Tải bản đầy đủ (.pdf) (101 trang)

Đặc điểm lâm sàng , cận lâm sàng , mô bệnh học và đánh giá kết quả phẫu thuật u trong tủy tại bệnh viện việt đức

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.52 MB, 101 trang )

1

BỘ Y TẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y HÀ NỘI

TRẦN QUỐC TUẤN

Đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng, mô bệnh học và đánh giá kết quả
phẫu thuật u trong tủy tại bệnh viện Việt Đức

Chuyên ngành : Ngoại - Thần kinh sọ não
Mã số

: CK. 62720720

LUẬN VĂN BÁC SỸ CHUYÊN KHOA CẤP II

Người hướng dẫn khoa học:
PGS.TS. Hà Kim Trung

HÀ NỘI – 2015


2

ĐẶT VẤN ĐỀ
U trong tủy tương đối hiếm gặp chiếm tỷ lệ khoảng 1,1/100.000 dân,
chiếm tỷ lệ khoảng 2 - 4% tổn thương nguyên phát của hệ thần kinh trung
ương. Tổn thương u thường lan tỏa, ranh giới không rõ ràng với tổ chức lành,
việc phẫu thuật lấy toàn bộ u gặp rất nhiều khó khăn trên thế giới cũng như
Việt nam.


Năm 1890, Chritian Fenger ở Chicago Mỹ lần đầu tiên phẫu thuật u trong
tủy sống cho bệnh nhân nam 38 tuổi. Bệnh nhân chết sau 5 ngày phẫu thuật.
Năm 1907 Anton.Von.Eiselberg đã phẫu thuật thành công lấy u trong tủy
cho bệnh nhân nữ 27 tuổi, kết quả bệnh nhân đi lại tốt sau 22 tháng.
Trước đây việc chẩn đoán u trong tủy ở giai đoạn sớm là hết sức khó khăn
nên người bệnh đến nhập viện ở giai đoạn muộn và việc phẫu thuật chỉ đơn
thuần là giải ép, sinh thiết u. Vì vậy u trong tủy sống để lại những di chứng rất
nặng nề, gây tàn phế cho người bệnh và tạo gánh nặng cho gia đình và xã hội.
Trải qua hơn thế kỷ với sự phát triển vượt bậc của khoa học công nghệ
ứng dựng trong y học, đặc biệt là việc phát minh ra cộng hưởng từ dùng trong
y học đã giúp cho việc chẩn đoán bệnh lý u trong tủy ngày càng được nâng
lên rõ rệt. Các phương tiện chẩn đoán hiện đại ngày nay không những cho
phép xác định chính xác vị trí, kích thước, mức độ xâm lấn của u vào tổ chức
xung quanh mà còn giúp các nhà phẫu thuật bước đầu xác định tính chất mô
bệnh học của u để có thể đặt ra được những phương thức điều trị thích hợp nhất
đặc biệt là trong phẫu thuật loại bỏ u.
Cùng với việc phát hiện u trong tủy sớm, việc sử dụng kính vi phẫu thuật
đã giúp cho việc phẫu thuật u trong tủy sống trở nên an toàn và có thể được
tiến hành ngay từ khi bệnh nhân còn đang ở tình trạng lâm sàng tốt nhất, giúp
hạn chế được mức độ tàn phế của người bệnh.


3

Ngày nay phẫu thuật là biện pháp điều trị chính cho bệnh lý u trong tủy.
Ngoài việc kéo dài thời gian sống, thì người bệnh mắc u trong tủy còn yêu
cầu phải cải thiện chất lượng cuộc sống ở mức cao nhất. Vi phẫu thuật đã có
cải thiện rất nhiều kết quả điều trị bệnh lý này. Tuy nhiên kết quả phẫu thuật
còn nhiều hạn chế chưa đáp ứng được mong đợi của người bệnh u trong tủy.
Trong nước cũng có một số nghiên cứu về kết quả điều trị, phẫu thuật u

trong tủy sống để đánh giá kết quả điều trị, các yếu tố tiên lượng bệnh. Tại
bệnh viện Việt Đức, số lượng u trong tủy sống được chẩn đoán và phẫu thuật
ngày càng nhiều.
Để có cái nhìn rõ hơn về các đặc điểm lâm sàng và đánh giá kết quả
phẫu thuật u trong tủy sống chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Đặc điểm
lâm sàng, cận lâm sàng, mô bệnh học và đánh giá kết quả phẫu thuật u
trong tủy tại bệnh viện Việt Đức”, với hai mục tiêu.
1. Mô tả đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng, mô bệnh học u trong tủy sống.
2. Đánh giá kết quả phẫu thuật bước đầu u trong tủy sống tại bệnh viện
Việt Đức.


4

Chương 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
Khái niệm u trong tủy sống đã có từ thời Elsberg và tồn tại cho đến ngày
nay. Theo Elsberg, u trong tủy sống là một trong 3 loại u tủy được phân biệt
với nhau bởi vị trí của u so với các màng của tủy sống (hình 1.1).
 U ngoài màng cứng: gồm tất cả các u nằm ở phía ngoài của màng cứng
tủy sống, kể cả các u di căn vào thân đốt sống.
 U trong màng cứng ngoài tủy: là tất cả các u nằm phía trong màng cứng
và phía ngoài màng nuôi.
 U trong tủy sống: là tất cả các u nằm phía trong màng nuôi hoặc có
một phần nằm phía trong màng nuôi.

Hình 1.1. Hình các loại u tủy
A u ngoài màng cứng. B u trong màng cứng ngoài tủy. C u trong tủy sống

1.1. Lịch sử nghiên cứu điều trị u trong tủy

1.1.1. Trên thế giới
Năm 1890, nhà phẫu thuật Chritian Fenger ở Chicago Mỹ đã lần đầu
tiên mổ u trong tủy. Bệnh nhân nam 38 tuổi biểu hiện liệt hai chân tăng dần
tại vị trí đốt sống ngực 4, ngực 5, sau mổ bệnh nhân liệt nặng hơn và tử vong
sau 5 ngày phẫu thuật.
Năm 1905 Cushing báo cáo trường hợp u trong tủy đầu tiên được điều
trị phẫu thuật. Đó là một trường hợp u ống nội tủy được Cushing mổ sinh
thiết. Tuy nhiên, Cushing vẫn chưa đưa ra được quan điểm điều trị rõ ràng và
hệ thống cho bệnh lý này [1].


5

Năm 1907 Anton.Von.Eiselberg đã lần đầu tiên phẫu thuật thành công
lấy u trong tủy cho bệnh nhân nữ 27 tuổi, bị đau lưng và liệt tăng dần. tác giả
đã mở tủy lấy khối u có kích thước 4x1cm, bệnh nhân đi lại tốt sau 22 tháng,
đánh giá đây là ca phẫu thuật u trong tủy đầu tiên thành công.
Đến năm 1919, Brasier đã có báo cáo ghi nhận khả năng bóc tách và
lấy một phần u trong tủy sống ở một vài trường hợp nhất định. Cũng giống
như Cushing, tác giả vẫn chưa đưa ra được quan điểm điều trị rõ ràng cho
bệnh lý này [2].
20 năm sau khi Cushing báo cáo trường hợp u trong tủy sống đầu tiên
được mổ, quan điểm điều trị cho bệnh lý này mới được nêu ra. Theo quan
điểm của Elsberg việc bóc tách lấy hết u là không thể thực hiện được vì không
thể xác định được ranh giới u và mô tủy sống, điều trị u trong tủy sống chủ
yếu là cắt bản sống, mở màng cứng (sau đó để hở hoặc vá tạo hình bằng các
mảnh ghép từ cân cơ), sinh thết u. Sau đó là công việc của xạ trị. Quan điểm
này tồn tại nhiều thập kỷ sau đó [3], [4].
Năm 1941, cùng với việc phát minh ra máy đốt lưỡng cực, Greenwood
đã là người đầu tiên mổ lấy toàn bộ u trong tủy sống. Trong báo cáo năm

1954, Greenwood đã đưa ra quan điểm điều trị u màng ống nội tủy trong tủy
sống bằng cách phẫu thuật lấy u triệt để và không cần xạ trị. Mặc dù báo cáo
này chưa gây được tiếng vang lớn nhưng cũng tạo tiền đề cho việc thay đổi
quan điểm điều trị u trong tủy. Đến năm 1963, Greenwood lại trình bày quan
điểm về phẫu thuật triệt để của mình và năm 1967, tác giả trình bày tỷ mỉ về
kỹ thuật mổ. Đây chính chính là thời điểm mà quan điểm điểm điều trị u trong
tủy bằng cách giải ép - sinh thiết - xạ trị bị lung lay dữ dội [5], [6].
Giai đoạn 20 năm sau khi Greenwood trình bày kỹ thuật mổ lấy toàn bộ
u trong tủy sống là giai đoạn chuyển đổi từ quan điểm giải ép - sinh thiết - xạ
trị sang quan điểm phẫu thuật. Khi máy cộng hưởng từ xuất hiện, kính hiển vi
phẫu thuật được sử dụng rông rãi trong chuyên nghành phẫu thuật thần kinh
cùng với việc Epstein sử dụng dao siêu âm để lấy triệt để u trong tủy sống


6

thành công, nhiều tác giả đã chứng minh việc phẫu thuật lấy triệt để u trong
tủy sống là hoàn toàn có thể thực hiện được [7], [8]. Trong giai đoạn này, các
tác giả còn nhận thấy rằng việc xạ trị gây hủy hoại tế bào mô lành, gây ra di
chứng nặng nề về thần kinh. Ngay cả Kopelson và cộng sự, người ủng hộ cho
quan điểm xạ trị cũng thấy rằng, xạ trị có khả năng hủy hoại mô lành và một
số tác giả còn báo cáo về khả năng sinh u của tia xạ [9], [10], [11].
Cuối thập niên 80 của thế kỷ 20 đến nay quan điểm phẫu thuật lấy u
triệt để đã trở thành quan điểm điều trị thống nhất cho u trong tủy. Trừ một số
u di căn vào trong tủy sống từ các ung thư nội tạng mà thời gian sống của
người bệnh không còn nhiều, u trong tủy sống nguyên phát ác tính tái phát
sau khi mổ lấy hết u, u mầm, u mỡ trong tủy, tất cả các tác giả đều thống nhất
rằng cần phải phẫu thuật lấy u triệt để, lấy toàn bộ u mà không cần xạ trị sau
mổ [12], [13], [14].
Lịch sử nghiên cứu bệnh lý u trong tủy gắn liền với sự phát triển của

các phương tiện hỗ trợ chẩn đoán và phẫu thuật….từ khi chưa có quan điểm
điều trị rõ ràng cho đến khi có quan điểm giải ép – sinh thiết - xạ trị và cuối
cùng là phẫu thuật triệt để u.
1.1.2. Trong nước
Trước đây các viện lớn tại Hà nội và TP Hồ Chí Minh vẫn tiến hành phẫu
thuật u trong tủy sống, nhưng do chưa có máy cộng hưởng từ và vi phẫu thuật
chưa được áp dụng rộng rãi nên khả năng điều trị còn nhiều hạn chế và các
nghiên cứu về bệnh lý u trong tủy được tìm thấy rất ít.
Năm 2006, tác giả Võ Xuân Sơn đã có đề tài nghiên cứu chẩn đoán và
điều trị u trong tủy bằng vi phẫu thuât, chỉ ra rằng, triệu chứng lâm sàng của u
trong tủy không đặc hiệu và việc can thiệp bằng vi phẫu thuật cũng đem lại
kết quả khả quan. Việc chẩn đoán và can thiệp sớm bằng phẫu thuật u trong
tủy là đặc biệt cần thiết vì nó đem lại kết quả tốt hơn cũng như hạn chế nhiều
di chứng cho người bệnh.


7

1.2. Một số vấn đề cơ bản về u trong tủy sống
1.2.1. Giải phẫu của tủy sống và các cấu trúc liên quan
1.2.1.1. Tủy sống
Tủy sống là một cấu trúc hình trụ hơi dẹp theo chiều trước sau, trải dài
từ lỗ chẩm đến chóp tủy. Chóp tủy ở ngang mức của đĩa đệm giữa thắt lưng 1
và thắt lưng 2. Tủy sống di dộng khi thay đổi tư thế, chóp tủy đi lên khi cúi và
đi xuống khi ngửa. Chiều dài trung bình của tủy sống là 45 cm ở nam và 42 –
43 cm ở nữ. Tủy sống có hai đoạn phình, một ở cổ, kéo dài 10 cm từ đốt sống
cổ 4 đến đốt sống ngực 1, gọi là phình cổ và một ở vùng ngực, kéo dài 8 cm từ
đốt sống ngực 9 đến đốt sống ngực 12, gọi là phình thắt lưng (hình 1.2).

Hình 1.2. Tủy sống và hệ


Hình 1.3. Các màng tủy sống

thống mạch tủy sau

“Nguồn: Nettner, 1999” [15]

(Nguồn Nettner 1999 [15]


8

Kích thước ngang lớn nhất của tủy sống ở phình cổ là 13 – 14mm, ở
phình thắt lưng là 11 – 13mm, ở vùng ngực, kích thước ngang của tủy sống
khoảng 10mm. Nhìn bên ngoài tủy sống được chia ra thành các khoanh tủy
gồm: 8 khoanh tủy cổ, 12 ngực, 5 thắt lưng, 5 cùng và 1 khoanh tủy cụt. Bề
mặt ngoài của tủy sống có 4 mặt. Mặt trước có khe trước giữa (còn gọi là rãnh
trước giữa) chia mặt trước tủy sống ra làm hai cột đối xứng nhau. Bên ngoài
là lối ra của rễ trước. Mặt sau của tủy sống cũng có rãnh sau giữa, màng nuôi
ở đây tạo thành vách sau giữa, bên ngoài chỉ còn thấy như một rãnh cạn. Từ
rãnh sau giữa ra ngoài khoảng 3mm mỗi bên là rãnh sau bên, sát nơi đi vào
của các rễ sau. Giữa rãnh sau giữa và rãnh sau bên ở hai bên là hai cột sau.
Mặt bên của tủy sống là cột bên nằm giữa lối thoát ra của các rễ trước và lối
vào của các rễ sau (hình 1.3). Các rễ trước và rễ sau hợp lại với nhau thành
dây thần kinh tủy sống [16], [17], [18].
Trên mặt phẳng cắt ngang, tủy sống có hình bầu dục, hơi dẹp theo
chiều trước – sau. Ở gữa là ống trung tâm, bao quanh ống trung tâm là chất
xám, bên ngoài là chất trắng. Chất xám được tạo thành bởi các tế bào thần
kinh của tủy sống, bố trí trông giống như hình con bướm, có hai sừng trước
khá lớn so với hai sừng sau. Sừng trước phình to và hợp bởi các tế bào vận

động. Sừng sau được hợp bởi các tế bào sắp xếp dạng tấm thành các lớp. Chất
trắng hợp bởi các đường dẫn truyền tủy sống (hình 1.4). Các đường dẫn
truyền tủy sống được chia làm hai loại, loại hướng lên và loại hướng xuống.


9

Hình 1.4. Hình ảnh giải phẫu cắt ngang tủy sống
Quan trọng nhất trong các đường dẫn truyền hướng xuống là bó tháp.
Bó này chiếm toàn bộ phần sau của cột bên tủy sống. Ở vị trí của mỗi khoanh
tủy, các sợi rời khỏi bó tháp, đi vào trong tới sừng trước tủy sống. Các sợi của
bó tháp thẳng chạy theo cột trước của tủy sống ngay sát khe trước giữa của
tủy sống. Bó ngoại tháp từ thân não xuống được chia làm hai phần. Một đi
xuống theo cột trước giữa và kết thúc ở sừng sau tủy sống cùng bên, phần còn
lại đi xuống theo cột sau bên và kết thúc ở sừng trước tủy sống bên đối diện.
Các đường dẫn truyền hướng lên tiếp nhận các thông tin từ rễ sau. Cột sau tủy
sống chứa các sợi dẫn truyền cảm giác sâu như cảm giác bản thể, nhận biết vị
trí. Cột trước bên của tủy sống chứa nhiều bó trong đó có các sợi tiếp nhận
thông tin từ bên đối diện về cảm giác nông [19], [20].
1.2.1.2. Các màng của tủy sống
Các màng của tủy sống khác với các màng của não ở chỗ màng nuôi
dầy, chắc chắn hơn và bám vào mặt trong màng cứng bởi các dây chằng răng
(hình 1.5). Ngoài ra còn có sự hiện diện của màng mềm chuyển tiếp và của
lớp mỡ ngoài màng cứng [16].


10

Hình 1.5. Dây chằng răng
Nguồn: Brasssier G., Destrieux C., Mercier P.,Velut S.,(1996)

Màng nuôi dính chặt vào tủy sống, dai và chắc hơn màng nuôi của não.
Màng nuôi trải từ rãnh trước giữa ra sau, ở rãnh sau giữa màng nuôi hơp lại
tạo thành vách sau giữa. Vách sau giữa là nơi phẫu thuật viên có thể bóc tách
để mở vào tủy sống mà không gây thương tổn cho tủy sống (hình 1.3). Lớp
trong của màng nuôi kết thúc ở nơi tiếp giáp giữa tủy sống và rễ thần kinh,
lớp ngoài chứa các mạch máu của tủy sống [18].
Các sợi dọc của màng nuôi ở mặt bên của tủy sống, giữa chỗ thoát ra
của rễ trước và rễ sau, phát triển ra ngoài, bám vào màng cứng và cố định tủy
sống mặt bên. Các chỗ bám dính này được gọi là các dây chằng răng. Dây
chằng răng rất dày và có hình răng cưa mà đỉnh của nó bám chắc vào màng
cứng (hình 1.5). Có 21 chỗ bám dính như vậy trải dài từ chỗ cao nhất là
khoảng giữa động mạch cột sống và dây thần kinh sọ XII cho đến chỗ thấp
nhất là khoảng giữa rễ ngực 12 và rễ thắt lưng 1. Ở đoạn cuối của chóp tủy,
màng nuôi thon lại tạo thành dây cuối chạy từ phía sau dưới của chóp tủy và
bám vào mặt lưng của xương cụt [17].
Màng nhện là một màng chắc, không thấm nước, trên bề mặt có các nốt
can xi hóa. Màng nhện có các mấu bám vào màng cứng ở bên ngoài và màng
nuôi ở bên trong (hình 1.3). Ở phía ngoài, màng nhện và màng nuôi hóa vào
với nhau ở nơi rễ thần kinh tiếp giáp với màng cứng và liên tục với màng bao
dây thần kinh. Tại vị trí đó, màng nhện cho các nhánh vào trong và các nhánh


11

xuyên qua màng cứng, các nhánh này có chức năng hấp thu dịch não tủy, hoạt
động giống như các hạt Pacchioni ở não. Màng nhện bám vào màng nuôi tạo
thành các vách trong khoang dưới màng nhện. Ở khu vực phía sau dây chằng
răng có rất nhiều vách. Vách sau giữa của màng nhện nối tiếp với vách sau
giữa của màng nuôi dọc theo rãnh sau giữa của tủy sống, trải dải từ phần giữa
của tủy sống cổ cho đến phần trên của tủy sống thắt lưng. Các vách sau bên

phát xuất từ nơi rễ sau đi vào tủy sống, chạy theo hướng sau ngoài, đến chỗ
gặp nhau của rễ thần kinh tủy sống trước và sau. Để có thể đến được rãnh sau
giữa của tủy sống, nơi có thể mở tủy sống an toàn, việc bóc tách các vách
màng nhện này là rất cần thiết [16], [21], [18].
Ở khoang dưới nhện của khu vực phía sau các dây chằng răng có một
lớp màng mềm chuyển tiếp, đó là các lá của lớp trong cùng của màng nhện
dính chặt vào màng nuôi dọc theo vị trí của các rễ thần kinh, các mạch máu và
dây chằng răng. Đây chính là nơi xuất phát của các u màng não, kể cả các u
màng não phát triển vào bên trong tủy sống [22], [16].
Màng cứng là một ống hình trụ trải dài từ lỗ chẩm đến xương cùng, bao
bọc phần dưới của hành tủy, các rễ tủy sống của dây thần kinh XI, tủy sống,
dây cuối và chùm đuôi ngựa. Màng cứng được ngăn cách với ống sống bởi
một khoang chứa mỡ và các đám rối tĩnh mạch ngoài màng cứng. Phần trên
của màng cứng dày và chắc, bám vào bờ của lỗ chẩm và mặt sau của mấu
răng của đốt sống cổ 2 tạo thành màng mái ở phía trước và dây chằng sọ sống ở phía sau. Động mạch cột sống xâm nhập vào trong màng cứng (hình
1.2), ngay bên dưới lỗ chẩm, và cho nhánh là động mạch tủy sống sau, nuôi
phần sau của tủy sống. Khi mở màng cứng ở khu vực này, cần chú ý đặc biệt
đến động mạch cột sống và các nhánh của nó. Phần cuối của màng cứng kết
thúc ở phần trên của đốt sống cùng 3 hoặc phần dưới của đôt sống cùng 2. Ở
khu vực lỗ liên hợp, màng cứng dính vào màng xương, sau đó tiếp nối với
màng bao dây thần kinh [16].


12

1.2.1.3. Hệ thống mạch máu tủy sống
Có 31 đôi động mạch rễ đi vào trong ống sống qua lỗ liên hợp. Hệ
thống động mạch cung cấp máu cho tủy sống được chia làm 2 nhóm: mạng
lưới động mạch màng nuôi và các động mạch trong tủy sống.
Mạng lưới động mạch màng nuôi là một hệ thống bao gồm các động

mạch dọc và các nhánh ngang tạo thành một mạng lưới trên về mặt tủy sống,
được cấp máu bởi các động mạch rễ – sống và các động mạch rễ – màng nuôi.
Các động mạch dọc có kích thước lớn hơn. Động mạch tủy sống trước xuất
phát từ động mạch cột sống ở phần trên của tủy sống cổ và chạy xuống dọc
theo mặt trước tủy sống trong khe trước giữa. Động mạch này ngăn cản không
cho phẫu thuật viên có thể mở tủy qua khe trước giữa. Ở mặt sau tủy sống có
hai động mạch tủy sống sau với kích thước từ 0,1 đến 0,2mm chạy dọc theo
tủy sống ngay ở chỗ vào của các rễ sau. Các động mạch này thường không
liên tục và được thông nối bởi một hệ thống động mạch thông nối ở màng
nuôi (hình 1.6). Sự hiện diện của các động mạch tủy sống sau ngăn cản không
cho phẫu thuật viên can thiệp vào khu vực từ rãnh sau bên ra ngoài.

Hình 1.6. Tủy sống ngực nhìn từ phía sau
Nguồn: Brasssier G., Destrieux C, Mercier P., Velut S., (1996)


13

Các động mạch rễ – tủy sống, tên chung để gọi các động mạch rễ –
sống cung cấp máu cho chất xám và các động mạch rễ – màng nuôi chủ yếu
cung cấp máu cho chất trắng của tủy sống. Các động mạch này chạy dọc theo
các rễ thần kinh của tủy sống.
Các động mạch rễ – màng nuôi nối tiếp với hệ thống thông nối ngang của
màng nuôi trong khi các động mạch rễ – sống lại kết thúc ở các động mạch dọc
với hình ảnh đặc trưng của chỗ nối tiếp trông giống như một cái kẹp tóc mà phần
lõm quay xuống dưới (hình 1.7). Đây là hình ảnh mà phẫu thuật viên phải lưu ý
để tránh làm tổn thương các mạch máu nuôi tủy sống. Động mạch nuôi của
phình tủy cổ xuất phát từ ngang mức cổ 4 hoặc cổ 8. Phần phình thắt lưng được
động mạch Adamkiewickz cấp máu nuôi. Động mạch Adamkiewickz thường
xuất phát trong khoảng từ các khoanh tủy ngực 9 đến ngực 12. Nếu động mạch

này xuất phát ở trên ngực 8 hoặc dưới của thắt lưng 2, sẽ có thêm một động
mạch rễ – tủy sống nữa nuôi phình thắt lưng [16], [1], [17].

Hình 1.7. Động mạch tủy trước và động mạch rễ
Nguồn: Brasssier G., Destrieux C., Mercier P., Velut S., (1996)
Các động mạch trong tủy sống cung cấp máu cho chất xám. Động mạch
trung tâm tách ra từ động mạch tủy sống trước, chạy trong khe trước giữa. Có
khoảng 170 đến 210 động mạch trung tâm phân bố trong khoảng 7 đến 12cm
của phình tủy cổ hoặc phình tủy thắt lưng trong khi chỉ có 2 đến 3 động mạch
trung tâm cho mỗi centimet của tủy sống ngực. Từ mạng động mạch màng
nuôi có các động mạch xuyên đi vào tủy sống theo hình nan quạt và thông với
nhau tạo thành vòng nối mạch máu [16], [18].


14

Trên bề mặt của tủy sống có vô số các thông nối giữa các động mạch
dọc phía trước và phía sau. Một trong các thông nối đó là vòng nối Lazorthes
ở xung quanh chóp tủy. Có nhiều thông nối giữa các động mạch trung tâm
trong khe trước giữa với mạng động mạch màng nuôi thông qua các động
mạch trong nhu mô của tủy sống. Ở vùng tủy sống ngực số lượng thông nối
này rất ít và vùng này được coi là vùng dễ tổn thương do phẫu thuật. Vì vậy,
ở vùng phình cổ và phình thắt lưng, phẫu thuật viên có thể đốt cầm máu một
số động mạch thông trong khi động tác này cần phải hạn chế ở khu vực tủy
sống ngực [16], [18].
Hệ thống tĩnh mạch trong tủy sống dẫn máu vào mạng tĩnh mạch màng
nuôi rồi đổ vào các tĩnh mạch rễ. Hệ thống tĩnh mạch trong tủy sống được
chia làm hai nhóm: các tĩnh mạch trung tâm và các tĩnh mạch xuyên hình tia.
Các tĩnh mạch trng tâm là các tĩnh mạch sắp xếp theo hình răng lược nhận
máu từ một bên của chất xám, đổ vào thân chung là các tĩnh mạch phân bố

theo chiều dọc ở khe giữa. Nhiều tĩnh mạch trung tâm nối với nhau và đổ vào
tĩnh mạch tủy sống trước. Các tĩnh mạch xuyên hình tia nằm trong các rãnh
dọc sau của tủy sống dẫn vào mạng tĩnh mạch màng nuôi. Tĩnh mạch tủy sống
sau thường có kích thước lớn hơn (0,4 – 1mm) so với động mạch và đôi khi
lại chia ra làm 2 hoặc 3 tĩnh mạch nhỏ hơn. Tĩnh mạch này có hình dạng
ngoằn ngoèo, đặc biệt là ở vùng ngược, chạy theo rãnh sau giữa và nối với các
tĩnh mạch thông từ đó nối với các tĩnh mạch dọc ở bên (hình 1.6). Tĩnh mạch
này thường được các phẫu thuật viên dùng làm mốc để tìm đến rãnh sau giữa,
nơi có thể mở tủy sống an toàn [16], [17].
Các tĩnh mạch rễ nhận máu từ mạng tĩnh mạch màng nuôi và ở bên
ngoài. Nhiều tĩnh mạch rễ hợp lại với nhau ở khu vực dưới màng cứng và đổ
máu vào đám rối tĩnh mạch ngoài màng cứng. Ở chỗ xuyên qua màng cứng,
các tĩnh mạch này có van để ngăn máu chảy ngược về tủy sống. Có khoảng 30
đến 70 tĩnh mạch rễ được phân bố không đều ở các khu vực [16], [18].


15

Như vậy chỉ có thể mở vào tủy sống qua vách giữa sau nếu không
muốn làm tổn thương nhu mô tủy sống vì khe trước giữa đã bị “khóa” bởi
động mạch và tĩnh mạch tủy sống trước [21], [17].
1.2.2. Phân loại u trong tủy sống
1.2.2.1. Phân loại theo giải phẫu bệnh
Brotchi và Fischer (1996) chia u trong tủy sống thành 4 loại:
1, U xuất phát từ mô thần kinh đệm. Gồm có 3 nhóm:
- U màng ống nội tủy.
- U tế bào hình sao.
- Các u tế bào thần kinh đệm khác như: u tế bào ít nhánh, u hạch
thần kinh đệm, u ống nội tủy ác tính, u nguyên bào nội tủy... WHO
xếp các loại u này vào nhóm u của mô biểu mô thần kinh.

2, U ác tính không xuất phát từ mô thần kinh đệm, gồm có 3 nhóm:
- U di căn từ các ung thư nội tạng.
- U hắc tố.
- U lympho
U di căn từ các ung thư nội tạng không phải là các u nguyên phát của
tủy sống. U hắc tố nguyên phát tại hệ thần kinh được WHO xếp vào nhóm u
của các màng não tủy, còn u lympho thuộc nhóm u có nguồn gốc huyết học.
3, U lành tính xuất phát từ mô thần kinh đệm, gồm có 3 nhóm:
- U nguyên bào mạch máu.
- U mỡ.
-U bao dây thần kinh.
Theo phân loại của WHO, u nguyên bào mạch máu được xếp vào nhóm
có cấu trúc mô học không xác định, u mỡ được xếp vào các u trung mô không
xuất phát từ thượng mô, còn u bao dây thần kinh thuộc nhóm u của các dây
thần kinh.


16

Bảng 1.1. Phân loại của Jouvet và cộng sự [23].
U của mô thần kinh đệm nguyên phát của tủy sống:
U ống nội tủy.
Subependymoma
U tế bào thần kinh đệm.
Ganglioglioma.
Oligodendroglioma.
U di căn từ hệ thống thần kinh:
U ống nội tủy của chùm đuôi ngựa.
U ống nội tủy của não thất IV.
U nguyên bào ống nội tủy.

U ác tính không xuất phát từ mô thần kinh đệm:
U di căn từ các ung thư nội tạng và từ u hắc tố.
U hắc tố nguyên phát.
U lympho nguyên phát.
U lành tính không xuất phát từ mô thần kinh đệm:
U nguyên bào mạch máu.
U mỡ.
U tế bào Schwann
U màng não tủy.
Các trường hợp giả u:
U hang mạch.
U nang bì và u nang thượng bì.
Nang giả u trong mô thần kinh đệm của tủy sống.
Thoái hóa dạng bột.


17

4, U dạng giả u, gồm có 4 nhóm:
- U mạch thể hang.
- U nang bì và u nang thượng bì.
- Nang giả u trong mô thần kinh đệm của tủy sống.
- Thoái hóa dạng bột.
Nhóm này thực chất không phải là u tân sinh. Nang giả u trong mô thần
kinh đệm của tủy sống là một nang nằm trong mô thần kinh đệm của tủy
sống, chưa xác định được bản chất nhưng không phải nang màng nhện hay
màng cứng và cũng không phải bất cứ dạng nào của rỗng tủy.
Jouvet và cộng sự đưa ra phân loại gần giống với Brotchi và Fischer
(bảng 1.1) nhưng gần với phân loại của WHO hơn [12], [23], [24].
1.2.2.2. Phân loại theo vị trí của u

Hầu hết các tác giả đều thống nhất trong việc phân loại u trong tủy sống
theo vị trí thành 7 loại:
(1) Hành tủy – cổ.
(2) Cổ.
(3) Hành tủy – ngực.
(4) Cổ – ngực.
(5) Ngực.
(6) Chóp tủy sống.
(7) Toàn tủy sống.
Mỗi loại u trong tủy sống có sư phân bố theo vị trí khác nhau nhưng cả
ba loại u trong tủy sống thường gặp nhất là u tế bào màng lót ống nội tủy, u tế
bào hình sao và u nguyên bào mạch máu đều tập trung nhiều ở vùng tủy sống
cổ, trong đó u tế bào hình sao và u màng ống nội tủy là những loại u có nhiều
khả năng phát triển lan lên tới vùng hành tủy hơn so với u nguyên bào mạch
máu [12], [25], [26], [17].


18

1.2.3. Tần suất của u trong tủy sống
1.2.3.1. Tần suất trong toàn bộ các loại u tủy sống
Brassier và cộng sự cho rằng u trong tủy sống chiếm khoảng 2% đến
4% các u của hệ thống thần kinh. McComick cũng cho rằng u trong tủy sống
chiếm 2% đến 4% các u của hệ thống thần kinh và khoảng 20% đến 25%
trong các loại u tủy sống nói chung [27], [2].
Nittner có 694 u trong tủy sống trong tổng số 4885 các loại u tủy sống,
chiếm 14,2%. Nghiên cứu của Slooff và các cộng sự về tất cả các loại u tủy nói
chung có 22% là u trong tủy sống. Guidetti có 159 u trong tủy sống trong tổng số
528 các loại u tủy, chiếm 30,1%. Riêng Constatini lại cho một tỷ lệ khá cao, theo
ông, u trong tủy sống chiếm khoảng 1/3 trong số tất cả các loại u tủy ở người lớn

và tỷ lệ này tăng hơn ở trẻ em, 40% đến 50% [21], [28], [29].
Ở Việt Nam, theo báo cáo của Nguyễn Hùng Minh (1997) và Võ Xuân
Sơn (1998), tỷ lệ u trong tủy sống trong tổng số tất cả các loại u tủy rất thấp,
tỷ lệ này chỉ có 5,2% ở Học viện Quân y trong thời gian từ tháng 10/1978 đến
tháng 02/1994 và 1,4% ở bệnh viện Chợ rẫy trong thời gian từ tháng 06/1994
đến tháng 06/1996. Báo cáo của Nguyễn Hùng Minh (2004) trong giai đoạn
10 năm (từ tháng 09/1993 đến tháng 09/2003) cũng cho một tỷ lệ u trong tủy
sống rất thấp: 1,4%. Tuy nhiên, Võ Xuân Sơn (2001) đã bước đầu ghi nhận
một tỷ lệ khá cao của u trong tủy sống được phát hiện và mổ tại bệnh viện
Chợ rẫy [30], [31], [32].


19

Bảng 1.2. Tỷ lệ các loại u trong tủy sống theo Brassier và cộng sự [27].
Loại u

n

Tỷ lệ %

U tế bào ống nội tủy

386

34,6

U tế bào hình sao

339


30,3

Các u của mô thần kinh đệm khác

33

3,0

U di căn từ các u của hệ thống thần kinh

18

1,6

U di căn từ các ung thư nội tạng

45

4,0

U hắc ố

8

0,7

U lympho

3


0,3

U nguyên bào mạch máu

80

7,2

U mỡ

82

7,3

U tế bào Schwann

19

1,7

U màng não

5

0,4

U mạch thể hang

27


2,4

U nang bì và nang thượng bì

32

2,9

Nang giả u trong mô thần kinh đệm

14

1,3

Thoái hóa dạng bột

5

0,4

Các loại u trong tủy sống khác

21

1,9

1.2.3.2. Tần suất của u trong tủy sống theo phân loại giải phẫu bệnh
Các nghiên cứu của các tác giả về tần suất của các loại u trong tủy
sống chủ yếu tập trung ở một số loại như u màng ống nội tủy, u tế bào hình

sao và u nguyên bào mạch máu. Tại Mayo Clinic, u màng ống nội tủy
chiếm 56,2%, u tế bào hình sao chiếm 28,6%, u nguyên bào mạch máu
chiếm 3,3%, còn lại là các loại u khác. Brassier (1996) và cộng sự tổng hợp
1117 trường hợp u trong tủy sống (bảng 1.2), u ống nội tủy chiếm 34,6%, u
tế bào sao chiếm 30,3% [27].


20

Các loại u ít gặp ở khu vực trong tủy sống được báo cáo lẻ tẻ. Một số
loại u đã được các tác giả tổng kết từ y văn với khối lượng lớn như hắc tố
nguyên phát, u hang mạch, u tế bào mầm nguyên phát trong tủy sống, u bao rễ
thần kinh, u màng não, u lympho nguyên phát tại tủy sống, nang không đồng
nhất, u mỡ, u quái...[33], [34], [35].
Một số loại u rất hiếm gặp như u hắc bào của màng tủy, u mô sợi, u ống
nội tủy mỡ, u ống nội tủy tế bào lớn, u nguyên sống... cũng được các tác giả
báo cáo và tổng kết trong y văn với số lượng chỉ trong phạm vi một chữ số
[36], [37].
1.2.4. Biểu hiện lâm sàng của u trong tủy sống
1.2.4.1. Triệu chứng khởi phát
Đại đa số các u trong tủy sống có triệu chứng khởi phát khá kín đáo và
tiến triển chậm, dễ bị bỏ qua. Đau là triệu chứng khởi phát thường gặp nhất ở
người lớn, chiếm 60% đến 70% số trường hợp, một phần ba còn lại có triệu
chứng đầu tiên là các rối loạn về vận động hoặc các rối loạn về cảm giác.
Ở trẻ em, triệu chứng khởi phát thường gặp không được thống nhất
giữa các tác giả khác nhau. Một số cho rằng triệu chứng khởi phát thường gặp
nhất ở trẻ em là yếu vận động hoặc rối loạn về dáng đi. Fischer (1996) cho
rằng triệu chứng khởi phát thường gặp ở trẻ em là chứng vẹo cột sống, còn
Constatini (1996), lại cho rằng nếu nghiên cứu với một mẫu lớn sẽ thấy triệu
chứng khởi phát ở trẻ em thường là đau dọc theo cột sống [28], [38].

1.2.4.2. Thời gian diễn tiến bệnh
Nhìn chung, u màng ống nội tủy và u tế bào hình sao độ I và độ II có thời
gian phát triển chậm nên thời gian diễn tiến bệnh dài hơn, các u càng ác tính thì
thời gian này càng ngắn. Vì đa số u trong tủy sống phát triển chậm nên thời gian
này thường kéo dài khá lâu, có thể tới 20 năm hoặc lâu hơn nữa. Tuy nhiên, nếu
nhìn theo từng cá thể thì thời gian diễn tiến bệnh dao động rất lớn. Trong nghiên


21

cứu của Brotchi (1991), thời gian này dao động từ 15 ngày đến 15 năm ở u màng
ống nội tủy, từ 2 tháng đến 14 năm ở u nguyên vào mạch máu. Nhiều tác giả
khác cũng có những ghi nhận tương tự cho thấy yếu tố thời gian ít có giá trị
trong chẩn đoán bệnh mà thường chỉ có giá trị tiên lượng [1], [39], [40].
1.2.4.3. Triệu chứng khi phát bệnh
Các triệu chứng lâm sàng khi phát hiện bệnh của u trong tủy sống gồm đau
và các rối loạn chức năng thần kinh như rối loạn cảm giác, rối loạn vận động, rối
loạn cơ vòng, co cứng cơ, teo cơ và các triệu chứng khác được báo cáo lẻ tẻ.
Đau thường tại một vị trí nhất định ở cột sống, ít khi lan theo rễ (thường
là đặc điểm để phân biệt với các u tủy khác). Đau xảy ra ở khoảng 75% các
trường hợp ở người lớn và khoảng 50% ở trẻ em [41].
Rối loạn cảm giác thể hiện bằng giảm cảm giác hoặc dị cảm (tê bì, kiến
bò..). Các rối loạn cảm giác thường bắt đầu từ một bên rồi lan đến một vị trí
cố định
Rối loạn vận động có thể chỉ biểu hiện bằng những đợt tăng trương lực
hoặc giảm chức năng của một nhóm cơ thoáng qua, thay đổi về dáng đi, yếu
một bên, teo một nhóm cơ... cho đến liệt hoàn toàn. Các rối loạn vận động
phân bố không đối xứng và không đồng đều. Triệu chứng này có ở khoảng
30% – 40% số bệnh nhân [40], [17].
Rối loạn cơ vòng ít gặp và thường xuất hiện muộn so với các triệu

chứng khác. Ngay cả các trường hợp u trong tủy sống khu trú ở chóp tủy, rối
loạn cơ vòng cũng hiếm khi xảy ra [42], [2].
Ở trẻ em, Constatini cho rằng 42% có đau, 36% có yếu vận động, 27%
có rối loạn dáng đi, 27% có vẹo cổ sang bên và 27% có gù kết hợp với vẹo cột
sống tiến triển. Một số tác giả khác cho rằng u trong tủy sống ở trẻ em thường
phối hợp với chứng vẹo cổ sang bên. Đầu nước cũng có thể là một triệu
chứng của u trong tủy sống ở trẻ em [41], [43].


22

Mặc dù đa số các u trong tủy sống phát triển trong ống tủy hoặc từ
ngoài vào trong ống tủy nhưng triệu chứng của hội chứng tủy trung tâm rất
hiếm gặp. Ở những bệnh nhân có biểu hiện lâm sàng của tổn thương tủy sống
thì hội chứng cắt ngang tủy không hoàn toàn và hội chứng cắt nửa tủy Brown
Séquard thường gặp hơn [40], [2].
1.2.4.4. Giá trị chẩn đoán của các biểu hiện lâm sàng
Các triệu chứng lâm sàng biểu hiện ở những người bệnh có u trong tủy
sống thay đổi theo từng cá thể, không đặc hiệu cho bất cứ loại u nào theo giải
phẫu bệnh, không đặc hiệu cho từng vị trí của u và cũng không đặc hiệu cho u
trong tủy sống, chúng giống như triệu chứng của các thương tổn trong tủy sống
khác, thậm chí trong nhiều trường hợp chúng không khác gì so với triệu chứng
của u ngoài tủy sống. McCormick cho rằng lý do của hiện tượng này là:
(1) U phát triển theo chiều dọc và chiều ngang trong một mối liên hệ với
các đường dẫn truyền cạnh nó.
(2) Sự khác biệt về cơ chế dẫn truyền và sự khác biệt về tính mẫn cảm
của hệ mạch máu nuôi của các sợi dẫn truyền và các nhóm tế bào thần kinh
liên quan.
(3) Hiện tượng phù quanh u và sự hình thành các nang gây ra các biểu
hiện lâm sàng ở những vị trí xa với vị trí ban đầu của khối u.

Như vậy các biểu hiện lâm sàng ít có giá trị chẩn đoán xác định, chỉ
mang tính gợi ý để thực hiện các chẩn đoán hình ảnh thích hợp xác định sự
hiện diện của u trong tủy sống [21], [17].
1.2.5. Chẩn đoán hình ảnh u trong tủy sống
Vì tính chất không đặc hiệu của các biểu hiện lâm sàng, chẩn đoán hình
ảnh đóng một vai trò vô cùng quan trọng trong chẩn đoán u trong tủy sống.
Kể từ thời Cushing đến nay đã có nhiều phương pháp chẩn đoán hình ảnh
được áp dụng cho u trong tủy sống. Từ khi có cộng hưởng từ, kỹ thuật này đã


23

trở thành chẩn đoán hình ảnh có giá trị nhất và là kĩ thuật được ưu tiên lựa
chọn hàng đầu Xu QW (1994) [44].
1.2.5.1. Hình ảnh Xquang, tủy sống đồ và chụp cắt lớp điện toán
Hình ảnh Xquang cột sống có thể thấy được trên phim Xquang của
người bệnh u trong tủy sống là sự giãn rộng khoảng liên chân cung của các
đốt sống, mòn xương mãn tính và tiêu xương. Các hình ảnh này không đặc
hiệu cho u trong tủy sống mà có thể thấy trên tất cả các dạng thương tổn trong
tủy sống khác như rỗng tủy, dị tật Chiari... Froment J.C (1996) [45].
Trên phim chụp tủy sống đồ có thể thấy được hình ảnh tủy phình ra và
hình ảnh các mạch máu tăng sinh hoặc giãn ra. Chụp cắt lớp điện toán sau khi
bơm thuốc cản quang vào khoang dưới màng nhện cũng cho thấy hình ảnh tủy
phình ra, sự tắc nghẽn của một phần hoặc toàn bộ khoang dịch não tủy giống
như trong kĩ thuật chụp tủy sống đồ. Trong một số trường hợp còn thấy được
thành phần đặc hoặc nang ở bên trong tủy sống hoặc hình ảnh bắt thuốc cản
quang của khối u trong tủy sống, Froment J.C (1996) [45].
1.2.5.2. Cộng hưởng từ
Cộng hưởng từ là chẩn đoán hình ảnh có giá trị nhất hiện nay để chẩn
đoán u trong tủy sống. Trong đa số trường hợp, cộng hưởng từ có thể xác định

được có u hay không, u loại gì, tính chất của u ra sao, mối liên quan giữa u và
tủy sống giúp xác định chẩn đoán và đánh giá đầy đủ trước mổ cũng như đánh
giá sau mổ Abdi (2004) [46], Colosimo (2003) [47].
Cộng hưởng từ giúp xác định sự hiện diện của u trong tủy sống thông qua
hình ảnh phình ra của tủy sống và sự thay đổi tín hiệu của tủy sống. Sự giảm tín
hiệu của một khu vực trong tủy sống và đặc biệt là sự tăng tín hiệu sau khi tiêm
thuốc đối quang từ Farrokh.D (2001) [48], Koeller K.K (2000) [49].
Các nang trong u thường chứa dịch có nhiều đạm hoặc lẫn máu nên tín
hiệu khác biệt so với dịch não tủy, thành nang thường bắt thuốc đối quang từ.


24

Các nang ngoài u thường có tín hiệu tương đương với dịch não tủy, hai đầu
nang có hình vòm và thành nang không bắt thuốc đối quang từ. Đa số các
trường hợp phần đặc của u đều bắt thuốc đối quang từ, tín hiệu có thể tăng
nhẹ hoặc tăng rất nhiều, tuy nhiên một số trường hợp không tăng tín hiệu sau
khi tiêm thuốc. Hình ảnh tăng tín hiệu này có thể đồng nhất hay không đồng
nhất. U màng ống nội tủy bắt thuốc đối quang từ kém hơn so với u tế bào hình
sao và tương đối đồng nhất, u có ranh giới khá rõ, đầu u tròn đều và thon, đại
đa số các trường hợp đều có nang ở một hoặc hai đầu của u và thường kéo dài
trên 3 đốt sống. U tế bào hình sao bắt thuốc đối quang từ mạnh hơn so với u
màng ống nội tủy và không đồng nhất do có các nang và các ổ hoại tử nhỏ
trong lòng u, ranh giới kém rõ rệt hơn so với u màng ống nội tủy. U màng ống
nội tủy thường khu trú đồng tâm hơn trong khi u tế bào sao lại thường nằm
lệch tâm Froment J.C (1996) [45], McCormick P.G (1996) [2].
U nguyên bào mạch máu có hoặc không phối hợp với các nang ngoài u,
nang có thể ngắn hoặc dài. Tuy nhiên, phần đặc của u thường bắt thuốc đối quang
từ rất mạnh, và trên ảnh T1, T2 và T1 sau tiêm thuốc đối quang từ đều có thể thấy
được bóng của các mạch máu ngoằn ngoèo và giãn lớn Iwasaki Y (1999) [50].

Các thương tổn không phải u trong tủy sống như rỗng tủy, viêm tủy,
bệnh xơ cứng rải rác, hoại tử tủy sống sau xạ trị và một vài loại dị dạng mạch
máu tủy sống cũng gây ra phình tủy sống. Chẩn đoán phân biệt các trường
hợp này đôi khi rất khó khăn. Rỗng tủy thường kèm theo sự hiện diện của dị
tật Chiari. U trong tủy sống thường có phần đặc và như vậy trên hình ảnh T2
nang trong tủy sống không thông suốt từ trên xuống đưới. Ngoài ra, u trong
tủy sống thường bắt thuốc đối quang từ. Trong bệnh xơ cứng rải rác, mặc dù có
hình ảnh bắt thuốc đối quang từ, nhưng tủy thường chỉ bị phình lên một đoạn
ngắn và bờ của khu vực tủy sống phình ra không đều đặn. Nếu có các nốt bắt
thuốc đối quang từ ở não nữa thì có thể xác định được bệnh xơ cứng rải rác.
Một số loại dị dạng mạch máu tủy như dò màng cứng cũng có thể cho hình ảnh
tương tự như một u trong tủy sống, tuy nhiên có thể thấy được bóng các tĩnh


25

mạch dẫn lưu rất lớn và kéo dài trong tủy sống và phim chụp mạch máu tủy sẽ
giúp xác định chẩn đoán. Viêm tủy sống đôi khi cũng có những hình ảnh giống
như u trong tủy sống. Thường thì bệnh cảnh diễn tiến nhanh và hình ảnh cộng
hưởng từ sau nhiều lần chụp cách nhau vài tuần có sự khác biệt McCormick
P.G (1996) [2].
1.2.5.3. Một số kĩ thuật chẩn đoán khác
Chụp mạch máu tủy sống được chỉ định khi nghi ngờ các u nguyên bào
mạch máu giúp xác định vị trí các mạch máu nuôi u hoặc chỉ định cho các u
ngấm thuốc đối quang từ mạnh hoặc để phân biệt với các dị dạng mạch máu
tủy sống Froment J.C (1996) [45], McCormick P.G (1996) [2].
Siêu âm ít có giá trị chẩn đoán trước mổ nhưng lại có giá trị rất cao trong
khi mổ, gúp xác định vị trí chính xác của khối u, phân biệt giữa phần nang và
phần đặc của khối u, mức độ thâm nhiễm của u vào mô tủy... Windisch T.R
(1995) [51].

Đo điện thế gợi có giá trị tuyệt đối và là một phương tiện không thể thiếu
đối với các phẫu thuật viên thần kinh khi mổ u trong tủy sống. Tuy nhiên vai trò
chẩn đoán trước mổ của chúng lại không cao lắm, chủ yếu là đánh giá tình trạng
thương tổn tủy sống, trong một số trường hợp chúng giúp phân biệt với một vài
bệnh lý khác như viêm tủy hoặc bệnh lý thoái hóa dạng bột mạch máu tủy...
McLaughlin (1998) [52], Froment J.C (1996) [45], Kothbauer (1997) [53].
1.3. Điều trị phẫu thuật u trong tủy sống
1.3.1. Quan điểm hiện nay đối với điều trị phẫu thuật u trong tủy sống.
Mô tủy sống là một mô có ngưỡng chịu tia xạ thấp, thấp hơn ngưỡng xạ
hiệu quả cho những u trong tủy sống thường gặp nên xạ trị có thể gây ra các
thương tổn không hồi phục cho mô tủy sống. Ngày càng có nhiều báo cáo cho
thấy xạ trị gây hoại tử tủy sống và từ đó gây nên sự tàn phế cho người bệnh,
đồng thời sự hoại tử của tủy sống cũng gây nhiều khó khăn cho việc theo dõi
sự tái phát cũng như gây khó khăn cho phẫu thật khi u tái phát. Đối với trẻ


×