Tải bản đầy đủ (.docx) (98 trang)

Nghiên cứumột sốgiải pháp nâng cao năng lực tài chính của công ty cổ phần 19 9

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (421.38 KB, 98 trang )

LỜI CẢM ƠN
Em xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất đến cô giáo hướng dẫn Ths.Hoàng
Thị Phương Lan. Cô đã tận tình hướng dẫn, chỉ bảo em hoàn thiện bài luận văn
tốt nghiệp này.
Em xin gửi lời cảm ơn đến các thầy cô trong tổ bộ môn Tài chính đã nhận
xét và góp ý cho bài luận văn của em được hoàn thiện hơn.
Em cũng xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến các cô bác, anh chị phòng Kế toán
thống kê công ty Cổ phần 19-9 đã nhiệt tình giúp đỡ em trong suốt quá trình
thực hiện luận văn tốt nghiệp này. Các cô chú, anh chị đã củng cố cho em những
kiến thức thực tế quan trọng giúp em hiểu hơn về các kiến thức kế toán- tài
chính mà mình đang theo học. Tất cả chính là những hành trang cần thiết cho sự
nghiệp của em sau khi tốt nghiệp.
Em xin chân thành cảm ơn!
Hải Phòng, ngày 23 tháng 5 năm2016
Sinh viên

Phạm Thị Giang

1


LỜI CAM ĐOAN
Em xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng em và được sự
hướng dẫn khoa học của Ths. Hoàng Thị Phương Lan. Các nội dung nghiên cứu,
kết quả trong đề tài này là trung thực và chưa công bố dưới bất kỳ hình thức nào
trước đây. Những số liệu trong các bảng biểu phục vụ cho việc phân tích, nhận
xét, đánh giá được chính tác giả thu thập từ các nguồn khác nhau có ghi rõ trong
phần tài liệu tham khảo.
Ngoài ra, trong luận văn còn sử dụng một số nhận xét, đánh giá cũng như
số liệu của các tác giả khác, cơ quan tổ chức khác đều có trích dẫn và chú thích
nguồn gốc.


Nếu phát hiện có bất kỳ sự gian lận nào em xin hoàn toàn chịu trách nhiệm
về nội dung luận văn của mình.
Hải Phòng, ngày 23 tháng 5 năm2016
Sinh viên

Phạm Thị Giang

2


MỤC LỤC

3


LỜI MỞ ĐẦU
Nền kinh tế nước ta nói riêng và trong khu vực nói chung đang trên đà hội
nhập, mở cửa, giao lưu với nền kinh tế thế giới, các loại hình kinh doanh ngày
càng phong phú đa dạng, thị trường ngày càng được mở rộng tạo tiền đề cho sự
phát triển của các doanh nghiệp, tổ chức. Tuy nhiên cùng với cơ hội đó cũng là
những khó khăn, thách thức đặt ra với các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh
nghiệp trong nước vốn đã quen với sự bảo hộ, bao cấp của Nhà nước nay phải tự
mình đương đầu với những đối thủ lớn mạnh trong và ngoài khu vực cũng như
trên thế giới; giống như một con cá nhỏ gồng mình bơi ra biển cả bao la, đầy rẫy
những nguy hiểm rình rập. Để có thể cạnh tranh và đứng vững trước cơn sóng
lớn ấy đòi hỏi các công ty phải nỗ lực phấn đấu không ngừng và đặc biệt phải
biết quản lý chặt chẽ nguồn tài chính của mình. Việc phân tích tài chính một
cách thường xuyên, đều đặn sẽ giúp cho các nhà lãnh đạo doanh nghiệp thấy rõ
được thực trạng của công ty mình, biết được những thuận lợi, khó khăn, các
nhân tố ảnh hưởng tới tình hình hoạt động và kết quả kinh doanh, mức độ ảnh

hưởng của chúng từ đó có những biện pháp, quyết định đúng đắn, kịp thời nhằm
nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. Đồng thời việc phân tích này cũng là
một căn cứ xác thực cho các nhà đầu tư, các ngân hàng đưa ra quyết định có đầu
tư, trợ giúp cho doanh nghiệp hay không.
Nhận thức được kết quả của việc phân tích tài chính có ảnh hưởng lớn thế
nào tới sự thành bại của một doanh nghiệp, sau thời gian thực tập tốt nghiệp tại
Công ty Cổ phần 19-9 cùng với những kiến thức được các thầy cô truyền đạt
trên ghế nhà trường, em đã nghiên cứu sâu hơn và hoàn thiện đồ án tốt nghiệp
với đề tài “Nghiên cứu một số giải pháp nâng cao năng lực tài chính của Công ty
Cổ phần 19-9”. Đồ án của em gồm có 4 chương :
Chương I: Cơ sở lý luận về tài chính và năng lực tài chính doanh nghiệp.
Chương II: Phân tích tình hình tài chính của Công ty Cổ phần 19-9.
Chương III: Một số biện pháp nhằm nâng cao năng lực tài chính của Công
ty Cổ phần 19-9.
4


Chương IV: Kết luận - kiến nghị.
Em xin được gửi lời cảm ơn chân thành tới tất cả các thầy cô giáo trong
khoa Quản trị tài chính đã hết lòng dạy bảo, truyền đạt kiến thức cho chúng em,
các cô bác, anh chị tại Công ty Cổ phần 19-9 đã cung cấp tài liệu, tạo điều kiện
cho em trong thời gian thực tập tại công ty. Và hơn cả em xin được gửi lời cảm
ơn sâu sắc tới cô giáo – thạc sĩ Hoàng Thị Phương Lan, người đã theo sát quá
trình thực hiện, chỉ bảo tận tình để em hoàn thành đồ án này. Tuy nhiên, do năng
lực, kiến thức cũng như thời gian thực tập còn ít nên bài đồ án của em không thể
tránh khỏi những thiếu sót nên em rất mong nhận được sự góp ý từ phía các thầy
cô để đồ án của em được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn !

5



DANH MỤC CÁC BẢNG
Số bảng Tên bảng
Tình hình thực hiện các chỉ tiêu sản xuất kinh doanh chủ
Bảng 1
yếu của công ty Cổ phần 19-9.
Tình hình thực hiện các chỉ tiêu kết quả hoạt động kinh
Bảng 2
doanh của công ty Cổ phần 19-9.
Bảng 3
Tình hình tài sản của công ty Cổ phần 19-9
Bảng 4
Tình hình nguồn vốn của công ty Cổ phần 19-9.
Bảng 5
Tình hình lưu chuyển tiền tệ của công ty Cổ phần 19-9.
Phân tích hiệu quả sử dụng vốn lưu động của công ty Cổ
Bảng 6
phần 19-9.
Phân tích hiệu quả sử dụng vốn cố định của công ty Cổ
Bảng 7
phần 19-9.
Bảng 8
Các hệ số về quản trị nợ của công ty Cổ phần 19-9.
Bảng 9
Phân tích tỷ suất lợi nhuận của công ty Cổ phần 19-9
Bảng 10 Các hệ số khả năng thanh toán của công ty Cổ phần 19-9.

6


Trang


CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TÀI CHÍNH
DOANH NGHIỆP
1.Khái niệm về tài chính và năng lực tài chính của doanh nghiệp
1.1 Tài chính doanh nghiệp
Để tiến hành bất kỳ hoạt động sản xuất kinh doanh nào thì nhà kinh doanh
đều phải có một lượng vốn ban đầu nhất định được huy động từ các nguồn khác
nhau như: tự có, ngân sách cấp, liên doanh liên kết, phát hành chứng khoán hoặc
vay của ngân hàng... Số vốn ban đầu đó sẽ được đầu tư vào các mục đích khác
nhau như: xây dựng nhà xưởng, mua sắm máy móc thiết bị, vật tư và thuê nhân
công. Như vậy, số vốn ban đầu khi phân phối cho các mục đích khác nhau thì
hình thái của nó không còn giữ nguyên dưới dạng tiền tệ ban đầu mà đã biến đổi
sang hình thái khác là những hiện vật như nhà xưởng, máy móc thiết bị, đối
tượng lao động... quá trình phân chia và biến đổi hình thái của vốn như vậy là
quá trình cung cấp hay nói cách khác là quá trình lưu thông thứ nhất của quá
trình sản xuất kinh doanh. Quá trình tiếp theo là sự kết hợp của các yếu tố vật
chất nói trên để tạo ra một dạng vật chất mới là sản phẩm dở dang, kết thúc quá
trình này thì thành phẩm mới được xuất hiện. Quá trình đó chính là quá trình sản
xuất sản phẩm. Sản phẩm của doanh nghiệp sẽ phải trải qua quá trình lưu thông
thứ 2, quá trình tiêu thụ, để vốn dưới dạng thành phẩm trở lại hình thái tiền tệ
ban đầu thông qua khoản thu bán hàng của doanh nghiệp. Số tiền thu được đó lại
trở về tham gia quá trình vận động biến đổi hình thái như ban đầu. Quá trình vận
động như vậy lặp đi lặp lại liên tục và có tính chất chu kỳ. Chính sự vận động
biến đổi hình thái như trên của vốn tạo ra quá trình sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp. Quá trình vận động của vốn diễn ra được là nhờ hệ thống các mối
quan hệ của doanh nghiệp với môi trường xung quanh nó. Hệ thống các mối
quan hệ đó rất phức tạp, đan xen lẫn nhau nhưng ta có thể phân chia thành các
nhóm cơ bản như sau: [3]


7


Nhóm 1: Các mối quan hệ giữa doanh nghiệp và nhà nước. Đây là mối quan
hệ nộp, cấp. Nhà nước có thể cấp vốn, góp vốn cho doanh nghiệp. Doanh nghiệp
có trách nhiệm nộp các khoản nghĩa vụ đối với ngân sách nhà nước. [3]
Nhóm 2: Các mối quan hệ giữa doanh nghiệp và các tổ chức và các cá nhân
khác ở các thị trường. Đây là các quan hệ trong việc mua bán, trao đổi hàng hóa,
sản phẩm ở thị trường hàng hóa; mua bán trao đổi quyền sử dụng sức lao động ở
thị trường lao động hoặc trao đổi mua bán quyền sử dụng vốn ở thị trường tài
chính. [3]
Nhóm 3: Các mối quan hệ phát sinh trong nội bộ của doanh nghiệp. Đây là
các quan hệ chuyển giao vốn, quan hệ trong việc thu hộ, chi hộ giữa các bộ phận
trong một doanh nghiệp với doanh nghiệp. Quan hệ giữa doanh nghiệp và cán
bộ công nhân viên như là việc thanh toán lương, thưởng, vay và trả tiền vốn, tiền
lãi và yêu cầu các cá nhân vi phạm hợp đồng và kỷ luật lao động bồi thường
thiệt hại hoặc nộp các khoản tiền phạt. [3]
Hệ thống các mối quan hệ trên có những điểm chung là:
-

Đó là những mối quan hệ kinh tế, những quan hệ liên quan đến công việc tạo ra

-

sản phẩm và giá trị mới cho doanh nghiệp.
Chúng đều được biểu hiện dưới hình thái tiền tệ, thông qua đồng tiền để đo

-


lường, để đánh giá.
Chúng đều nảy sinh trong quá trình tạo ra và phân chia các quỹ tiền tệ của doanh
nghiệp.
Chỉ cần một sự mất cân đối hoặc sự phá vỡ của một trong những mối quan
hệ trên thì quá trình vận động biến đổi hình thái của vốn có thể bị đình trệ, quá
trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp vì thế mà sẽ bị đảo lộn thậm chí có
thể dẫn đến phá sản. Hệ thống các mối quan hệ như vậy được coi là tài chính
của doanh nghiệp. [3]
Như vậy tài chính doanh nghiệp không đơn thuần chỉ là những khoản tiền
hoặc những hoạt động liên quan đến tiền mà nó có thể được hiểu như sau:
Tài chính doanh nghiệp là hệ thống các mối quan hệ kinh tế biểu hiện dưới
hình thái tiền tệ giữa doanh nghiệp và môi trường xung quanh nó, những mối
8


quan hệ này nảy sinh trong quá trình tạo ra và phân chia các quỹ tiền tệ của
doanh nghiệp. [3]

9


1.2 Năng lực tài chính doanh nghiệp
1.2.1. Khái niệm năng lực tài chính của doanh nghiệp
Theo Từ điển tiếng Việt, “Năng lực” là khả năng đủ để làm một công việc
nào đó hay “Năng lực” là những điều kiện được tạo ra hoặc vốn có để thực hiện
một hoạt động nào đó.
Tài chính (như đã đề cập ở trên) là một phạm trù kinh tế, phản ánh các
quan hệ phân phối của cải xã hội dưới hình thức giá trị. Phát sinh trong quá trình
tạo lập, phân phối và sử dụng các quỹ tiền tệ của các chủ thể trong nền kinh tế
nhằm đạt mục tiêu của các chủ thể ở mỗi điều kiện nhất định.

Vậy, năng lực tài chính của một DN là nguồn lực tài chính của bản thân
DN, là khả năng tạo tiền, tổ chức lưu chuyển tiền hợp lý, đảm bảo khả năng
thanh toán thể hiện ở quy mô vốn, chất lượng tài sản và khả năng sinh lời… đủ
để đảm bảo và duy trì hoạt động kinh doanh được tiến hành bình thường. [4]
1.2.2. Các tiêu chí đánh giá năng lực tài chính của doanh nghiệp
Năng lực tài chính của doanh nghiệp được đánh giá dựa trên các yếu tố
định lượng và các yếu tố định tính:
Các yếu tố định lượng thể hiện nguồn lực tài chính hiện có, bao gồm: quy
mô vốn, chất lượng tài sản, khả năng thanh toán và khả năng sinh lời…
Các yếu tố định tính thể hiện khả năng khai thác, quản lý, sử dụng các
nguồn lực tài chính được thể hiện qua trình độ tổ chức, trình độ quản lý, trình độ
công nghệ, chất lượng nguồn nhân lực…
Để dễ dàng cho việc đánh giá, xem xét năng lực tài chính của một DN, ta
có thể phân chia thành các nhóm chỉ tiêu như sau:
Khả năng huy động vốn đảm bảo cho hoạt động sản xuất kinh doanh.
10


Hiệu quả sử dụng vốn.
Khả năng sinh lời. [4]
2.Chức năng của tài chính doanh nghiệp
2.1 Chức năng phân phối
Chức năng phân phối là một khả năng khách quan vốn có của phạm trù tài
chính nói chung và tài chính doanh nghiệp nói riêng. Con người nhận thức và
vận dụng khả năng này để tiến hành phân phối nguồn tài chính của doanh
nghiệp để tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ của doanh nghiệp, nhằm thỏa mãn
những nhu cầu của chủ doanh nghiệp. Đối tượng phân phối của tài chính doanh
nghiệp là các nguồn tài chính của doanh nghiệp, đó chính là những giá trị của
cái mới sáng tạo ra trong kỳ, những giá trị của cải doanh nghiệp tích lũy từ
trước... Chủ thể phân phối của tài chính doanh nghiệp là chủ doanh nghiệp và

nhà nước. Qúa trình phân phối diễn ra trước, trong, và sau quá trình sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp. Cụ thể là phân phối về nguồn huy động vốn cho
doanh nghiệp, phân phối số vốn huy động được để đầu tư vào các loại tài sản và
phân phối thu nhập sau quá trình kinh doanh. Quá trình phân phối của tài chính
doanh nghiệp diễn ra thường xuyên, liên tục trong suốt quá trình tồn tại của
doanh nghiệp. [3]
Tuy vậy, việc phân phối phải dựa trên các tiêu chuẩn và định mức
được tính toán một cách khoa học trên nền tảng là hệ thống các mối quan
hệ kinh tế của doanh nghiệp với môi trường xung quanh. Phân phối hợp lý là
mục đích mà chủ thể mong muốn. Để phân phối chủ thể phải dựa trên cơ sở quá
trình phân tích, tính toán khoa học. Việc phân tích không chi tiết, việc tính toán
không chính xác có thể gây ra sự mất cân đối các mối quan hệ giữa doanh
nghiệp và môi trường xung quanh làm cho quá trình sản xuất kinh doanh không
đạt hiệu quả cao, thậm chí dẫn đến phá sản. Các tiêu chuẩn và định mức phân
phối ở mỗi quá trình sản xuất kinh doanh mặc dù được tính toán đầy đủ chính
xác thì nó cũng không thể là bất di bất dịch mà thường xuyên được điều chỉnh,
11


uốn nắn cho phù hợp với điều kiện và tình hình thực tế thường xuyên thay đổi.
Việc điều chỉnh uốn nắn đó được thực hiện thông qua chức năng thứ hai của tài
chính là chức năng giám đốc của tài chính doanh nghiệp. [3]
2.2 Chức năng giám đốc
Đây cũng là một khả năng khách quan vốn có của phạm trù tài chính nói
chung và chính doanh nghiệp nói riêng. Giám đốc tài chính doanh nghiệp là việc
theo dõi giám sát. Đối tượng của giám đốc tài chính là quá trình phân phối, cụ
thể là quá trình tạo lập và sử dụng quỹ tiền tệ của doanh nghiệp. Chủ thể giám
đốc tài chính doanh nghiệp là chủ thể phân phối tài chính doanh nghiệp, cụ thể
là chủ doanh nghiệp và nhà nước. Mục đích của giám đốc tài chính doanh
nghiệp là kiểm tra tính hợp lí, tính đúng đắn và hiệu quả của quá trình phân phối

tài chính. Từ kết quả của việc giám đốc mà chủ thể có phương hướng, biện pháp
điều chỉnh cho quá trình phân phối tài chính doanh nghiệp hợp lý hơn và đạt
hiệu quả kinh tế cao hơn. Đặc điểm của giám đốc tài chính doanh nghiệp là giám
đốc bằng đồng tiền. Phương pháp giám đốc là phân tích tình hình tài chính của
doanh nghiệp. Thông qua các chỉ tiêu tài chính và bằng các phương pháp nghiên
cứu khoa học, ta có thể thấy được thực trạng tài chính doanh nghiệp cũng như
các tiềm năng tài chính của doanh nghiệp. Dựa vào những kết luận của việc
phân tích, chủ doanh nghiệp có thể đưa ra những biện pháp hữu hiệu hơn. [3]
Khi nói đến chức năng giám đốc bằng tiền của tài chính doanh nghiệp, ta
có thể nhầm lẫn với công tác thanh tra, kiểm tra tài chính. Thực ra hai khái niệm
này rất khác nhau. Công tác kiểm tra, thanh tra tài chính là một hoạt động chủ
quan của con người trong việc thực hiện chức năng tài chính, nó có thể tồn tại
hoặc không tồn tại, có thể đúng đắn, cũng có thể sai lệch. Công tác này thường
chỉ được thực hiện bởi nhân viên của các cơ quan chức năng quản lý của Nhà
nước, của ngành đối với doanh nghiệp vi phạm chế độ quản lý kinh tế, tài chính,
hay bị thua lỗ kéo dài, nợ dây dưa, bị kiện cáo... Nếu các nhân viên thanh tra có
đủ năng lực, trình độ chuyên môn, công minh chính trực thì kết quả thanh tra
mới phản ánh đúng tình hình kinh tế, tài chính của doanh nghiệp, trường hợp
ngược lại thì kết quả thanh tra sẽ bị sai lệch. Còn chức năng kiểm tra hay giám
12


đốc bằng đồng tiền của tài chính là thuộc tính vốn có của nó. Nó luôn luôn tồn
tại và luôn luôn đúng bởi vì khi đã có quá trình sản xuất kinh doanh thì nhất
định có hệ thống các chỉ tiêu tài chính cho dù nhà sản xuất kinh doanh có ghi
chép nó vào các sổ sách hay không. [3]
Hai chức năng trên đây của tài chính có mối quan hệ mật thiết với nhau.
Chức năng phân phối xảy ra ở trước, trong và sau mỗi quá trình sản xuất kinh
doanh, nó là tiền đề cho quá trình sản xuất kinh doanh, không có nó sẽ không
thể có quá trình sản xuất kinh doanh. Chức năng giám đốc bằng tiền luôn theo

sát chức năng phân phối, có tác dụng điều chỉnh và uốn nắn tiêu chuẩn và định
mức phân phối để đảm bảo cho nó luôn luôn phù hợp với điều kiện và tình hình
thực tế của sản xuất kinh doanh. [3]
3. Công tác quản trị tài chính doanh nghiệp
Để thực hiện tốt các chức năng của tài chính thì các bộ phận quản lý có liên
quan của doanh nghiệp phải thực hiện tốt các nhiệm vụ cụ thể sau đây:
-

Thiết lập những mối quan hệ khăng khít với thị trường vốn để luôn luôn chủ

-

động về vốn cho sản xuất kinh doanh.
Xác định mục đích phân phối vốn đúng đắn, rõ ràng.
Tính toán chính xác các tiêu chuẩn phân phối vốn đúng với các mục đích đã xác

-

định.
Tổ chức thực hiện công tác bảo toàn vốn một cách khoa học.
Tổ chức công tác theo dõi, ghi chép phản ánh đầy đủ, liên tục, có hệ thống các

-

chi tiêu tài chính của doanh nghiệp.
Tổ chức công tác phân tích đánh giá toàn diện tình hình thực hiện các định mức
và tiêu chuẩn phân phối, tình hình thực hiện hệ thống các chi tiêu tài chính để
kịp thời phát hiện những bất hợp lí trong quá trình thực hiện các mối quan hệ
của doanh nghiệp với môi trường kinh tế xung quanh từ đó có những quyết định


-

điều chỉnh hợp li. [3]
Cùng với các bộ phận quản lí khác của doanh nghiệp, công tác quản lí tài chính
góp phần duy trì và phát triển quan hệ với bạn hàng, khách hàng và các mối
quan hệ trong nội bộ doanh nghiệp đồng thời luôn đảm bảo thực hiện tốt các quy
định, chế độ quản lí của nhà nước. [3]
13


Chức năng của tài chính có được thực hiện tốt hay không, hiệu quả công
tác quản trị tài chính có cao hay không phụ thuộc vào công sức và trí tuệ của
toàn thể cán bộ công nhân viên của doanh nghiệp mà quan trọng nhất là kiến
thức về quản trị tài chính và năng lực lãnh đạo của người đứng đầu doanh
nghiệp. [3]

14


4.Phân tích tình hình tài chính của doanh nghiệp
4.1.Khái niệm và mục tiêu phân tích tài chính
4.1.1.Các khái niệm
Phân tích hiểu theo nghĩa chung nhất là việc chia nhỏ sự vật, hiện tượng
trong mối quan hệ hữu cơ giữa các bộ phận cấu thành sự vật, hiện tượng đó.
Trong lĩnh vực tự nhiên, người ta phân tích các sự vật cụ thể bằng các
phương tiện cụ thể. Trong lĩnh vực kinh tế xã hội, các hiện tượng cần phân tích
chỉ tồn tại bằng những khái niệm trừu tượng, nên việc phân tích phải thực hiện
bằng những phương pháp trừu tượng. [3]
Phân tích hoạt động kinh tế là việc chia các hiện tượng, các quá trình và các
kết quả kinh doanh thành các bộ phận cấu thành. Trên cơ sở đó, bằng các

phương pháp phân tích ta liên hệ, so sánh, đối chiếu, tổng hợp nhằm rút ra tính
quy luật và xu hướng phát triển của hiện tượng nghiên cứu.
Phân tích tài chính là sử dụng một tập hợp các khái niệm, phương pháp và
các công cụ cho phép xử lí các thông tin kế toán và các thông tin khác về quản lí
nhằm đánh giá tình hình tài chính của một doanh nghiệp, đánh giá rủi ro, mức
độ và chất lượng hiệu quả hoạt động. [3]
Quy trình thực hiện phân tích tài chính ngày càng được áp dụng rộng rãi
trong các đơn vị kinh tế được tự chủ nhất định về tài chính như các doanh
nghiệp thuộc mọi hình thức, được áp dụng trong các tổ chức xã hội, tập thể và
các cơ quan quản lí, tổ chức công cộng. Đặc biệt, sự phát triển của các doanh
nghiệp, của các ngân hàng và của thị trường vốn đã tạo nhiều cơ hội để phân
tích tài chính chứng tỏ thực sự là có ích và vô cùng cần thiết. [3]
4.1.2 Các mục tiêu
Những người phân tích tài chính ở những đơn vị khác nhau nhằm các mục
tiêu khác nhau.
Nhà quản trị phân tích tài chính nhằm đánh giá hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp, xác định điểm mạnh, điểm yếu của doanh nghiệp. Đó là cơ sở để
định hướng các quyết định của Ban Tổng giám đốc, Giám đốc tài chính, dự báo
tài chính: kế hoạch đầu tư, ngân quỹ và kiểm soát các hoạt động quản lý. [3]
15


Nhà đầu tư cần biết tình hình thu nhập của chủ sở hữu – lợi tức cổ phần và
giá trị tăng thêm của vốn đầu tư. Họ quan tâm tới phân tích tài chính để nhận
biết khả năng sinh lãi của doanh nghiệp. Đó là một trong những căn cứ giúp họ
ra quyết định bỏ vốn vào doanh nghiệp hay không ? [3]
Người cho vay phân tích tài chính để nhận biết khả năng vay và trả nợ của
khách hàng. Chẳng hạn, để quyết định cho vay, một trong những vấn đề mà
người cho vay cần xem xét là doanh nghiệp thực sự có nhu cầu vay hay không?
Khả năng trả nợ của doanh nghiệp như thế nào? [3]

Ngoài ra, phân tích tài chính cũng rất cần thiết đối với người hưởng lương
trong doanh nghiệp, đối với cán bộ thuế, thanh tra, cảnh sát kinh tế, luật sư,... dù
họ công tác ở các lĩnh vực khác nhau, nhưng họ đều muốn hiểu biết về hoạt
động của doanh nghiệp để thực hiện tốt hơn công việc của họ. [3]
Như vậy, mối quan tâm hàng đầu của các nhà phân tích tài chính là đánh
giá khả năng xảy ra rủi ro phá sản tác động tới các doanh nghiệp mà biểu hiện
của nó là khả năng thanh toán, khả năng cân đối vốn, khả năng hoạt động và khả
năng sinh lãi của doanh nghiệp. Trên cơ sở đó, các nhà phân tích tài chính tiếp
tục nghiên cứu và đưa ra những dự đoán về kết quả hoạt động nói chung và mức
doanh lợi nói riêng của doanh nghiệp trong tương lai. [3]
4.2 Trình tự phân tích
4.2.1 Xây dựng kế hoạch phân tích
Kế hoạch phân tích tài chính doanh nghiệp cần nêu được những vấn đề:
Nội dung phân tích: Đó là toàn bộ tình hình tài chính của doanh nghiệp
hoặc chỉ một chuyên đề nào ?
Phạm vi phân tích là của đơn vị nào hay của toàn bộ doanh nghiệp, toàn
ngành ?
Khoảng thời gian cần phân tích. Đó là khoảng thời gian mà các chỉ tiêu
phát sinh (có thể là 1 năm, 6 tháng hoặc vài năm).
Thời hạn thực hiện kế hoạch này kể từ thời điểm nào và bao giờ hoàn
thành.
16


Người thực hiện. Nếu là một nhóm người thì cần kèm theo sự phân công
công việc cụ thể: ai thực hiện phần nào? Ai chủ trì ? [3]
4.2.2.Sưu tầm, kiểm tra, xử lý số liệu
Căn cứ vào mục đích, nội dung phân tích để xác định các số liệu, tài liệu
cần thiết. Từ đó tiến hành thu thập. Số liệu phải được thu thập đủ, không nên
thừa hoặc thiếu. Trong phân tích tài chính, nhà phân tích phải thu thập, sử dụng

mọi nguồn thông tin: từ những thông tin nội bộ doanh nghiệp đến những thông
tin bên ngoài doanh nghiệp, từ thông tin số lượng đến thông tin giá trị. Những
thông tin đó đều giúp cho nhà phân tích có thể đưa ra được những nhận xét, kết
luận tinh tế và thích đáng. [3]
Trong những thông tin bên ngoài, cần lưu ý thu thập những thông tin chung
(thông tin liên quan đến trạng thái nền kinh tế, cơ hội kinh doanh, chính sách
thuế, lãi suất), thông tin về ngành kinh doanh (thông tin liên quan đến vị trí của
ngành trong nền kinh tế, cơ cấu ngành, các sản phẩm của ngành, tình trạng công
nghệ, thị phần, ...) và các thông tin về pháp lý, kinh tế đối với doanh nghiệp (các
thông tin mà các doanh nghiệp phải báo cáo cho các cơ quan quản lý như: tình
hình quản lý, kiểm toán, kế hoạch sử dụng kết quả kinh doanh của doanh
nghiệp). [3]
Tuy nhiên, để đánh giá một cách cơ bản tình hình tài chính của doanh
nghiệp, có thể sử dụng thông tin kế toán trong nội bộ doanh nghiệp như là một
nguồn thông tin quan trọng bậc nhất. Với những đặc trưng hệ thống, đồng nhất
và phong phú, kế toán hoạt động như một nhà cung cấp quan trọng những thông
tin đáng giá cho phân tích tài chính. Vả lại, các doanh nghiệp cũng có nghĩa
cung cấp những thông tin kế toán cho các đối tác bên trong và bên ngoài doanh
nghiệp. Thông tin kế toán được phản ánh khá đầy đủ trong các báo cáo kế toán.
Phân tích tài chính được thực hiện trên cơ sở các báo cáo tài chính – được hình
thành thông qua việc xử lý các báo cáo. Tóm lại nguồn tài liệu để phân tích tài
chính của doanh nghiệp thường bao gồm: các tài liệu về chính sách, chế độ của
nhà nước. Các văn kiện nghị quyết, chỉ thị, thông tư,... của cơ quan các cấp có
liên quan với doanh nghiệp ta nghiên cứu. Tài liệu kế hoạch, dự toán, định mức
17


đã được phê chuẩn và hiện hành. Tài liệu hạch toán bao gồm hạch toán thống kê,
hạch toán nghiệp vụ và hạch toán kế toán. Báo cáo tài chính của doanh nghiệp.
Các báo cáo tổng kết của doanh nghiệp, các biên bản thanh tra, kiểm tra, ý kiến

của người lao động trong doanh nghiệp và những cán bộ trên phụ trách, theo dõi
doanh nghiệp. [3]
Tài liệu thu thập từ nhiều nguồn khác nhau cho nên cần phải kiểm tra và xử
lý trước khi sử dụng. Cần kiểm tra các tài liệu về tính hợp pháp, tính chính xác
và tính thống nhất. Khi kiểm tra tài liệu, cần xử lý ngay: loại bỏ những số liệu
không đạt yêu cầu (không hợp pháp, không chính xác và mâu thuẫn với nhau).
Lựa chọn lấy những số liệu cần thiết cho nội dung phân tích và từ những số liệu
thu thập được ta tính toán những số liệu theo nội dung của đề tài. [3]
Công việc sưu tầm số liệu và kiểm tra số liệu, tài liệu rất quan trọng. Nó là
cơ sở của các bước phân tích tiếp theo. Nếu thu thập thừa nhiều tài liệu trước hết
lãng phí sức lao động và chi phí tốn kém, mất nhiều công cho việc xử lý và có
thể làm mất phương hướng phân tích. Ngược lại, nếu thu thập số liệu không đầy
đủ thì không thể tiến hành phân tích hoặc phân tích không toàn diện, triệt để. Tài
liệu không chính xác dẫn đến kết quả phân tích sai lệch. Như vậy việc phân tích
không những không có tác dụng tốt mà lại có hại cho những quyết định và hành
động của người quản lý. [3]
4.2.3.Tiến hành phân tích
Căn cứ vào nội dung phân tích đã xác định, tiến hành theo trình tự các nội
dung đó. Nội dung phân tích được giải quyết theo nguyên tắc: từ tổng quát đi
đến chi tiết và sau đó tập hợp. Giữa các vấn đề có mối liên hệ chặt chẽ với nhau.
Đó là khâu cơ bản, quyết định chất lượng của công tác phân tích. Có thể tóm tắt
nội dung các bước phân tích một vấn đề như sau:
Đánh giá chung: khái quát sự biến động của chỉ tiêu phân tích và các nhân
tố giữa kỳ nghiên cứu và kỳ gốc. Bằng trị số biến động, sơ bộ nhận xét chung.
Qua đó có phương hướng để phân tích chi tiết. [3]
Phân tích
18


+ Xác định mối liên hệ giữa chỉ tiêu nghiên cứu và các nhân tố bằng

phương trình kinh tế.
+ Xác định đối tượng cụ thể phân tích. Đó là trị số và trị số biến động của
chỉ tiêu phân tích.
+ Bằng phương pháp thích hợp, tính mức độ ảnh hưởng của các nhân tố
đến chỉ tiêu phân tích.
+ Lập biểu trình bày các số liệu phân tích.
+ Phân loại các nhân tố (tích cực, tiêu cực, chủ yếu, thứ yếu). Nghiên cứu
từng nhân tố. Nên bắt đầu và tập trung phân tích ở những nhân tố trọng điểm
(những nhân tố có tỷ trọng lớn, những nhân tố có biến động nhiều, những nhân
tố có nội dung phức tạp). [3]
Khi nghiên cứu mỗi nhân tố phải tìm được các nguyên nhân gây ra sự biến
động của nhân tố đó. Bằng cách “thu hẹp dần”, tìm đến nguyên nhân “nguyên
thủy”. Đánh giá nguyên nhân tìm ra là khách quan hoặc chủ quan. Khả năng
xuất hiện và tác động của những nguyên nhân này trong tương lai.[3]
4.2.4 Kết luận – kiến nghị
+ Tổng hợp các nguyên nhân, nêu những nguyên nhân chủ yếu, chủ quan.
+ Trên cơ sở những nguyên nhân với khả năng xuất hiện và tác động của nó
đã phân tích, đề xuất biện pháp cụ thể để khai thác những tiềm năng của doanh
nghiệp. Trong đó cần chú ý những biện pháp có thể thực hiện được trong điều
kiện nhất định của doanh nghiệp.
-

Lập báo cáo phân tích
Toàn bộ kết quả phân tích được trình bày bằng một bản thuyết minh và
những bảng, biểu và được trình bày trong hội nghị phân tích để thu thập ý kiến
đóng góp. Qua đó bổ sung, hoàn chỉnh báo cáo.[3]
4.3. Cơ sở phân tích
Số liệu dùng để phân tích chủ yếu được lấy từ các báo cáo sau:
4.3.1 Bảng cân đối kế toán
Bảng cân đối kế toán là báo cáo tài chính tổng hợp, phản ánh tổng quát

toàn bộ giá trị tài sản hiện có và nguồn hình thành tài sản đó của doanh nghiệp
19


tại một thời điểm nhất định. Bảng cân đối kế toán là một báo cáo tài chính mô tả
tình trạng tài chính của một doanh nghiệp tại một thời điểm nào đó. Đây là một
báo cáo tài chính có ý nghĩa rất quan trọng đối với mọi đối tượng có quan hệ sở
hữu, quan hệ kinh doanh và quan hệ quản lý với doanh nghiệp. [3]
Số liệu trên bảng cân đối kế toán cho biết toàn bộ giá trị tài sản hiện có của
doanh nghiệp và chi tiết giá trị từng loại tài sản. Cho biết giá trị hiện có của toàn
bộ các nguồn vốn và chi tiết giá trị từng nguồn vốn ở 2 thời điểm đầu kỳ và cuối
kỳ báo cáo.[3]
Từ số liệu của bảng cân đối kế toán ta có thể xác định được cơ cấu tài sản,
cơ cấu nguồn vốn của doanh nghiệp tại các thời điểm đó. Cung cấp số liệu để
xác định các chỉ tiêu hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp trong kỳ. Qua đó ta
có thể đánh giá khái quát tình hình tài chính của doanh nghiệp, đánh giá tình
hình thanh toán, đánh giá hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp… [3]
4.3.2 Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh
Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh cho biết sự dịch chuyển của tiền
trong quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và cho phép sự tính khả
năng hoạt động của doanh nghiệp trong tương lai. Báo cáo kết quả hoạt động
kinh doanh cũng giúp cho nhà phân tích so sánh doanh thu với số tiền thực nhập
quỹ khi bán hàng hóa, dịch vụ; so sánh tổng chi phí phát sinh với số tiền thự
xuất quỹ để vận hành doanh nghiệp. Trên cơ sở doanh thu và chi phí, có thể xác
định được kết quả sản xuất kinh doanh: lãi hay lỗ trong năm. Như vậy, báo cáo
kết quả hoạt động kinh doanh phản ánh kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh,
phản ánh tình hình tài chính của doanh nghiệp trong một thời kỳ nhất định. Nó
cung cấp những thông tin tổng hợp về tình hình và kết quả sử dụng các tiềm
năng về vốn, lao động, kỹ thuật và trình độ quản lý sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp. [3]

Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh là một báo cáo tài chính tổng hợp,
phản ánh tổng quát tình hình và kết quả trong một kỳ kế toán của doanh nghiệp,
chi tiết theo hoạt động kinh doanh chính và hoạt động khác.
20


Thông qua các chỉ tiêu trên báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh có thể
kiểm tra phân tích đánh giá tình hình thực kiện kế hoạch, thực hiện dự toán chi
phí sản xuất, thực hiện kế hoạch thu nhập và kết quả kinh doanh sau một kỳ kế
toán.
Thông qua báo cáo kết quả hoạt động kinh doan mà đánh giá xu hướng của
doanh nghiệp qua các thời kỳ khác nhau. [3]
4.3.3 Báo cáo lưu chuyển tiền tệ
Báo cáo lưu chuyển tiền tệ là báo cáo tài chính tổng hợp phản ánh việc hình
thành và sử dụng lượng tiền phát sinh trong kỳ báo cáo của doanh nghiệp. Dựa
vào báo cáo lưu chuyển tiền tệ, người sử dụng có thể đánh giá được khả năng
tạo ra tiền, sự biến động tài sản thuần của doanh nghiệp, khả năng thanh toán
của doanh nghiệp và dự đoán lượng tiền tiếp theo. [3]
Báo cáo lưu chuyển tiền tệ thực chất là một báo cáo cung cấp thông tin về
những sự kiện và nghiệp vụ kinh tế phát sinh có ảnh hưởng đến tình hình tiền
của doanh nghiệp, cụ thể là những thông tin về các khoản tiền doanh nghiệp
nhận được trong kỳ và các khoản tiền doanh nghiệp chi ra trong kỳ. [3]
Báo cáo lưu chuyển tiền tệ xác định hoặc dự báo dòng tiền thực nhập quỹ
(thu ngân quỹ), bao gồm: dòng tiền nhập quỹ từ hoạt động kinh doanh (từ bán
hàng hóa hoặc dịch vụ); dòng tiền nhập quỹ từ hoạt động đầu tư, tài chính; dòng
tiền nhập quỹ từ hoạt động bất thường. [3]
Báo cáo lưu chuyển tiền tệ xác định hoặc dự báo dòng tiền thực xuất quỹ
(chi ngân quỹ), bao gồm: dòng tiền xuất quỹ thực hiện sản xuất kinh doanh;
dòng tiền xuất quỹ thực hiện hoạt động đầu tư, tài chính; dòng tiền xuất quỹ
thực hiện hoạt động bất thường. [3]

Trên cơ sở dòng tiền xuất quỹ và nhập quỹ, nhà phân tích thực hiện cân đối
ngân quỹ với số dư ngân quỹ đầu kỳ để xác định số dư ngân quỹ cuối kỳ. Từ đó,
có thể thiết lập mức ngân quỹ dự phòng tối thiểu cho doanh nghiệp nhằm mục
tiêu đảm bảo chi trả.[3]

21


4.3.4 Thuyết minh báo cáo tài chính
Thuyết minh báo cáo tài chính là một bộ phân hợp thành hệ thống báo cáo
tài chính của doanh nghiệp, được lập để giải thích và bổ sung thông tin về tình
hình hoạt động sản xuất kinh doanh, tình hình tài chính của doanh nghiệp trong
kỳ báo cáo mà các báo cáo tài chính khác không thể trình bày rõ ràng và chi tiết
được. [3]
4.4 Các tỷ số thường dùng để phân tích đánh giá
4.4.1Các hệ số về khả năng thanh toán
- Hệ số thanh toán hiện hành
Khả năng thanh toán hiện hành = Tài sản lưu động/Nợ ngắn hạn
Tài sản lưu động thông thường bao gồm tiền, các chứng khoán ngắn hạn dễ
chuyển nhượng (tương đương tiền), các khoản phải thu và dự trữ (tồn kho); còn
nợ ngắn hạn thường bao gồm các khoản vay ngắn hạn ngân hàng thương mại và
các tổ chức tín dụng khác, các khoản phải trả nhà cung cấp, các khoản phải trả,
phải nộp khác… Cả tài sản lưu động và nợ ngắn hạn đều có thời hạn nhất định –
tới một năm. Tỷ số thanh toán hiện hành là thước đo khả năng thanh toán ngắn
hạn của doanh nghiệp, nó cho biết mức độ các khoản nợ của các chủ nợ ngắn
hạn được trang trải bằng các tài sản có thể chuyển thành tiền trong một giai đoạn
tương đương với thời hạn của các khoản nợ đó. [3]
Để đánh giá khả năng thanh toán các khoản nợ ngắn hạn khi đến hạn, các
nhà phân tích còn quan tâm đến chỉ tiêu vốn lưu động ròng, hay vốn lưu động
thường xuyên của doanh nghiệp. Chỉ tiêu này cũng là một yếu tố quan trọng và

cần thiết cho việc đánh giá điều kiện cân bằng tài chính của một doanh nghiệp.
Nó được xác định là phần chênh lệch giữa tổng tài sản lưu động – vốn lưu động
và tổng nợ ngắn hạn, hoặc là phần chênh lệch giữa vốn thường xuyên ổn định
với tài sản cố định ròng. Khả năng đáp ứng nghĩa vụ thanh toán, mở rộng quy
mô sản xuất kinh doanh và khả năng nắm bắt thời cơ thuận lợi của nhiều doanh
nghiệp phụ thuộc phần lớn vào vốn lưu động ròng. Do vậy, sự phát triển của
không ít doanh nghiệp còn được thể hiện ở sự tăng trưởng vốn lưu động ròng.
[3]
22


- Hệ số thanh toán nhanh
Là hệ số giữa các tài sản quay vòng nhanh với nợ ngắn hạn. Tài sản quay
vòng nhanh là những tài sản có thể nhanh chóng chuyển đổi thanh tiền, bao
gồm: tiền, chứng khoán ngắn hạn, các khoản phải thu. Tài sản dự trữ (tồn kho)
là các tài sản khó chuyển thành tiền hơn trong tổng tài sản lưu động và dễ bị lỗ
nhất nếu được bán. Do vậy, hệ số khả năng thanh toán nhanh cho biết khả năng
hoàn trả các khoản nợ ngắn hạn không phụ thuộc vào việc bán tài sản dự trữ (tồn
kho) và được xác định bằng cách lấy tài sản lưu động trừ phần dự trữ (tồn kho)
chia cho nợ ngắn hạn.
Khả năng thanh toán nhanh = (Tài sản lưu động – Dự trữ) / Nợ ngắn hạn. [3]
- Tỷ số dự trữ (tồn kho) trên vốn lưu động ròng
Tỷ số này cho biết dự trữ chiếm bao nhiêu phần tram vốn lưu động ròng.
Nó được tính bằng cách chia dự trữ (tồn kho) cho vốn lưu động ròng. [3]
4.4.2 Các tỷ số về khả năng cân đối vốn
Tỷ số này được dùng để đo lường phần vốn góp của các chủ sở hữu doanh
nghiệp so với phần tài trợ của các chủ nợ đối với doanh nghiệp và có ý nghĩa
quan trọng trong phân tích tài chính. Bởi lẽ, các chủ nợ nhìn vào số vốn của chủ
sở hữu công ty để thể hiện mức độ tin tưởng vào sự đảm bảo an toàn cho các
món nợ. Nếu chủ sở hữu doanh nghiệp chỉ đóng góp một tỷ lệ nhỏ trong tổng số

vốn thì rủi ro xảy ra trong sản xuất kinh doanh chủ yếu do các chủ nợ gánh chịu.
Mặt khác, bằng cách tăng vốn thông qua vay nợ, các chủ doanh nghiệp vẫn nắm
quyền kiểm soát và điều hành doanh nghiệp. Ngoài ra, nếu doanh nghiệp thu
được lợi nhuận từ tiền vay thì lợi nhuận dành cho các chủ doanh nghiệp sẽ gia
tăng đáng kể. [3]
- Tỷ số nợ trên tổng tài sản (hệ số nợ)
Tỷ số này được sử dụng để xác định nghĩa vụ của chủ doanh nghiệp đối với
các chủ nợ trong việc góp vông. Thông thường các chủ nợ thích tỷ số nợ trên
tổng tài sản vừa phải vì tỷ số này càng thấp thì khoản nợ càng được đảm bảo
trong trường hợp doanh nghiệp bị phá sản. Trong khi đo, các chủ sở hữu doanh
nghiệp ưa thích tỷ số này cao vì họ muốn lợi nhuận gia tăng nhanh và muốn toàn
23


quyền kiểm soát doanh nghiệp. Song nếu tỷ số nợ quá cao, doanh nghiệp dễ bị
rơi vào trạng mất khả năng thanh toán. [3]
- Khả năng thanh toán lãi vay hoặc số lần có thể trả lãi
Thể hiện ở tỷ số giữa lợi nhuận trước thuế và lãi vay trên lãi vay. Nó cho
biết mức độ lợi nhuận đảm bảo khả năng trả lãi hàng năm như thế nào. Việc
không trả được các khoản nợ này sẽ thể hiện khả năng doanh nghiệp có nguy cơ
bị phá sản. [3]
4.4.3 Các tỷ số về khả năng hoạt động
Các tỷ số hoạt động được sử dụng để đánh giá hiệu quả sử dụng tài sản của
doanh nghiệp. Vốn của doanh nghiệp được dùng để đầu tư cho các loại tài sản
khác nhau như tài sản lưu động, tài sản cố định. Do đó, các nhà phân tích không
chỉ quan tâm tới việc đo lường hiệu quả sử dụng tổng tài sản mà còn chú trọng
tới hiệu quả sử dụng của từng bộ phận cấu thành tổng tài sản của doanh nghiệp.
Chỉ tiêu doanh thu được sử dụng chủ yếu trong tính toán các tỷ số này để xem
xét khả năng hoạt động của doanh nghiệp.[3]
- Vòng quay tiền

Tỷ số này được xác định bằng cách chia doanh thu trong năm cho tổng số
tiền và các loại tài sản tương đương tiền bình quân (chứng khoán ngắn hạn dễ
chuyển nhượng), nó cho biết số vòng quay của tiền trong năm. [3]
- Vòng quay dự trữ (tồn kho)
Là một chỉ tiêu khá quan trọng để đánh giá hoạt động sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp, vòng quay dự trữ được xác định bằng tỷ số giữa doanh thu
trong năm và giá trị dự trữ (nguyên vật liệu, vât liệu phụ, sản phẩm dở dang,
thành phẩm) bình quân.[3]
- Kỳ thu tiền
Kỳ thu tiền bình quân = Các khoản phải thu x 360 / Doanh thu
Trong phân tích tài chính, kỳ thu tiền được sử dụng để đánh giá khả năng
thu tiền trong thanh toán trên cơ sở các khoản phải thu và doanh thu bình quân
một ngày. Các khoản phải thu lớn hay nhỏ phụ thuộc vào chính sách tín dụng
thương mại của doanh nghiệp và các khoản trả trước. [3]
24


- Hiệu suất sử dụng tài sản cố định
Sử dụng chỉ tiêu hiệu suất sử dụng tài sản cố định và hiệu suất sử dụng vốn
cố định để đánh giá. [3]
- Hiệu suất sử dụng tổng tài sản
Chỉ tiêu này còn được gọi là vòng quay toàn bộ tài sản, nó được đo bằng tỷ
số giữa doanh thu thuần và tổng tài sản và cho biết một đồng tài sản đem lại bao
nhiêu đồng doanh thu. [3]
4.4.4 Các tỷ số về khả năng sinh lợi
Nếu như các nhóm tỷ số trên đây phản ánh hiệu quả từng hoạt động riêng
biệt của doanh nghiệp thì tỷ số về khả năng sinh lãi phản ánh tổng hợp nhất hiệu
quả sản xuất kinh doanh và hiệu năng quản lý doanh nghiệp. Đó là các chỉ tiêu:
- Doanh lợi tiêu thụ sản phẩm
Doanh lợi tiêu thụ sản phẩm = Lãi sau thuế / Doanh thu thuần. [3]

- Doanh lợi vốn chủ sở hữu – ROE (Tỷ số thu nhập sau thuế trên vốn chủ sở hữu)
ROE = Lãi sau thuế / Vốn chủ sở hữu
Chỉ tiêu doanh lợi vốn chủ sở hữu phản ánh khả năng sinh lợi của vốn chủ
sở hữu và được các nhà đầu tư đặc biệt quan tâm khi họ quyết định bỏ vốn đầu
tư vào doanh nghiệp. Tăng mức doanh lợi vốn chủ sở hữu là một mục tiêu quan
trọng nhất trong hoạt động quản lý tài chính doanh nghiệp. [3]
- Doanh lợi tài sản – ROA
ROA = Lãi sau thuế / Tổng giá trị tài sản
Đây là một chỉ tiêu tổng hợp nhất được dùng để đánh giá khả năng sinh lợi
của một đồng vốn đầu tư.
Bên cạnh đó, các nhà phân tích còn sử dụng phương pháp phân tích tài
chính DUPONT nhằm đánh giá tác động tương hỗ giữa các tỷ số tài chính. Với
phương pháp này, các nhà phân tích sẽ nhận biết được các nguyên nhân dẫn đến
các hiện tượng tốt, xấu trong hoạt động của doanh nghiệp. [3]
Bản chất của phương pháp này là tách ROE và ROA thành tích của các tỷ
số để tìm ra nhân tố ảnh hưởng đến các chi tiêu tổng hợp này.
Tách ROE
25


×