Tải bản đầy đủ (.pdf) (115 trang)

Bảo đảm sự độc lập của thẩm phán từ thực tiễn tỉnh thanh hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.77 MB, 115 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

CAO VĂN TUẤN

B¶O §¶M Sù §éC LËP
CñA THÈM PH¸N Tõ THùC TIÔN TØNH THANH HãA

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2017


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

CAO VĂN TUẤN

B¶O §¶M Sù §éC LËP
CñA THÈM PH¸N Tõ THùC TIÔN TØNH THANH HãA
Chuyên ngành: Lý luận và lịch sử Nhà nước và pháp luật
Mã số: 60 38 01 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Cán bộ hướng dẫn khoa học: TS. MAI VĂN THẮNG

HÀ NỘI - 2017


LỜI CAM ĐOAN


Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng
tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ
công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm
bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các
môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định
của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi
có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Thanh Hóa, ngày 27 tháng 9 năm 2017
NGƯỜI CAM ĐOAN

Cao Văn Tuấn


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ SỰ ĐỘC LẬP CỦA THẨM
PHÁN VÀ BẢO ĐẢM SỰ ĐỘC LẬP CỦA THẨM PHÁN ....................7
1.1.

Nhận thức về thẩm phán và sự độc lập của thẩm phán ..........................7

1.1.1.


Nhận thức chung về thẩm phán và vị trí, vai trò của thẩm phán trong
hoạt động tư pháp ..........................................................................................7

1.1.2.

Khái niệm về sự độc lập của thẩm phán và ý nghĩa, vai trò của nó đối
với việc thực hiện quyền tư pháp trong nhà nước pháp quyền .....................9

1.2.

Khái niệm về đảm bảo sự độc lập của thẩm phán và những yếu tố
ảnh hưởng đến sự độc lập của thẩm phán ..............................................14

1.2.1.

Khái niệm, cơ sở hình thành và vai trò của việc bảo đảm sự độc lập
của thẩm phán..............................................................................................14

1.2.2.

Những yếu tố ảnh hưởng đến sự độc lập của thẩm phán trong hoạt
động tư pháp ................................................................................................21

1.3.

Nội dung bảo đảm sự độc lập của thẩm phán ........................................23

1.3.1.

Bảo đảm sự độc lập của cá nhân thẩm phán ...............................................23


1.3.2.

Bảo đảm độc lập của thẩm phán khi xét xử ................................................37

Tiểu kết chương 1 ....................................................................................................40
Chương 2: THỰC TRẠNG BẢO ĐẢM SỰ ĐỘC LẬP CỦA THẨM
PHÁN QUA THỰC TIỄN Ở TỈNH THANH HÓA ...............................41
2.1.

Thực tiễn xét xử và các yếu tố tác động đến bảo đảm sự độc lập
của thẩm phán ở Thanh Hóa ....................................................................41

2.1.1.

Khái quát tình hình xét xử ở tỉnh Thanh Hóa..............................................41

2.1.2.

Các yếu tố tác động đền bảo đảm sự độc lập của thẩm phán ở Thanh Hóa ........43


2.2.

Thực trạng về cơ chế bảo đảm sự độc lập của thẩm phán ở tỉnh
Thanh Hóa .................................................................................................46

2.2.1.

Thực trạng tổ chức hệ thống Tòa án nhân dân với việc bảo đảm sự

độc lập của thẩm phán .................................................................................47

2.2.2.

Thực trạng pháp luật về tuyển chọn, bổ nhiệm, bổ nhiệm lại thẩm
phán trong mối liên hệ với cơ chế đảm bảo sự độc lập của thẩm phán ......57

2.2.3.

Thực trạng pháp luật về bảo đảm an toàn, an ninh cá nhân, thân nhân của
thẩm phán như là yếu tố quan trọng bảo đảm sự độc lập của thẩm phán..........61

2.2.4.

Thực trạng pháp luật về đảm bảo thu nhập, đời sống vật chất của thẩm
phán như là yếu tố quan trong bảo đảm sự độc lập của thẩm phán ............63

2.2.5.

Thực trạng về cơ chế xử lý trách nhiệm thẩm phán với vai trò bảo
đảm sự độc lập của thẩm phán ....................................................................67

2.2.6.

Bất cập pháp luật tố tụng trong việc bảo đảm sự độc lập của thẩm phán .......76

Tiểu kết chương 2 ....................................................................................................80
Chương 3: KIẾN NGHỊ, ĐỀ XUẤT HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ CƠ
CHẾ BẢO ĐẢM SỰ ĐỘC LẬP CỦA THẨM PHÁN ...........................81
3.1.


Cơ sở lý luận và quan điểm của Đảng về hoàn thiện cơ chế bảo
đảm sự độc lập cho thẩm phán hiện nay .................................................81

3.1.1.

Cơ sở lý luận về hoàn thiện cơ chế bảo đảm độc lập cho thẩm phán .........81

3.1.2.

Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về bảo đảm sự độc lập cho
thẩm phán ....................................................................................................82

3.2.

Những kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về bảo đảm sự độc
lập cho thẩm phán .....................................................................................84

3.2.1.

Hoàn thiện mô hình tổ chức tòa án và quan hệ quản lý tòa án nhân
dân các cấp ..................................................................................................84

3.2.2.

Hoàn thiện quy định về tuyển dụng đào tạo nhằm nâng cáo năng lực
chuyên môn thẩm phán ...............................................................................86

3.2.3.


Hoàn thiện chính sách tiền lương và chế độ đãi ngộ đối với thẩm phán ..........90

3.2.4.

Đổi mới quy định về nhiệm kỳ thẩm phán ..................................................93

3.2.5.

Hoàn thiện chế độ an ninh, an toàn đối với thẩm phán và người thân của
thẩm phán .....................................................................................................94

3.2.6.

Hoàn thiện chế độ trách nhiệm đối với thẩm phán .....................................94


3.2.7.

Đổi mới pháp luật tố tụng nhằm bảo đảm sự độc lập của thẩm phán
trong xét xử .................................................................................................97

3.3.

Đổi mới phương thức, nội dung lãnh đạo của Đảng đối với ngành
tư pháp........................................................................................................98

3.4.

Các giải pháp đặc thù ở tỉnh Thanh Hóa ................................................99


Tiểu kết chương 3 ..................................................................................................101
KẾT LUẬN ............................................................................................................102
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................103


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BLTTHS:

Bộ luật tố tụng hình sự

CHXHCNVN:

Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt nam

HĐXX:

Hội đồng xét xử

TAND:

Tòa án nhân dân

TANDTC:

Tòa án nhân dân Tối cao

TTHS:

Tố tụng hình sự


XHCN:

Xã hội chủ nghĩa


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của Đề tài
Tư pháp độc lập là một tiêu chuẩn quan trọng của nhà nước pháp quyền và
thẩm phán độc lập là yêu cầu tối thiểu và quan trọng bậc nhất của nền tư pháp độc
lập. Do đó, bảo đảm sự độc lập của thẩm phán có ý nghĩa đặc biệt trong xây dựng
và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền Việt Nam. Sự độc lập của thẩm phán quyết
định đến chức năng xét xử, đến nhiệm vụ và sứ mạng bảo vệ công lý, bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức. Vì ý nghĩa quan trọng đó, sự độc lập của
thẩm phán luôn là một nguyên tắc hiến định của hầu hết tất cả các quốc gia và bảo
đảm sự độc lập của thẩm phán là nhiệm vụ của Nhà nước và toàn xã hội. Ở Việt
Nam, sự độc lập của thẩm phán được khẳng định trong Hiến pháp và tất cả các văn
bản luật về tố tụng và được cụ thể hóa bởi pháp luật về tổ chức ngành Tòa án. Nhìn
chung, với sự quan tâm của Đảng Cộng sản Việt Nam và Nhà nước, sự độc lập của
thẩm phán luôn được chú trọng, đề cao, quan tâm hoàn thiện. Báo cáo hằng năm
của Tòa án nhân dân tối cao về tổng kết ngành tư pháp và báo cáo tổng kết hằng
năm ở các địa phương đều cho thấy sự phát triển không ngừng của ngành tư pháp từ
chất lượng xét xử cho đến chất lượng nhân sự. Kết quả đó phần nào cho thấy những
chuyển biến tốt hơn trong việc bảo đảm sự độc lập cho thẩm phán.
Tuy nhiên, vì nhiều lý do khác nhau, sự độc lập của thẩm phán – một cá nhân
mà với những bản chất vốn có của một con người sẽ khó vượt qua – đã thực tế
không được như kì vọng. Khi sự độc lập của thẩm phán không được bảo đảm thì
nguy hại lớn nhất và khó khắc phục nhất là niềm tin của người dân vào ngành tư
pháp nói riêng và vào Đảng, Nhà nước nói chung bị ảnh hưởng nghiêm trọng và
mục tiêu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân
sẽ khó có thể thành công. Trên thực tế, bảo đảm sự độc lập của thẩm phán là rất khó

khăn, đòi hỏi nhiều giải pháp đồng bộ. Vì lẽ đó, vấn đề bảo đảm sự độc lập của
thẩm phán là vấn đề có ý nghĩa chính trị, pháp lý, xã hội to lớn đòi hỏi phải luôn
được nghiên cứu hoàn thiện.

1


Thanh Hóa là một tỉnh đông dân đứng thứ ba cả nước và có đầy đủ các điều
kiện tự nhiên, kinh tế xã hội như một Việt Nam thu nhỏ. Tình hình vi phạm pháp
luật ở địa phương cũng diễn biến phức tạp, nhiệm vụ xét xử của thẩm phán và sự
độc lập của thẩm phán ở địa bàn thời gian qua cũng là nội dung được quan tâm của
Đảng ủy, chính quyền và nhân dân địa phương. Trong những năm qua, cùng với nỗ
lực của Đảng và Nhà nước trong việc cải cách hệ thống tư pháp mà trọng tâm là
Tòa án, cấp ủy và chính quyền Thanh Hóa đã cho thấy những nỗ lực để hoàn thiện
hệ thống tư pháp, hướng đến sự độc lập của tư pháp mà trước hết là đảm bảo sự độc
lập của cá nhân thẩm phán.
Tuy nhiên, có thể thấy, vẫn còn nhiều những bất cập trong thực tiễn và
triển khai thi hành hệ thống quy phạm pháp luật liên quan đến bảo đảm sự độc
lập của thẩm phán. Vẫn còn nhiều những bất cập, hạn chế của công tác xét xử
trên địa bàn của Thanh Hóa. Những bất cập ấy được lý giải bởi nhiều nguyên
nhân, trong đó có nguyên nhân từ những bất cập của hệ thống những bảo đảm sự
độc lập của thẩm phán.
Xuất phát từ thực tiễn công tác và mong muốn được tìm hiểu, nghiên cứu
một cách đầy đủ, toàn diện hơn, chỉ ra được một cách khác quan những bất cập, hạn
chế và luận chứng khoa học được những nguyên nhân để từ đó đưa ra những kiến
nghị, đề xuất hoàn thiện hệ thống những đảm bảo cho sự độc lập của thẩm phán
nhằm giúp cho hoạt động xét xử nói riêng và hệ thống Tòa án nói chung thực sự trở
thành cái khiên quan trọng bảo vệ công lý, quyền và lợi ích hợp pháp của người
dân, Nhà nước và xã hội nên tác giả đã chọn đề tài “Bảo đảm sự độc lập của thẩm
phán từ thực tiễn tỉnh Thanh Hóa” làm luận văn Thạc sĩ Luật học của mình.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Nghiên cứu về bảo đảm sự độc lập của thẩm phán không phải là đề tài hoàn
toàn mới nhưng vẫn luôn cho thấy sự cấp thiết và tính thời sự.
Đã có nhiều công trình của những tác giả uy tín đã nghiên cứu sâu sắc, toàn
diện về bảo đảm độc lập của thẩm phán. Tiêu biểu phải kể đến các công trình:
Về sách tham khảo, chuyên khảo, có thể kể đến một số công trình nổi bật

2


như: Đào Trí Úc (2007), Mô hình tổ chức và hoạt động của nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nxb Tư pháp 2007; Nguyễn Đăng Dung (2010), Hạn
chế sự tùy tiện của cơ quan nhà nước, Nxb Tư pháp, Hà Nội 2010; Mai văn Thắng
(2014), Sự độc của thẩm phán - nhân tố quan trọng đảm bảo liêm chính tư pháp ở
Liên bang Nga trong cuốn Cải cách tư pháp vì một nền tư pháp liêm chính, Viện
chính sách và pháp luật.
Về các bài viết chuyên sâu về vấn đề này, có các bài viết uy tín như: Đào
Trí Úc (2010), Bàn về quyền tư pháp trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa,
Tạp chí Luật học số 8; Đinh Văn Quế (2007), Một số vấn đề về tổ chức hệ thống
Tòa án theo định hướng cải cách tư pháp, Tạp chí TAND số 23; Bùi Ngọc Sơn
(2003), Sự độc lập của Tòa án trong nhà nước pháp quyền, Tạp chí NCLP số 4;
Võ Trí Hảo (2004), Dân chủ và sự độc lập của Tòa án, tạp chí Nghề luật, số 7;
Nguyễn Minh Đoan (2010), Bàn về mô hình tổ chức hệ thống Tòa án nhân dân ở
Việt Nam hiện nay, Tạp chí TAND số 14; Trương Hòa Bình (2010), Đổi mới tổ
chức và hoạt động của ngành Tòa án Việt Nam trên nền tảng tư tưởng Chủ tịch
Hồ Chí Minh về Nhà nước pháp quyền và công tác tư pháp, tạp chí TAND số 17;
Nguyễn Ngọc Chí, Đảm bảo sự vô tư của người tiến hành tố tụng, người phiên
dịch, người giám định trong tố tụng hình sự, tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số
8/2008; Vũ Công Giao, Nguyễn Minh Tâm, Cải cách để bảo đảm tính độc lập của
thẩm phán, Hội Thẩm nhân dân, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 20; Đinh Thanh

Phương, Nguyên tắc độc lập trong hoạt động của Tòa án nhân dân,Tạp chí Khoa
học; Trần Thu Hạnh (2009), Một số giải pháp nâng cao vị thế độc lập của thẩm
phán trong tố tụng hình sự, Tạp chí Khoa học, Đại học QGHN, Luật học số 25;
Đinh Thế Hưng (2010), Tiếp tục bàn về sự độc lập của thẩm phán, Tạp chí Nhà
nước và pháp luật, số 9; Lê Hồng Hạnh (2015), Làm thế nào để thẩm phán và Tòa
án độc lập trong thực thi công lý, Tạp chí Pháp luật và phát triển số 01 tháng 01;
Lê Thị Nga (2003), Tổ chức Tòa án nhân dân khu vực – Những vấn đề lý luận và
thực tiễn, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 4/ 2003 và nhiều những bài viết của các
học giả, nhà nghiên cứu uy tín khác.

3


Về Luận văn, luận án: có thể kể đến các đề tài có liên quan trực tiếp đến vấn
đề nghiên cứu như: (1) Trịnh Ngọc Thúy (2013), Vị trí, vai trò của thẩm phán Tòa
án nhân dân cấp huyện trong hoạt động xét xử các vụ án hình sự, Luận văn thạc sĩ,
Trường Đại học Luật Hà Nội; (2) Tô Văn Hòa (2006), Tính độc lập của Tòa án:
Nghiên cứu pháp lý về các khía cạnh lý luận, thực tiễn ở Đức, Mỹ, Pháp, Việt Nam
và các kiến nghị đối với Việt Nam, Luận án tiến sỹ Luật học, Khoa Luật, Đại học
Tổng hợp Lund, Thụy Điển; (3) Đỗ Gia Thư (2006), Cơ sở khoa học của việc xây
dựng đội ngũ thẩm phán ở nước ta hiện nay, Luận án Tiến sĩ; Lê Thành Dương
(2002), Luận án Tiến sĩ Đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân trong
giai đoạn hiện nay, Viện Nghiên cứu NN và Pháp luật; Quản Thị Ngọc Thảo (2016),
Luận án Tiến sĩ Nguyên tắc thẩm phán và Hội thẩm độc lập xét xử và chỉ tuân theo
pháp luật, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, 2016; Nguyễn Văn Khoa (2017),
Luận án Tiến sĩ Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo xây dựng đội ngũ Cán bộ tư
pháp từ năm 2001 – 2011, Học Viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu đã có nhiều đóng góp cho việc nghiên
cứu tiếp tục cũng như hoàn thiện vấn đề bảo đảm sự độc lập của thẩm phán. Tuy
nhiên, những nghiên cứu qua thực tiễn ở một địa phương cụ thể như ở Thanh Hóa

thì lại chưa có những nghiên cứu đầy đủ và toàn diện, đặc biệt là sau khi ban hành
Luật Tổ chức Tòa án nhân dân. Đây là một khoảng trống mà theo tác giả cần có
những nghiên cứu thêm nhằm luận giải để có những kiến nghị, đề xuất hoàn thiện
hệ thống các bảo đảm cho sự độc lập của thẩm phán ở nước ta nói chung và ở
Thanh Hóa nói riêng.
3. Mục đích, nhiệm vụ và đối tượng nghiên cứu của đề tài
3.1. Mục đích nghiên cứu
Việc nghiên cứu đề tài “Bảo đảm độc lập của thẩm phán từ thực tiễn tỉnh
Thanh Hóa” với mục đích nghiên cứu hệ thống các bảo đảm để đưa ra những
kiến nghị, đề xuất và giải pháp cụ thể nhằm góp phần hoàn thiện pháp luật và cơ
chế bảo đảm sự độc lập của thẩm phán ở Thanh Hóa nói riêng và cả nước nói
chung qua đó góp phần hoàn thành nhiệm vụ cải cách tư pháp của Đảng và Nhà

4


nước ta, bảo vệ công lý, gìn giữ niềm tin của người dân với ngành tư pháp tỉnh
Thanh Hóa và của cả nước.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu đặt ra, nhiệm vụ của Đề tài được đặt ra là:
- Nghiên cứu và làm rõ cơ sở lý luận về thẩm phán và những vấn đề lý luận
bảo đảm sự độc lập của thẩm phán;
- Chỉ ra, phân tích được thực trạng bảo đảm sự độc lập của thẩm phán qua
thực tiễn ở tỉnh Thanh Hóa;
- Luận giải được những nguyên nhân của những bất cập, hạn chế hay những
tiến bộ, thành tựu trong việc bảo đảm sự độc lập của Thanh Hóa trong những năm
gần đây;
- Đưa ra được những kiến nghị, giải pháp hoàn thiện pháp luật và hệ thống
bảo đảm sự độc lập của thẩm phán ở Thanh Hóa và cả nước.
3.3. Đối tượng nghiên cứu

Để đạt được mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu, tác giả Luận văn xác định đối
tượng nghiên cứu cơ bản là:
- Những vấn đề lý luận, hệ thống các quan điểm về thẩm phán, sự độc lập
của thẩm phán và bảo đảm sự độc lập của thẩm phán;
- Hệ thống các quy định của pháp luật, chính sách của Đảng, Nhà nước và
chính quyền địa phương liên quan đến bảo đảm sự độc lập của thẩm phán;
- Thực tiễn thực hiện cơ chế bảo đảm sự độc lập của thẩm phán ở Thanh Hóa
trong từng lĩnh vực cụ thể.
4. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng phương pháp luận triết học duy vật biện chứng và duy vật lịch
sử của Chủ nghĩa Mác- Lênin, các quan điểm, tư tưởng của Mác-Lênin về nhà nước
và pháp luật, Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật.
Ngoài ra, Luận văn còn sử dụng một số phương pháp nghiên cứu khoa học
xã hội và khoa học pháp lý như: Phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp,
phương pháp hệ thống, phương pháp phân tích lịch sử và một số phương pháp của
xã hội học.

5


5. Những đóng góp và ý nghĩa về khoa học, thực tiễn của luận văn
Luận văn có một số đóng góp và ý nghĩa như sau:
- Luận văn góp phần hoàn thiện thêm cơ sở lý luận về bảo đảm sự độc lập
của thẩm phán;
- Đã đánh giá, phân tích và làm rõ thực trạng bảo đảm sự độc lập của thẩm phán
ở tỉnh Thanh Hóa trên nền tảng cơ chế bảo đảm sự độc lập của thẩm phán cả nước;
- Đưa ra được một những kiến nghị, đề xuất hoàn thiên cơ chế bảo đảm sự
độc lập của thẩm phán và những giải pháp cụ thể cho sự bảo đảm độc lập thẩm phán
ở Thanh Hóa.
- Luận văn cũng có thể được dùng làm tài liệu nghiên cứu, làm tài liệu cho

công tác thực tiễn trong hoạt động xét xử ở tỉnh Thanh Hóa.
6. Nội dung của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn được
chia thành các chương sau:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về sự độc lập của thẩm phán và bảo đảm sự
độc lập của thẩm phán.
Chương 2: Thực trạng bảo đảm độc lập thẩm phán qua thực tiễn ở tỉnh
Thanh Hóa.
Chương 3: Kiến nghị, đề xuất nhằm hoàn thiện pháp luật và cơ chế thực tiễn
về bảo đảm sự độc lập thẩm phán.

6


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ SỰ ĐỘC LẬP CỦA THẨM PHÁN
VÀ BẢO ĐẢM SỰ ĐỘC LẬP CỦA THẨM PHÁN
1.1. Nhận thức về thẩm phán và sự độc lập của thẩm phán
1.1.1. Nhận thức chung về thẩm phán và vị trí, vai trò của thẩm phán
trong hoạt động tư pháp
Thẩm phán là chức danh quan trọng trong ngành tư pháp, là người trực tiếp
thực hiện nhiệm vụ và sứ mạng của tòa án nói riêng và ngành tư pháp nói chung.
Do đó, nhìn chung, các thẩm phán phải là những người được lựa chọn từ những
người có phẩm chất đạo đức cao, công minh và liêm chính, những người có bằng
cấp chuyên môn cần thiết, được đào tạo nghiệp vụ để bổ nhiệm vào chức danh quan
trọng này [70]. thẩm phán có vị trí, vai trò rất quan trọng, họ có nhiệm vụ cùng với
các cơ quan chức năng có liên quan góp phần làm cho xã hội hoạt động theo các
quy định của pháp luật. Ở Việt Nam, thẩm phán là người được Đảng, Nhà nước và
nhân dân tin tưởng với kỳ vọng “Phụng công, thủ pháp, chí công, vô tư” và “Gần
dân, hiểu dân, giúp dân, học dân”. từ đó, thẩm phán không chỉ là người có đạo đức

tốt mà còn phải có nhận thức sâu sắc, kinh nghiệm sống, tinh thông về trình độ
chuyên môn nghiệp vụ và bản lĩnh chính trị vững vàng, để nhận thức rõ vị trí vai trò
của mình đối với nhân dân và đất nước [55].
Trong Tòa án - cơ quan duy nhất được nhân danh Nhà nước để đưa ra những
quyết định, phán xét về hành vi của một người có tội hay không có tội và được
quyền áp dụng hình phạt theo quy định của pháp luật đối với người có hành vi phạm
tội. Đặc biệt, trong các lĩnh vực xét xử khác như: Dân sự, kinh tế, hành chính, lao
động... phán quyết của Toà án có ảnh hưởng trực tiếp đối với quyền, lợi ích hợp
pháp của các bên đương sự và những người tham gia tố tụng. Chủ tịch nước
CHXHCNVN từng khẳng định:
Để bảo đảm việc xét xử đúng pháp luật, mang lại niềm tin trong
nhân dân, đòi hỏi TAND, mà hình ảnh thể hiện tập trung nhất là người

7


thẩm phán, phải được nhân dân tôn trọng, là chỗ dựa vững chắc khi có
việc yêu cầu Tòa án giải quyết và Bất kỳ sai sót nào của thẩm phán trong
công tác xét xử cũng làm tổn hại đến uy danh của Toà án, suy rộng ra đó
là uy danh của Nhà nước. Do vậy, thẩm phán phải luôn có tinh thần trách
nhiệm cao trong công việc, trong cuộc sống của mình trước nhân dân.
Đối với thẩm phán TAND Tối cao, với chức năng nhiệm vụ của mình,
các đồng chí còn phải thể hiện cho được vị trí, vai trò, bản lĩnh của mình
với tư cách là thành viên của cơ quan xét xử cao nhất [71].
Thẩm phán là người trực tiếp tiến hành các hoạt động xét xử - một hoạt động
có kết quả là các bản án mà có ảnh hưởng, quyết định trực tiếp đến nhân thân, tài
sản, tự do của cá nhân, tổ chức nên dù cũng là công chức nhà nước [34] nhưng thẩm
phán có vị trí quan trọng và thiết yếu đối với nhu cầu bảo vệ pháp luật, xây dựng
Nhà nước pháp quyền. Thực chất, bản thân hoạt động xét xử đã ra đời từ rất sớm và
nằm trong tay giai cấp chủ nô, phong kiến mà đại diện là vua. Đến thế kỷ XVII,

XVIII khi giai cấp tư sản lớn mạnh, Cách mạng tư sản nổ ra, học thuyết tam quyền
phân lập với luận điểm: tách quyền lập hành pháp và tư pháp ra khỏi quyền lập
pháp, quyền lực nhà nước phải hình thành ba nhánh lập pháp, hành pháp và tư pháp
kìm chế và đối trọng, lúc đó, thiết chế Tòa án ra đời và chức danh thẩm phán làm
nhiệm vụ xét xử vốn chưa từng có trước đó mới được hình thành [56, tr.16]
Từ đó, có thể hiểu chung về thẩm phán như sau: thẩm phán là người làm việc
trong cơ quan Tòa án, chuyên xét xử các vụ án và giải quyết các vụ việc theo thẩm
quyền của Tòa án, ra các bản án, quyết định nhân danh nhà nước [56, tr.17].
Theo Điều 65 Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014, thẩm phán là người
có đủ điều kiện, tiêu chuẩn theo quy định của Luật này được Chủ tịch nước bổ
nhiệm để làm nhiệm vụ xét xử. Cùng với quy định của Điều 102 Hiến pháp 2013 về
nhiệm vụ của Tòa án nhân dân “Tòa án nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo
vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích
của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân”, có thể định nghĩa
như sau về thẩm phán ở Việt Nam: thẩm phán là một chức danh nhà nước, được

8


Chủ tịch nước bổ nhiệm để làm nhiệm vụ xét xử thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân
dân nhằm bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ
xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ
chức, cá nhân.
Trong hoạt động tư pháp, thẩm phán là người giữ vị trí trung tâm đồng thời
là kết thúc của quá trình tố tụng. Điều tra viên, kiểm sát viên dù đều là những chức
danh quan trọng trong quá trình tiến hành tố tụng nhưng sự phán quyết kết quả cuối
cùng vẫn do thẩm phán chịu trách nhiệm, kỳ vọng lớn nhất ở xã hội vẫn nằm ở thẩm
phán chứ không ai khác. Dù là tố tụng hình sự, dân sự hay hành chính thì thẩm phán
là người chịu trách nhiệm cuối cùng về kết quả của quá trình xét xử, sự đúng, sai và
việc tìm ra sự thật khách quan của vụ việc có thể không phụ thuộc vào thẩm phán

nhưng lại thể hiện trong phán quyết của thẩm phán. Vì thế, với nền tư pháp nói
chung thì chính những thẩm phán cụ thể chứ không phải cơ quan Tòa án có trách
nhiệm và sứ mạng bảo vệ pháp luật, duy trì trật tự và công bằng xã hội.
1.1.2. Khái niệm về sự độc lập của thẩm phán và ý nghĩa, vai trò của nó
đối với việc thực hiện quyền tư pháp trong nhà nước pháp quyền
1.1.2.1. Khái niệm về sự độc lập của thẩm phán
Định nghĩa sự độc lập của thẩm phán. Về mặt từ ngữ, độc lập là tính chất
của một mối quan hệ nhất định giữa chủ thể này với một hoặc nhiều chủ thế khác,
trong đó, sự tồn tại, hoạt động của chủ thể này không nương tựa hoặc phụ thuộc vào
bất cứ ai, vào bất cứ điều gì [30, tr.14]. Sự độc lập của một chủ thể được đánh giá ở
phương diện tồn tại và phương diện hoạt động. Trong đó, độc lập trong tồn tại của
chủ thể là yếu tố ổn định và quyết định đến tính độc lập trong hoạt động của chủ
thể. Có thể hiểu tính độc lập của Tòa án trong xét xử là tính chất của mối quan hệ
phát sinh giữa Tòa án với các chủ thể khác trong quá trình Tòa án tồn tại cũng như
thực hiện chức năng xét xử vụ án và giải quyết các vụ việc khác theo quy định của
pháp luật. Trong các mối quan hệ xã hội phát sinh, Toà án không lệ thuộc hay bị các
chủ thể khác chi phối về phương diện tổ chức và hoạt động. Những yêu cầu đó được
thể hiện trong các quy định pháp luật tạo nên địa vị pháp lý của Tòa án, loại trừ

9


những sự ảnh hưởng tiêu cực đến quá trình ra quyết định của Tòa án, để từ đó thẩm
phán có thể ra phán quyết đối với một vụ việc chỉ dựa trên những tình tiết thực tế
của sự việc và các quy định pháp luật có liên quan [25, tr.66].
Khái niệm tính độc lập của thẩm phán, cần được xem xét ở hai khía
cạnh [25, tr.66]. Thứ nhất là tính độc lập của cá nhân thẩm phán khi là một chức
danh trong cơ quan nhà nước. Thứ hai là tính độc lập của thẩm phán khi thực hiện
chức năng xét xử của Toà án trong các vụ án cụ thể.
Cơ sở về sự độc lập của thẩm phán. Sự độc lập của thẩm phán được hình

thành từ cơ sở lý thuyết và cơ sở thực tiễn như sau:
Cơ sở lý thuyết về sự độc lập của thẩm phán khởi nguồn từ sự độc lập của
nhánh quyền tư pháp trong học thuyết tam quyền phân lập. Thiết chế Toà án là một
thiết chế rất đặc biệt trong hệ thống các cơ quan nhà nước. Không những nó được
hưởng quy chế phân quyền như các cơ quan lập pháp và hành pháp, mà còn phải
độc lập hoàn toàn trước hai cơ quan này. Mặc dù nhiều nhà nước dân chủ tư sản
được tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc phân quyền giữa lập pháp, hành pháp và
tư pháp, nhưng trên thực tế, hành pháp và lập pháp vẫn có sự phối kết hợp với nhau
ở một mức độ nhất định, chỉ có tư pháp - do chức năng xét xử, bao giờ cũng được
độc lập. Sức mạnh của nhà nước pháp quyền tuỳ thuộc nhiều vào sự độc lập của hệ
thống tư pháp. Sự độc lập của thẩm phán hay hệ thống tư pháp trong mối quan hệ
với lập pháp và hành pháp được lý giải như sau:
Cội nguồn tư tưởng độc lập xét xử và quá trình hình thành tư tưởng hiện đại
về độc lập trong hoạt động xét xử: Lịch sử nhà nước và pháp luật thế giới cho thấy
các văn bản xa xưa nhất được phát hiện là Luật hình của nhà Hạ-Trung Quốc (2100
- 1600 trước Công nguyên) và bộ luật Hammurabi- Babylon (1792-1750 trước
Công nguyên), trong đó có nhiều nội dung liên quan đến tư pháp, đến việc xét xử và
hình phạt. Sang đến thời kỳ cận trung đại, quyền lực tối cao của các thế lực phong
kiến cai trị bắt đầu bị chia sẻ khi các văn bản về tổ chức quyền lực nhà nước ra đời.
Đại Hiến chương Anh (Magna Charta) được vua Anh ban hành vào năm 1215 tuy
không không có quy định trực tiếp nêu rõ về độc lập của thẩm phán trong khi xét xử

10


hoặc những yếu tố liên quan nhưng đã nêu ra những nguyên tắc bình đẳng của pháp
luật. Cuối thế kỷ XVIII, J. Locke, nhà triết học ủng hộ quan điểm quyền lực nhà
nước thống nhất, có sự phân công giữa các nhánh quyền đã tuyên bố rằng việc hình
thành các đạo luật với quyền khiếu nại đến các thẩm phán độc lập là điều cần thiết
cho một xã hội văn minh và một khi xã hội mà không có họ (tức là thẩm phán) thì

đó là xã hội vẫn còn "trong một trạng thái tự nhiên". Tuy nhiên, J. Locke lại không
đưa ra được cách thức, mô hình cụ thể để bảo đảm cho thẩm phán độc lập. Trong
tác phẩm “Tinh thần pháp luật”, Montesquieu đưa ra tư tưởng phân quyền dựa trên
phân tích cách thức tổ chức quyền lực của nước Anh. Theo đó, độc lập xét xử gắn
kết chặt chẽ với sự phát triển của pháp quyền, với điều kiện tiên quyết của sự phân
quyền và sự tồn tại của kiểm soát và cân bằng quyền lực… Tiếp đó, Đạo luật Hòa
giải 1701 (Act of Setlement 1701) đã nêu rõ nguyên tắc bảo đảm nhiệm kỳ thẩm
phán (nếu có phẩm chất tốt) và khẳng định rằng họ chỉ có thể bị thay thế bởi hai
viện của Quốc hội theo một quy trình chặt chẽ. thẩm phán Brooke của Tòa án
thượng thẩm phán Anh cho rằng quy định này chính là nguyên tắc nền tảng của sự
độc lập xét xử. Sang đến thời kỳ hiện đại, tư tưởng đó càng được khẳng định và thể
hiện sự tổ chức thực thi quyền lực nhà nước mà trong đó quyền lực xét xử phải độc
lập so với các nhánh quyền lực khác [51, tr.8,9].
Cơ sở thực tiễn của sự độc lập thẩm phán
Về cơ sở thực tiễn, xuất phát từ chức năng, nhiệm vụ của thẩm phán và sự kỳ
vọng của công chúng ở chức năng xét xử của thẩm phán buộc thẩm phán phải độc
lập. Sự độc lập của thẩm phán xuất phát từ bản chất của hoạt động tư pháp mà thẩm
phán là người trực tiếp thực hiện, nói đến tư pháp là nói đến công lý, nói đến tư
pháp là nói đến sự phân xử và phán xét các tranh chấp, sự đúng sai phù hợp với
pháp luật và công lý [42]. Vì lý tưởng đó nên hoạt động xét xử đòi hỏi phải được
bảo đảm sự độc lập, nếu thẩm phán không độc lập khi xét xử thì không nên sinh ra
chức danh thẩm phán và không nên có cơ quan là Tòa án, vì xét xử khách quan, tìm
ra sự đúng sai và sự thật là thiên chức [49] của thẩm phán.
Điều này có thể được lý giải cụ thể hơn rằng: thẩm phán dù ở thời nào, quốc

11


gia nào thì sự độc lập luôn gắn liền với chức danh này, việc không thừa nhận sự độc
lập của thẩm phán dù với bất kỳ lý do gì đồng nghĩa với việc công lý đang bị xâm

phạm. Độc lập là yếu tố quan trọng nhất giúp cho thẩm phán đưa ra những phán
quyết khách quan và công bằng. Ngược lại, khi thẩm phán bị áp lực từ một nguồn
lực bất kỳ, phán quyết của thẩm phán không còn dựa trên lý lẽ của sự khách quan,
lẽ phải có thể bị sai lệch, khi đó nhiệm vụ bảo vệ công lý của tư pháp xem như thất
bại. Về điều này, Douglass North, một học giả nổi tiếng về kinh tế và pháp luật
người Mỹ (giải thưởng Nobel về kinh tế năm 1993) đã chứng minh một cách thuyết
phục rằng, việc thiết lập và duy trì một nền tư pháp độc lập, đảm bảo cho pháp luật,
mệnh lệnh của Nhà nước được tuân thủ một cách nghiêm chỉnh, củng cố chữ “tín”
của Nhà nước, chữ “tín” của pháp luật là một trong những bí quyết thúc đẩy phát
triển kinh tế ở chính Hoa Kỳ trong suốt chiều dài lịch sử của mình [63, tr.108].
1.1.2.2. Ý nghĩa, vai trò của sự độc lập của thẩm phán đối với việc thực hiện
quyền tư pháp trong Nhà nước pháp quyền
Một cơ quan tư pháp độc lập hoàn toàn là một trong những thẩm phán được
hưởng quyền sở hữu trong suốt hành vi tốt, mức lương đủ để che chở họ khỏi áp lực
của chính phủ hoặc các bên tư nhân [69, tr.331]. Nói tóm lại, độc lập tư pháp có thể
được định nghĩa ở nghĩa chung về tự do – mà thực sự chính là trách nhiệm - dựa
trên các sự kiện và luật, và do đó không có ràng buộc bên ngoài [69, tr.335].
Tư pháp độc lập được hiểu là trạng thái pháp lý mà ở đó Tòa án cũng như
các thẩm phán thông qua các cơ chế, biện pháp pháp lý có thể thi hành nhiệm vụ,
thẩm quyền được pháp luật quy định mà không phải chịu sự ràng buộc, tác động
hay sự ảnh hưởng có tính chất trái luật, đi ngược lại ý chí của họ từ phía các nhánh
quyền hành pháp, lập pháp, của cả hệ thống chính trị, chính quyền địa phương, yếu
tố tổ chức bên trong hệ thống tư pháp cũng như những yếu tố tự thân hay nhu cầu cá
nhân thẩm phán.
Với sứ mệnh cao cả của mình, thẩm phán được trao quyền lực và được thiết
kế để nhân danh quyền lực. Điều này rất cần thiết, nhưng kèm theo đó là những
nguy cơ lạm quyền của chính thẩm phán. Nếu điều tệ hại đó xảy ra, thì vô cùng
nguy hiểm, bởi đúng như theo nhận định của Susan Rose – Ackerman:

12



Do các quyết định của ngành tư pháp có khả năng phân phối lại
quyền lực và tài sản nên các thẩm phán có thể lạm dụng địa vị nghề nghiệp
của họ để mưu lợi cho mình. Nếu cơ quan tư pháp lại là một mắt xích của
tham nhũng, thì cả người dân lương thiện, lẫn quan chức tham nhũng đều
có chung một nhận thức là hối lộ có thể giải quyết mọi vấn đề của pháp
luật!... Vì vậy, một hệ thống tư pháp liêm chính và có uy tín có ý nghĩa quan
trọng trong việc đấu tranh chống tham nhũng và duy trì trật tự pháp luật.
Tất nhiên, điều nguy hại đó không chỉ đến từ sự lạm dụng của thẩm phán
nhằm mưu cầu lợi ích cá nhân, những nguy hại đó hoàn toàn có thể đến từ những
ảnh hưởng, tác động, áp lực mà thẩm phán phải hứng chịu khi đưa ra những quyết
định của mình. Để phòng ngừa những điều đó, cần thiết lập đầy đủ các điều kiện để
đảm bảo mỗi thẩm phán là người liêm chính.
Thiết chế Toà án là một thiết chế rất đặc biệt trong hệ thống các cơ quan nhà
nước. Không những nó được hưởng quy chế phân quyền như các cơ quan lập pháp
và hành pháp, mà còn phải độc lập hoàn toàn trước hai cơ quan này. Mặc dù nhiều
nhà nước dân chủ tư sản được tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc phân quyền
giữa lập pháp, hành pháp và tư pháp, nhưng trên thực tế, hành pháp và lập pháp vẫn
có sự phối kết hợp với nhau ở một mức độ nhất định, chỉ có tư pháp - do chức năng
xét xử, bao giờ cũng được độc lập. Sức mạnh của nhà nước pháp quyền tuỳ thuộc
nhiều vào sự độc lập của hệ thống tư pháp [12].
Sự độc lập của thẩm phán có những vai trò như sau đối với việc thực hiện
quyền tư pháp trong Nhà nước pháp quyền:
Một là, sự độc lập của thẩm phán là nền tảng bảo đảm cho sự độc lập của Tòa
án và nền tư pháp. Thực chất, sự độc lập của thẩm phán và của Tòa án có quan hệ
chặt chẽ nhưng không đồng nhất, muốn Tòa án độc lập thì thẩm phán phải độc lập
nhưng sự độc lập của Tòa án không dẫn đến sự độc lập đương nhiên của thẩm phán.
Vì thế, sự độc lập của thẩm phán chính là tiền đề, là cơ sở, là trung tâm bảo đảm cho
sự độc lập của Tòa án và nền tư pháp, đó yếu tố thiết yếu trong nhà nước pháp quyền.

Hai là, sự độc lập của thẩm phán là yếu tố tiên quyết bảo đảm sự phán quyết

13


của thẩm phán là khách quan, bảo đảm công bằng, công lý. Việc không bị tác động
bởi một chủ thể, sự kiện, yếu tố khác là cơ sở cho việc thẩm phán đưa ra những kết
luận, đánh giá đúng đắn, xác thực, không thiên vị hay lệch lạc. Dù phán quyết của
thẩm phán có thể chưa thật sự đúng với sự thật khách quan của vụ việc do những
giới hạn khó vượt qua của các điều kiện nhân lực, năng lực có giới hạn của con
người nhưng chỉ cần thẩm phán độc lập khi ra phán quyết thì đó chính là lẽ công
bằng mà người dân cần có. Sự công bằng, lẽ phải hay công lý cuối cùng cũng chỉ
nhằm bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân và đó cũng là đích đến,
là thước đo về chuẩn mực của Nhà nước pháp quyền.
1.2. Khái niệm về đảm bảo sự độc lập của thẩm phán và những yếu tố
ảnh hưởng đến sự độc lập của thẩm phán
1.2.1. Khái niệm, cơ sở hình thành và vai trò của việc bảo đảm sự độc lập
của thẩm phán
1.2.1.1. Khái niệm
Khái niệm "độc lập” có nghĩa là một mình tự lập, hành động không phụ
thuộc vào người khác. Độc lập xét xử không ngoài mục đích đảm bảo tính tối cao
của pháp luật, giữ vững sự cân bằng và kiểm soát các quyền lực của nhà nước, bảo
vệ quyền con người [24]. Để bảo đảm sự độc lập của thẩm phán cần có một cơ chế
bảo đảm, đó là tổng thể các thể chế, thiết chế và các điều kiện bảo đảm cho sự vận
hành cơ chế. Trong đó, thể chế đóng vai trò là những cơ sở pháp lý, những quy tắc
cho sự vận hành, còn thể chế là các chủ thể trong cơ chế vận hành đó và nó chỉ
được diễn ra khi có các điều kiện phối hợp trên thực tế mà thông thường thuộc về
chế độ chính trị, truyền thống pháp lý hoặc yếu tố văn hóa, con người.
Như vậy, có thể hiểu ban đầu về cơ chế bảo đảm sự độc lập của thẩm phán là
những cách thức, phương thức có vai trò, nhiệm vụ tôn trọng, bảo toàn và bảo vệ sự

độc lập của thẩm phán. Cơ chế này được hình thành từ nhiều phương thức ở các
khía cạnh khác nhau, từ pháp lý cho đến các phương thức mang tính chính trị, xã
hội. Do đó, cơ chế bảo đảm sự độc lập của thẩm phán là một tổng thể các phương
thức có mối quan hệ gắn kết, tương hỗ và đặc biệt kết nối ở nhiệm vụ bảo đảm sự
độc lập của thẩm phán.

14


Chẳng hạn, có học giả cho rằng, muốn bảo đảm sự độc lập của thẩm phán,
phải thực hiện hai phương thức:
(1) thẩm phán phải được bảo vệ không bị đe dọa trả thù, để phán
quyết của họ không bị nỗi lo sợ điều khiển; (2) Các phương pháp lựa
chọn thẩm phán và các nguyên tắc đạo đức áp dụng đối vợi họ cần được
xây dựng sao cho hạn chế đến mức thấp nhất khả năng tham nhũng và
ảnh hưởng khách quan [41, tr.321].
1.2.1.2. Cơ sở hình thành cơ chế bảo đảm sự độc lập của thẩm phán
Sự độc lập của thẩm phán luôn là nhu cấu bức thiết của đời sống chính trị pháp lý, bất kỳ Nhà nước nào cũng đều đưa ra các phương thức bảo đảm sự độc lập
của thẩm phán, tuy nhiên, với tính chất của hoạt động tư pháp và những thuộc tính
của một cá nhân thì việc bảo đảm sự độc lập của thẩm phán phải cần đến một cơ
chế với sự tổng hợp của các phương thức khác nhau.
Lý giải về Cơ sở cho sự hình thành cơ chế bảo đảm sự độc lập của thẩm
phán, chúng tôi cho rằng:
Thẩm phán với vị trí và chức năng của mình, có nhiều khả năng bị sự can
thiệp chi phối của các chủ thể khác nhau, từ nhiều phía mà theo tổng kết, chúng tôi
đồng ý với ý kiến rằng: thẩm phán muốn độc lập phải bảo đảm tránh được, chịu
đựng được và vượt qua được các mối quan hệ chi phối sau đây: (1) Sự tác động từ
các yếu tố bên ngoài, có thể là các Đảng phái chính trị, các tổ chức, cá nhân có trách
nhiệm, quyền hạn trong việc đánh giá, tuyển chọn, bổ nhiệm thẩm phán, những chủ
thể tiến hành tố tụng khác như cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, có thể là những

người tham gia tố tụng, có thể là dư luận, là truyền thông; (2) Sự tác động từ các
yếu tố bên trong hệ thống tư pháp như giữa Tòa án cấp trên với tòa án cấp dưới,
Chánh án, Chánh tòa với thẩm phán và thứ (3) là sự chi phối của các thành viên
khác trong Hội đồng xét xử đối với thẩm phán. Thực tiễn hoạt động của tòa án ở
Hoa Kỳ - một nền tư pháp độc lập bậc nhất trên thế giới, cho thấy, khi giải quyết
một vụ tranh chấp cụ thể, trong đó lợi ích giữa hai bên tranh chấp mang tính đối
chọi nhau về tính thắng/thua, hợp pháp/bất hợp pháp, đúng/sai, các bên thường

15


mong muốn vụ việc được kết thúc theo hướng có lợi cho mình. Trong bối cảnh
đó,có 3 nguồn áp lực chính mà thẩm phán thường phải đối mặt đó là: (1) các cơ
quan, tổ chức, cá nhân khác trong bộ máy cầm quyền, bao gồm cả lãnh đạo của tòa
án, thẩm phán của tòa án cấp trên (nhất là trong các vụ xét xử có liên quan tới cán
bộ lãnh đạo của các cơ quan này hoặc thân hữu của những cán bộ này); (2) các bên
đương sự trong vụ việc; và (3) dư luận xã hội (áp lực dư luận). Tư pháp độc lập vì
thế chính là sự độc lập của thẩm phán đối với cả 3 nguồn áp lực kể trên. Ngoài ra,
sự độc lập của thẩm phán còn bao hàm sự độc lập của chính những người cùng làm
công tác xét xử với nhau khi giải quyết một vụ án (tức là sự độc lập của các thẩm
phán với nhau), thậm chí là sự độc lập của thẩm phán với chính mình (theo nghĩa họ
không được xét xử những vụ việc mà bản thân họ đã có đinh
̣ kiế n hoă ̣c có l ợi ích
liên quan tới vụ việc hoặc với các bên trong vụ việc ấy) [7].
Với tổng thể các mối quan hệ như thế, để bảo đảm sự độc lập của thẩm phán,
không có một công cụ, phương tiện đơn lẻ nào là hiệu quả, trước hết là pháp luật
với những quy định bảo đảm sự độc lập của thẩm phán có ý nghĩa là nền tảng pháp
lý tôn trọng và bảo vệ sự độc lập của thẩm phán với hai nội dung: (1) khẳng định sự
độc lập của thẩm phán và quy định những biện pháp pháp lý bảo đảm cho sự độc
lập đó cả về phương diện tổ chức, hoạt động (2) Cấm đoán các chủ thể khác can

thiệp vào hoạt động của thẩm phán và (3) quy định trách nhiệm đối với thẩm phán
khi thiếu sự độc lập và trách nhiệm của chủ thể khác khi can thiệp vào sự độc lập
của thẩm phán.
Tuy nhiên, dù pháp luật là cơ bản nhưng vẫn chưa đủ để bảo đảm sự độc lập
của thẩm phán mà sự độc lập này cần phải được bảo đảm bởi những yếu tố khác
ngoài pháp luật, đó là các yếu tố thuộc về: chế độ chính trị, điều kiện vật chất, trình
độ chuyên môn, ý thức trách nhiệm của thẩm phán và đôi khi nó còn là truyền
thống, văn hóa. Do đó, muốn bảo đảm sự độc lập của thẩm phán, một phương thức
là không hiệu quả, mà phải cần một cơ chế với tổng hợp tất cả những yếu tố thuộc
về quy tắc (thể chế), thuộc về chủ thể (thiết chế) và những điều kiện khác bảo đảm
cho sự vận hành của cơ chế.

16


Thẩm phán liêm chính có nghĩa là thẩm phán chỉ làm những điều đúng đắn,
đàng hoàng, trong sáng, không tham lam, không vụ lợi và khi thực hiện nhiệm vụ
chỉ tuân thủ Hiến pháp, pháp luật và nhân danh công lý. Liêm chính không chỉ là
những phẩm chất tốt đẹp, trong sáng, chính đáng, phù hợp với những chuẩn mực,
đạo đức của một cá nhân, mà còn là những yêu cầu, tiêu chuẩn, đòi hỏi đối với
những hành vi, hành động của thẩm phán – người nhân danh công lý để bảo vệ
quyền, tự do, phẩm giá của con người, trật tự, công lý và công bằng xã hội. Nhưng,
thẩm phán xét cho cùng cũng chỉ là một con người, và vì thế nên có đủ tất cả mọi
xúc cảm, hỉ, nộ, ái, ố mà một con người thường có. Ở khía cạnh khác, thẩm phán là
một nhà chức trách nắm giữ quyền lực, nhân danh công lý để thực thi nhiệm vụ nên
thẩm phán cần phải có những đảm bảo để thực sự độc lập và chỉ có thực sự độc lập
thì thẩm phán mới được liêm chính. Và chỉ khi thẩm phán thực sự liêm chính thì hệ
thống tư pháp mới có được đầy đủ năng lực, uy tín và niềm tin để thực sự trở thành
cái khiên đỡ, là thành trì vững chắc cuối cùng bảo vệ quyền, tự do, nhân phẩm của
mỗi con người, bảo vệ công bằng, công lý và trật tự xã hội [52].

Sự độc lập của thẩm phán, theo đó chỉ được bảo đảm khi tổng thể các yếu
tố sau đều cùng hướng đến mục tiêu tạo cơ sở cho sự độc lập của thẩm phán: (1)
quy trình đề cử, tuyển chọn, bổ nhiệm thẩm phán minh bạch, công khai và dựa
trên trình độ, năng lực và đạo đức của thẩm phán, (2) nhiệm kỳ của thẩm phán
vững chắc, lâu dài, (3) cơ sở và quy trình xem xét kỷ luật, bãi nhiệm thẩm phán
phải công khai, minh bạch và khách quan, (4) thẩm phán phải được hưởng lương
và chế độ đại ngộ thỏa đáng, (5) Cần có bộ quy tắc đạo đức nghề nghiệp cho thẩm
phán, (6) quy định trách nhiệm của Tòa án ở mức hợp lý và cân bằng với sự bảo
đảm độc lập của thẩm phán.
1.2.1.3. Vai trò của cơ chế bảo đảm sự độc lập của thẩm phán
Việc hình thành một cơ chế bảo đảm sự độc lập của thẩm phán có ý nghĩa
đặc biệt quan trọng với một nhà nước hầu như ở tất cả các khía cạnh trong đời sống
chính trị - pháp lý, văn hóa – xã hội của một quốc gia. Ở từng mặt cụ thể, cơ chế
bảo đảm sự độc lập của thẩm phán có vai trò cụ thể như sau:

17


Thứ nhất, vai trò của cơ chế đối với bản thân thẩm phán và hệ thống tư
pháp: cơ chế bảo đảm sự độc lập của thẩm phán là cơ sở cho những phán quyết
công minh, khách quan của thẩm phán, là nền tảng cho một nền tư pháp hướng đến
bảo vệ công lý và lẽ công bằng. Nếu không có cơ chế bảo đảm sự độc lập của thẩm
phán thì bản thân thẩm phán không làm tốt chức trách của một người phán xử, thẩm
phán lúc này chỉ là công cụ cho những thế lực, những nhóm người muốn chi phối
vụ việc theo chiều hướng của mình. Nói cách khác, cơ chế bảo đảm độc lập của
thẩm phán sẽ là bệ phóng cho những thẩm phán chân chính muốn khẳng định sứ
mạng của người phán quyết, là cơ sơ cho niềm tin về trách nhiệm bảo vệ công lý
của các thẩm phán.
Với hệ thống tư pháp, cơ chế bảo đảm sự độc lập của thẩm phán là sự cấu
thành cơ bản nhất trong cơ chế bảo đảm sự độc lập của ngành tư pháp. thẩm phán

độc lập là yêu cầu đầu tiên của một nền tư pháp độc lập, vì thế việc có một cơ chế
bảo đảm sự độc lập của thẩm phán hoàn chỉnh thì nhiệm vụ của cả ngành tư pháp
mới có cơ sở hoàn thành.
Thứ hai, cơ chế bảo đảm sự độc lập của thẩm phán với việc thực hiện chức
năng của Nhà nước: mỗi Nhà nước đều có chức năng đối nội và đối ngoại, chức
năng đối nội nhằm thực hiện trách nhiệm của Nhà nước với người dân của mình. Cơ
chế bảo đảm sự độc lập của thẩm phán là tiền đề bảo đảm cho việc Nhà nước thực
hiện thành công, hiệu quả việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ
chức, phân xử và phán xét sự đúng, sai của các hành vi, buộc người có hành vi sai
trái phải gánh trách nhiệm nhân thân, tài sản với vi phạm do mình gây ra. Điều đó
giúp giữ vững an ninh, trật tự và an toàn xã hội, bảo đảm một Nhà nước an toàn, có
trật tự, kỹ cương, những giá trị tốt đẹp được nhân rộng và hạn chế những tiêu cực.
Từ thực tiễn các quốc gia đều cho thấy, khó có một nhà nước nào phát triển kinh tế
bền vững khi vấn đề tội phạm, hoặc các vi phạm hành chính, dân sự không được
xem xét giải quyết thấu tình đạt lý, đặc biệt khó có nhà nước nào trở thành hình mẫu
của sự vươn lên nếu không phòng chống được tham nhũng mà sự độc lập của thẩm
phán là yêu cầu tối thiểu cho cuộc đấu tranh khó khăn này.

18


×