LỜI MỞ ĐẦU
Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, các giao dịch diễn ra trong cuộc sống
hàng ngày chứa đựng rất nhiều yếu tố phức tạp, diễn ra hết sức đa dạng, nhiều
chiều khiến cho chúng ta rất khó nắm bắt và lường được những khó khăn và hậu
quả của nó. Hình thức giao dịch thông qua hợp đồng là hình thức pháp lý được
ưa chuộng nhất. Bên cạnh đó hợp đồng cũng là cơ sở pháp lý đúng đắn nhất ghi
nhận sự giao kết giữa các bên, để bảo vệ quyền lợi của các bên khi có tranh chấp
xảy ra. Có thể nói rằng trong số các giao dịch bằng hợp đồng thì giao dịch trong
hợp đồng tín dụng là có nhiều vấn đề phức tạp và chứa đựng nhiều yếu tố rủi ro
nhất. Hợp đồng tín dụng là loại hợp đồng được sử dụng nhiều trong các giao
dịch ở các tổ chức tín dụng, nhất là ở các ngân hàng. Đặc biệt là hợp đồng tín
dụng lại rất phức tạp và nhạy cảm nên nó rất dễ dẫn đến tranh chấp của các bên
trong hợp đồng. Chính vì yếu tố nhạy cảm trong việc thực hiện các hợp đồng tín
dụng nên tự nó đã tiềm ẩn nhiều mâu thuẫn, xung đột về lợi ích khó tránh khỏi.
Một khi lợi ích của một trong hai bên đã không đạt được sẽ dẫn đến mâu thuẫu,
hai bên không thể đi đến thoả thuận với nhau được thì lúc đó tranh chấp của các
bên trong hợp đồng tín dụng sẽ được đưa ra giải quyết ở toà án. Các vụ tranh
chấp hợp đồng tín dụng xảy ra nhiều và phức tạp. Là một sinh viên thực tập tại
toà án nhân dân huyên Hương Khê, tỉnh Hà Tĩnh, tôi đã mạnh dạn chọn đề
tài:"Thực tiễn giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng tại toà án nơi thực
tập"để làm báo cáo thực tập. Qua quá trình tìm hiểu và nghiên cứu tôi đã hoàn
thành chuyên đề đúng theo quy định của nhà trường. Trong bài viết này với thời
gian có hạn và giới hạn của chuyên đề, chắc hẳn tôi không thể tránh khỏi những
thiếu sót, tôi mong nhận được sự góp ý từ phía thầy, cô để chuyên đề này được
hoàn chỉnh hơn.
Tôi xin cám ơn!
PHẦN I: QUÁ TRÌNH TÌM HIỂU,THU THẬP THÔNG TIN:
1. Thời gian thu thập thông tin:
Trong khoảng thời gian gần 3 tháng thực tập ở toà,dù là khoảng thời gian
không nhiều để nắm bắt được một cách đầy đủ những thông tin về các vụ tranh
chấp hợp đồng tín dụng ( sau đây gọi tắt là HĐTD). Nhưng đó cũng là khoảng
thời gian cần thiết giúp tôi có thể thu thập được thông tin đúng đắn phục vụ cho
học tập và nghiên cứu của mình.
Thông qua việc đọc, nghiên cứu hồ sơ, bản án để nắm được các thông tin, số
liệu cụ thể cùng với việc tham dự phiên toà để nắm được thực tiễn xét xử tại toà.
Qua ngiên cứu văn bản pháp luật và tài liệu được học tập ở trường đã giúp tôi
hoàn thiện chuyên đề thực tập của mình.
2. Phương pháp thu thập thông tin:
Trong chuyên đề thực tập này tôi đã sử dụng nhiều phương pháp khiến cho
những thông tin đưa ra có tính khách quan, đầy đủ, bao quát được các vấn đề
cần nghiên cứu. Các phương pháp đó là:
- Phương pháp nghiên cứu lý thuyết
Đây là phương pháp quan trọng trong quá trình hoàn thành bài thực tập của
mình. Đó là nghiên cứu các bộ luật, văn bản dưới luật, tài liệu, tạp chí…
-
Phương pháp điều tra xã hội học:
Đối với phương pháp này tôi sử dụng chủ yếu là phỏng vấn, toạ đàm, cùng
với trực tiếp tìm hiểu ý kiến đề xuất của những người trực tiếp thụ lý, giải
quyết vụ án cũng như các đương sự để bổ sung thêm các thông tin đảm bảo
tính khách quan trong chuyên đề thực tập.
- Phương pháp quan sát:
Quá trình thực tập ở TAND huyện Hương Khê tôi đã được nghiên cứu các vụ
án cũ và trực tiếp xem xét các vụ án dưới sự hướng dẫn của các thẩm phán .
Từ việc nghiên cứu thực tiễn các vụ tranh chấp HĐTD như vậy đã giúp tôi có
cái nhìn từ lý luận đến thực tiễn được sâu sắc hơn.
-
Phương pháp thống kê: gồm 3 bước:
+ Bước thứ nhất: Thu thập các tài liệu cần thiết về các tranh chấp HĐTD xảy
ra theo thơi gian và lãnh thổ.
+ Bước thứ hai: Phân loại tài liệu: dựa vào mục đích, nguyên nhân của tranh
chấp; Dựa vào cách giải quyết tranh chấp…Phương pháp này giúp tôi có thể
nắm rõ tình tiết, diễn biến các vụ án.
+ Bước thứ ba: Phân tích, so sánh và tổng hợp các tài liêu, số liệu thống kê
thu nhận được.
Bằng việc vận dụng những phương pháp trên đã giúp em có thể nghiên cứu,
nắm rõ từng vụ án, đánh giá được các khía cạnh của vấn đề để xử lý thông tin
các vụ tranh chấp HĐTD một cách khách quan và chính xác nhất.
PHẦN II: THỰC TIỄN GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN
DỤNG Ở TOÀ ÁN HUYỆN HƯƠNG KHÊ- TỈNH HÀ TĨNH:
1 .Số liệu, thông tin các vụ án :
Trong thời gian 3 tháng thực tập tại toà án nhân dân huyện Hương Khê, tỉnh
Hà Tĩnh, tôi đã được tìm hiểu, nghiên cứu một số vụ án tranh chấp hợp đồng tín
dụng. Năm 2007 đã xảy ra 4 vụ tranh chấp HĐTD giữa ngân hàng và cá nhân;
kháng cáo có 2 vụ, trong 2 vụ kháng cáo thì có 1 vụ vẫn được giữ nguyên bản án
sơ thẩm, còn 1 vụ sửa đổi bản án sơ thẩm; năm 2008 xảy ra 5 vụ tranh chấp, số
vụ được kháng cáo là 2 vụ; trong đó có 1 vụ sửa đổi bản án sơ thẩm, 1 vụ y án;
số vụ được hoà giải là 1 vụ. Qua số liệu như trên có thể thấy rằng số vụ tranh
chấp HĐTD năm 2008 so với năm 2007 là có tăng nhưng cũng không đáng kể;
chỉ tăng 1 vụ. Do phân cấp thẩm quyền xét xử cho toà huyện; nên số vụ tranh
chấp giải quyết không nhiều, chủ yếu là tranh chấp HĐTD với giá trị không lớn
và cũng không phức tạp. Có nhiều vụ án khi ngân hàng khởi kiện ra toà thì các
bên thoả thuận được với nhau nên hoà giải thành. Ngoài ra có một số vụ có
kháng cáo là do HĐTD vay vốn với số tiền khá lớn, có tài sản thế chấp nên khi
có bản án của toà án, phía bị đơn lại không đồng tình với cách giải quyết của toà
án huyện. Họ rằng phán quyết của toà sơ thẩm không công bằng, không khách
quan, ảnh hưởng đến quyền lợi của họ nên họ đã kháng cáo lên Toà án nhân dân
Tỉnh để phúc thẩm. Sau đây tôi xin đưa ra một số thông tin, số liệu cụ thể và vụ
án điển hình để có cái nhìn khái quát về thực tiễn giải quyết giải quyết tranh
chấp HĐTD ở toà huyện Hương Khê, tỉnh Hà Tĩnh.
Các vụ tranh chấp HĐTD chủ yếu xuất phát từ nguyên nhân là bên đi vay đã
không thực hiện đúng nghĩa vụ trả nợ của mình khi đến hạn. Mặc dù các tranh
chấp thường xuất phát từ một nguyên nhân nhưng mỗi vụ có cách giải quyết
khác nhau. Có những vụ tranh chấp được các bên hoà giải được với nhau; có vụ
tranh chấp toà án giải quyết mà không hoà giải; có vụ lại bị đình chỉ không giải
quyết.
Các vụ bị đình chỉ không giải quyết do nhiều nguyên nhân khác nhau. Nhưng
đa số là do nguyên đơn đã rút đơn khởi kiện. Cụ thể như năm 2007 có vụ :
Nguyên đơn là ngân hàng Chính sách- Chi nhánh huyện Hương Khê và bị đơn là
ông Lê Văn Trường. Trong thời gian toà án tiến hành từng bước giải quyết vụ án
thì nguyên đơn và bị đơn đã thoả thuận được với nhau, ông Trường đã chấp
nhận thực hiện trả nợ cho ngân hàng cả gốc và lãi. Vì vậy, toà án đã xem xét,
xác minh và quyết định đình chỉ vụ án theo điểm c khoản 1 điều 192 Bộ luật tố
tung dân sự 2005. Ngoài ra, năm 2007 còn có vụ toà án ra quyết định đình chỉ
như vụ: giữa Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chi nhánh huyện
Hương Khê với chị Nguyễn Thị Thắm; Năm 2008 là vụ giữa Ngân hàng Nông
nghiệp và phát triển nông thôn chi nhánh huyện Hương Khê với anh Trần Đình
Công; giữa Ngân hàng chính sách - chi nhánh huyện Hương Khê với chị
Nguyễn Thị Lan với lý do ngân hàng rút đơn khởi kiện.
2. Một số vụ án điển hình:
Điển hình năm 2007 có vụ tranh chấp HĐTD được xét xử sơ thẩm ở toà án
huyện, có kháng cáo lên toà án nhân dân tỉnh.Cụ thể như sau:
Vụ án: Nguyên đơn là Chi nhánh ngân hàng Nông ngiệp & Phát triển nông
thôn huyện Hương Khê, tỉnh Hà Tĩnh.
Địa chỉ: Khối 5- Thị trấn huyện Hương Khê- tỉnh Hà Tĩnh.
Người đại diện theo uỷ quyền của nguyên đơn: bà Trần Thị Hiền Lê
Chức vụ: Phó giám đốc Chi nhánh ngân hàng nông nghiệp và phát triển
nông thôn huyện Hương Khê.
Bị đơn: Ông Phạm Văn Thuận
Địa chỉ: Khối 4-thị trấn huyện Hương Khê-tỉnh Hà Tĩnh.
Nguyên nhân xảy ra vụ tranh chấp đó là ngày 18/12/1995 và ngày
10/1/1996, ông Phạm Văn Thuận và bà Nguyễn Thị Quế thực hiện 2 hợp đồng
vay vốn ngắn hạn tại chi nhánh ngân hàng Nông nghiệp & Phát triển nông thônhuyện Hương Khê-tỉnh Hà Tĩnh, để đầu tư chăn nuôi, phát triển sản xuất. Món
vay thứ nhất là: 2.000.000đ (Hai triệu đồng chẵn); món vay thứ 2 là 2.000.000đ
(Hai triệu đồng chẵn). Tổng số tiền của 2 món vay là 4.000.000đ (Bốn triệu
đồng chẵn).Mỗi món vay thực hiện trong kỳ hạn là 10 tháng.
Theo cam kết thì đến ngày 18/9/1996 hộ gia đình ông Phạm Văn Thuận phải
thực hiện nghĩa vụ trả số tiền cả gốc và lãi cho ngân hàng đối với món vay thứ
nhất; ngày 10/10/1996 phải thực hiện trả nợ gốc và lãi cho món vay thứ 2. Tuy
nhiên đến hạn, hộ ông Phạm Văn Thuận đã không thực hiện nghĩa vụ trả nợ theo
đúng quy định. Chi nhánh ngân hàng Nông nghiệp & phát triển nông thôn đã cử
cán bộ phối hợp với UBND xã Gia Phố tiến hành xác minh sự việc và lập biên
bản người vay vốn là hộ gia đình ông Phạm Văn Thuận bỏ trốn khỏi địa phương.
Sau đó, ban hành các thông báo nợ đến hạn và thông báo chuyển nợ quá hạn.
Đến tháng 5 năm 2003 qua xác minh ngân hàng biết được hộ gia đình ông Phạm
Văn Thuận về sinh sống và làm ăn tại khối 4 Thị trấn Hương Khê, tỉnh Hà Tĩnh,
nên đã tiếp tục đòi nợ hằng năm bằng việc ra các văn bản. Trong quá trình Ngân
hàng cử cán bộ đến đòi nợ, hộ ông Phạm Văn Thuận đều từ chối ký vào biên bản
làm việc với lý do vì cho rằng số nợ trên đã được khoanh nợ. Dù rằng trên thực
tế ngân hàng đã xác định hộ ông Phạm Văn Thuận không thuộc diện khoanh nợ
theo quy định.
Sau khi thụ lý vụ án, tòa án đã gửi thông báo và phiên hoà giải và giấy triệu
tập đến 3 lần yêu cầu bị đơn là ông Phạm Văn Thuận đến để làm bản tự khai,
cung cấp chứng cứ và hoà giải để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
Nhưng ông Phạm Văn Thuận đã cố tình không chấp hành, ông chỉ đến toà án 1
lần nhưng đã tỏ thái độ bất hợp tác, có biểu hiện chống đối, thách thức toà án và
tự ý bỏ ra về. Chính vì vậy, vụ án không tiến hành hoà giải được. Ngày
16/4/2007 toà án có quyết định đưa vụ án ra xét xử nhưng bị đơn là ông Phạm
Văn Thuận đã vắng mặt lần thứ nhất, nên toà án phải hoãn phiên toà. Tại phiên
toà mở lại ngày 28/5/2007, ông Phạm Văn Thuận thừa nhận việc ông hợp đồng
vay tiền tại chi nhánh ngân hàng Nông nghiệp & Phát triển nông thôn huyện
Hương Khê là có thật. Ông cho rằng : việc không thanh toán nợ cho ngân hàng
là do hộ gia đình ông đã được UBND xã Gia Phố và ngân hàng khoanh nợ.
Nhưng trên thực tế đại diện ngân hàng đã khẳng định: hộ ông Phạm văn Thuận
không nằm trong diện được xét khoanh nợ theo quy đinh của Chính phủ. Do đó,
tính đến nay, hộ ông Phạm Văn thuận còn nợ Chi nhành ngân hàng Nông nghiệp
& Phát triển nông thôn huyện Hương Khê số tiền cả gốc và lãi tổng cộng là :
21.584.000đ (hai mươi mốt triệu năm trăm tám mươi tư nghìn đồng).
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên
toà vá căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:
Việc cho vay vốn xác định xác lập giữa bên cho vay là Chi nhánh ngân hàng
Nông nghiệp & phát triển nông thôn huyện Hương Khê và bên vay là hộ gia
đình ông Phạm Văn Thuận vào ngày 18/12/1995 và ngày 10/01/1996 được thực
hiện theo đúng quy định các điều 388; 389; 471 của Bộ luật tố tụng Dân sự
2005.
Tuy nhiên người được cho vay vốn là hộ ông Phạm Văn Thuận đã không
thực hiên đúng cam kết nghĩa vụ trả nợ tiền gốc và lãi cho ngân hàng, cố ý chây
ỳ, trốn tránh, tỏ thái độ bất hợp tác. Việc làm của ông Phạm Văn Thuận đã vi
phạm khoản 1 và 5 điều 474 của Bộ luật tố tụng dân sự 2005.
Trong quá trình giải quyết vụ án, Chi nhánh ngân hàng Nông nghiệp & Phát
triển nông thôn huyện Hương Khê yêu cầu ông Phạm Văn Thuận trả số tiền nợ
gốc và lãi cụ thể như sau:
* Khế ước vay ngày 18/12/1995:
- Nợ gốc: 2.000.000đ (Hai triệu đồng)
- Lãi suất trong hạn (2,4%/tháng) tính từ ngày 18/12/1995 đến ngày
31/12/1996 là: 603.200đ
- Lãi suất quá hạn (3,6%/tháng) tính từ ngày 01/01/1997 đến ngày
28/5/2007 là 9.112.800đ
* Khế ước vay ngày 10/01/1996:
-Nợ gốc: 2.000.000đ (Hai triệu đồng).
- Lãi suất trong hạn (1.85%/tháng) tính từ ngày 10/01/1996 đến ngày
31/12/1996 là 461.000đ.
- Lãi suất quá hạn (2.92%/tháng) tính từ ngày 01/01/1997 đến ngày
28/05/2007 là 7.406.000đ.
* Tổng cộng 2 khế ước vay:
- Nợ gốc: 4.000.000đ. (Bốn triệu đồng)
-Nợ lãi : 17.584.000đ (Mười bảy triệu năm trăm tám mươi tư nghìn đồng)
- Tổng số : 21.584.000 (hai mươi mốt triệu năm trăm tám tư nghìn
đồng).
Toà xét việc yêu cầu trả nợ của chi nhánh ngân hàng Nông nghiệp & Phát
triển nông thôn huyện Hương Khê buộc ông Phạm Văn Thuận phải trả nợ tiền
gốc và lãi như trên là phù hợp, đúng quy định tai điều 474 và điều 476 của Bộ
luật tố tụng dân sự 2005.
Toà án Huyện đã quyết định:
1. Áp dụng điều 471; khoản 1 và 5điều 474; khoản 1 điều 476 của Bộ luật
Dân sự 2005;
Xử buộc ông Phạm Văn Thuận phải trả nợ cho Chi nhánh ngân hàng Nông
nghiệp & phát triển nông thôn huyện Hương Khê, tỉnh Hà Tĩnh số tiền nợ
gốc là 4.000.000đ (Bốn triệu đồng) và số tiền lãi là 17.584.000đ ( Mười bảy
triệu năm trăm tám tư nghìn đồng). Tổng cộng cả hai khoản nợ gốc và lãi là:
21.584.000đ ( Hai mươi mốt triệu năm trăm tám tư nghìn đồng).
Vụ án giải quyết tranh chấp HĐTD thứ hai:
1. Nguyên đơn: Chi nhánh ngân hàng Nông nghiệp & Phát triển Nông thôn
huyện Hương Khê, tỉnh Hà Tĩnh.
Địa chỉ: Khối 5, Thị trấn huyện Hương Khê, tỉnh Hà Tĩnh.
Người đại diện theo uỷ quyền của nguyên đơn: Ông Nguyễn Công Lợi
Chức vụ: Giám đốc Chi nhành ngân hàng Nông ngiệp & Phát triển Nông
thôn huyện Hương Khê
2. Bị đơn :
Bà Võ Thị Lan, sinh năm: 1963Trú tại: Khối 10, Thị trấn
huyện Hương Khê, tỉnh Hà Tĩnh.
3. Người có nghĩa vụ liên quan:
Ông Nguyễn Xuân Hùng , sinh năm: 1959
Địa chỉ: Khối 10, Thị trấn huyện Hương Khê, tỉnh Hà Tĩnh.
Theo đơn khởi kiện của nguyên đơn là Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp
& Phát triển nông thôn huyện Hương Khê, tỉnh Hà Tĩnh trình bày: ngày 20
tháng 3 năm 1996 bà Võ Thị Lan và ông Nguyễn Xuân Hùng làm thủ tục vay
vốn Chi nhánh ngân hàng Nông ngiệp & Phát triển nông thôn số tiền là:
50.000.000đ (Năm mươi triệu đồng). Tài sản bảo đảm cho món vay là một ngôi
nhà bằng 3 gian trên diện tích đất 150m 2 của bà Lan và chồng là ông Nguyễn
Xuân Hùng có tại Khối 10, Thị trấn huyện Hương Khê, tỉnh Hà Tĩnh.
Chi nhánh ngân hàng Nông nghiệp & Phát triển nông thôn đã nhiều lần
làm việc với gia đình bà Lan, ông Hùng yêu cầu trả nợ hoặc bàn giao tài sản thế
chấp cho ngân hàng để xử lý như đã cam kết trong hồ sơ vay vốn, nhưng gia
đình bà Lan, ông Hùng không thực hiện. Vì vậy, ngân hàng làm đơn khởi kiện
yêu cầu bà Lan, ông Hùng phải thanh toán toàn bộ nợ gốc và lãi phát sinh tính
đến ngày khởi kiện là 170.040.000 (Một trăm bảy mươi triệu, không trăm bốn
mươi nghìn đồng). Nếu như bà Lan, ông Hùng không trả nợ thì yêu cầu Toà án
phát mại tài sản đã thế chấp để thu hồi nợ cho Nhà nước.
Bị đơn là bà Võ Thị Lan đã thừa nhận là bà đã làm thủ tục vay vốn ở ngân
hàng, tài sản thế chấp là một ngôi nhà 3 gian trên diện tích đất 150m 2 của vợ
chồng bà có tại khối 10, Thị trấn huyện Hương Khê, tỉnh Hà Tĩnh. Số tiền vay là
50.000.000 đồng, thời hạn vay 6 tháng. Mục đích vay của 2 vợ chồng bà Lan là
cho bà Hương vay lai bằng hình thức đảo nợ, nên bà mới làm toàn bộ thủ tục
vay vốn cũng như khế ước nhận nợ, nhưng trên thực tế bà không cầm tiền.
Kể từ khi vay cho đến nay bà Lan chưa thanh toán cho ngân hàng đồng nào
kể cả gốc và lãi. Do bà bị bà Hương lừa nên bà xin ngân hàng cho được trả nợ
gốc còn lãi thì xin miễn cho bà.
Toà án Huyện nhận định:
Vào ngày 20 tháng 3 năm 1996, bà Võ Thị Lan làm thủ tục vay vốn Chi
nhánh ngân hàng Nông nghiệp huyện Hương Khê, Hà Tĩnh với số tiền là
50.000.000 đồng (Năm mươi triệu đồng).
-Thời hạn vay: 06 tháng
- Lãi suất :1,75%/tháng
- Lãi suất quá hạn: 2,92%/tháng.
Tài sản thế chấp là ngôi nhà 3 gian trên diện tích đất 150m 2 có tại Khối 10,
Thị trấn huyện Hương Khê, tỉnh Hà Tĩnh. Tổng trị giá tài sản thế chấp là
200.000.000 đồng có xác nhận của công chứng nhà nước.
Xét thấy việc bà Lan khai đã làm đầy đủ thủ tục để nhận tiền vay từ ngân
hàng nhưng bà không nhận được tiền là không có căn cứ. Qua xem xét hồ sơ, bà
Lan đã đứng tên làm thủ tục vay vốn ngân hàng, khế ước nhận nợ do bà ký tên,
2 phiếu chi tiền số 150 và số 225 ngày 21/3/1996 với số tiền là 50.000.000 đồng
đều do bà Lan ký nhận. Khi đến hạn trả nợ ngân hàng đã nhiều lần yêu cầu bà
trả nợ thì bà đều đã cam kết trả, thế nhưng bà chưa trả được nợ cho ngân hàng.
Theo tính toán của ngân hàng thì tính đến ngày khởi kiện bà Lan còn dư nợ :
170.040.000 đồng.Trong đó, nợ gốc là 50.000.000 đồng ; lãi là 120.040.000
đồng.
Tuy bà Lan và ông Hùng xin được thanh toán cho ngân hàng nợ gốc nhưng
bà Lan cũng như ông Hùng không cung cấp đựoc chứng cứ để chứng minh là
mình bị bà Hương lừa, hơn nữa Hội đồng xét xử cũng đã kiên trì thuyết phục
Ngân hàng không thu tiền lãi của bà Lan, nhưng ngân hàng không chấp nhận.
Theo ngân hàng thì việc chỉ thu nợ gốc cho khách hàng là không có cơ chế, nên
không được phép. Vậy nên cần buộc bà Lan thanh toán toàn bộ nợ gốc và lãi
cho ngân hàng.
Khi vay vốn ngân hàng bà Lan và ông Hùng đã cam kết thế chấp tài sản vợ
chồng là một ngôi nhà 3 gian trên diện tích đất 150m 2. Do bà Lan không thanh
toán được nợ cho ngân hàng bằng tiền mặt, vì vậy cần thu giữ tài sản đã thế chấp
để bảo đảm thi hành án.
Từ nhận định đó Toà Án Nhân Dân Huyện đã quyết định:
Áp dụng điều 471, điều 474, điều 476, điều 478 Bộ luật dân sự;
Xử : Buộc bà Võ Thị Lan phải thanh toán cho chi nhánh ngân hàng Nông
nghiệp & Phát triển nông thôn huyện Hương Khê, tỉnh Hà Tĩnh số tiền là:
170.000.000 đồng (một trăm bảy mươi triệu, không trăm bốn mươi nghìn đồng).
Trong đố: - Tiền nợ gốc là: 50.000.000 đồng.
-Tiền lãi là: 120.040.000 đồng.
Thu giữ tài sản là ngôi nhà 3 gian trên diện tích đất 150m 2 của ông Nguyễn
Xuân Hùng và bà Võ Thị Lan đã cam kết thế chấp cho ngân hàng để vay vốn tại
khối 10, Thị trấn Hương Khê, tỉnh Hà Tĩnh để đảm bảo thi hành án.
PHẦN III: MỘT SỐ ĐÁNH GIÁ, NHẬN XÉT VÀ KHÓ KHĂN TRONG
THỰC TIỄN GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP HĐTD Ở TAND HUYỆN
HƯƠNG KHÊ:
1. Thuận lợi:
Các vụ án tranh chấp tín dụng xảy ra trên địa bàn huyện Hương Khê chủ yếu
là giữa ngân hàng với cá nhân, có giá trị vay vốn cam kết trong hợp đồng không
lớn, ít vụ có tình tiêt phức tạp nên đã tạo thuận lợi cho các thẩm phán ở cấp
huyện với trình độ chuyên môn chưa cao trong việc giải quyết các vụ án về hợp
đồng tín dụng. Điều đó giúp cho các thẩm phán dễ dàng giải quyết các tranh
chấp cũng như tìm ra các cơ sở pháp lý trong việc đưa ra các bản án đúng pháp
luật.
Không chỉ thế, việc giải quyết tranh chấp về HĐTD hiện nay cũng rất thuận
lợi khi hệ thống pháp luật để giải quyết tranh chấp được quy định trong các luật
và văn bản dưới luật một các cụ thể, rõ ràng trong hoạt động cho vay tín dụng
ngân hàng. Đó là Luật Các tổ chức tín dụng sửa đổi bổ sung năm 2004, Luật
ngân hàng nhà nước, Bộ Luật dân sự 2005; cùng các văn bản dưới luật: quy định
về điều kiện cho vay, quy chế bảo đảm tiền vay, pháp luật đăng kí giao dịch bảo
đảm. Như vậy, hệ thống pháp luật điều chỉnh quan hệ tín dụng ngân hàng quy
định khá đầy đủ đã tạo nên nền tảng pháp vững chắc cho thẩm phán ở toà huyện
nhanh chóng tìm ra được hướng giải quyết cũng như đưa ra quyết định một cách
thấu đáo.
Trên đây là một số thuận lợi mà tôi nhận thấy nó đã góp phần thúc đẩy quá
trình giải quyết quá trình giải quyết tranh chấp HĐTD được nhanh chóng và
thuận tiện hơn. Tuy nhiên, trong việc giải quyết các tranh chấp HĐTD còn một
số vấn đề bất cập, khó khăn cần phải sửa đổi, khắc phục về phần pháp luật cũng
như năng lực xét xử của thẳm phán; ý thức của các bên trong tranh chấp làm sao
cho việc giải quyết tranh chấp HĐTD có hiệu quả hơn.
2 .Khó khăn:
Quá trình tìm hiểu vụ án đã xét xử ở toà án nhân dân huyện Hương Khê- tỉnh
Hà Tĩnh tôi thấy rằng trong mấy năm gần đây từ năm 2005- 2009 thì số vụ tranh
chấp HĐTD xảy ra ở địa phương còn rất ít, số vụ được đua ra giải quyết ở toà án
còn lẻ tẻ, mỗi năm trung bình chỉ được 2-3 vụ. Nguyên nhân của hiện tượng này
trước hết là do tâm lý ngại giải quyết tranh chấp ở toà án, bởi việc giải quyết
tranh chấp ở toà án là khá lâu, mất nhiều thời gian cho cả phía ngân hàng và
khách hàng đi vay. Khi các vụ án được giải quyết ở toà án thì mất vài tháng,
thậm chí kéo dài hàng năm nên điều đó gây khó khăn cho ngân hàng trong việc
thu hồi nợ, người dân cũng mất thời gian khi họ còn kinh doanh. Chính vì lẽ đó
mà các tranh chấp HĐTD thường đuợc các bên thương lượng, hoà giải với nhau
chứ việc đưa ra toà án giải quyết khi tranh chấp giữa hai bên không thể hoà giải
được thì mới khởi kiện ở toà án để giải quyết. Ngoài ra, một nguyên nhân nữa
khiến cho các vụ tranh chấp HĐTD ít xảy ra ở huyện đó là do huyện Hương Khê
còn là một huyện miền núi. Các khách hàng vay chủ yếu là cá nhân, vay vốn với
mục đích kinh doanh, sản xuất nhỏ nên các HĐTD cũng có giá trị nhỏ, không
mấy phức tạp. Trên đây là một vài đánh giá, nhận xét của tôi về thực tiễn giải
quyết tranh chấp HĐTD ở toà án huyện Hương Khê. Một số nhận xét khách
quan ở trên đây cũng là tiền đề dẫn đến một số bất cập cho quá trình tiến hành
giải quyết tranh chấp HĐTD. Sau đây tôi xin đề cập một số khó khăn trong giải
quyết tranh chấp HĐTD:
2.1. Trình độ,năng lực của thẩm phán còn hạn chế:
Thẩm phán thường có vai trò chủ toạ trong các phiên toà, có vai trò rất lớn trong
việc giải quyết tranh chấp. Do đó mà thẩm phán cần phải có một vốn kiến thức
vững chắc, am hiểu pháp luật và phải luôn cập nhật được kiến thức mới nhất.
Đặc biệt, đối với những vụ tranh chấp HĐTD thường phát sinh trong nền kinh tế
thị trường, mang tính chất phức tạp thì thẩm phán cần phải được bồi dưỡng năng
lực thường xuyên. Tuy nhiên các thẩm phán ở toà huyện còn một số khó khăn
trong việc cập nhật kiến thức mới, trình độ giải quyết tranh chấp HĐTD còn hạn
chế. Các thẩm phán chưa có kinh nghiệm nhiều trong giải quyết tranh chấp
HĐTD. Nhiều khi các thẩm phán chưa nắm bắt được hết các quy định trong
Luật ngân hàng, Luật Các tổ chức tín dụng, các thẩm phán xét xử các tranh chấp
chủ yếu dựa vào Bộ Luật dân sự 2005. Do thẩm phán ở toà huyện còn hạn chế
vốn kiến thức về tín dụng ngân hàng nên cũng là một khó khăn cho việc giải
quyết tranh chấp HĐTD.
2.2 Pháp luật phục vụ giải quyết tranh chấp chưa hoàn thiện :
Việc giải quyết các tranh chấp về HĐTD hiện nay được quy định khá nhiều
trong các văn bản pháp luật khác nhau : Luật ngân hàng nhà nước, Luật các tổ
chức tín dụng, Bộ Luật dân sự và được hướng dẫn cụ thể trong các văn bản dưới
luật. Chính vì pháp luật điều chỉnh trong nhiều các văn bản pháp luật như vậy
nên nó đã có phần nào không được thống nhất, gây nên sự chồng chéo và chưa
rõ ràng. Vì thế gây nên khó khăn trong việc giải quyết tranh chấp hợp đồng vay
vốn giữa ngân hàng với cá nhân và tổ chức.
Bên cạnh đó, pháp luật các quy định cho vay, quy chế bảo đảm tiền vay và
pháp luật đăng kí giao dịch bảo đảm còn chưa phù hợp. Do pháp luật quy định :
ngân hàng có thể định giá tài sản khi 2 bên không thoả thuận được, tại điều 25
Quy chế cho vay quyết định 1627/2001/QĐ-NHNN ngày 31/12/2001 của Thống
đốc Ngân hàng nhà nước về quyền và nghĩa vụ của tổ chức tín dụng quy
định:"Khi đến hạn trả nợ mà khách hàng không trả nợ, nếu các bên không có
thoả thuận khác, thì tổ chức tín dụng có quyền xử lý tài sản bảo đảm vốn vay
theo sự thoả thuận trong hợp đồng để thu hồi nợ theo quy định của pháp luật",
pháp luật quy định không rõ, chưa cụ thể nên đã làm mất nhiều thời gian xác
định quyền hạn của ngân hàng trong việc xử lý tài sản bảo đảm để thu hồi nợ.
Một số quy định về cơ chế bảo đảm tiền vay và pháp luật đăng kí giao dịch
bảo đảm cũng cần được hoàn thiện. Trên thực tế, Nghị định 163/2006/CP ban
hành ngày 29/12/2006 của Chính phủ quy định về nội dung cách thức, thời gian
xử lý tài sản bảo đảm nhưng chưa có văn bản hướng dẫn và cũng không có cơ
sở để yêu cầu cơ quan thi hành án tham gia cưỡng chế thu hồi tài sản trong
trường hợp người thế chấp không tự nguyện giao tài sản. Ngân hàng muốn thu
hồi nợ, rút cuộc vẫn phải làm theo cách cũ là khởi kiện ra tòa để yêu cầu thi
hành án. Qua những bất cập nêu ở trên đây đòi hỏi pháp luật cần được hoàn
thiện hơn.
2.3. Ý thức, nhận thức của người đi vay còn hạn chế:
Thực tiễn xảy ra các vụ tranh chấp HĐTD ở toà nguyên nhân chủ yếu là do ý
thức của người đi vay chưa cao. Một khi người đi vay không nhận thức được
trách nhiệm của mình trả tiền nợ khi đến hạn, người đi vay đã không có ý thức
khi đã cố tình trốn tránh không trả nợ, cố ý kéo dài thời hạn trả nợ. Thậm chí họ
còn tỏ thái độ bất hợp tác và bỏ trốn khỏi địa phương với ý nghĩ là có thể thoát
khỏi món vay nợ đối với ngân hàng. Từ thực tiễn đó cho thấy việc xảy ra những
tranh chấp là do sự thiếu ý thức của người đi vay, họ đã không tự nguyện thực
hiện nghĩa vụ trả nợ khi đến hạn đẫn đến hậu quả không đảm bảo nguồn thu cho
ngân hàng. Từ việc thiếu ý thức của người đi vay dẫn đến khởi kiện ở toà án
không chỉ hao tốn tiền của, hao tốn thời gian cho tổ chức ngân hàng mà ngay cả
phía người đi vay dù đã vi phạm nghĩa vụ nhưng cũng tốn tiền, thời gian và cả
ảnh hưởng đến công việc làm ăn kinh doanh, sản xuất của họ.
2.4.Việc xử lý tài sản bảo đảm không đảm bảo quyền lợi các bên:
Các văn bản pháp luật phục vụ cho việc xử lý tài sản bảo đảm không có sự
thống nhất, thậm chí mâu thuẫn, chồng chéo lên nhau ở những khía cạnh nhất
định. Việc xử lý tài sản bảo đảm là quyền sử dụng đất và bất động sản vẫn còn
phụ thuộc rất nhiều vào các cơ quan hữu quan khi con nợ chây ỳ, cố tình trì hoãn
thời gian xử lý tài sản bảo đảm để ngân hàng không thể thu hồi nợ. Một thực tế
là khi ký hợp đồng vay vốn, người vay đã chấp nhận giao nhà nếu như không trả
đựoc nợ, song nhiều khi ngân hàng không thể tiến hành phát mại được vì thủ tục
sang tên trước bạ quy định phải có sự đồng ý của chủ sở hữu. Một khi khách
hàng không thiện chí, cố tình không đồng ý ký tên làm sang tên trước bạ thì
ngân hàng phải đón nhận nguy cơ rủi ro rất cao, không thể hoàn thành thủ tục xử
lý tài sản để thu hồi nợ. Dẫn đến quá trình khởi kiện giải quyết ở toà án mất
nhiều thời gian và công sức hơn.
Theo quy định của pháp luật cho phép ngân hàng được xử lý tài sản bảo đảm
tiền vay để thu hồi nợ nhưng trên thực tế ngân hàng không thể chủ động xử lý
được số tài sản này. Liên quan đến việc xử lý tài sản thế chấp, Nghị định
163/2006/NĐ-CP ban hành ngày 29/12/2006 của Chính phủ cho phép các tổ
chức tín dụng được lựa chọn hình thức xử lý đa dạng như bán tài sản thế chấp,
nhận các khoản tiền và tài sản từ người thứ ba trong trường hợp thế chấp quyền
đòi nợ, phương thức khác do các bên thỏa thuận. Trường hợp các bên không
thỏa thuận được phương thức xử lý tài sản là quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền
với đất thì các tài sản này được đem bán đấu giá nhưng để thực hiện được, các
bên lại phải ký hợp đồng ủy quyền tại đơn vị bán đấu giá có thẩm quyền. Nhiều
trường hợp bên thế chấp không chấp nhận thì không thể bán đấu giá, khi đó
cũng không có cơ chế cho tổ chức tín dụng được tự bán đấu giá tài sản để thu
hồi nợ.
Ngoài ra, việc xử lý tài sản bảo đảm còn gây khó khăn cho quá trình giải
quyết tranh chấp khi một số đơn vị, cá nhân thực thi pháp luật còn chưa nghiêm
túc.Sau khi các khoản nợ đã đựoc cơ quan pháp luật xét xử, bản án đã có hiệu
lực pháp luật và được chuyển cho cơ quan thi hành án ra quyết định thi hành án
thì việc thu hồi nợ ở khâu này còn quá chậm. Người phải thi hành cố tình không
chấp hành án. Bên cạnh đó đơn vị thi hành án không thường xuyên theo dõi,
thúc nhắc người phải thi hành án và cơ quan thi hành án thực thi bản án. Nhiều
khi việc thi hành quyết định của toà án còn chậm và kém hiệu quả. Điển hình là
trường hợp người vay vốn có thế chấp bằng bất động sản và đất ở, do không trả
được nợ ngân hàng khởi kiện và được toà án quyết định phát mại tài sản để thu
hồi nợ cho ngân hàng, cơ quan thi hành án đã ra quyết định thi hành án. Nhưng
vì nhiều lý do như bên thi hành án chỉ có một tài sản duy nhất ( Hiến pháp 1992
có quy định về quyền có nhà ở của công dân), hoặc lý do tài sản thế chấp có giá
trị cao hơn nhiều so với số nợ vay tại ngân hàng nên không thể phát mại được...
Cơ quan thi hành án áp dụng biện pháp gia hạn thi hành án bằng cách cho phép
bên phải thi hành án được kéo dài thời gian thi hành án để kiếm tiền bằng nguồn
khác để trả nợ cho ngân hàng, có trường hợp thời gian thi hành án phải kéo dài
hàng năm trời. Đây là việc làm trái quy định của pháp luật cần loại bỏ để bảo vệ
quyền lợi của ngân hàng.
Một khó khăn nữa làm cho việc xử lý tài sản bảo đảm chậm đó là giá trị tài
sản bán thực tế thấp hơn giá trí được định giá khi vay, vì tài sản bảo đảm tiền
vay chủ yếu mang tính chuyên dụng, có giá trị cao, khó bán, nguyên nhân dẫn
đến tình trạng này là do tâm lý của khách hàng ngại mua những tài sản của
khách hàng đã kinh doanh thua lỗ, phá sản. Chính điều này cũng làm cho chúng
ta thấy rằng không phải cứ cho vay có tài sản bảo đảm là yên tâm, là có thể thu
hồi được nợ.
2.5. Thủ tục giải quyết tranh chấp rườm rà,thời gian kéo dài:
Có thể nói rằng thủ tục khởi kiện ra toà án khá rắc rối cùng với những trình
tự rườm rà. Thời gian thực tế để giải quyết xong một vụ việc thường là 2 năm,
nếu bị đơn trì hoãn hoặc bỏ trốn thì vụ việc có thể kéo dài thêm nhiều năm nữa.
Số tiền vốn thì ứ động trong khi số tiền chi phí liên quan sẽ tăng lên do việc xử
lý bị kéo dài. Rõ ràng đây là điều các ngân hàng mong đợi. “Nếu ở nước ngoài
chỉ cần 24 tiếng là mọi việc được giải quyết xong, cơ quan thi hành án có quyết
định của tòa án là có thể chuyển tài sản sang cho ngân hàng xử lý, còn ở Việt
Nam thì thủ tục quá rắc rối, phiền hà”. Nghị định 163/2006/NĐ-CP ngày 29
tháng 12 năm 2006 về giao dịch bảo đảm cho phép chủ nợ trực tiếp thu hồi tài
sản nhưng hướng dẫn không có, công an không hỗ trợ thì ngân hàng làm được
gì. Thủ tục quá rườm rà từ việc có đơn yêu cầu, ra quyết định thi hành án, thời
gian tự nguyện, biên bản làm việc của 2 bên tại cơ quan thi hành án, quyết định
cưỡng chế về việc kê biên định giá phát mãi tài sản, … Rườm rà như vậy, nên cơ
quan thi hành án không bao giờ thi hành đúng thời hạn như quyết định của bản
án. Nhiều khi trường hợp ngôi nhà là tài sản của 2 vợ chồng, nhưng ông chồng
đưa đi thế chấp mà không được sự đồng ý của vợ hay trường hợp ngôi nhà được
đưa đi thế chấp có công sức đóng góp của người con 18 tuổi nhưng ông bố đưa
đi thế chấp ở ngân hàng mà không có chữ kí đồng thuận của người con. Chính
những thực tế này đã gây ra thủ tục giải quyết tranh chấp rắc rối hơn, mất nhiều
thời gian hơn.
2.6. Cơ chế giải quyết tranh chấp còn chưa phù hợp:
Một nguyên nhân xảy ra các tranh chấp HĐTD đó là coi nhẹ việc đăng ký ở
cơ quan đăng ký tài sản bảo đảm. Bên cạnh đó, một khó khăn nữa trong cơ chế
giải quyết tranh chấp là không có sự phối hợp giữa cơ quan cấp lại giấy đăng ký
quyền sở hữu và ngân hàng. Vì 2 cơ quan này hoạt động độc lập với nhau nên có
một thực tế xảy ra là nếu một người đã thế chấp ở ngân hàng quyền sử dụng đất,
nhưng lấy lý do làm mất giấy chứng nhận quyền sử dung đất để yêu cầu cơ quan
cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp lại.
Hành lang pháp lý cho hoạt
động giao dịch bảo đảm chưa hoàn chỉnh, đồng bộ và thiếu thống nhất giữa các
văn bản, việc đăng ký giao dịch bảo đảm thực hiện phân tán ở nhiều cơ quan
khác nhau tạo kẽ hở trong quản lý. Đã có trường hợp xe ôtô được đăng ký tại
Phòng cảnh sát giao thông công an tỉnh, thành phố nhưng khi cầm cố lại được
đăng ký tại Cục Đăng ký quốc gia giao dịch bảo đảm, chủ xe thế chấp ôtô để
vay tiền, sau đó lại báo mất đăng ký để xin cơ quan công an cấp lại rồi bán xe
cho người khác và làm thủ tục sang tên mà không bị phát hiện. Đây là một kẽ hở
của pháp luật làm cho quyền lợi của ngân hàng bị thiệt hại mà còn tạo cơ hội
cho người dân làm trái với quy định của pháp luật.
PHẦN IV: NHỮNG ĐỀ XUẤT VÀ KIẾN NGHỊ CỤ THỂ
1. Hoàn thiện pháp luật
Thực tiễn xét xử các vụ tranh chấp HĐTD đã nảy sinh nhiều bất cập cần sửa
đổi và hoàn thiện. Hoàn thiện pháp luật trong giải quyết tranh chấp là việc làm
cần thiết, nhằm thúc đẩy quan hệ vay vốn tín dụng giữa các chủ thể được thuận
tiện hơn; bảo vệ quyền lợi chinh đáng của các chủ thể trong quan hệ tín dụng và
tạo điều kiện thuận lợi để thị trường tín dụng phát triển.
Hiện nay,pháp luật liên quan đến hợp đồng tín dụng có nhiều văn bản pháp
luật điều chỉnh. Mà các văn bản đó lại không thống nhất với nhau, chồng chéo
nhau. Tranh chấp trong HĐTD ngoài các luật chuyên ngành và văn bản hướng
dẫn kèm theo thì việc vận dụng pháp luật khác cũng rất khó. Vì vậy,việc hoàn
thiện pháp luật hợp đồng tín dụng và pháp luật giải quyết tranh chấp tín dụng
không chỉ là bộ phận mà cần hoàn thiện cả một hệ thống làm sao xây dựng một
hệ thống pháp luật thống nhất, giúp cho quá trình giải quyết tranh chấp được
nhanh chóng,chính xác và đúng đắn nhất.
Cũng như hoàn thiện bất cứ mảng pháp luật nào, hoàn thiện pháp luật giải
quyết tranh chấp cần phải đạt được những mục tiêu nhất định. Trong khuôn khổ
của báo cáo chuyên đề thực tập, tôi xin đưa ra một số đề xuất giúp cho quá trình
hoàn thiện pháp luật:
1.1.Thời gian giải quyết tranh chấp cần được rút ngắn:
Thực tế, thời gian giăi quyết tranh chấp khá dài kéo dài từ 2-3 năm, còn quá
lâu, trong khi các bên tranh chấp mong muốn vụ việc được giải quyết nhanh
chóng không chỉ bảo đảm thu hồi nợ, chu chuyển vốn trong tổ chức ngân hàng
mà còn tạo điều kiện cho người đi vay tiến hành hoạt động kinh doanh. Vấn đề
đặt ra là cần rút ngắn thời gian xét xử, khi có vấn đề mới phát sinh thì các thẩm
phán cần nhanh chóng tìm hiểu, nghiên cứu vụ án để giải quyết vụ án một cách
thấu tình, đạt lý, đúng pháp luật.
1.2.Việc xử lý tài sản bảo đảm cần hoàn thiện để bảo vệ quyền lợi các bên:
Trong việc định giá tài sản bảo đảm: Hiện nay pháp luật đang giành quyền
chủ động định giá cho ngân hàng trong trường hợp các bên không thoả thuận giá
của tài sản bảo đảm. Điều này có ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của các bên
nên cần được pháp luật nhìn nhận lại để dung hoà được lợi ích của cả ngân hàng
và khách hàng. Ngân hàng do có quyền xử lý tài sản bảo đảm để thu hồi nợ nên
nhiều khi ngân hàng đã bán tài sản bảo đảm với giá thấp hơn giá trị tài sản theo
giá thị trường. Vấn đề đặt ra là pháp luật cần sửa đổi, bổ sung theo hướng:khi
ngân hàng chủ động xử lý tài sản bảo đảm thì việc định giá tài sản phải do tổ
chức định giá chuyên nghiệp thực hiện; có thể là một cơ quan chuyên môn hoặc
một tổ chức định giá hoạt động độc lập.
Các cơ quan hữu quan có thẩm quyền trong việc công chứng hợp đồng
chuyển nhượng cần có thiện chí, có trách nhiệm tạo điều kiện hỗ trợ khi có yêu
cầu của ngân hàng để xử lý tài sản bảo đảm nhanh chóng và đơn giản hoá thủ
tục vốn đã rườm rà hiện nay.
1.3. Cơ chế giải quyết tranh chấp cần sửa đổi để phù hợp với thực tiễn:
Để bảo đảm quyền lợi cho ngân hàng cũng như người đi vay đối với tài sản
thế chấp thì pháp luật cần quy định thống nhất, rõ ràng về nghĩa vụ đăng ký ở cơ
quan đăng ký bảo đảm.
Đồng thời trong việc thực hiện các HĐTD cần có sự phối hợp giữa cơ quan
cấp lại giấy và cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm, để hạn chế được tình trạng
một tài sản được thế chấp ở cả 2 ngân hàng. Đối với tài sản thế chấp là phương
tiện giao thông như xe máy khi thế chấp cũng phải đăng ký ở cơ quan đăng ký
bảo đảm để phối hợp với ngân hàng dễ kiểm soát. Hệ thống đăng ký giao dịch
bảo đảm cần tập trung về một cơ quan để việc thực hiện đăng ký được thống
nhất. Mở kênh riêng hoặc lập trang web thông tin pháp lý về tài sản là quyền sử
dụng đất, nhà ở để các tổ chức tín dụng được quyền truy vấn các thông tin này
nhằm tiết kiệm thời gian. Có tạo nên một hệ thống chặt chẽ như vậy thì các tranh
chấp HĐTD mới được giải quyết nhanh chóng và hiệu quả.
1.4.Hoàn thiện thủ tục tố tụng:
Hiện nay trong thủ tục tố tụng dân sự giải quyết tranh chấp HĐTD còn rườm
rà, mang tính hình thức, chưa linh hoạt, nhanh nhạy xử lý vấn đề.
Bên cạnh đó, trình tự, thủ tục giải quyết HĐTD cũng cần sửa đổi đơn giản hơn
để tạo điều kiện kinh doanh cho các bên. Trình tự,thủ tục ở toà án thường kéo
dài lâu do phải trải qua các khâu: thụ lý,toà án nghiên cứu và tiến hành xét xử
cũng một thời gian khá dài, đến khi bản án có hiệu lực pháp luật thì phải chờ cơ
quan thi hành án xử lý. Trình tự, thủ tục kéo dài nhiều thời gian như vậy khiến
cho các bên trong tranh chấp luôn ở trong tình trạng chờ đợi, mệt mỏi. Thực tế
này đòi hỏi công việc giải quyết tranh chấp ở toà án cần rút ngắn thời gian, loại
bỏ đi những thủ tục rườm rà, rắc rối để làm cho quá trình giải quyết tranh chấp
nhanh gọn, đúng pháp luật, đơn giản, bảo vệ quyền lợi các bên trong hợp đồng.
1.5. Hoàn thiện các quy định của pháp luật về HĐTD trong giải quyết tranh
chấp:
Về quy chế cho vay, pháp luật cần quy định rõ hơn về quyền hạn của ngân
hàng. Cần sửa đổi quy chế cho vay quyết định 1627/2001/QĐ-NHNN ngày
31/12/2001 và quyết định 127/2005/QĐ-NHNN ngày 3/2/2005 sửa đổi quyết
định 1627 về quyền hạn của ngân hàng trong việc xử lý tài sản bảo đảm sao cho
rõ ràng hơn. Có như vậy mới tạo nên cơ sở pháp lý rõ ràng, tránh gây ra mâu
thuẫn trong việc giải quyết tranh chấp.
Bên cạnh đó, để góp phần giải quyết tranh chấp HĐTD được tốt hơn đòi hỏi
các nhà làm luật sửa đổi, bổ sung pháp luật đăng ký giao dịch bảo đảm nghị định
08/2000/NĐ-CP ngày 10/3/2000 làm cơ sở pháp lý rõ ràng trong việc giải quyết
tranh chấp HĐTD ngân hàng. Đối với tài sản là quyền sử dụng đất, khi thế chấp
hay dùng để bảo lãnh chỉ cần đăng ký giao dịch bảo đảm, không nhất thiêt phải
làm thủ tục công chứng.
Các nhà làm luật cần ban hành văn bản hướng dẫn nghị định 163/2006/ NĐCP về bảo đảm tiền vay về cách thức, thời gian xử lý tài sản bảo đảm rõ ràng, cụ
thể hơn. Đồng thời văn bản hướng dẫn phải quy định chi tiết sự hỗ trợ của cơ
quan công an và cơ quan thi hành án để làm cơ sở pháp lý trọng việc cưỡng chế
thu hồi nợ, xử lý tài sản bảo đảm.
Đồng thời Nhà nước cần ban hành luật đăng ký giao dịch bảo đảm để nâng cao
giá trị pháp lý và ổn định. Tạo cơ sở pháp lý nhằm tháo gỡ những khó khăn,
vướng mắc trong hoạt động đăng ký giao dịch bảo đảm hiện nay.
2.Các đề xuất đảm bảo thực hiện:
Nếu như việc hoàn thiện pháp luật góp phần tạo nên cơ sở pháp lý vững chắc
thì các giải pháp nhằm đảm bảo thực hiện góp phần củng cố cơ chế giải quyết
tranh chấp HĐTD được hiệu quả và đúng đắn hơn.
2.1. Thẩm phán cần được bồi dưỡng kiến thức mới:
Thẩm phán là người có vai trò"cầm cân nảy mực" trong quá trình giải quyết
vụ án. Vì vậy, đội ngũ thẩm phán phải có năng lực, luôn cập nhật những kiến
thức mới và có kinh nghiệm dày dặn thì mới nắm bắt, giải quyết được các vấn
đề một cách tốt nhất. Do đội ngũ thẩm phán ở toà huyện còn hạn chế trong việc
bồi dưỡng kiến thức mới nên việc giải quyết các vụ án, Đặc biệt là các vụ án
tranh chấp HĐTD còn nhiều thiếu sót và hạn chế. Chính vì thực tiễn như vậy đòi
hỏi cần tăng cường, bồi dưỡng kiến thức cho các thẩm phán, bồi dưỡng cho
những quy định mới về giải quyết tranh chấp HĐTD. Công việc đào tạo, bồi
dưỡng đội ngũ thẩm phán một cách thường xuyên, đầy đủ thì mới nâng cao chất
lượng và hiệu quả xét xử của họ ở các toà án huyện.
2.2. Phân công thẩm phán mới được đào tạo giải quyết các tranh chấp
HĐTD:
Cần phân công thẩm phán mới được bồi dưỡng, cập nhật kiến thức mới để
họ có thể nhanh nhạy, linh hoạt xử lý các vấn đề trong vụ án một cách có hiệu
quả nhất. Không những thế, khi phân công thẩm phán có trình độ, có kiến thức
mới cập nhật, am hiểu sâu về HĐTD thì họ mới có cái nhìn đứng đắn về các vấn
đề cụ thể và mới phát sinh để từ đó thẩm phán có thể xét xử, đưa ra được phán
quyết hợp tình, hợp lý.
2.3. Nâng cao ý thức, trách nhiệm của người dân:
Các tranh chấp xảy ra trong việc thực hiện HĐTD thường xuất phát từ
nguyên nhân ý thức của người dân chưa cao. Chính vì vậy, vấn đề đặt ra ở đây là
ý thức người dân cần phải được nâng cao hơn nữa, họ phải thực hiện trên tinh
thần tự nguyện và có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ của mình ghi trong hợp
đồng. Có nâng cao đựoc ý thức của người dân như vậy thì các tranh chấp sẽ
phần nào giảm đi và hơn nữa sẽ giúp quá trình giải quyết tranh chấp HĐTD ở
toà án sẽ nhanh chóng hơn một khi người dân đi vay đã có ý thức tự nguyện thự
hiện nghĩa vụ của mình.
Trên đây là một số đề xuất hoàn thiện pháp luật và các đề xuất đảm bảo thực
hiện để góp phần giúp cho quá trình giải quyết tranh chấp HĐTD ở toà án được
tốt hơn,hiệu quả hơn.
KẾT LUẬN
Tranh chấp HĐTD là một lĩnh vực khá nhạy cảm và phức tạp. Trong nền
kinh tế thị trường thì các quan hệ tranh chấp trong hợp đồng tín dụng càng nhiều
hơn; chính vì thế mà thực tiễn giải quyết các tranh chấp cũng trở nên đa dạng,
phong phú hơn. Các vụ tranh chấp HĐTD diễn ra với các mức độ, nguyên nhân
khác nhau, vì thế mà quá trình giải quyết vụ án cũng không thể tránh khỏi những
khó khăn do pháp luật chưa hoàn thiện; trình tự thủ tục giải quyết rườm rà, mất
nhiều thời gian; cơ chế giải quyết tranh chấp còn chưa phù hợp. Thêm vào đó là
trình độ, năng lực của thẩm phán còn hạn chế cùng với ý thức của người dân
chưa cao dẫn đến kết quả giải quyết tranh chấp chưa được tốt. Để khắc phục
được bất cập này đòi hỏi trong thời gian tới pháp luật phục vụ, có liên quan đến
HĐTD cần hoàn thiện hơn nữa, sửa đổi thủ tục sao cho ngắn gọn hơn; cơ chế
giải quyết tranh chấp phải thống nhất; đồng thời năng lực các thẩm phán phải
được bồi dưỡng thường xuyên để luôn cập nhật kiến thức mới cùng với ý thức
của người dân cần được nâng cao.
Thực tiễn giải quyết tranh chấp HĐTD ở toà huyện đã được giải quyết đúng
trình tự, giải quyết các vấn đề trong tranh chấp đúng đắn, đưa ra phán quyết hợp
lý. Tuy rằng, việc xét xử của toà án còn một số bất cập nhưng chúng ta không
thể phủ nhận sự nỗ lực lớn lao, không ngừng của đội ngũ thẩm phán ngành toà
án huyện Hương Khê-tỉnh Hà Tĩnh./.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Luật Ngân hàng nhà nước.
2. Luật Các tổ chức tín dụng sửa đổi năm 2004.
3. Bộ Luật Dân sự năm 2005.
4. Quyết định 1627/2001/QĐ-NHNN ngày 31/12/2001 về việc ban hành quy
chế cho vay của ổ chức tín dụng với khách hàng.
5. Quyết định số 127/QĐ-NHNN ngày 3/2/2005 về việc sửa đổi,bổ sung một
số điều của Quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng ban
hành theo quyết định 1627/2001/QĐ-NHNN ngày 31/12/2001 về việc ban
hành quy chế cho vay của tổ chức tín dụng với khách hàng.
6. Nghị định 163/2006/NĐ-CP ngày 29/12/2006 về giao dịch bảo đảm.
7. Nghị định của Chính Phủ số 08/2000/NĐ-CP ngày 10/3/2000 về đăng ký
giao dịch bảo đảm.
8. Giáo trình Luật Ngân hàng Nhà nước Viêt Nam, trường Đại học Luật Hà
Nội,Nxb Công an Nhân dân, 2007.
9. Một số tạp chí Ngân hàng các năm 2007, 2008, 2009.
10. Các trang wep:
11. Bản án Dân sự sơ thẩm số 11/2008/DSST ngày 18/9/2008.
12. Bản án Dân sự sơ thẩm số 03/2007/DSST ngày 28/5/2007.
13. Bản án Dân sự sơ thẩm số 09/2008/DSST ngày 31/12/2008.
14. Báo cáo tổng kết năm 2007, 2008, 2009 của Toà án nhân dân huyện
Hương Khê.
15. Sổ thụ lý án Dân sự từ năm 2005 – 2009 của Toà án nhân dân huyện
Hương Khê.
16. Sổ ra án Dân sự từ năm 2005 – 2009 của Toà án nhân dân huyện Hương
Khê.
17. Bảng thống kê hàng năm các loại án của Toà án nhân dân huyện Hương
Khê.
18. Một số tài liệu khác.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
19.Luật Ngân hàng nhà nước.
20.Luật Các tổ chức tín dụng sửa đổi năm 2004.
21.Bộ Luật Dân sự năm 2005.
22.Quyết định 1627/2001/QĐ-NHNN ngày 31/12/2001 về việc ban hành quy
chế cho vay của ổ chức tín dụng với khách hàng.
23.Quyết định số 127/QĐ-NHNN ngày 3/2/2005 về việc sửa đổi,bổ sung một
số điều của Quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng ban
hành theo quyết định 1627/2001/QĐ-NHNN ngày 31/12/2001 về việc ban
hành quy chế cho vay của tổ chức tín dụng với khách hàng.
24.Nghị định 163/2006/NĐ-CP ngày 29/12/2006 về giao dịch bảo đảm.
25.Nghị định của Chính Phủ số 08/2000/NĐ-CP ngày 10/3/2000 về đăng ký
giao dịch bảo đảm.
26.Giáo trình Luật Ngân hàng Nhà nước Viêt Nam, trường Đại học Luật Hà
Nội,Nxb Công an Nhân dân, 2007.
27.Một số tạp chí Ngân hàng các năm 2007, 2008, 2009.
28. Các trang wep:
29. Bản án Dân sự sơ thẩm số 11/2008/DSST ngày 18/9/2008.
30. Bản án Dân sự sơ thẩm số 03/2007/DSST ngày 28/5/2007.
31. Bản án Dân sự sơ thẩm số 09/2008/DSST ngày 31/12/2008.
32. Báo cáo tổng kết năm 2007, 2008, 2009 của Toà án nhân dân huyện
Hương Khê.
33. Sổ thụ lý án Dân sự từ năm 2005 – 2009 của Toà án nhân dân huyện
Hương Khê.
34. Sổ ra án Dân sự từ năm 2005 – 2009 của Toà án nhân dân huyện Hương
Khê.
35. Bảng thống kê hàng năm các loại án của Toà án nhân dân huyện Hương
Khê.
36. Một số tài liệu khác.
MỤC LỤC
Trang
A-LỜI MỞ ĐẦU…………………………………………………
1
B- NỘI DUNG: ………………………………………………….
2
PHẦN I: QUÁ TRÌNH TÌM HIỂU, THU THẬP THÔNG TIN:
1.Thời gian thu thập thông tin:……………………………………. 2
2. Phương pháp thu thập thông tin:……………………………….. 2
PHẦN II: THỰC TIỄN GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP HĐTD TẠI
TAND HUYỆN HƯƠNG KHÊ- TỈNH HÀ TĨNH:
1.Số liệu, thông tin các vụ án :…………………………………..
3
2.Một số vụ án điển hình:……………………………………….
4
PHẦN III: MỘT SỐ ĐÁNH GIÁ, NHẬN XÉT VÀ KHÓ KHĂN
TRONG THỰC TIỄN GIẢI QUYẾT TRANH CHP HĐTD:
1.Thuận lợi ……………………………………………..
10
2.Khó khăn: …………………………………………………...
10
2.1. Trình độ, năng lực của thẩm phán còn hạn chế:…………..
12
2.2 Pháp luật phục vụ giải quyết tranh chấp chưa hoàn thiện
12
2.3. Ý thức, nhận thức của người đi vay còn hạn chế……………
13
2.4.Việc xử lý tài sản bảo đảm không đảm bảo quyền lợi các bên:
13
2.5. Thủ tục giải quyết tranh chấp rườm rà ,thời gian kéo dài:
15
2.6. Cơ chế giải quyết tranh chấp còn chưa phù hợp
16
PHẦN IV: NHỮNG ĐỀ XUẤT VÀ KIẾN NGHỊ CỤ THỂ
1. Hoàn thiện pháp luật ……………………………..
17
1.1. Thời gian giải quyết tranh chấp cần được rút ngắn …..
17
1.2. Việc xử lý tài sản bảo đảm cần hoàn thiện để bảo vệ
17
quyền lợi các bên………………………………………..
1.3. Cơ chế giải quyết tranh chấp cần sửa đổi để phù hợp với
18
thực tiễn…………………………………………………………….
1.4. Hoàn thiện thủ tục tố tụng………………………….
18