảm sự vô tư
của những người tiến hành tố tụng hoặc người tham gia tố tụng; Tòa án cấp
trên giám đốc việc xét xử của Tòa án cấp dưới, Tòa án nhân dân tối cao giám
đốc việc xét xử của Tòa án nhân dân và Tòa án quân sự các cấp để bảo đảm
cho việc áp dụng pháp luật được nghiêm chỉnh và thống nhất [24].
Trong các nguyên tắc trên thì có ba nguyên tắc được coi là cơ bản nhất
đối với người Thẩm phán khi giải quyết vụ án hình sự mà tôi lựa chọn để
phân tích dưới đây.
1.3.1. Nguyên tắc “không ai bị coi là có tội khi chưa có bản kết tội
của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật”
Đây là nguyên tắc cơ bản, nhằm đảm bảo các quyền tự do dân chủ của
công dân được quy định trong Hiến pháp và Điều 10 Bộ luật Tố tụng Hình sự
nước ta. Theo nguyên tắc này thì: Không ai có thể bị coi là có tội và phải chịu

17


hình phạt khi chưa có bản án kết tội của Toà án đã có hiệu lực pháp luật.
Trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, nguyên tắc này được thể hiện ở chỗ
tuy họ đã bị Viện kiểm sát truy tố và Toà án quyết định đưa vụ án ra xét xử

vẫn chưa bị coi là người có tội. Họ tham gia tố tụng với tư cách là bị cáo, vì
họ còn đầy đủ các quyền của một công dân. Vì vậy, những người tiến hành tố
tụng luôn phải có tư duy: Tất cả mọi người đều được coi là chưa có tội khi
chưa có một bản án có hiệu lực pháp luật của Tòa án có thẩm quyền kết tội.
Hiện nay, còn không ít người quan niệm rằng, một người bị khởi tố, đã
bị bắt tạm giam là có tội nên mọi người đối xử với họ như người phạm tội. Bị
cáo phải bị hạn chế một số quyền nhất định, kể cả khi ra trước Toà án. Trong
quá trình xét hỏi, đôi khi có trường hợp Thẩm phán có thái độ lớn tiếng,
không cho bị cáo trình bày đầy đủ các tình tiết của vụ án theo ý của bị cáo, mà
phải trình bày theo từng câu hỏi có chủ ý của Thẩm phán.
Do vậy, nguyên tắc đòi hỏi Thẩm phán phải xét xử công bằng nhằm
bảo vệ cá nhân không bị lấy đi, tước đoạt một cách độc đoán những quyền tự
do cơ bản. Thông tư số 2225 HCTP ngày 24/10/1956 của Bộ Tư pháp đã
hướng dẫn: Không nên có định kiến rằng hễ người bị truy tố là nhất định có
tội mà đối xử như với người có tội; bị can trước khi tuyên án được coi như vô
tội để Toà án có thái độ hoàn toàn khách quan. Đồng thời việc xét xử không
được chậm trễ quá mức tại toà, để từ đó nhanh chóng đưa ra bản án kết tội
hoặc nhanh chóng đưa người bị buộc tội ra khỏi vòng quay tố tụng hình sự
nếu việc buộc tội không thực hiện được.
Xét xử là việc Toà án đi tìm lời giải cho một bài toán có sẵn đáp số là
một người có tội và bắt họ vào tù. Để đảm bảo thực hiện tốt nguyên tắc này,
Bộ luật Tố tụng Hình sự hiện hành có nhiều quy định đảm bảo quyền bào
chữa - quyền chứng minh sự vô tội của bị cáo: Trong quá trình xét xử, Thẩm
phán phải thông báo cho bị cáo bị xét xử về tội gì, cũng như đảm bảo cho họ

18


thực hiện các quyền của mình như đưa ra các chứng cứ, yêu cầu, đề nghị thay
đổi thành viên hội đồng xét xử và những người tiến hành tố tụng….

Nguyên tắc “không ai bị coi là có tội khi chưa có bản kết tội của Tòa án
đã có hiệu lực pháp luật”, cho thấy tầm quan trọng của bản án đối với quá
trình tố tụng hình sự, ý nghĩa to lớn của nó đối với việc đảm bảo nguyên tắc
suy đoán vô tội. Điều này thể hiện tầm quan trọng của Tòa án, cũng như
Thẩm phán trong xã hội. Vị trí, vai trò này không phải ngẫu nhiên mà có, mà
nó là sự phân công lao đông trong xã hội, là kết quả của một quá trình lao
động và phát triển lâu dài của xã hội loài người.
1.3.2. Nguyên tắc “khi xét xử Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ
tuân theo pháp luật”
Các thành viên hội đồng xét xử hoàn toàn độc lập trong việc xem xét,
đánh giá các tình tiết và chứng cứ có liên quan đến vụ án tại phiên Tòa cũng
như khi nghị án, từng thành viên được độc lập đưa ra quan điểm của mình,
phân tích, đánh giá các tài liệu, chứng cứ và đưa ra quyết định của mình mà
không phụ thuộc vào các thành viên khác. Thẩm phán không có quyền áp đặt
ý kiến của mình với Hội thẩm và ngược lại Hội thẩm cũng không được áp đặt
ý kiến với Thẩm phán. Quyết định của bản án là quyết định của đa số các
thành viên trong hội đồng xét xử. Việc quyết định theo đa số càng đòi hỏi tính
độc lập của từng thành viên hội đồng xé xử, có như vậy mới đảm bảo tính
khách quan của Tòa án. Quyết định theo đa số vừa bảo đảm tính tập trung dân
chủ nó còn thể hiện nguyên tắc khi xét xử Hội thẩm ngang quyền với Thẩm
phán. Đây là điều kiện quan trọng để Hội thẩm phát huy vai trò người đại diện
của mình cho nhân dân lao động tham gia công tác xét xử của Tòa án, đồng
thời bảo đảm cho tiếng nói của nhân dân có tính chất quyết định trong công
tác xét xử của Tòa án. Sự độc lập không có nghĩa là tách rời đường lối chính
sách của Đảng. Đảng không chỉ đạo xét xử từng vụ án cụ thể nhưng Đảng đưa

19



×