Tải bản đầy đủ (.pdf) (16 trang)

Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về hình phạt trục xuất theo luật hình sự Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (498.83 KB, 16 trang )

Header Page 1 of 237.

Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về hình
phạt trục xuất theo luật hình sự Việt Nam
Lê Thị Trúc Quỳnh
Khoa Luật
Luận văn ThS. ngành: Luật hình sự; Mã số: 60 38 40
Người hướng dẫn: GS.TSKH. Lê Văn Cảm
Năm bảo vệ: 2010
Abstract. Khái niệm, đặc điểm, lịch sử phát triển của pháp luật hình sự Việt Nam
quy định về hình phạt trục xuất. Làm rõ thực trạng tình hình tội phạm là người nước
ngoài trên lãnh thổ Việt Nam. Nghiên cứu những quy định cụ thể về hình phạt trục
xuất trong Bộ luật hình sự hiện hành của Việt Nam; qua đó rút ra những hạn chế, tồn
tại của hình phạt này trong luật thực định Việt Nam; những phương hướng khắc
phục. Nghiên cứu, đánh giá thực tiễn áp dụng các quy định về hình phạt trục xuất
trong những năm gần đây; đồng thời phân tích làm rõ những hạn chế, tồn tại trong
việc áp dụng và những nguyên nhân của những hạn chế, tồn tại đó. Đề xuất những
định hướng và giải pháp hoàn thiện các quy định về hình phạt trục xuất trong Bộ luật
hình sự Việt Nam hiện hành và nâng cao hiệu quả áp dụng của hình phạt này trong
thực tiễn.
Keywords. Pháp luật Việt Nam; Luật hình sự; Tội phạm quốc tế; Trục xuất

Content
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong giai đoạn mở rộng hợp tác quốc tế hiện nay, đặc biệt là đối với Việt Nam, kể từ sau
khi gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) và tham gia nhiều diễn đàn quốc tế, đã mở
ra nhiều cơ hội giao lưu và hợp tác quốc tế, đáp ứng yêu cầu của tình hình phát triển xã hội.
Các cá nhân, tổ chức nước ngoài vào Việt Nam với mục đích làm ăn, du lịch và kinh doanh
ngày càng nhiều, thu hút được ngày càng nhiều vốn đầu tư nước ngoài và nguồn lao động chất
lượng cao. Với chính sách thông thoáng, quy định về thủ tục nhập cảnh đơn giản và dễ dàng


nên số lượng người nước ngoài nhập cảnh Việt Nam ngày càng tăng, đa dạng về thành phần,
với nhiều mục đích khác nhau (hàng năm, có từ 4 - 5 triệu lượt người nước ngoài nhập cảnh
Việt Nam; riêng năm 2009 có khoảng 3,5 triệu người). Hiện cả nước có khoảng 75.000 người
nước ngoài cư trú, làm ăn, sinh sống trên lãnh thổ Việt Nam. Với số lượng lớn người nước
ngoài như vậy hiện diện toàn đất nước, việc nảy sinh những hành vi vi phạm pháp luật cũng
như việc kiểm soát các hành vi trái pháp luật của người nước ngoài ngày càng trở nên phức tạp
và đòi hỏi các cơ quan chức năng phải thực sự nghiêm túc và có trách nhiệm trong việc phát
hiện và xử lý tội phạm.
Đây là một vấn đề mang màu sắc ngoại giao nên cách thức xử lý tội phạm là người nước
ngoài trên lãnh thổ Việt Nam cũng là vấn đề hết sức nhạy cảm. Đòi hỏi đặt ra là trong hệ thống

Footer Page 1 of 237.


Header Page 2 of 237.

hình phạt trong Bộ luật hình sự nước ta phải có hình phạt đặc thù để áp dụng đối với đối
tượng là người nước ngoài.
Hình phạt trục xuất được ghi nhận với tư cách vừa là hình phạt chính vừa là hình phạt bổ
sung trong Bộ luật hình sự năm 1999 là cơ sở pháp lý quan trọng để Tòa án có thể lựa chọn
và áp dụng linh hoạt đối với đối tượng đặc biệt là người nước ngoài phạm tội với mục đích
không chỉ nhằm trừng trị mà còn có ý nghĩa ngăn ngừa khả năng phạm tội trên lãnh thổ Việt
Nam. Đồng thời thực hiện tốt chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta, đáp ứng yêu
cầu bảo vệ lợi ích và chủ quyền quốc gia, quyền và lợi ích của cơ quan, tổ chức và công dân,
cũng như ổn định, giữ vững và phát triển các quan hệ hữu nghị, hợp tác với các nước trong
khu vực và trên thế giới.
Tuy nhiên, do tính chất phức tạp và nhạy cảm của việc xử lý các trường hợp người nước
ngoài phạm tội trên lãnh thổ Việt Nam, Nhà nước ta chủ yếu xử lý các trường hợp này thông
qua con đường ngoại giao theo các điều ước quốc tế mà Việt Nam đã ký kết, tham gia hoặc
theo thông lệ quốc tế nên hình phạt trục xuất được quy định trong luật hình sự vừa phải đảm

bảo tính nghiêm khắc nhưng cũng vừa phải linh hoạt trong xử lý để bảo đảm chủ quyền, an
ninh quốc gia.
Trong bối cảnh Việt Nam đang thực hiện công cuộc cải cách tư pháp theo tinh thần Nghị
quyết số 08 ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trong tâm công tác tư
pháp trong thời gian tới; Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 25/04/2005 của Bộ Chính trị về
Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến
năm 2020; Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/06/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách
tư pháp đến năm 2020, việc nghiên cứu các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam hiện
hành về hình phạt trục xuất và thực tiễn áp dụng để làm sáng tỏ về mặt khoa học và đưa ra
những giải pháp hoàn thiện, nâng cao hiệu quả của việc áp dụng những quy định đó không
chỉ có ý nghĩa lý luận, mà còn mang ý nghĩa thực tiễn và pháp lý quan trọng.
Là một hình phạt mới được áp dụng sau khi Bộ luật hình sự 1999 ra đời, là giải pháp hữu
hiệu thay thế cho các chế tài hành chính trong lĩnh vực xuất nhập cảnh. Sau một thời gian áp
dụng và thi hành, các quy định về hình phạt trục xuất cũng đã thể hiện được một số điểm tích
cực cũng như bộc lộ những mặt thiếu sót. Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài này, tôi xin
phép được đưa ra những kiến thức chuyên ngành về hình phạt trục xuất, những mặt mạnh,
mặt yếu của nó, thực tiễn áp dụng hình phạt trục xuất cũng như đề xuất những giải pháp hoàn
thiện pháp luật về hình phạt trục xuất. Đề tài của tôi có tên gọi: "Một số vấn đề lý luận và
thực tiễn về hình phạt trục xuất theo luật hình sự Việt Nam".
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Hình phạt trục xuất là một chế định mới được ghi nhận trong Bộ luật hình sự Việt Nam
năm 1999. Trong thực tiễn nghiên cứu pháp luật, cũng chưa có nhiều công trình nghiên cứu
vấn đề này.
Ở cấp độ luận án tiến sĩ luật học có các đề tài của các tác giả Nguyễn Sơn, Các hình phạt
chính trong luật hình sự Việt Nam, Viện Nhà nước và Pháp luật, Hà Nội, 2003; tác giả Trịnh
Quốc Toản, Các hình phạt bổ sung trong luật hình sự Việt Nam, Khoa Luật, Đại học Quốc gia
Hà Nội, 2010.
Ở cấp độ luận văn thạc sĩ thực hiện ở Viện Nhà nước và pháp luật (Viện Khoa học Xã hội
Việt Nam) có các đề tài của các tác giả Nguyễn Văn Vĩnh, Hệ thống hình phạt trong luật hình
sự Việt Nam, Hà Nội, 1996; Đặng Đức Thạo, Hệ thống hình phạt trong luật hình sự nước

Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; v.v...
Về giáo trình, sách chuyên khảo, bình luận có các công trình: GS.TSKH. Lê Văn Cảm,
Chương thứ bảy - Hình phạt và biện pháp tư pháp, Sách chuyên khảo Sau đại học: Những
vấn đề cơ bản trong khoa học luật hình sự (Phần chung), Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội,
2005; GS.TS. Nguyễn Ngọc Hòa (chủ biên), Trách nhiệm hình sự và hình phạt, Nxb Công
an nhân dân, Hà Nội, 2001; Viện Nhà nước và Pháp luật, Những vấn đề lý luận của việc đổi

Footer Page 2 of 237.


Header Page 3 of 237.

mới pháp luật hình sự trong giai đoạn hiện nay, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 1994; Viện
Khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp, Hình phạt trong luật hình sự Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc
gia, Hà Nội, 1995; TS. Đặng Quang Phương (Chủ nhiệm đề tài), Cơ sở lý luận và thực tiễn
nâng cao hiệu quả của các biện pháp tư pháp và các hình phạt không phải là tù và tử hình,
Hà Nội, 1996; v.v...
Ngoài ra, có một số bài viết, nghiên cứu của các tác giả khác, điển hình như bài viết "Một số
ý kiến về hình phạt trục xuất trong Bộ luật hình sự năm 1999" của TS. Trịnh Tiến Việt và ThS.
Nguyễn Cửu Đức Bình đăng trên tạp chí Khoa học pháp lý số 4/2003; bài viết "Hình phạt trục
xuất đối với người nước ngoài theo pháp luật hình sự Việt Nam - một số vấn đề thực tiễn", của
Trịnh Tiến Việt và Nguyễn Khắc Hải - Các báo cáo hội thảo khoa học lần thứ IX (Hiệp hội khoa
học-kỹ thuật Việt Nam tại Liên bang Nga), Mátxcơva, 2007, tr. 91-97.
Trên cơ sở nghiên cứu, khảo sát các công trình nghiên cứu khoa học của các nhà nghiên
cứu, chúng ta có thể thấy là các vấn đề liên quan đến trục xuất mới chỉ được đề cập dưới cấp
độ các bài viết, các nghiên cứu tổng hợp chứ chưa được xem xét dưới góc độ một công trình
nghiên cứu độc lập. Trong thực tế xét xử, các vụ án liên quan đến trục xuất người nước ngoài ra
khỏi lãnh thổ Việt Nam là rất ít so với các hình phạt khác. Một phần là do tính chất nhạy cảm của
vấn đề, mặt khác do đây là một hình phạt tương đối mới, chỉ được quy định từ sau Bộ luật hình
sự năm 1999, trước đây chỉ được xem là một biện pháp hành chính nên trong công tác xét xử

cũng còn gặp nhiều khó khăn.
Bởi vậy, khi chọn đề tài này, tác giả nhận thấy đây là một vấn đề rất mới mẻ và nếu thành
công, luận văn còn có ý nghĩa làm tài liệu tham khảo lý luận cần thiết cho các nhà khoa học luật gia, cán bộ thực tiễn, học viên cao học, nghiên cứu sinh chuyên ngành tư pháp hình sự
cũng như phục vụ cho công tác lập pháp, công tác nghiên cứu và hoạt động thực tiễn áp dụng
pháp luật hình sự liên quan đến hình phạt trục xuất.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích nghiên cứu
Việc nghiên cứu đề tài này nhằm mục đích nghiên cứu tội phạm là người nước ngoài vi phạm
pháp luật hình sự Việt Nam, những vấn đề lý luận về hình phạt trục xuất, những vấn đề pháp lý
liên quan, thực tiễn công tác đấu tranh phòng chống tội phạm nước ngoài trên lãnh thổ Việt Nam.
Đồng thời phân tích những ưu điểm, nhược điểm của hình phạt trục xuất trong Bộ luật hình
sự, phân tích nguyên nhân của những tồn tại, từ đó đề ra phương án hoàn thiện pháp luật hình sự
liên quan đến vấn đề trục xuất trong luật hình sự Việt Nam.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Trên cơ sở những mục đích trên, luận văn này có nhiệm vụ nghiên cứu:
- Khái niệm, đặc điểm, lịch sử phát triển của pháp luật hình sự Việt Nam quy định về
hình phạt trục xuất;
- Làm rõ thực trạng tình hình tội phạm là người nước ngoài trên lãnh thổ Việt Nam;
- Nghiên cứu những quy định cụ thể về hình phạt trục xuất trong Bộ luật hình sự hiện hành
của Việt Nam; qua đó rút ra những hạn chế, tồn tại của hình phạt này trong luật thực định Việt
Nam; những phương hướng khắc phục;
- Nghiên cứu, đánh giá thực tiễn áp dụng các quy định về hình phạt trục xuất trong
những năm gần đây; đồng thời phân tích làm rõ những hạn chế, tồn tại trong việc áp dụng và
những nguyên nhân của những hạn chế, tồn tại đó;
- Đề xuất những định hướng và giải pháp hoàn thiện các quy định về hình phạt trục xuất
trong Bộ luật hình sự Việt Nam hiện hành và nâng cao hiệu quả áp dụng của hình phạt này
trong thực tiễn;
4. Phƣơng pháp tiếp cận vấn đề
Nghiên cứu tình hình tội phạm liên quan đến trục xuất trong những năm gần đây. Những
số liệu nghiên cứu là căn cứ có giá trị nhất định để xác định về tội phạm là người nước ngoài

trên lãnh thổ Việt Nam, từ đó đề ra các giải pháp nâng cao hiệu quả phòng chống tội phạm

Footer Page 3 of 237.


Header Page 4 of 237.

này cũng như các biện pháp để hình phạt này phát huy được ý nghĩa lý luận của nó trong thực
tiễn.
Trên cơ sở phương pháp biện chứng duy vật, Luận văn sử dụng tổng hợp các phương
pháp như: phương pháp tổng hợp, so sánh; phương pháp thống kê tội phạm học; phương pháp
điều tra xã hội; phương pháp dự báo khoa học…để thực hiện nghiên cứu đề tài này.
5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Lần đầu tiên nhà làm luật nước ta đã ghi nhận một quy phạm riêng biệt đề cập đến định
nghĩa pháp lý của khái niệm hình phạt trục xuất. Việc Bộ luật hình sự năm 1999 quy định bổ
sung hình phạt trục xuất và đưa ra khái niệm hình phạt này có ý nghĩa lý luận - thực tiễn rất
quan trọng đối với sự phát triển của pháp luật hình sự Việt Nam nói riêng, cũng như thực tiễn
áp dụng hình phạt đối với người phạm tội của Tòa án nói chung, đặc biệt trong công tác đấu
tranh phòng và chống người nước ngoài phạm tội trên lãnh thổ Việt Nam trước tình hình phát
triển của xã hội với xu thế hội nhập và mở cửa, giao lưu và hợp tác quốc tế.
Ý nghĩa lý luận và thực tiễn quan trọng của luận văn là ở chỗ - tác giả đã làm rõ một số
vấn đề lý luận chung về hình phạt và hình phạt trục xuất; phân biệt các hình phạt trục xuất
với chế tài hành chính; phân tích những quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 về các hình
phạt trục xuất và thực tiễn áp dụng hình phạt này tại Việt Nam thông qua việc phân tích số
liệu 10 năm gần đây trên địa bàn cả nước. Trên cơ sở này, đề xuất một số phương hướng và
những giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng một số quy định tương ứng về hình phạt trục
xuất ở khía cạnh lập pháp và việc áp dụng chúng trong thực tiễn.
6. Những điểm mới và đóng góp của luận văn
Đối với sự thành bại của bất kỳ một luận văn nào, điều quan trọng là thể hiện được những
đóng góp của luận văn đối với việc tìm hiểu bản chất vấn đề của đề tài mà tác giả theo đuổi

cũng như tính mới của nó đối với những công trình nghiên cứu của các tác giả, các nhà
nghiên cứu khác. Kết quả nghiên cứu của luận văn có ý nghĩa quan trọng về phương diện lý
luận và thực tiễn, vì đây là công trình nghiên cứu đầu tiên ở cấp độ một luận văn thạc sĩ luật
học về hình phạt trục xuất, mà trong đó giải quyết nhiều vấn đề quan trọng về lý luận và thực
tiễn liên quan tới hình phạt trục xuất trong luật hình sự Việt Nam. Những điểm mới cơ bản
của luận văn là:
- Tổng hợp các quan điểm khoa học trong và ngoài nước về hình phạt, hình phạt trục xuất
để xây dựng nên khái niệm hình phạt trục xuất, đảm bảo tính chính xác, khoa học, chỉ ra các
đặc điểm cơ bản của hình phạt trục xuất, phân biệt hình phạt trục xuất với biện pháp trục xuất
theo luật hành chính;
- Nghiên cứu chỉ ra những đặc điểm chủ yếu của quá trình hình thành và phát triển của
các quy phạm của hình phạt trục xuất trong pháp luật hình sự Việt Nam từ năm 1945 đến nay;
- Nghiên cứu, đánh giá làm sáng tỏ tình hình vi phạm pháp luật liên quan đến người nước
ngoài phạm tội và tình hình áp dụng hình phạt trục xuất của Tòa án các cấp; những tồn tại,
hạn chế của thực tiễn pháp luật và thực tiễn áp dụng hình phạt trục xuất cũng như những
nguyên nhân của các tồn tại, hạn chế đó;
- Trên cơ sở kết quả nghiên cứu lý luận và thực tiễn, luận văn đã đề xuất các định hướng
và giải pháp hoàn thiện pháp luật thực định và nâng cao hiệu quả áp dụng hình phạt này trong
giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền và cải cách tư pháp hiện nay ở Việt Nam.
Bên cạnh đó, luận văn sẽ là một tài liệu tham khảo cần thiết và bổ ích dành cho không chỉ
các nhà lập pháp mà còn cho các nhà nghiên cứu, các cán bộ giảng dạy pháp luật, các
nghiên cứu sinh, học viên cao học và sinh viên thuộc chuyên ngành Tư pháp hình sự tại các
cơ sở đào tạo luật. Kết quả nghiên cứu của luận văn còn phục vụ cho việc trang bị những
kiến thức chuyên sâu cho các cán bộ thực tiễn đang công tác tại các Cơ quan điều tra, Viện
kiểm sát, Tòa án và cơ quan Thi hành án trong quá trình giải quyết vụ án hình sự được khách
quan, có căn cứ và đúng pháp luật.
7. Kết cấu của luận văn

Footer Page 4 of 237.



Header Page 5 of 237.

Ngoài phần mở bài, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm
3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề chung về hình phạt trục xuất trong luật hình sự Việt Nam.
Chương 2: Các quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 về hình phạt trục xuất và thực
tiễn áp dụng.
Chương 3: Một số phương hướng cơ bản để nâng cao hiệu quả các quy định của pháp
luật hình sự về hình phạt trục xuất.
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ HÌNH PHẠT TRỤC XUẤT
TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
1.1. Khái niệm và các đặc điểm cơ bản của hình phạt trục xuất trong luật hình sự
Việt Nam
1.1.1. Khái niệm hình phạt trục xuất
Hình phạt trục xuất là một trong các biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà
nước do Bộ luật hình sự Việt Nam quy định, được Tòa án áp dụng đối với người nước ngoài
phạm tội trên lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và bị buộc phải rời Việt
Nam trong thời gian nhất định. Hình phạt trục xuất được áp dụng với tư cách vừa là hình
phạt chính, vừa là hình phạt bổ sung nhằm góp phần nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh
phòng, chống tội phạm nước ngoài, đặc biệt là tội phạm quốc tế, tội phạm xuyên quốc gia;
bảo vệ trật tự xã hội và độc lập, chủ quyền dân tộc.
1.1.2. Các đặc điểm cơ bản của hình phạt trục xuất
Với tính chất vừa là hình phạt chính và hình phạt bổ sung trong Bộ luật hình sự năm
1999, hình phạt trục xuất mang những đặc điểm chung của hình phạt như sau:
- Là biện pháp cưỡng chế về hình sự nghiêm khắc nhất so với tất cả các biện pháp cưỡng
chế về hình sự khác của Nhà nước mà việc áp dụng nó đối với người bị kết án sẽ đưa đến hậu
quả pháp lý là người đó bị coi là có án tích.
- Chỉ có thể xuất hiện khi có sự kiện phạm tội

- Phải và chỉ do một cơ quan tư pháp hình sự duy nhất có thẩm quyền xét xử vụ án hình
sự - tòa án - áp dụng và chỉ đối với người bị kết án nói riêng trong bản án kết tội có hiệu lực
pháp luật.
- Việc giải quyết vụ án phải thông qua các giai đoạn tố tụng hình sự được quy định rất
chặt chẽ, nghiêm ngặt.
- Nhằm tước bỏ hoặc hạn chế quyền, tự do của người bị kết án
- Là sự thống nhất giữa cưỡng chế và thuyết phục, giữa trừng trị và giáo dục
- Mang tính chất cá nhân, tức là chỉ được áp dụng đối với riêng bản thân người bị kết án
mà thôi
Trục xuất, bên cạnh những đặc điểm chung của hình phạt trong hệ thống pháp luật hình sự
Việt Nam, còn mang những đặc điểm riêng biệt, tiêu biểu như:
- Trục xuất là hình phạt mới - chỉ được quy định cụ thể trong hệ thống hình phạt của Bộ
luật hình sự năm 1999.
Việc quy định hình phạt trục xuất trong hệ thống hình phạt của Bộ luật hình sự năm 1999
đã làm đa dạng hóa các biện pháp xử lý hình sự, là cơ sở pháp lý để Tòa án có thể lựa chọn và áp
dụng đối với người nước ngoài phạm tội với mục đích không chỉ trừng trị mà còn có tác dụng
ngăn ngừa một cách triệt để khả năng phạm tội mới của người nước ngoài trên lãnh thổ Việt
Nam.
- Trục xuất là buộc người nước ngoài bị kết án phải rời khỏi lãnh thổ nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam.
Đối tượng bị áp dụng hình phạt này là người nước ngoài. Khi niệm người nước ngoài đã
được xác định trong Luật quốc tịch Việt Nam, trong pháp lệnh nhập cảnh, xuất cảnh, cư trú

Footer Page 5 of 237.


Header Page 6 of 237.

của người nước ngoài tại Việt Nam. Theo đó, "người nước ngoài là người không có quốc tịch
Việt Nam". Từ khái niệm này có thể hiểu người nước ngoài là người mang quốc tịch của một

nước khác và người không mang quốc tịch của bất cứ một nước nào (người không quốc tịch)
- Trục xuất vừa là hình phạt chính vừa là hình phạt bổ sung.
Hình phạt trục xuất được Tòa án áp dụng là hình phạt chính hoặc hình phạt bổ sung trong
từng trường hợp.
Trường hợp Tòa án áp dụng hình phạt trục xuất là hình phạt chính thì không được áp
dụng là hình phạt bổ sung. Nếu hình phạt chính áp dụng đối với người bị kết án là một hình
phạt khác không phải là trục xuất thì hình phạt bổ sung áp dụng đối với người bị kết án có thể
là trục xuất…Như vậy, hình phạt bổ sung là trục xuất được áp dụng đối với người bị kết án chỉ
khi hình phạt chính được áp dụng đối với người bị kết án không phải là hình phạt này.
- Hình phạt trục xuất chỉ được quy định ở phần chung của Bộ luật hình sự mà không
được quy định tại các điều luật cụ thể trong phần các tội phạm Bộ luật hình sự.
Hình phạt trục xuất có thể áp dụng đối với bất kỳ tội phạm nào được quy định trong Phần
các tội phạm Bộ luật hình sự. Khi quyết định hình phạt trục xuất, các nhà làm luật phải căn cứ
vào các nguyên tắc được ghi nhận trong Bộ luật hình sự về việc áp dụng các tình tiết tăng nặng,
giảm nhẹ trách nhiệm hình sự khi quyết định hình phạt, căn cứ vào tính chất và mức độ nguy
hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội… để quyết định áp dụng
hình phạt trục xuất như là hình phạt chính hay hình phạt bổ sung.
1.2. Khái quát lịch sử hình thành và phát triển của các quy phạm về hình phạt trục
xuất trong pháp luật hình sự Việt Nam sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến nay
1.2.1. Khát quát lịch sử hình thành, phát triển của các quy phạm về hình phạt trục xuất
trong pháp luật Việt Nam từ năm 1945 đến năm 1999
Trước khi pháp điển hóa lần thứ hai, trục xuất được ghi nhận như một biện pháp hành
chính, được điều chỉnh trong các văn bản pháp lý như: Sắc lệnh 205- SL ngày 18/4/1948;
Pháp lệnh về nhập cảnh, xuất cảnh, cư trú, đi lại của người nước ngoài tại Việt Nam được
Hội đồng Nhà nước ban hành năm 1992. Ngoài các văn bản pháp lý này ra, trục xuất không
được quy định trong bất kỳ một văn bản nào khác.
Điều này có thể nói là do nhiều nguyên nhân, cả khách quan lẫn chủ quan. Trong thời kỳ
này, Đảng và Nhà nước ta chủ yếu tập trung ban hành những văn bản pháp quy quy định về
những loại tội phạm,nhóm loại tội phạm cụ thể và đường lối xử lý đối với các loại tội phạm
như các loại tội phạm liên quan đến việc trừng trị âm mưu, hành động phá hoại làm thiệt hại

đến tài sản của Nhà nước, của hợp tác xã và của Nhân dân; các tội phạm liên quan đến đầu
cơ; các tội phạm phản cách mạng; xâm phạm tài sản Nhà nước và cá nhân… Thực tế đất
nước ta trong giai đoạn này là công cuộc cải tổ lại đất nước. Sau khi giành lại độc lập, đất
nước ta phải đối diện với nhiều khó khăn, thù trong giặc ngoài vẫn diễn ra hết sức phức tạp,
kẻ địch vẫn không ngừng tiến hành các hoạt động diễn biến hòa bình hết sức ma lanh, sự thay
đổi của tình hình kinh tế - chính trị cũng dẫn đến nhiều tệ nạn xã hội phát triển, việc bảo vệ
thành quả cách mạng; bảo vệ chế độ và tài sản quốc dân là việc cần thiết hơn cả. Chính sách
với người nước ngoài tại Việt Nam trong thời kỳ này chủ yếu thông qua con đường ngoại
giao mềm dẻo, bao gồm cả việc xử lý người nước ngoài vi phạm pháp luật Việt Nam.
1.2.2. Hình phạt trục xuất từ sau khi được pháp điển hóa trong Bộ luật hình sự năm
1999 đến nay
Hình phạt trục xuất được ghi nhận là một loại hình phạt trong Bộ luật, với tính chất vừa
là hình phạt chính, vừa là hình phạt bổ sung. Ngoài quy định tại Điều 32 Bộ luật hình sự 1999
và Nghị định 54 /2001/NĐ-CP thì cho đến thời điểm hiện nay, chưa có bất kỳ một văn bản
nào hướng dẫn cụ thể các quy định về hình phạt trục xuất và các vấn đề liên quan. Luật
không quy định trong trường hợp nào thì áp dụng trục xuất với tư cách là hình phạt chính,
trường hợp nào áp dụng trục xuất với tư cách hình phạt bổ sung, các điều luật tại phần riêng
Bộ luật hình sự 1999 cũng không quy định khung hình phạt liên quan đến trục xuất, mà tùy

Footer Page 6 of 237.


Header Page 7 of 237.

vào tình chất, mức độ nguy hiểm để cán bộ Tòa án xử lý. Thực tiễn áp dụng hình phạt trục
xuất của cán bộ tư pháp cũng rất hạn chế, thay đổi thất thường trong khi tình trạng người
nước ngoài vi phạm pháp luật hình sự Việt Nam ngày càng gia tăng và diễn biến ngày càng
phức tạp. Cho đến thời điểm hiện tại, hình phạt trục xuất vẫn chưa phát huy hết được ý nghĩa
thực tiễn của nó trong công cuộc xử lý tội phạm.
1.3. Phân biệt hình phạt trục xuất với biện pháp trục xuất trong luật hành chính;

hình phạt tiền; phân biệt hình phạt trục xuất với tƣ cách hình phạt chính và hình phạt
bổ sung
1.3.1. Phân biệt hình phạt trục xuất với biện pháp trục xuất trong luật hành chính
- Điểm giống nhau
Về hình thức, hình phạt trục xuất trong luật hình sự và biện pháp trục xuất trong luật
hành chính là giống nhau trong việc đều buộc đối tượng riêng biệt là người nước ngoài có
hành vi vi phạm pháp luật phải rời khỏi lãnh thổ Việt Nam theo quy định của pháp luật
chuyên ngành.
Theo cả pháp luật hành chính và pháp luật hình sự thì trong trường hợp Điều ước quốc tế
mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có quy định khác với quy định
của pháp luật điều chỉnh liên quan đến vấn đề trục xuất thì áp dụng quy định của Điều ước
quốc tế đó.
- Điểm khác nhau
Thứ nhất, trục xuất hành chính là biện pháp (chế tài) áp dụng đối với người nước ngoài
có các hành vi vi phạm các quy định pháp luật hành chính. Bên cạnh đó, người nước ngoài
phạm tội buộc phải chịu hình phạt trục xuất theo luật hình sự Việt Nam chỉ khi có quyết định
thi hành án của Tòa án nhân dân cấp có thẩm quyền. Còn trường hợp người nước ngoài vi
phạm các quy định về xuất cảnh, nhập cảnh, cư trú hoặc vi phạm một số quy định hành chính
khác phải rời khỏi lãnh thổ Việt Nam theo quyết định của Bộ trưởng Bộ Công an căn cứ vào
Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính.
Thứ hai, hình phạt trục xuất theo Bộ luật hình sự được quyết định trong bản án có hiệu
lực pháp luật của Tòa án còn biện pháp trục xuất trong luật hành chính được quyết định bằng
văn bản của cơ quan, người có thẩm quyền xử phạt hành chính ban hành.
Thứ ba, về đối tượng áp dụng, hình phạt trục xuất trong luật hình sự chỉ được áp dụng với
cá nhân người phạm tội được quy định trong Bộ luật hình sự Việt Nam, còn biện pháp trục
xuất trong luật hành chính là hình thức xử phạt buộc người nước ngoài có hành vi vi phạm
pháp luật(cố ý và vô ý) phải rời khỏi lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam theo
quy định của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính.
Thứ tư, về bản chất pháp lý, hình phạt trục xuất trong luật hình sự hoàn toàn khác biệt so
với biện pháp trục xuất theo quyết định của Bộ trưởng Bộ Công an với tính chất là chế tài

hành chính. Cụ thể, nếu hình phạt trục xuất được ghi nhận trong hệ thống hình phạt được
quy định trọng Bộ luật hình sự năm 1999 là một dạng trách nhiệm hình sự dành cho cá
nhân người nước ngoài phạm một trong các tội được quy định trong Bộ luật hình sự nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, là một trong những biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc
nhất của Nhà nước áp dụng đối với cá nhân người phạm tội.
Về nguyên tắc, người chịu hình phạt này phải mang án tích trong thời hạn nhất định.
Còn trục xuất theo thủ tục hành chính thì người bị trục xuất không phải chịu án tích.
1.3.2. Phân biệt hình phạt trục xuất với hình phạt tiền theo quy định của Bộ luật hình
sự năm 1999
- Điểm giống nhau
+ Hình phạt trục xuất và hình phạt tiền đều là loại hình phạt lưỡng tính, tức là vừa là hình
phạt chính, vừa là hình phạt bổ sung.
+ Đối với cả hai loại hình phạt này, khi đã áp dụng là hình phạt chính thì không được áp
dụng là hình phạt bổ sung nữa.

Footer Page 7 of 237.


Header Page 8 of 237.

+ Đối tượng bị áp dụng hai loại hình phạt này đều phải mang án tích trong một khoảng
thời gian nhất định.
- Điểm khác nhau:
+ Về đối tượng áp dụng: nếu đối tượng bị áp dụng hình phạt của hình phạt trục xuất là
người nước ngoài thì đối tượng của hình phạt tiền là bất kỳ chủ thể nào phạm tội và bị kết án
phạt tiền.
+ Phương thức tác động: đối với người bị áp dụng hình phạt tiền, phương thức tác động
là tước bỏ một phần lợi ích kinh tế của họ để sung vào công quỹ Nhà nước; còn đối với hình
phạt trục xuất thì phương thức của nó là buộc người nước ngoài phải rời khỏi lãnh thổ nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

+ Phạm vi áp dụng: hình phạt trục xuất có thể được áp dụng đối với bất kỳ loại tội phạm
nào được quy định trong Phần riêng Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999; còn hình phạt tiền
được áp dụng tùy nghi trong 301 khung chế tài của 103 điều luật trên tổng số 674 khung chế
tài của 261 điều luật về tội phạm. Tòa án chỉ được áp dụng là hình phạt chính đối với người
phạm tội ít nghiêm trọng xâm phạm trật tự quản lý kinh tế, trật tự công cộng, trật tự quản lý
hành chính và một số tội phạm khác do Bộ luật hình sự quy định, và áp dụng là hình phạt bổ
sung đối với người phạm các tội về tham nhũng, ma túy hoặc những tội khác do Bộ luật quy
định.
1.3.3. Phân biệt hình phạt trục xuất với tư cách là hình phạt chính và hình phạt trục
xuất với tư cách là hình phạt bổ sung
- Phạm vi tác động: trục xuất với tư cách là hình phạt chính được áp dụng đối với người
bị kết án là một hình phạt khác không phải là hình phạt trục xuất còn với tư cách hình phạt bổ
sung, trục xuất có thể được áp dụng đối với bất kỳ người nước ngoài nào phạm tội.
- Căn cứ áp dụng: trục xuất với tư cách là hình phạt bổ sung không được tuyên độc lập
mà mà chỉ được tuyên bổ sung cho hình phạt chính, nhưng không phải tuyên với bất cứ loại
hình phạt chính nào mà chỉ đối với một số loại tội phạm nhất định, căn cứ vào tính chất và
mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội.
- Mức độ tác động của hình phạt: so với hình phạt chính, hình phạt trục xuất khi áp dụng
với tư cách là hình phạt bổ sung có mức độ nghiêm khắc cao hơn, bởi vì nếu áp dụng hình
phạt trục xuất với tư cách hình phạt chính, người phạm tội chỉ phải chịu hậu quả là bị buộc
phải rời khỏi lãnh thổ Việt Nam, còn nếu áp dụng là hình phạt bổ sung thì người phạm tội
phải chịu nhiều hậu quả pháp lý bất lợi khác như: phạt tiền, tù giam v.v…
- Mục đích của hình phạt: đối với loại hình phạt bổ sung, hình phạt trục xuất nhằm mục
đích phòng ngừa riêng nhiều hơn; còn đối với hình phạt chính, Nhà nước chủ yếu hướng đến
mục đích răn đe, trừng trị, giáo dục, cải tạo và phòng ngừa tội phạm.
Chương 2
CÁC QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ 1999
VỀ HÌNH PHẠT TRỤC XUẤT VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG
2.1. Các quy định của Bộ luật hình sự 1999 về hình phạt trục xuất
2.1.1. Quy định của Bộ luật hình sự 1999 và các văn bản hướng dẫn thi hành về hình

phạt trục xuất
Trục xuất là loại hình phạt mới được quy định trong Bộ luật hình sự năm 1999 (trước đây
nó được áp dụng như một chế tài hành chính trong pháp luật về xuất nhập cảnh). Đối tượng
bị áp dụng là người nước ngoài phạm tội. Hình phạt trục xuất được ghi nhận tại Điều 32 Bộ
luật hình sự năm 1999 và Nghị định 54/2001/NĐ-CP ngày 23/08/2001.
Việc quy định hình phạt trục xuất trong hệ thống hình phạt của Bộ luật hình sự năm 1999
đã làm đa dạng hóa các biện pháp xử lý hình sự, là cơ sở pháp lý để Tòa án có thể lựa chọn
và áp dụng đối với người nước ngoài phạm tội với mục đích không chỉ trừng trị mà còn tác

Footer Page 8 of 237.


Header Page 9 of 237.

dụng ngăn ngừa một cách triệt để khả năng phạm tội mới của người nước ngoài trên lãnh thổ
Việt Nam.
Một nét đặc biệt của hình phạt trục xuất là nó không được ghi nhận với tư cách là chế tài
trong phần các tội phạm Bộ luật hình sự. Khi quyết định hình phạt, Tòa án có thể cân nhắc và
áp dụng hình phạt trục xuất đối với người nước ngoài phạm bất kỳ tội nào được quy định
trong Bộ luật hình sự. Tùy thuộc vào tính chất nguy hiểm của hành vi phạm tội và mức độ
xâm phạm đến các quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ mà áp dụng các tình tiết tăng
nặng, giảm nhẹ, miễn trách nhiệm hình sự… đối với người nước ngoài phạm tội trên lãnh thổ
Việt Nam.
2.1.2. Căn cứ và điều kiện áp dụng
+ Căn cứ áp dụng hình phạt trục xuất
Thứ nhất, căn cứ vào quy định tại Điều 32 Bộ luật hình sự năm 1999 "trục xuất được Tòa
án áp dụng là hình phạt chính hoặc hình phạt bổ sung trong từng trường hợp cụ thể".
Thứ hai, về mức độ gây nguy hại cho xã hội của hành vi phạm tội.
Thứ ba, căn cứ vào nhân thân người phạm tội.
Thứ tư, căn cứ vào các tình tiết tăng nặng và tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.

+ Điều kiện áp dụng hình phạt trục xuất:
Thứ nhất, hình phạt trục xuất được áp dụng khi xử lý người nước ngoài phạm tội trên
lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và bị buộc phải rời khỏi Việt Nam trong
thời hạn luật định. Tức là, chủ thể của hình phạt này chỉ có thể là người nước ngoài, thực hiện
những hành vi vi phạm pháp luật hình sự Việt Nam và bị Tòa án, nhân danh nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam tuyên bố trục xuất ra khỏi lãnh thổ Việt Nam.
Thứ hai, theo khoản 2 Điều 32 Bộ luật hình sự năm 1999 thì "trục xuất được tòa án áp
dụng là hình phạt chính hoặc hình phạt bổ sung trong từng trường hợp cụ thể". Ngoài những
quy định tại Điều 32 trong phần chung Bộ luật hình sự, hình phạt trục xuất không được quy
định tại các điều luật riêng biệt trong phần riêng Bộ luật hình sự. Do đó, khi áp dụng hình
phạt trục xuất các nhà làm luật phải căn cứ vào từng điều kiện cụ thể để quyết định hình phạt
đối với tội phạm.
2.2. Thực tiễn áp dụng hình phạt trục xuất trên phạm vi toàn quốc từ sau khi Bộ
luật hình sự 1999 đƣợc ban hành
2.2.1. Tình trạng tội phạm người nước ngoài tại Việt Nam
Hiện cả nước có khoảng 75.000 người nước ngoài cư trú, làm ăn, sinh sống trên lãnh thổ
Việt Nam.
Trong mấy năm trở lại đây, tội phạm người nước ngoài gây án ở nước ta ngày càng
nghiêm trọng. Từ những vụ lừa đảo, cướp giật, trộm cắp của tội phạm mang quốc tịch Trung
Quốc, Iran, Indonesia, đến những vụ buôn bán vận chuyển ma túy, tẩy rửa tiền của tội phạm
gốc Phi, hoạt động phạm pháp của những người nước ngoài đang diễn biến theo chiều hướng
rất phức tạp. Cơ quan chức năng đang gặp nhiều khó khăn trong công tác xử lý những đối
tượng phạm pháp này...
Đặc biệt, tình trạng phạm tội có tổ chức và tội phạm sử dụng công nghệ cao và tội phạm
buôn bán phụ nữ và trẻ em qua biên giới ngày càng có xu hướng phát triển và ngày càng quy
mô hơn đang đe dọa nghiêm trọng đến trật tự xã hội và tính mạng, tài sản của người dân.
2.2.2. Nhận xét về hiệu quả thực tế của việc áp dụng hình phạt trục xuất từ sau khi Bộ
luật hình sự 1999 ban hành
Qua phân tích, đánh giá thực trạng vi phạm pháp luật của người nước ngoài tại Việt Nam
trong khoảng 20 năm qua, cụ thể là 10 năm trước khi pháp điển hóa lần thứ hai (1990 1999); và 10 năm sau khi Bộ luật hình sự 1999 được ban hành (2000 - 2009), có thể thấy là

so với 10 năm đầu tiên, số người nước ngoài vi phạm pháp luật Việt Nam có xu hướng gia
tăng rõ rệt cả về số lượng lẫn mức độ nghiêm trọng.

Footer Page 9 of 237.


Header Page 10 of 237.

Đặc biệt là trong 10 năm trở lại đây, số vụ án và bị cáo liên quan đến trục xuất có xu
hướng tăng mạnh, gấp 5,6 lần so với 10 năm trước khi pháp điển hóa lần hai. Điều này do
nhiều nguyên nhân, nhưng không thể không nói đến một trong những nguyên nhân quan
trọng là hành lang pháp lý chưa đủ mạnh để có khả năng trấn áp tội phạm nước ngoài, trong
đó có hình phạt trục xuất.
2.3. Những hạn chế của các quy định liên quan đến hình phạt trục xuất và những
nguyên nhân của hạn chế đó
2.3.1. Những hạn chế của các quy định liên quan đến hình phạt trục xuất
Thứ nhất, do tính chất phức tạp và nhạy cảm của việc xử lý các trường hợp người nước
ngoài phạm tội trên lãnh thổ Việt Nam, nên Nhà nước ta chủ yếu xử lý các trường hợp này
thông qua con đường ngoại giao theo các điều ước quốc tế mà Việt Nam đã ký kết, tham gia
hoặc theo thông lệ quốc tế
Thứ hai, mặc dù Điều 32 Bộ luật hình sự năm 1999 định nghĩa như thế nào là hình phạt
trục xuất, Nghị định số 54/2001/NĐ-CP ngày 23/8/2001 của Chính phủ đã hướng dẫn về việc
thi hành hình phạt trục xuất thì đối tượng bị áp dụng là "người nước ngoài" thì việc áp dụng
còn gặp vướng mắc.
Thứ ba, về việc người bị áp dụng hình phạt trục xuất có bị mang án tích hay không là vấn
đề cũng cần phải có sự hướng dẫn và quy định thống nhất.
Thứ tư, Điều 32 chỉ quy định trục xuất được áp dụng với tính chất là hình phạt chính
hoặc hình phạt bổ sung trong từng trường hợp cụ thể, còn trong Phần các tội phạm của Bộ
luật hình sự lại không có điều luật nào về tội phạm có quy định hình phạt này với tính chất là
hình phạt chính hoặc hình phạt bổ sung.

Thứ năm, về thời hạn bị trục xuất. Luật chưa có quy định cụ thể về thời hạn áp dụng hình
phạt trục xuất đối với từng loại đối tượng, khi nào thì người phạm tội được phép quay trở lại
lãnh thổ Việt Nam.
Thứ sáu, trình tự, thủ tục, cấp Tòa án nào có thẩm quyền áp dụng, những tiêu chí cụ thể
để áp dụng hình phạt này ra sao, cơ quan Công an cấp nào có trách nhiệm thi hành, mối quan
hệ phối hợp giữa cơ quan Công an, Ngoại giao, cơ quan đại diện ngoại giao nước người bị
trục xuất mang quốc tịch trong quá trình thi hành bản án; v.v….
2.3.2. Nguyên nhân của những hạn chế, tồn tại trong áp dụng hình phạt trục xuất thời
gian qua
Hình phạt trục xuất, được ghi nhận trong Bộ luật hình sự 1999 là một trong những hình
phạt được áp dụng riêng đối với người nước ngoài phạm tội, tuy nhiên, cho đến thời điểm
hiện tại vẫn chưa phát huy được hết tác dụng của nó, điều này do nhiều nguyên nhân, xuất
phát từ cả khâu xây dựng pháp luật cho đến khâu áp dụng pháp luật. Bao gồm: - Những
nguyên nhân xuất phát từ luật thực định; - nguyên nhân từ công tác giải thích, hướng dẫn áp
dụng pháp luật; thanh tra, kiểm tra hoạt động áp dụng hình phạt trục xuất của Tòa án các cấp;
- nguyên nhân từ chủ thể áp dụng pháp luật hình sự;- và một số nguyên nhân khác như: vấn
đề thời hạn tạm giam người nước ngoài để điều tra, vấn đề kinh phí trục xuất người nước
ngoài ra khỏi lãnh thổ nước Việt Nam, vấn đề ngôn ngữ…
Việc phân tích những nguyên nhân của những hạn chế trong việc áp dụng và thi hành
hình phạt trục xuất trong thời gian qua là một trong những vấn đề trọng tâm nghiên cứu của
Chương. Khi đi tìm nguyên nhân của những tồn tại, bất cập đó tác giả nhận thấy do nhiều
nguyên nhân khác nhau, trong đó có những nguyên nhân chủ yếu từ sự chưa hoàn thiện của
hệ thống hình phạt liên quan đến hình phạt trục xuất trong luật thực định cũng như từ thiếu
sót, hạn chế trong thực tiễn áp dụng, từ giải thích, hướng dẫn pháp luật, giám đốc xét xử,
thanh tra, kiểm tra hoạt động xét xử cũng như nguyên nhân từ năng lực, ý thức pháp luật và
trách nhiệm nghề nghiệp của cán bộ thực thi pháp luật...; cũng như những hạn chế xuất phát
từ chính tính chất đặc biệt của hình phạt trong hệ thống hình phạt Việt Nam, đòi hỏi không
những sự nghiêm túc trong công tác xử lý tội phạm mà còn phải chú ý đến các Điều ước quốc

Footer Page 10 of 237.



Header Page 11 of 237.

tế Việt Nam tham gia ký kết, công nhận, cũng như quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam và các
nước có người nước ngoài phạm tội.
Chương 3
MỘT SỐ PHƢƠNG HƢỚNG CƠ BẢN ĐỂ NÂNG CAO
HIỆU QUẢ CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ
VỀ HÌNH PHẠT TRỤC XUẤT
3.1. Sự cần thiết phải hoàn thiện các quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam về hình
phạt trục xuất
3.1.1. Yêu cầu của công cuộc xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng Xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn hội nhập
3.1.2. Yêu cầu của công cuộc xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa Việt Nam
3.1.3. Nhằm ngăn chặn, giảm bớt tội phạm nước ngoài; góp phần làm cho tội phạm ổn
định và loại trừ tội phạm
3.1.4. Xuất phát từ thực tiễn áp dụng pháp luật liên quan đến hình phạt trục xuất
trong thời gian qua
3.2. Nội dung sửa đổi, bổ sung các quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam về hình
phạt trục xuất
Trên cơ sở những nhận xét và kiến nghị, dưới góc độ nhận thức - khoa học, chúng tôi xin
đưa ra mô hình lý luận của hình phạt trục xuất như sau:
Điều ...: Hình phạt trục xuất (mới)
Hình phạt trục xuất là một trong các biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà
nước do Bộ luật hình sự Việt Nam quy định, được Tòa án áp dụng đối với người nước ngoài
phạm tội trên lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và bị buộc phải rời Việt
Nam trong thời gian nhất định. Hình phạt trục xuất được áp dụng với tư cách vừa là hình
phạt chính, vừa là hình phạt bổ sung nhằm góp phần nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh

phòng, chống tội phạm nước ngoài, đặc biệt là tội phạm quốc tế, tội phạm xuyên quốc gia;
bảo vệ trật tự xã hội và độc lập, chủ quyền dân tộc.
Điều ...: Điều kiện áp dụng hình phạt trục xuất (mới)
1. Với tính chất là hình phạt chính: hình phạt trục xuất được áp dụng đối với những tội
phạm ít nghiêm trọng và nghiêm trọng do vô ý.
2. Với tính chất là hình phạt bổ sung: hình phạt trục xuất được áp dụng với những tội
phạm nghiêm trọng do cố ý, tội phạm rất nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng.
Điều ...: Quyền và nghĩa vụ của người bị trục xuất (mới)
1. Người bị trục xuất có quyền:
a. Được kéo dài thời hạn rời khỏi lãnh thổ Việt Nam trong các trường hợp: (Khoản 1
Điều 4 Nghị định 54/2001/NĐ-CP hướng dẫn thi hành hình phạt trục xuất)
b. Khi rời khỏi lãnh thổ Việt Nam, người bị trục xuất được mang theo tài sản hợp pháp
của mình theo quy định của pháp luật.
c. Trường hợp người phạm tội thuộc đối tượng được hưởng quyền miễn trừ ngoại giao
hoặc ưu đãi và miễn trừ về lãnh sự được giải quyết bằng con đường ngoại giao giữa hai
nước.
2. Người bị trục xuất có nghĩa vụ: (Điều 3 Nghị định 54/2001/NĐ-CP hướng dẫn thi
hành hình phạt trục xuất)
3.3. Những phƣơng hƣớng cơ bản về hoàn thiện các quy định của Bộ luật hình sự
Việt Nam về hình phạt trục xuất
3.3.1. Các giải pháp về mặt lập pháp
- Đảm bảo tính toàn diện, thống nhất, đồng bộ, hiệu quả của các quy phạm pháp luật liên
quan đến hình phạt trục xuất;

Footer Page 11 of 237.


Header Page 12 of 237.

- Đảm bảo quán triệt đường lối, chính sách hình sự đi đôi với chính sách đối ngoại của

Đảng, Nhà nước ta.
- Đảm bảo tính kế thừa và tiếp thu kinh nghiệm lập pháp hình sự nước ngoài.
3.3.2. Giải pháp về mặt thực tiễn thi hành hình phạt trục xuất
- Tăng cường công tác giải thích, hướng dẫn áp dụng pháp luật; thanh tra, kiểm tra hoạt
động áp dụng hình phạt trục xuất của Tòa án các cấp;
- Xây dựng và hoàn thiện đồng bộ hệ thống cơ quan quản lý nhà nước về thi hành án trục
xuất;
- Nâng cao năng lực, ý thức pháp luật và trách nhiệm nghề nghiệp của cán bộ thực thi
pháp luật;
- Tăng cường sự hợp tác và trao đổi kinh nghiệm lập pháp hình sự với nước ngoài.
3.3.3. Một số giải pháp khác nâng cao hiệu quả áp dụng hình phạt trục xuất
Thứ nhất, cần nhanh chóng tham mưu cho Nhà nước, Chính phủ hoàn thiện hệ thống luật
pháp về lĩnh vực phòng chống tội phạm có yếu tố nước ngoài trong đó có việc ký kết các hiệp
định tương trợ tư pháp song phương và đa phương với các nước, khẩn trương chấn chỉnh
những vấn đề còn tồn tại nhằm nâng cao hiệu quả phòng chống tội phạm có yếu tố nước
ngoài để có thể đảm bảo tốt an ninh trật tự trong nước và thực hiện hiệu quả công tác hợp tác
quốc tế trong phòng chống tội phạm.
Thứ hai, tổ chức tốt công tác nắm tình hình, trao đổi và phối kiểm thông tin nhằm nâng
cao hiệu quả hợp tác với các tổ chức quốc tế như INTERPOL, EUROPOL, ASEANAPOL và
UNODC của Liên hợp quốc trong cuộc chiến chống khủng bố, chống tội phạm ma túy, tội
phạm xuyên quốc gia và tội phạm có tổ chức
Thứ ba, tập trung xây dựng và củng cố lực lượng trinh sát, lực lượng chuyên trách về đối
ngoại và hợp tác quốc tế, lực lượng pháp chế đủ về số lượng, đảm bảo về trình độ nghiệp vụ,
pháp luật, ngoại ngữ, tin học nhằm đáp ứng nhu cầu và trình độ của khu vực và thế giới trong
đấu tranh phòng chống tội phạm của cộng đồng An ninh và Cảnh sát quốc tế.
Thứ tư, tập trung xây dựng một hệ thống pháp luật đồng bộ, trong đó chú trọng đến việc
xây dựng các điều luật cụ thể về các biện pháp điều tra như biện pháp ngoại giao, vấn đề vật
chứng, nhân chứng, nạn nhân…Đồng thời khẩn trương xây dựng, hoàn thiện các văn bản
hướng dẫn thực hiện triển khai các Bộ luật, nghị định liên quan đến công tác đấu tranh phòng
chống tội phạm mới như rửa tiền, lừa đảo xuyên quốc gia, tội phạm công nghệ cao, buôn

người, tội phạm có tổ chức…
Thứ năm, tăng cường công tác quản lý tạm trú, tạm vắng đối với người nước ngoài, đồng
thời nâng cao vai trò của các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc bảo lãnh hoặc làm thủ tục cho
người nước ngoài nhập cảnh vào Việt Nam.
KẾT LUẬN
Qua nghiên cứu đề tài luận văn thạc sĩ luật: "Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về hình
phạt trục xuất theo Luật hình sự Việt Nam", có thể rút ra một số kết luận chủ yếu sau:
1) Hình phạt trục xuất là hình phạt mới được quy định trong Bộ luậ hình sự năm 1999, áp
dụng đối với người nước ngoài vi phạm pháp luật hình sự Việt Nam và buộc phải rời khỏi
lãnh thổ nước ta theo các căn cứ quy định trong Bộ luật hình sự. Hình phạt trục xuất được áp
dụng vừa là hình phạt chính vừa là hình phạt bổ sung, tùy theo tính chất và mức độ nguy
hiểm của hành vi phạm tội để nhà làm luật căn cứ quyết định hình phạt, các điều kiện và
phạm vi áp dụng hình phạt không được quy định trong Phần các tội phạm của Bộ luật hình
sự.
2) Hình phạt trục xuất ngoài các đặc điểm chung của hình phạt thì mang những đặc điểm
riêng như: (1) trục xuất là hình phạt mới, chỉ được quy định từ sau Bộ luật hình sự năm 1999; (2)
hình phạt trục xuất vừa là hình phạt chính, vừa là hình phạt bổ sung; (3) hình phạt trục xuất chỉ áp
dụng đối với một loại đối tượng, đó là người nước ngoài vi phạm pháp luật hình sự Việt Nam; (4)

Footer Page 12 of 237.


Header Page 13 of 237.

hình phạt trục xuất chỉ quy định tại phần chung của Bộ luật hình sự mà không được quy định cụ
thể tại các điều luật cụ thể trong Phần riêng các tội phạm Bộ luật hình sự.
3) Nghiên cứu tình hình áp dụng hình phạt trục xuất trên địa bàn cả nước trong thời gian
hơn 10 năm ra đời hình phạt, tính từ lần pháp điển hóa Bộ luật hình sự năm 1999 cho đến
nay, có thể thấy là hiệu quả của hình phạt chưa cao, chưa phát huy được đúng giá trị của hình
phạt. Qua phân tích số liệu của Tòa án nhân dân tối cao về việc áp dụng hình phạt trục xuất từ

năm 1999 đến năm 2009, chúng ta thấy sự thất thường trong việc áp dụng hình phạt này bên
cạnh xu hướng gia tăng ngày càng nhiều loại tội phạm là người nước ngoài với mức độ nguy
hiểm và có tổ chức cao.
4) Xuất phát từ thực tiễn áp dụng hình phạt trục xuất, luận văn đã chỉ ra những bất cập,
hạn chế nhất định trong thực tiễn áp dụng hình phạt trục xuất. Sự tồn tại, hạn chế đó là do
những nguyên nhân từ sự chưa hoàn thiện của pháp luật liên quan đến hình phạt trục xuất và
nguyên nhân từ công tác thực thi pháp luật của cán bộ thực định.
5) Từ việc phân tích những nguyên nhân của việc chưa hoàn thiện của các quy định pháp
luật liên quan đến hình phạt trục xuất, tác giả đã đề ra một số nội dung sửa đổi, bổ sung các
quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam về hình phạt trục xuất; đồng thời đưa ra mô hình lý
luận của hình phạt trục xuất.
6) Hoàn thiện và nâng cao hiệu quả áp dụng của các quy định liên quan đến hình phạt
trục xuất là yêu cầu khách quan xuất phát từ ý nghĩa quan trọng của nó không chỉ về mặt
pháp luật hình sự mà còn về mặt xã hội.. Xây dựng và áp dụng đúng đắn hình phạt này là một
đảm bảo quan trọng giải quyết những tồn tại, hạn chế, bất cập trong lĩnh vực nêu trên, nhằm
thực hiện tốt chính sách hình sự của Nhà nước ta và công bằng xã hội.
Với nhận thức trên, luận văn đã xác định rõ nhu cầu và những định hướng hoàn thiện luật
thực định và các giải pháp nâng cao hiệu quả của hình phạt trục xuất trên các bình diện lý
luận, luật thực định và áp dụng pháp luật.

References
1. Ban chỉ đạo thi hành Bộ luật hình sự (2000), Tài liệu tập huấn chuyên sâu về Bộ luật
hình sự năm 1999, Nhà in Bộ Công an, Hà Nội.
2. Bộ Công an (2010), "Về quy đinh hướng dẫn đối với việc xử lý người nước ngoài phạm
tội", www.mps.gov.vn, ngày 13/08.
3. Lê Cảm (2000), Các nghiên cứu chuyên khảo về Phần chung Luật hình sự, Tập III, Nxb
Công an nhân dân, Hà Nội.
4. Lê Cảm (2002), "Những vấn đề cơ bản về Phần chung pháp luật hình sự Tây Ban Nha",
Trong chuyên đề: Những vấn đề cơ bản về pháp luật hình sự một số nước trên thế giới,
Viện Nghiên cứu Khoa học pháp lý, Hà Nội.

5. Lê Cảm (Chủ biên) (2003), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (phần chung), Nxb Đại học
Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
6. Lê Cảm (Chủ biên) (2003), Giáo trình luật hình sự Việt Nam (Phần các tội phạm), Nxb
Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
7. Lê Cảm (2005), Sách chuyên khảo sao đại học: Những vấn đề cơ bản trong khoa học
luật Hình sự, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
8. Lê Cảm (2007), "Hình phạt và hệ thống hình phạt", Tòa án nhân dân, (14).
9. Chính phủ (1848), Sắc lệnh số 205-SL ngày 18/8 về quyền trục xuất cảnh ngoại.
10. Chính phủ (2001), Nghị định số 54/2001/NĐ-CP ngày 23/8 hướng dẫn thi hành hình
phạt trục xuất, Hà Nội.
11. Chính phủ (2006), Nghị định số 97/2006/NĐ-CP ngày 15/9 quy định việc áp dụng hình
thức xử phạt trục xuất theo thủ tục hành chính, Hà Nội.

Footer Page 13 of 237.


Header Page 14 of 237.

12. Chính phủ (2009), Nghị định số 15/2009/NĐ-CP về việc áp dụng hình thức xử phạt trục
xuất theo thủ tục hành chính do Chính phủ ban hành để sửa đổi, bổ sung một số điều
của Nghị định số 97/2006/NĐ-CP, Hà Nội.
13. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01 của Bộ Chính trị
về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới, Hà Nội.
14. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5 của Bộ Chính trị về
Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định
hướng đến năm 2020, Hà Nội.
15. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 2/6 của Bộ Chính trị về
Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, Hà Nội.
16. Hương Giang (2000), "Hình phạt bổ sung quy định tại Bộ luật hình sự 1999", Tòa án
nhân dân, (11).

17. Trần Thái Hà (2008), Hệ thống hình phạt trong luật hình sự Việt Nam và luật hình sự
Thụy Điển - những khía cạnh so sánh luật học, Khóa luận tốt nghiệp cử nhân luật, Khoa
luật - Đại học Quốc gia Hà Nội.
18. Hình phạt trong luật hình sự Việt Nam (1995), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
19. Nguyễn Ngọc Hòa (Chủ biên) (2001), Trách nhiệm hình sự và hình phạt, Nxb Công an
nhân dân, Hà Nội.
20. Nguyễn Ngọc Hòa (2005, tái bản 2006), Tội phạm và cấu thành tội phạm, Nxb Công an
nhân dân, Hà Nội.
21. Nguyễn Ngọc Hòa (2007), "Luật hình sự Việt Nam - sự phát triển trong hai mươi năm
đổi mới và các định hướng hoàn thiện", Luật học.
22. Nguyễn Ngọc Hòa và Lê Thị Sơn (2006), Từ điển pháp luật hình sự, Nxb Tư pháp, Hà
Nội.
23. Nguyễn Phong Hòa (2006), "Thực trạng công tác thi hành án hình sự và những kiến
nghị", Tòa án nhân dân, 21(11).
24. Nguyễn Quốc Hoàn (2007), "Sử dụng trực tiếp luật so sánh trong hoạt động lập pháp",
Luật học.
25. Lê Hoàng - Hương Giang (2001), "Hình phạt bổ sung quy định tại Bộ luật hình sự
1999", Tòa án nhân dân, (1).
26. Hội đồng Nhà nước (1992), Pháp lệnh Nhập cảnh, xuất cảnh, cư trú, đi lại của người
nước ngoài tại Việt Nam, Hà Nội.
27. Phạm Khiêm Ích, Hoàng Văn Hảo (1995), Quyền con người trong thế giới hiện đại,
Viện Thông tin khoa học xã hội, Hà Nội.
28. Phạm Văn Lợi (Chủ biên) (2005), Bình luận khoa học Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003,
Nxb Tư pháp, Hà Nội.
29. "Luật hình sự một số nước trên thế giới" (1998), Dân chủ và pháp luật, (Số chuyên đề).
30. Uông Chu Lưu (Chủ biên) (2001) Bình luận khoa học Bộ luật hình sự Việt Nam năm
1999, (Tập I - Phần chung), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
31. C. Mác - Ph. Ăngghen (1995), Toàn tập, Tập 8, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
32. Dương Tuyết Miên (1999), "Hoàn thiện quy định của Bộ luật hình sự hiện hành về các
hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù", Kỷ yếu Hội thảo khoa học: Hoàn thiện các quy

định thuộc phần chung Bộ luật hình sự năm 1999, Khoa Luật hình sự, Trường Đại học
Luật Hà Nội.
33. Hồ Chí Minh (1996), Toàn tập, Tập 10, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
34. "Một số vấn đề về tổ chức và hoạt động thi hành án hiện nay" (2002), Thông tin Khoa
học pháp lý, (6).
35. Đỗ Mười (1995), "Xây dựng Nhà nước pháp quyền là một trong những nhiệm vụ trọng
tâm của đổi mới hệ thống chính trị", Thông tin Khoa học pháp lý, (12).

Footer Page 14 of 237.


Header Page 15 of 237.

36. Nguyễn Như Phát (2000), "Hệ thống pháp luật Việt Nam từ góc nhìn luật so sánh: Mấy vấn
đề phương pháp luận", Nhà nước và pháp luật, 2(142).
37. Đặng Quang Phương (Chủ nhiệm đề tài) (1996), Cơ sở lý luận và thực tiễn nâng cao
hiệu quả của các biện pháp tư pháp và các hình phạt không phải là tù và tử hình, Đề tài
nghiên cứu khoa học.
38. Đỗ Ngọc Quang, Trịnh Quốc Toản, Nguyễn Ngọc Hòa (1997), Giáo trình Luật hình sự
Việt Nam (Phần chung), Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.
39. Đinh Văn Quế (2000), Tìm hiểu về hình phạt và quyết định hình phạt trong Luật hình sự
Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
40. Đinh Văn Quế (2000), Bình luận khoa học Bộ luật hình sự năm 1999 - phần chung, Nxb
Thành phố Hồ Chí Minh
41. Hoàng Thị Kim Quế (2002), "Tư tưởng Đông, Tây về nhà nước và pháp luật - Những
nhân tố nhà nước pháp quyền", Nghiên cứu lập pháp, (3).
42. Quốc hội (1985), Bộ luật hình sự, Hà Nội.
43. Quốc hội (1988), Bộ luật tố tụng hình sự, Hà Nội.
44. Quốc hội (1999), Bộ luật hình sự, Hà Nội.
45. Quốc hội (2003), Bộ luật tố tụng hình sự, Hà Nội.

46. Quốc hội (2009), Bộ luật hình sự (sửa đổi, bổ sung), Hà Nội.
47. Nguyễn Sơn (1997), Các hình phạt chính ngoài hình phạt tù và tử hình trong Luật hình
sự Việt Nam, Luận văn thạc sĩ Luật học, Viện Nghiên cứu Nhà nước và Pháp luật.
48. Nguyễn Sơn (2003), Các hình phạt chính trong luật hình sự Việt Nam, Luận án tiến sĩ
Luật học, Viện Nhà nước và Pháp luật.
49. Tòa án nhân dân tối cao (1976), Hệ thống hóa luật lệ về hình sự, Hà Nội.
50. Tòa án nhân dân tối cao (1990), Các văn bản về hình sự, dân sự và tố tụng, Hà Nội.
51. Tòa án nhân dân tối cao (1999-2006), Thống kê tình hình xét xử của ngành Tòa án nhân
dân từ năm 1999 đến 2006, Hà Nội.
52. Tòa án nhân dân tối cao (1999 - 2006), Báo cáo tổng kết công tác ngành Tòa án nhân
dân từ năm 1999 đến 2006, Hà Nội.
53. Tòa án nhân dân tối cao (2008), Báo cáo tổng kết công tác năm 2007 và phương hướng
nhiệm vụ công tác năm 2008, Hà Nội.
54. Trịnh Quốc Toản (2009), "Về khái niệm và đặc điểm của hình phạt bổ sung trong luật hình
sự", Khoa học (Chuyên san Kinh tế - Luật).
55. Trịnh Quốc Toản (2010), Các hình phạt bổ sung trong luật hình sự Việt Nam, Luận án
Tiến sĩ Luật học, Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội.
56. "Trục xuất Gary Glister ra khỏi lãnh thổ Việt Nam" (2008), cand.com.vn, ngày 21/8.
57. "Trục xuất Võ Kevin Huân do có hành vi chống Nhà nước Việt Nam" (2009),
cand.com.vn, ngày 25/7.
58. Đào Trí Úc (Chủ biên) (1993), Mô hình lý luận về Bộ luật hình sự Việt Nam (Phần
chung), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
59. Ủy ban Thường vụ Quốc hội (2000), Pháp lệnh Nhập cảnh, xuất cảnh, cư trú của người
nước ngoài tại Việt Nam, Hà Nội.
60. Ủy ban Thường vụ Quốc hội (2008), Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính (sửa đổi bổ
sung), Hà Nội.
61. Viện Khoa học pháp lý (2009), Dự án điều tra cơ bản về tình hình thi hành án hình sự
tại cộng đồng (án treo, một số hình phạt không phải là hình phạt tù), các biện pháp tư
pháp và thi hành án hành chính từ năm 2000 đến nay, Hà Nội.
62. Viện Nghiên cứu Khoa học pháp lý (1995), Hình phạt trong luật hình sự Việt Nam, Nxb

Chính trị quốc gia, Hà Nội.
63. Viện Nhà nước và Pháp luật (1994), Những vấn đề lý luận của việc đổi mới pháp luật hình
sự trong giai đoạn hiện nay, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.

Footer Page 15 of 237.


Header Page 16 of 237.

64. Trịnh Tiến Việt (2004), Những trường hợp miễn trách nhiệm hình sự trong Bộ luật hình
sự Việt Nam năm 1999, Nxb Lao động, Hà Nội.
65. Trịnh Tiến Việt (2006), "Hoàn thiện một số quy định của Bộ luật hình sự năm 1999
trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam hiện nay", Nhà nước và pháp
luật, 7(219)
66. Trịnh Tiến Việt (2007), "Những trường hợp miễn trách nhiệm hình sự quy định trong
Phần chung Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999", Tòa án nhân dân, 1(1).
67. Trịnh Tiến Việt (2009), "Những vấn đề cần lưu ý khi thi hành Luật sửa đổi, bổ sung một
số điều của Bộ luật hình sự ngày 18/6/2009 của Quốc hội", Tòa án nhân dân, 17(9).
68. Trịnh Tiến Việt - Nguyễn Cửu Đức Bình (2003), "Một số ý kiến về hình phạt trục xuất
trong Bộ luật hình sự năm 1999", Khoa học pháp luật, (4).
69. Trịnh Tiến Việt - Nguyễn Khắc Hải (2007), "Hình phạt trục xuất đối với người nước
ngoài theo pháp luật hình sự Việt Nam - một số vấn đề thực tiễn", Kỷ yếu hội thảo khoa
học lần thứ IX (Hiệp hội khoa học-kỹ thuật Việt Nam tại Liên bang Nga), Mátxcơva.
70. Trịnh Tiến Việt, Trần Thị Quỳnh (2006), "Về chế định miễn hình phạt trong luật hình sự
Việt Nam", Tòa án nhân dân, (1).
71. Võ Khánh Vinh (1994), Nguyên tắc công bằng trong luật hình sự Việt Nam, Nxb Công an
nhân dân, Hà Nội.
72. Võ Khánh Vinh (Chủ biên) (2001), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (Phần chung),
Nxb Giáo dục, Hà Nội.
73. Nguyễn Xuân Yêm (2000), Dẫn độ tội phạm, tương trợ pháp lý về hình sự và chuyển

giao phạm nhân quốc tế trong phòng chống tội phạm, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

Footer Page 16 of 237.



×