Tải bản đầy đủ (.pdf) (117 trang)

Tuổi chịu trách nhiệm hình sự trong luật hình sự việt nam (trên cơ sở thực tiễn địa bàn tỉnh hà tĩnh)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.53 MB, 117 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

LÊ NỮ NGỌC DIỆP

TUæI CHịU TRáCH NHIệM HìNH Sự
TRONG LUậT HìNH Sự VIệT NAM
(Trên cơ sở thực tiễn địa bàn tỉnh Hà Tĩnh)

LUN VN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2017


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

LÊ NỮ NGỌC DIỆP

TUæI CHịU TRáCH NHIệM HìNH Sự
TRONG LUậT HìNH Sự VIệT NAM
(Trên cơ sở thực tiễn địa bàn tỉnh Hà Tĩnh)
Chuyờn ngnh: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 60 38 01 04

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. ĐẶNG QUANG PHƢƠNG

HÀ NỘI - 2017



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng
tơi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được cơng bố trong bất kỳ
cơng trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm
bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tơi đã hồn thành tất cả các
mơn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định
của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tơi
có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN

Lê Nƣ̃ Ngo ̣c Diêp̣


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
Danh mục các bảng
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
Chƣơng 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TUỔI CHỊU TRÁCH NHIỆM
HÌNH SỰ TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM ........................................... 6
1.1.

Khái niệm tuổi chịu trách nhiêm
̣ hin

̣
̀ h sƣ ̣ và năng l ực trách nhiêm
hình sự ...........................................................................................................6
1.1.1. Khái niệm tuổi chịu trách nhiê ̣m hin
̀ h sự .......................................................6
1.1.2. Khái niệm năng lực trách nhiê ̣m hình sự .......................................................8
1.1.3. Ý nghĩa của tuổi chịu trách nhiê ̣m hình sự ....................................................9
1.2.

Cơ sở của việc quy định tuổi chịu trách nhiêm
̣ hin
̀ h sƣ ̣ và phân
loại tuổi chịu trách nhiêm
̣ hin
̀ h sƣ ̣ ..............................................................9
1.2.1. Cơ sở của việc quy định tuổi chịu trách nhiê ̣m hin
̀ h sự .................................9
1.2.2. Phân loại tuổi chịu trách nhiê ̣m hin
̀ h sự.......................................................13
1.3.

Khái quát quy định của pháp luật hình sự một số nƣớc về tuổi
chịu trách nhiêm
̣ hin
̀ h sƣ ̣...........................................................................18
Kết luận Chƣơng 1 ..................................................................................................25
Chƣơng 2: QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM 1999 VỀ TUỔI
CHỊU TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH HÀ TĨNH ...........................................................27
2.1.


Quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 về tuổi chịu trách nhiêm
̣
hình sự .........................................................................................................27
2.1.1. Quy định về độ tuổi từ đủ 14 tuổi đến chưa đủ 16 tuổi chịu trách
nhiê ̣m hiǹ h sự ...............................................................................................27
2.1.2. Quy định về độ tuổi từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiê ̣m hin
...........32
̀ h sự
2.1.3. Quy định về độ tuổi chịu trách nhiê ̣m hin
̀ h sự trong một số trường hợp
cụ thể ............................................................................................................33


2.1.4. Quy định xác định độ tuổi trong việc truy cứu trách nhiê ̣m hình sự ...........38
2.2.

Thực tiễn áp dụng quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 về tuổi
chịu trách nhiêm
̣ hin
̀ h sƣ ̣ trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh ..............................42

2.2.1. Tổ ng quan kế t quả áp d ụng quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 về
tuổi chịu trách nhiê ̣m hin
̀ h sự.......................................................................42
2.2.2. Những vi phạm, sai lầm trong áp dụng quy định của pháp luật hình sự
về tuổi chịu trách nhiệm hình sự và nguyên nhân ........................................49
Kết luận Chƣơng 2 ..................................................................................................64
Chƣơng 3: CÁC YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ÁP DỤNG ĐÚNG
QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ TUỔI CHỊU TRÁCH NHIỆM

HÌNH SỰ .............................................................................................................65
3.1.

Các yêu cầu bảo đảm áp dụng đúng quy định của pháp luật về
tuổi chịu trách nhiệm hình sự ...................................................................65
3.1.1. Yêu cầu pháp chế xã hội chủ nghĩa ..............................................................65
3.1.2. Bảo đảm quyền con người (đặc biệt người chưa thành niên) ......................71
3.1.3. Yêu cầu chống và phòng ngừa tội phạm ......................................................75
3.2.
3.2.1.
3.2.2.
3.2.3.
3.2.4.
3.2.5.

Các giải pháp bảo đảm áp dụng đúng quy định của pháp luật về
tuổi chịu trách nhiệm hình sự ...................................................................76
Tiếp tục hồn thiện Bộ luật hình sự năm 2015 ............................................76
Tập huấn nghiệp vụ, hướng dẫn thi hành Bộ luật hình sự năm 2015,
sửa đổi bổ sung năm 2017 ............................................................................89
Tăng cường kiểm tra, giám đốc xét xử, xây dựng án lệ ...............................90
Tăng cường năng lực những người tiến hành tố tụng ..................................91
Tăng cường năng lực những người tham gia tố tụng trong việc truy
cứu trách nhiệm hình sự ...............................................................................93

Kết luận chƣơng 3 ...................................................................................................99
KẾT LUẬN ............................................................................................................101
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................104



DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
BCA:

Bộ Cơng an

BLHS:

Bộ luật hình sự

BTP:

Bộ tư pháp

HĐTP:

Hội đồng thẩm phán

Người CTN:

Người chưa thành niên

NLTNHS:

Năng lực trách nhiệm hình sự

NQ:

Nghị quyết

TAND:


Tịa án nhân dân

TANDTC:

Tịa án nhân dân tối cao

TNHS:

Trách nhiệm hình sự

TTLT:

Thơng tư liên tịch

TW:

Trung ương

VKSNDTC:

Viện kiểm sát nhân dân tối cao


DANH MỤC CÁC BẢNG

Số hiệu bảng

Tên bảng


Bảng 1.1: Bản tổng quan sự hình thành và phát triển nhân cách
con người

Trang

15

Bảng 1.2: Liệt kê độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự của một số
quốc gia trên thế giới

19


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình
sự (BLHS), do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc
vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ tổ quốc, xâm phạm
chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hố, quốc phịng, an ninh, trật tự, an tồn xã
hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự,
nhân phẩm, tự do, tài sản, các quyền, lợi ích hợp pháp khác của cơng dân, xâm phạm
những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa (khoản 1 Điều 8 BLHS).
Một trong các yếu tố cấu thành tội phạm đó là chủ thể của tội phạm và theo
Bô ̣ luâ ̣t hình sự năm 1999 là con người cụ thể có năng lực trách nhiệm hình sự
(NLTNHS), đạt độ tuổi luật định và thực hiện hành vi phạm tội, (Bô ̣ luâ ̣t hin
̀ h sự
năm 2015 quy đinh
̣ chủ thể của tô ̣i pha ̣m còn là ph áp nhân thương mại).
Tuổi chịu trách nhiệm hình sự là một vấn đề lớn trong khoa học luật hình sự
cũng như trong lập pháp hình sự, thể hiện quan điểm của Nhà nước về cách thức xử

lý người phạm tội, vừa đảm bảo trật tự an toàn cho xã hội nhưng phải vừa đạt được
mục đích bảo vệ quyền con người, đặc biệt là quyền của người chưa thành niên, kể
cả khi họ thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội.
Hiện nay vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau về tuổi chịu trách nhiệm hình sự.
Tuổi chịu trách nhiệm hình sự là độ tuổi được xác định trong pháp luật hình sự của
mỗi quốc gia, mà chỉ đến độ tuổi đó trở về sau, một người thực hiện hành vi phạm
tội mới có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Chính vì vậy, tuổi là một trong
những yếu tố có đặc tính xã hội ảnh hưởng nhất định đến hành vi phạm tội và khả
năng nhận thức, giáo dục, cải tạo người phạm tội.
Bên cạnh đó, độ tuổi cũng là một trong những căn cứ để làm giảm nhẹ hoặc
miễn trách nhiệm hình sự (TNHS). Việc cân nhắc độ tuổi để truy cứu TNHS và
quyết định hình phạt là một trong những biểu hiện nhân đạo, công bằng và cá thể
hóa hình phạt được thể hiện rõ trong luật hình sự nước ta và được thực tiễn ghi
1


nhận. Chính vì vậy, tuổi chịu trách nhiệm hình sự là yếu tố khơng thể thiếu trong
q trình xem xét truy cứu trách nhiệm hình sự đối với một người.
Thực tiễn áp dụng quy định của pháp luật hình sự về chủ thể của tội phạm
nói chung và tuổi chịu TNHS của chủ thể nói riêng giữa các cơ quan tiến hành tố
tụng (THTT), các địa phương có thể cịn có sự khác nhau. Vì vậy, làm rõ các quy
định của pháp luật về tuổi chịu TNHS, cũng như thực tiễn áp dụng các quy định về
tuổi chịu TNHS, trên cơ sở đánh giá thực tiễn giải quyết các vụ án liên quan đến
tuổi chịu TNHS trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh để có những kiến nghị, giải pháp hồn
thiện các quy định của pháp luật hiện hành là hết sức cần thiết. Từ những vấn đề
trên, tôi nhận thấy đề tài “Tuổi chịu trách nhiệm hình sự trong luật hình sự Việt
Nam (trên cơ sở thực tiễn địa bàn tỉnh Hà Tĩnh)” vẫn cịn ngun tính thời sự và
mới mẻ. Đó chính là lý do tơi chọn đề tài này làm luận văn Thạc sĩ Luật học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Là một trong những chế định quan trọng trong BLHS nhưng đến thời điểm

này tuổi chịu TNHS vẫn chưa thực sự có một cơng trình nào nghiên cứu đầ y đủ ,
toàn diện cả về lý luận và thực tiễn . Vấn đề này chủ yếu được đề cập đến như một
phần nhỏ trong các bài viết, khóa luận, luận văn về tội phạm và cấu thành tội phạm,
chủ thể của tội phạm hay nhân thân người phạm tội hoặc trong các cơng trình
nghiên cứu về người chưa thành niên phạm tội. Các nghiên cứu khoa học khác cũng
rất ít đề cập đến việc nghiên cứu về tuổi hay cách xác định tuổi của con người trong
mối quan hệ với TNHS.
Tuy nhiên, cũng có thể kể đến một số cơng trình nghiên cứu như: 1) Sách
chun khảo Sau đại học: Những vấn đề cơ bản trong khoa học Luật hình sự (Phần
chung) của TSKH. PGS. Lê Văn Cảm, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, 2005; 2)
Bình luận khoa học Bộ luật hình sự 1999 – Phần chung, NXB Thành phố Hồ Chí
Minh, 2000 của ThS. Đinh Văn Quế; 3) Tội phạm và cấu thành tội phạm, NXB
Công an nhân dân, Hà Nội, 2006 của GS.TS. Nguyễn Ngọc Hòa; 4) Luận văn thạc
sĩ luật học “Chủ thể của tội phạm theo luật hình sự Việt Nam” của tác giả Lê Đăng
Doanh, Trường đại học Luật Hà Nội, 1999; Luận văn thạc sĩ luật học “Những vấn

2


đề lý luận và thực tiễn về tuổi chịu TNHS theo Luật hình sự Việt Nam” của tác giả
Trần Thị Hoàng Lan, Trường Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2012…
Ngồi ra, cịn rất nhiều bài viết đăng trên các tạp chí có liên quan đến tuổi
chịu TNHS, ví dụ như: Nhân thân người phạm tội với việc quyết định hình phạt của
tác giả Nguyễn Thị Thanh Thuỷ; bài về Xác định tuổi của người chưa thành niên
như thế nào cho đúng? của tác giả Lưu Đình Nghĩa; Nhân thân người phạm tội Một số vấn đề lý luận cơ bản của TSKH. PGS. Lê Cảm; Tiếp tục hoàn thiện những
quy định của BLHS trước yêu cầu mới của đất nước của tác giả Trịnh Tiến Việt;
v.v… đã được đăng trên Tạp chí Tồ án nhân dân và Tạp chí Kiểm sát (xem thêm ở
phần danh mục tài liệu tham khảo).
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu

Đề tài góp phần làm sáng tỏ thêm những vấn đề lý luận về tuổi chịu TNHS,
đồng thời làm rõ các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về tuổi chịu TNHS,
gắn với thực tiễn trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh để từ đó đưa ra những giải pháp hoàn
thiện quy định của pháp luật về tuổi chịu THNS và bảo đảm áp du ̣ng đúng pháp luâ .̣t
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Từ mu ̣c đić h nên trên , với cấ p đô ̣ luâ ̣n văn tha ̣c sỹ luâ ̣t ho ̣c , tác giả tập trung
giải quyết các nhiệm vụ sau đây :
Nghiên cứu các quan điểm về tuổi chịu TNHS, ý nghĩa của độ tuổi với TNHS;
Nghiên cứu quy đinh
̣ của pháp luâ ̣t hình sự hiê ̣n hành về tuổi chịu TNHS;
Nghiên cứu thực tiễn áp dụng các quy định về tuổi chịu TNHS trên địa bàn
tỉnh Hà Tĩnh;
Nghiên cứu pháp luật hình sự một số nước trên thế giới;
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu các quan điểm, các cơng trình có liên quan đến tuổi
chịu TNHS;
Nghiên cứu quy định của pháp luật Việt Nam về tuổi chịu TNHS;

3


Nghiên cứu quy định pháp luật một số nước về tuổi chịu TNHS;
Nghiên cứu thực tiễn truy cứu THNS liên quan đến việc xác định tuổi trên
địa bàn tỉnh Hà Tĩnh (thực tiễn xét xử tại Tòa án).
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu các quan điểm trong nước; trong phạm vi Việt Nam và có
nghiên cứu pháp luật một số quốc gia ; cơ sở th ực tiễn trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh,
thời gian trong 05 năm (từ năm 2011 đến năm 2016).
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu

5.1. Phương pháp luận
Đề tài dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, chủ trương chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước với phương pháp
nghiên cứu của chủ nghĩa duy vật lịch sử và phép biện chứng duy vật.
5.2 Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng một số phương pháp nghiên cứu đặc thù của khoa học luật
hình sự, luật tố tụng hình sự và tội phạm học như: Phương pháp so sánh luật học,
phương pháp đối chiếu, phương pháp phân tích - tổng hợp, phương pháp lịch sử,
phương pháp thống kê hình sự để tổng hợp các tri thức khoa học luật và những vấn
đề cần nghiên cứu.
6. Ý nghĩa của luận văn
Luận văn có ý nghĩa khoa học và thực tiễn quan trọng thể hiện ở chỗ đây là
đề tài đề cập tương đối đầy đủ, hệ thống, logic những vấn đề lý luận và thực tiễn về
tuổi chịu TNHS trong luật hình sự Việt Nam ở cấp độ một luận văn thạc sĩ luật học;
phân tích, đánh giá tính hiệu quả của pháp luật thực định, quá trình áp dụng trong
thực tiễn để thấy rõ giá trị những kiến nghị, giải pháp được đưa ra nhằm hồn thiện
pháp luật hình sự trong tương lai.
Bên cạnh đó, luận văn cịn phân tích chế định tuổi chịu TNHS trong sự so
sánh với quy định của một số nước trên thế giới, sự ảnh hưởng của lịch sử dựa trên
các điều kiện phát triển kinh tế - xã hội và đặc điểm tâm sinh lý của con người qua
từng thời kỳ; khoa học luật hình sự xác định tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự

4


không chỉ dựa vào tiêu chuẩn về sự phát triển tâm sinh lý của con người mà chủ yếu
là sự phát triển về quá trình nhận thức và yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm
và bao gồm nhiều nội dung có liên quan khác. Đồng thời, đánh giá thực tiễn áp
dụng chế định tuổi chịu TNHS; những bất cập, vướng mắc và phân tích chúng qua
các vụ án cụ thể. Từ đó, luận văn đưa ra giải pháp khắc phục và kiến nghị giải pháp

nhằm hoàn thiện chế định tuổi chịu TNHS trong pháp luật hình sự Việt Nam dưới
góc độ lập pháp hình sự và thực tiễn áp dụng.
Luận văn có giá trị là tư liệu tham khảo cho các nhà lập pháp - hoạch định
chính sách, các nhà tâm lý - xã hội học, các nhà khoa học - thực tiễn, sinh viên, học
viên cao học và nghiên cứu sinh chuyên ngành luật hình sự.
7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Danh mục tài liệu tham khảo và phầ n mu ̣c lu ̣c , luận văn
gồm có 3 Chương.
Chương 1: Mô ̣t số vấn đề lý luận về tuổi chịu trách nhiệm hình sự trong Luật
hình sự Việt Nam.
Chương 2: Quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 về tuổi chịu trách nhiệm
hình sự và thực tiễn áp dụng trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh.
Chương 3: Các yêu cầu và giải pháp bảo đảm áp dụng đúng quy định của
pháp luật về tuổi chịu trách nhiệm hình sự.

5


Chƣơng 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
VỀ TUỔI CHỊU TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ
TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
1.1. Khái niệm tuổi chịu trách nhiêm
̣ hin
̣
̀ h sƣ ̣ và năng l ực trách nhiêm
hình sự
1.1.1. Khái niệm tuổi chịu trách nhiê ̣m hình sự
Mă ̣c dù còn có nhiề u cách hiể u , cách định nghĩa khác nhau , song nhin
̀ chung

đều cho rằng : Trách nhiệm hình sự là một dạng trách nhiệm pháp lý, là hậu quả
pháp lý bất lợi mà người phạm tội phải gánh chịu trước Nhà nước do việc người đó
thực hiện tội phạm và là kết quả của việc áp dụng các quy phạm pháp luật hình sự,
được thể hiện ở bản án kết tội của Tịa án có hiệu lực pháp luật, hình phạt và một
số biện pháp cưỡng chế hình sự khác do luật hình sự quy định. Chỉ người nào đạt
độ tuổ i nhấ t đi ̣nh thì mới phải chi ̣u trách nhiê ̣m hình sự.
Tuổi chịu TNHS có các đặc điểm sau đây:
Thứ nhất, tuổi chịu TNHS do luật hình sự quy định.
Xét về tính hệ thống, các quy định của ngành luật này trong cùng một hệ
thống có thể sử dụng để phân tích làm sáng tỏ nội dung các quy phạm pháp luật của
ngành luật khác. Tuy nhiên, nhiều nội dung có tính đặc thù, chun biệt thì chúng ta
cần phải xác định theo quy định của ngành luật đó. Vấn đề độ tuổi để xác định tư
cách chủ thể là một nội dung có tính chuyên biệt, được xác định theo từng ngành
luật. Mỗi ngành luật có cách xác định khác nhau về độ tuổi.
Chính vì vậy, về nguyên tắc, khi xác định tuổi chịu TNHS, chúng ta cần căn
cứ vào những quy định của luật hình sự mà khơng viện dẫn các quy định của các
ngành luật khác. Chỉ trong những trường hợp luật hình sự dẫn chiếu sang quy định
của các ngành luật khác thì chúng ta mới sử dụng cách tính tuổi của ngành luật đó
để xác định tuổi chịu TNHS.
Thứ hai, tuổi chịu TNHS là tuổi trịn.
Mỗi ngành luật đều có cách thức để xác định tuổi của chủ thể tham gia quan
6


hệ pháp luật do ngành luật mình điều chỉnh. Đối với chủ thể của tội phạm, luật hình
sự Việt Nam xác định tuổi là theo tuổi tròn. Điều này thể hiện trong các quy định,
cụ thể: Tại điều 12 Bộ luật hình sự 1999 quy định về tuổi chịu TNHS: “người từ đủ
16 tuổi...” và “người từ đủ 14 tuổi…”. Tuổi trịn ở đây là ngưỡng để tính tuổi tối
thiểu của người phạm tội và tuổi tối đa của người bị hại trong trường hợp tuổi của
người bị hại chi phối tới việc xác định TNHS của người phạm tội. Cách tính tuổi

trịn được xác định bằng cách lấy ngày sinh nhật gần nhất của người đó để tính.
Trong một số trường hợp đặc biệt, khi luật hình sự dẫn chiếu sang ngành luật
khác thì chúng ta áp dụng cách tính tuổi của ngành luật đó.
Thứ ba, tuổi chịu TNHS tính từ thời điểm người đó sinh ra đến thời điểm
người đó thực hiện hành vi phạm tội.
Thời điểm đầu để xác định tuổi của người phạm tội là ngày người đó được
sinh ra. Thời điểm sinh được xác định dựa vào các loại giấy tờ có giá trị pháp lý
gắn liền với nhân thân của người đó như giấy chứng sinh, giấy khai sinh, chứng
minh thư nhân dân, cá loại văn bằng, chứng chỉ.... Nhưng trên thực tế, không phải
khi nào chúng ta cũng có các loại giấy tờ trên để xác định tuổi. Trong nhiều
trường hợp, chúng ta khơng có cơ sở pháp lý vững chắc để xác định ngày sinh của
người phạm tội. Trong những trường hợp này, chúng ta phải xác định ngày sinh
của người phạm tội theo nguyên tắc có lợi cho người thực hiện hành vi phạm tội.
Thời điểm sau để xác định độ tuổi đó là thời điểm hành vi nguy hiểm cho xã hội
được thực hiện. Có nghĩa là: Hành vi được thực hiện ngày nào thì ngày đó được sử
dụng để tính tuổi của người thực hiện hành vi phạm tội. Đối với những trường hợp
hành vi phạm tội là hành vi kéo dài hoặc hành vi có tính liên tục mà tuổi của
người phạm tội có tính chất “giáp ranh” ảnh hướng để việc xác định trách nhiệm
hình sự, ta cần xem xét cụ thể để tách hành vi đó ở các độ tuổi khác nhau để xem
xét trách nhiệm hình sự được chính xác.
Trên cơ sở phân tích về tuổi chịu TNHS như trên, có thể rút ra định nghĩa về
tuổi chịu TNHS như sau: Tuổi chịu trách nhiệm hình sự là độ tuổi được luật hình sự
quy định nhằm xác định khi một người phát triển đến độ tuổi đó mới có thể phải

7


chịu trách nhiệm hình sự, cũng như mức độ trách nhiệm hình sự phải chịu về hành
vi phạm tội do mình gây ra.
1.1.2. Khái niệm năng lực trách nhiê ̣m hình sự

Hiện nay, trong khoa học Luật hình sự và thực tiễn áp dụng mặc nhiên thừa
nhận sự tồn tại độc lập của hai dấu hiệu năng lực trách nhiệm hình sự (NLTNHS) và
tuổi chịu TNHS. Nghĩa là, khi phân tích lý luận về mặt chủ thể của tội phạm trong
phần chung, chúng ta đều tách hai tiêu chuẩn của một cá nhân để trở thành chủ thể
của tội phạm bao gồm: NLTNHS và tuổi chịu TNHS. Trong phần các tội phạm, khi
phân tích bốn yếu tố cấu thành tội phạm (CTTP) của từng tội phạm cụ thể, chúng ta
cũng ln nêu cụm từ: "người có NLTNHS và đạt độ tuổi chịu TNHS".
Điều này xuất phát từ thực tế các nhà lập pháp hình sự nước ta đã quy định
hai nội dung này ở hai điều luật khác nhau, đó là tình trạng khơng có NLTNHS
(Điều 13 Bộ luật Hình sự) và tuổi chịu TNHS (Điều 12 Bộ luật Hình sự). Do đó,
theo nghĩa rộng thì NLTNHS phải bao gồm cả nội dung tuổi chịu TNHS. Theo đó:
“ Năng lực trách nhiệm hình sự là khả năng nhận thức được tính nguy hiểm cho xã
hội của hành vi một người, khả năng điều khiển được hành vi đó và khả năng gánh
lấy những hậu quả pháp lý là trách nhiệm hình sự do hành vi mà chính họ gây ra.
Năng lực trách nhiệm hình sự bao gồm khả năng nhận thức, khả năng điều
khiển hành vi và tuổi chịu trách nhiệm hình sự”.
Cịn hiểu theo nghĩa hẹp thì “Năng lực TNHS phải đạt độ tuổi và năng lực
của tự ý thức, được hình thành trong quá trình phát triển của cá thể cả về mặt tự
nhiên và xã hội”.
Một người chưa đủ tuổi chịu TNHS thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội
ln được coi là khơng có lỗi [6, tr.183]. Tương tự như trường hợp khi thực hiện
hành vi nguy hiểm cho xã hội mà mắc bệnh dẫn đến mất khả năng nhận thức hoặc
khả năng điều khiển hành vi. Một khi đã có hành vi phạm tội có nghĩa là bốn yếu tố
cấu thành tội phạm đã thỏa mãn và TNHS phải được đặt ra vì khơng thể có tội phạm
nào trong Bộ luật hình sự mà khơng có kèm theo hình phạt (đặc trưng của TNHS).
Việc họ được miễn TNHS trong một số trường hợp không thể được coi là "chưa đến

8



mức bị truy cứu TNHS” hoặc hành vi của họ không phải là tội phạm cũng không
thể được coi là "chưa đến mức bị truy cứu TNHS" mà phải coi là họ khơng có
TNHS. Do đó, có thể khẳng định một cách chắc chắn rằng người chưa đủ tuổi chịu
TNHS thì hành vi của họ khơng thể bị coi là tội phạm, nghĩa là họ không bao giờ bị
coi là "đã phạm tội" và họ khơng có TNHS.
1.1.3. Ý nghĩa của tuổi chịu trách nhiê ̣m hình sự
Tuổi chịu TNHS là một vấn đề không thể thiếu trong pháp luật hình sự của
mỗi quốc gia, thể hiện quan điểm của Nhà nước về cách thức xử lý người phạm tội,
vừa đảm bảo trật tự an toàn cho xã hội nhưng phải đạt được mục đích bảo vệ quyền
con người, đặc biệt là quyền của người chưa thành niên, kể cả khi họ thực hiện hành
vi nguy hiểm cho xã hội. Tuổi chịu TNHS mặc dù khơng được ghi nhận chính thức
dưới góc độ lập pháp là một đặc điểm (dấu hiệu) cơ bản của tội phạm trong Điều 8
BLHS. Tuy nhiên, dấu hiệu này lại có ý nghĩa rất quan trọng trong việc làm sáng tỏ
TNHS của người phạm tội. Đây cũng như là dấu hiệu không thể thiếu trong yếu tố
chủ thể của tội phạm bên cạnh dấu hiệu “năng lực TNHS”. Ngoài ra, độ tuổi chịu
TNHS cũng là một vấn đề quan trọng có ý nghĩa quyết định đối với quá trình giải
quyết vụ án hình sự. Việc cân nhắc tuổi chịu TNHS cùng với các căn cứ khác để
quyết định hình phạt là một trong những biểu hiện nhân đạo, cơng bằng và cá thể
hóa hình phạt có ý nghĩa giáo dục, cải tạo và phịng ngừa rất lớn.
1.2. Cơ sở của việc quy định tuổi chịu trách nhiêm
̣ hin
̀ h sƣ ̣ và phân lo ại
tuổi chịu trách nhiêm
̣ hin
̀ h sƣ ̣
1.2.1. Cơ sở của việc quy định tuổi chịu trách nhiê ̣m hình sự
1.2.1.1. Cơ sở lý luận
Bất kỳ một ngành luật nào cũng xuất phát từ mục đích điều chỉnh là kết quả
trong tương lai mà nhà làm luật mong muốn sẽ đạt được bằng sự điều chỉnh của
ngành luật ấy. Mục đích của luật hình sự chính là thiết lập lại trật tự của các quan hệ

xã hội đã tồn tại trước khi có việc thực hiện tội phạm mà các quan hệ xã hội đó bị
sự xâm hại của tội phạm gây nên (hoặc đe dọa thực tế gây nên) thiệt hại. Đồng thời,
trong quá trình thiết lập lại trật tự ấy tất cả các cơng dân và những người có chức vụ

9


cũng như các cơ quan nhà nước và các tổ chức xã hội phải có nghĩa vụ tuân thủ
nghiêm chỉnh các địi hỏi của luật hình sự [6, tr.16].
Để thực hiện nhiệm vụ bảo vệ chế độ xã hội, trật tự xã hội, Nhà nước dùng
nhiều biện pháp khác nhau vừa có tính thuyết phục vừa có tính cưỡng chế để đấu
tranh, ngăn chặn những hành vi vi phạm pháp luật. Tùy theo tính chất, mức độ của
các vi phạm pháp luật mà nhà nước lựa chọn sử dụng các chế tài thích hợp như:
Dân sự, hành chính, kinh tế, hình sự... mà trong đó chế tài hình sự là nghiêm khắc
nhất nhằm xử lý bất kỳ người nào có hành vi xâm phạm nghiêm trọng các lợi ích
của Nhà nước, của xã hội và của cơng dân.
Bộ luật hình sự năm 1999 quy định: “Chỉ người nào phạm một tội đã được
Bộ luật hình sự quy định mới phải chịu trách nhiệm hình sự” [39, Điều 2]. Như vậy,
cơ sở của trách nhiệm hình sự là việc một người đã thực hiện một tội được quy định
trong Bộ luật hình sự để xác định xem có một tội phạm quy định trong Bộ luật hình
sự đã được thực hiện hay khơng. Hay nói cách khác, có cơ sở để truy cứu TNHS
hay không. Trước hết, chúng ta cần phải xem xét các yếu tố khách quan, chủ quan
bắt buộc sau đây của tội phạm:
- Trên thực tế có xảy ra hành vi nguy hiểm cho xã hội được mô tả trong cấu
thành các tội phạm cụ thể của Bộ luật hình sự hay khơng và hành vi đó có nguy
hiểm cho xã hội hay không? Đây là yếu tố bắt buộc thuộc mặt khách quan của tội
phạm. Nếu xác định được khơng có hành vi nguy hiểm cho xã hội xảy ra hoặc hành
vi đó khơng có dấu hiệu của tội phạm hoặc thậm chí tuy có dấu hiệu của tội phạm
nhưng tính chất nguy hiểm cho xã hội khơng đáng kể thì cũng khơng được thực
hiện việc truy cứu trách nhiệm hình sự.

- Người thực hiện hành vi đó có lỗi hay khơng. Đây là yếu tố bắt buộc thuộc
mặt chủ quan của tội phạm. Nếu xác định được người thực hiện hành vi khơng có
lỗi (cố ý hoặc vơ ý) thì dù hành vi có nguy hiểm cho xã hội đến mức nào người thực
hiện hành vi đó cũng khơng phải chịu TNHS [6, tr.184]. Ví dụ: Người thực hiện
hành vi gây hậu quả nguy hại cho xã hội do sự kiện bất ngờ, tức là trong trường hợp
không thể thấy trước hoặc không buộc phải thấy trước hậu quả của hành vi đó.

10


- Người thực hiện hành vi đó đã đến tuổi chịu TNHS hay chưa hoặc người đó
có năng lực TNHS hay không. Đây là các yếu tố bắt buộc thuộc chủ thể của tội
phạm. Nếu xác định được người thực hiện hành vi chưa đến tuổi chịu TNHS hoặc
khơng có năng lực TNHS, thì dù hành vi có nguy hiểm cho xã hội đến mức nào
người thực hiện hành vi đó cũng khơng phải chịu TNHS. Ví dụ: Người thực hiện
hành vi gây hậu quả nguy hại cho xã hội chưa đủ 14 tuổi hoặc người thực hiện hành
vi nguy hiểm cho xã hội trong tình trạng khơng có năng lực TNHS, tức là trong khi
đang mắc bệnh tâm thần hoặc một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả
năng điều khiển hành vi của mình.
Ngồi ra, cịn có những yếu tố khách quan, chủ quan khác khơng bắt buộc
của tội phạm cũng cần được xác định như: Hậu quả của hành vi; mục đích, động cơ
thực hiện hành vi; những đặc điểm về nhân thân của người thực hiện hành vi.
Chỉ khi xác định được chính xác, đầy đủ các yếu tố khách quan, chủ quan
của tội phạm trong đó có độ tuổi thì mới có thể quyết định đúng đắn việc truy cứu
TNHS đối với người phạm tội.
1.2.1.2. Cơ sở thực tiễn
Thực tiễn đấu tranh phòng chống tội phạm là cơ sở thực tiễn để xác định và
quy định độ tuổi chịu TNHS. Ở mỗi quốc gia, cơ cấu các độ tuổi phạm tội phụ
thuộc vào chính sách hình sự và khách thể bảo vệ của luật hình sự. Ở một mức độ
nào đó, độ tuổi chịu TNHS cũng mang tính lịch sử. Ở thời kỳ phong kiến, mặc dù

có những quy định về độ tuổi chịu TNHS nhưng trong đó có những tội danh mà bất
kỳ lứa tuổi nào cũng phải chịu đó là tội mưu phản, mưu loạn, mưu đại nghịch sẽ bị
tru di tam tộc. Điều nay thể hiện chính sách hình sự của chế độ quân chủ chuyên
chế là phải tận diệt mọi mầm họa ảnh hưởng đến sự tồn vong của triều đình, bảo vệ
các bậc quân vương. Ở nước ta, trong các giai đoạn phát triển khác nhau, cũng xuất
phát từ chính sách hình sự và xác định khách thể bảo vệ khác nhau mà tuổi chịu
TNHS cũng khác nhau.
Trong giai đoạn hiện nay, để bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, quyền làm chủ
của nhân dân, bảo vệ quyền bình đẳng giữa đồng bào các dân tộc, bảo vệ lợi ích của
Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức, bảo vệ trật tự pháp luật
11


xã hội chủ nghĩa, chống mọi hành vi phạm tội, Nhà nước đã xác định cụ thể khách
thể bảo vệ của luật hình sự. Từ thực tiễn đấu tranh đối với những hành vi xâm phạm
khách thể được luật hình sự bảo vệ cho thấy, người từ dưới 14 tuổi thực hiện hành
vi xâm phạm vào quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ là rất ít. Hơn nữa, nghiên
cứu những trường hợp khách thể bảo vệ của luật hình sự bị những người ở lứa tuổi
này xâm hại cho thấy, việc họ thực hiện hành vi đó phần lớn mang tính bột phát và
cảm tính ở những điều kiện hoàn cảnh cụ thể, mà khi rơi vào hồn cảnh đó, bất kỳ
ai ở lứa tuổi đó cũng sẽ thực hiện như vậy. Vì vậy, hành vi nguy hiểm của họ khơng
xuất phát hồn tồn từ bản chất con người họ. Hơn nữa nhận thức và tri thức của lứa
tuổi này cịn rất hạn chế, vì vậy việc trừng trị họ bằng các chế tài hình sự là chưa
cần thiết mà cần có các biện pháp khác để tiếp tục ni dưỡng giáo dục họ hình
thành nhân cách. Từ thực tiễn đó luật hình sự Việt Nam hiện hành xác định người
dưới 14 tuổi không phải chịu TNHS về bất kỳ hành vi nguy hiểm nào do họ gây ra.
Lứa tuổi từ đủ 14 đến dưới 16 tuổi là lứa tuổi đã hình thành cơ bản về
nhân cách, các xử sự của họ đã thể hiện tính độc lập cao hơn rất nhiều so với lứa
tuổi dưới 14. Tuy nhiên hoạt động của họ vẫn đang nằm dưới sự giám sát của gia
đình, nhà trường và xã hội. Vì vậy, tỉ lệ lứa tuổi này xâm phạm vào các quan hệ

được luật hình sự bảo vệ vẫn cịn chưa nhiều. Hoạt động của họ vẫn chứa đựng
nhiều yếu tố cảm tính, trước những điều kiện hồn cảnh cụ thể [23, tr.95]. Người
từ đủ 14 tuổi trở lên nhưng chưa đủ 16 tuổi được coi là người chưa có năng lực
TNHS đầy đủ. Do đó họ cũng chỉ phải chịu TNHS về một số tội phạm theo quy
định của pháp luật chứ không chịu TNHS về tất cả các tội phạm. Theo luật hình
sự nước ta thì người từ đủ 14 tuổi trở nên nhưng chưa đủ 16 tuổi chỉ phải chịu
trách nhiệm hình sự về những tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm
đặc biệt nghiêm trọng do cố ý (khoản 2 Điều 12 Bộ luật hình sự). Nhưng thực
tiễn cũng đã cho thấy một số trường hợp, hành vi của những người ở lứa tuổi này
cũng đã gây ra cho xã hội những thiệt hại rất lớn và để lại những hậu quả rất
nghiêm trọng thậm chí đặc biệt nghiêm trọng. Vì vậy, TNHS đối với lứa tuổi này
cũng chỉ được xác định trong những trường hợp nhất định.
Thực tiễn đấu tranh phòng chống tội phạm cũng cho thấy những người từ 16
12


tuổi trở lên là lứa tuổi phổ biến nhất thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội xâm
phạm các quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ. Thực tiễn cũng cho thấy, bắt đầu
từ 16 tuổi trở lên, hầu như các hành động của cá nhân trong quá trình giao tiếp xã
hội đều do họ tự quyết định. Đây cũng là lứa tuổi đang trong quá trình hình thành,
hồn thiện nhân cách. Họ ln có những thay đổi về tâm, sinh lý đặc biệt là trong
độ tuổi dậy thì (từ 15 đến 18 tuổi). Nhận thức, quan điểm, lối sống lý tưởng của họ
còn nhiều hạn chế và thiếu ổn định. Sự tác động từ môi trường trong gia đình, ngồi
xã hội, từ phía nhà trường đã tác động trực tiếp đến nhận thức và hành động của lứa
tuổi này. Vì vậy, pháp luật hình sự nước ta mới xác định từ lứa tuổi này trở lên họ
phải chịu TNHS về mọi tội phạm do họ gây ra.
Cũng trên cơ sở thực tiễn, hiện nay đang có nhiều ý kiến cho rằng tỉ lệ người
già phạm tội là rất ít, đặc biệt là các tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Vì vậy, luật
hình sự cần quy định khơng áp dụng hình phạt tử hình đối với người già phạm tội.
Tóm lại, để xác định các vấn đề liên quan đến tuổi chịu TNHS trong luật

hình sự, các nhà làm luật cần phải căn cứ vào cả hai yếu tố là cơ sở tâm sinh lý học
và cơ sở thực tiễn cơng tác đấu tranh phịng chống tội phạm để đưa ra những quy
chuẩn phù hợp, đúng đắn.
1.2.2. Phân loại tuổi chịu trách nhiê ̣m hình sự
Con người từ khi sinh ra đã có ý thức nhưng khơng phải có ý thức là có năng
lực TNHS mà phải qua một quá trình phát triển về tâm, sinh lý trong điều kiện xã
hội nhất định thì năng lực đó mới hình thành. Chúng ta đã biết, năng lực TNHS là
năng lực tự nhận thức về tính nguy hiểm của hành vi và khả năng điều khiển hành
vi của con người.
Mỗi người có sự phát triển bình thường về tâm, sinh lý đến một giai đoạn
nhất định trong đời sống sẽ hồn thiện năng lực này và khi đó họ được coi là chủ
thể của tội phạm. Giai đoạn hoàn chỉnh này trong đời sống của mỗi cá nhân được
luật hình sự mỗi nước trên thế giới quy định khơng giống nhau. Việc làm này phù
hợp với sự phát triển tâm, sinh lý (thể chất, trí tuệ) của con người ở mỗi quốc gia
vào từng giai đoạn lịch sử cụ thể.

13


BLHS 1999 quy định:
Tuổi chịu trách nhiệm hình sự: 1. Người từ đủ 16 tuổi trở lên
phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm. 2. Người từ đủ 14
tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về
tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm
trọng [39, Điều 12].
Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 quy định:
1. Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi
tội phạm, trừ những tội phạm mà Bộ luật này có quy định khác. 2. Người
từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm
rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng quy định tại một trong

các điều 123, 134, 141, 142, 143, 144, 150, 151, 168, 169, 170, 171, 173,
178, 248, 249, 250, 251, 252, 265, 266, 286, 287, 289, 290, 299, 303 và
304 của Bộ luật này [44, Điều 1, Khoản 3].
Quy định trên đây của luật hình sự Việt nam dựa trên những khảo sát về tâm,
sinh lý của người Việt Nam. Đồng thời, nó cũng xuất phát từ yêu cầu của chính
sách hình sự nước ta và u cầu đấu tranh phịng chống tội phạm ở tuổi vị thành
niên, chính sách xử lý đối với người chưa thành niên phạm tội.
Theo quy định này, người từ chưa đủ 14 tuổi trở xuống sẽ được xem là
khơng có năng lực TNHS và không phải chịu TNHS. Người từ đủ 14 tuổi đến dưới
16 tuổi được xem là năng lực TNHS còn hạn chế và chỉ phải chịu TNHS trong
những trường hợp nhất định (tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc
biệt nghiêm trọng). Người từ đủ 16 tuổi trở lên được xem là người có năng lực
TNHS đầy đủ và phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm.
1.2.2.1. Tuổi không phải chịu trách nhiê ̣m hình sự
Từ thực tiễn cho thấy, người từ dưới 14 tuổi thực hiện hành vi xâm phạm vào
quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ là rất ít. Hơn nữa, nhận thức pháp luật và
kiến thức xã hội còn rất hạn chế. Vì vậy, việc trừng trị họ bằng các chế tài hình sự là

14


chưa thực sự cần thiết mà nên và cần có các biện pháp khác để vừa giáo dục họ
nhận thức được sai phạm, vừa tiếp tục nuôi dưỡng giáo dục họ hình thành nhân
cách. Từ thực tiễn đó cho nên luật hình sự Việt Nam hiện hành xác định người dưới
14 tuổi không phải chịu TNHS về bất kỳ hành vi nguy hiểm nào do họ gây ra là
đúng đắn và phù hợp.
1.2.2.2. Tuổi bắt đầu có năng lực trách nhiệm hình sự
Nhiều cơng trình nghiên cứu về sự phát triển tâm lý con người đã đưa ra kết
qủa về quá trình hình thành, phát triển nhân cách con người như sau:
Bảng 1.1: Bản tổng quan sự hình thành và phát triển nhân cách con người

Lứa tuổi
Giai
đoạn

Thời kỳ

Hoạt động chủ
đạo

Đặc trƣng tâm lý

Nhi đồng Học tập phát triển - Lĩnh hội nền tảng của tri
từ 6-7 tuổi trí tuệ
thức và phương pháp,
đến
11-12
cơng cụ nhận thức;
Tuổi học
tuổi
sinh
- Ham tìm tịi, khám phá;
- Hiếu động.

Nét “trội” trong
mục tiêu cần chú
ý giáo dục
- Phương pháp học
tập và phẩm
chất trí tuệ;
- Sử dụng cơng cụ

nhận thức phổ
thông.

Thiếu niên Học tập “giao lưu - Dậy thì;
- Mất thăng bằng
từ 11-12
nhóm bạn thân”. - Quan hệ tâm tình bè bạn;
tâm lý;
tuổi đến
- Xây dựng nhóm
- “Cải tổ” nhân cách và
14-15 tuổi
bạn bè tốt.
định hình bản ngã;
- Muốn được đối xử như
người lớn.
Thanh
Học tập hoạt
- Hoàn thành thế giới
xuân từ
động xã hội nghề
quan;
14-15 tuổi nghiệp
- Định hướng chuẩn bị
đến 17-18
nghề nghiệp;
tuổi
- Ham hoạt động xã hội;

- Ý thức cơng dân;

- Ý thức nghề
nghiệp;
- Hồi bão xã hội;
- Tình bạn, tình yêu.

- Tình bạn thân và mối
tình đầu.

(Nguồn: Phạm Minh Hạc (1992), Tâm lý học, Nxb Giáo dục, Hà Nội)
15


Với kết quả nghiên cứu về tâm, sinh lý tuổi trên đây, tuổi 14 là độ tuổi bắt
đầu của thời kỳ thanh xuân, đã có những hoạt động xã hội nhất định như hoạt động
đội thiếu niên, giao lưu bạn bè trong lớp… Ở tuổi 14, bước đầu đã hình thành thế
giới quan như cách nhìn nhận về gia đình, xã hội và những quan niệm của cá nhân
về những vấn đề xung quanh… Ở độ tuổi này, đã bắt đầu có ý thức về nghề nghiệp,
ý thức về chính bản thân họ và ý thức về trách nhiệm và nghĩa vụ. Họ có thể hiểu
một số vấn đề mà pháp luật ngăn cấm, pháp luật cho phép… song ở độ tuổi đủ 14
đến 15 tuổi mức độ nhận thức còn rất hạn chế. Đến độ tuổi từ 15 đến dưới 16 con
người đã có một số hoạt động mang tính nghề nghiệp, có nhận thức nhất định về các
chuẩn mực đạo đức xã hội, có thể hiểu được một số quyền của xã hội như quyền,
nghĩa vụ của mình trong tập thể, trong trường học… đặc biệt là sự nhận thức về bản
thân họ, về hành vi mà họ đã thực hiện. Tuy vậy, hoạt động tâm lý trong thời kỳ này
vẫn đang trong thời kỳ dần dần hoàn thiện. Cho nên đặc điểm tâm lý trong thời kỳ
này dễ biến động, dễ bị ảnh hưởng bởi các yếu tố khách quan, tính chủ động thấp,
dễ bị kích động, rủ rê, lơi kéo của bạn bè. Vì vậy, việc nhận thức, đánh giá các
chuẩn mực đạo đức, các chuẩn mực của hành vi dễ bị thay đổi, dễ lẫn lộn giữa đúng
và sai… Chính vì đặc điểm tâm lý này mà có ảnh hưởng đến năng lực TNHS, ảnh
hưởng đến mức độ lỗi. Cho nên, luật hình sự Việt Nam chỉ buộc người từ đủ 14 tuổi

đến dưới 16 tuổi phải chịu TNHS trong những trường hợp phạm tội nhất định.
Việc xác định độ tuổi bắt đầu phải chịu TNHS từ đủ 14 tuổi theo luật hình sự
quy định hiện nay là có cơ sở khoa học và phù hợp với tâm lý lứa tuổi của người
Việt Nam, phù hợp với quan niệm về năng lực TNHS trong pháp luật hình sự Việt
Nam hiện nay [33, tr.15].
1.2.2.3. Tuổi bắt đầu có năng lực trách nhiê ̣m hình sự đ ầy đủ (trừ trường
hợp đặc biê ̣t)
Thực tiễn đấu tranh phòng chống tội phạm cũng cho thấy những người từ 16
tuổi trở lên là lứa tuổi phổ biến nhất thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội xâm
phạm và các quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ. Thực tiễn cũng cho thấy, bắt
đầu từ 16 tuổi trở lên, hầu như các hành động của cá nhân trong quá trình giao tiếp
xã hội đều do họ tự quyết định. Họ đã có nhận thức tương đối đầy đủ về hành vi của
16


mình; tự đưa ra quyết định và có ý thức tự chịu trách nhiệm về quyết định đó. Bên
cạnh đó, hiện nay, tình hình tội phạm lứa tuổi này có chiều hướng ngày càng gia
tăng và tính chất ngày càng nghiêm trọng. Chỉ tính từ năm 2011 đến 2016, số vụ án
hình sự Tịa án xét xử có chiều hướng giảm xuống tuy nhiên người phạm tội từ đủ
16 tuổi đến dưới 18 tuổi tăng lên 2,1 lần. Vì vậy pháp luật hình sự nước ta quy định
người từ đủ 16 tuổi trở lên là người có năng lực TNHS đầy đủ là phù hợp với tình
hình thực tế.
1.2.2.4. T̉ i có năng lực trách nhiê ̣m hình sự với mọi tợi phạm
Luật hình sự Việt Nam quy định người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu TNHS
với mọi tội phạm.
Đối với tội “giao cấu với người dưới

16 tuổ i” luâ ̣t quy đinh
̣ phải từ đủ


18

tuổ i trở lên.
1.2.2.5. Tuổi làm giảm nhẹ trách nhiệm hình sự
Tại điểm m khoản 1 Điều 46 BLHS quy định: Người phạm tội là người già là
một trong những tình tiết được giảm nhẹ TNHS.
Khi con người đến một độ tuổi nhất định thì các hoạt động của cơ thể đều bị
giảm sút, thiếu năng động. Pháp luật quy định giảm nhẹ hình phạt của người già
khơng phải vì hành vi của họ ít nguy hiểm hơn người trẻ mà chủ yếu xuất phát từ
tinh thần nhân đạo xã hội chủ nghĩa. Mặt khác, bắt một người già chịu một hình
phạt nghiêm khắc là không cần thiết nữa.
Căn cứ để xác định người phạm tội là già hay trẻ là độ tuổi, tuyệt nhiên
khơng được căn cứ vào tình trạng sức khỏe. Theo các tài liệu về y sinh học quốc tế
quy định thì người từ 60 tuổi đến 74 tuổi là người có tuổi; từ 75 tuổi đến 89 tuổi là
người già, từ 90 tuổi trở lên là người già sống lâu. Tất nhiên, đó chỉ là quy định về y
sinh học, còn về pháp luật, thực tiễn các Tòa án đã coi người từ 70 tuổi trở lên phạm
tội là người già và họ được giảm nhẹ khi quyết định hình phạt.
Bộ luật hình sự khơng phân biệt người già phạm tội nào thì được giảm nhẹ
trách nhiệm hình sự hơn tội nào nhưng thực tiễn xét xử cho thấy, người già phạm
các tội mà tội đó bị ảnh hưởng trực tiếp đến tuổi già thì được giảm nhẹ trách nhiệm
hơn những tội khơng liên quan gì đến tuổi già.
17


Mức độ giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của tình tiết này phụ thuộc vào độ tuổi.
Tuổi càng cao thì mức giảm càng nhiều. Tuy căn cứ để xác định tình tiết này là độ tuổi
nhưng mức độ giảm nhẹ trách nhiệm còn tùy thuộc vào sức khỏe của từng người. Sức
khỏe càng yếu mức giảm càng nhiều. Nếu tình trạng sức khỏe của người già lại thuộc
trường hợp là “Người có bệnh bị hạn chế khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển
hành vi của mình” thì họ được coi là phạm tội có cả hai tình tiết giảm nhẹ.

Thực tiễn áp dụng pháp luật quy định tại khoản 2 Điều 46 BLHS – Khi quyết
định hình phạt, Tồ án cịn có thể coi các tình tiết khác là tình tiết giảm nhẹ nhưng
phải ghi rõ trong bản án. Tại Tịa án, khi lượng hình phạt thì vấn đề tuổi chịu TNHS
rất được cân nhắc, đặc biệt là tuổi vị thành niên. Mặc dù, đây không phải là một
trong các tình tiết được luật hình sự quy định tại khoản 1 Điều 46 hay một số văn
bản dưới luật của Tòa án nhân dân tối cao nhưng khi quyết định hình phạt, Tịa án
vẫn lập luận rất cụ thể trong bản án để ra phán quyết tương xứng [21, tr.97].
1.3. Khái quát quy định của pháp luật hình sự một số nƣớc về tuổi chịu
trách nhiệm hình sự
Với sự phát triển của xã hội, các quyền cơ bản của con người ngày càng
được đề cao, hầu hết các quốc gia đều hạn chế tác động vào các quyền cơ bản đó.
Cùng với đó trẻ em ngày càng được quan tâm bảo vệ, đặc biệt là từ khi Công ước
bảo vệ quyền trẻ em ra đời, trong đó xác định trẻ em là từ dưới 18 tuổi nên xu
hướng của pháp luật các nước đều nâng độ tuổi chịu TNHS cao hơn so với trước
đây. Trong pháp luật hình sự hiện hành, phần lớn các quốc gia trên thế giới đều quy
định tuổi chịu TNHS trong Bộ luật hình sự.
Tại Mỹ, độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự được thiết lập theo quy định của
pháp luật liên bang và cả các tiểu bang. Hầu hết các bang dựa vào pháp luật
chung, từ 7 tuổi đến 14 tuổi, trẻ em khơng có thể được coi là chịu trách nhiệm
nhưng có thể được tổ chức chịu trách nhiệm. Chỉ có 13 tiểu bang đã thiết lập độ
tuổi tối thiểu, khoảng từ 6 đến 12 tuổi (tiểu bang quy định độ tuổi thấp nhất là Bắc
Crollina, 6 tuổi) [12, tr.35]. Một số quốc gia quy định tuổi chịu trách nhiệm hình
sự thấp như Nepal, Anh, Ukraina là 10 tuổi, Hàn Quốc, Uganda là 12 tuổi. Tại

18


×