Tải bản đầy đủ (.doc) (30 trang)

Tiểu luận cao học thực tiễn việc tổ chức thi hành án dân sự ở địa phưong)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (181.77 KB, 30 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Đại hội Đảng lần thứ VI (1986) đã khẳng định :” Đối với đất nước ta,đổi mới
là yêu cầu bức thiết của sự nghiệp cách mạng, là vấn đề có ý nghĩa sống còn” .
Đường lối đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo đã đưa đất nước ta sang một
giai đoạn phát triển mới , từ nền kinh tế bao cấp,chuyển sang nền kinh tế hàng hóa
nhiều thành phần,vận hành theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã
và đang đặt ra cơ sở và yêu cầu cấp thiết tiếp tục cải cách bộ máy nhà nước xây
dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền Việt Nam ;trong đó cải cách tư pháp là
một nội dung quan trọng .
Trong hoạt động tư pháp,việc đảm bảo hiệu lực của bản án, quyết định của
Tòa án là một yêu cầu tất yếu khách quan,là nguyên tắc hiến định chỉ đạo toàn bộ
tổ chức và hoạt động thi hành án nói chung và hoạt động thi hành án dân sự nói
riêng.Điều 136 Hiến pháp năm 1992 của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
quy định :”Các bản án và các quyết định của Tòa án nhân dân đã có hiệu lực pháp
luật phải được các cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức chính trị, tổ chức
chính trị - xã hội, tổ chức xã hội,các đơn vị vũ trang nhân dân và mọi công dân tôn
trọng;những người và đơn vị hữu quan phải nghiêm chỉnh chấp hành”.Là một bộ
phận cấu thành của hoạt động tư pháp,thi hành án dân sự là một giai đoạn kết thúc
quá trình giải quyết các vụ án dân sự nói chung.Thông qua hoạt động thi hành án
dân sự,các bản án phán quyết của Tòa án nhân danh quyền lực Nhà nước được thi
hành trong thực tế,quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, cuả Nhà nước được bảo
vệ, trật tự kỷ cương được đảm bảo, công bằng xã hội được thực hiện.
Thực hiện Hiến pháp năm 1992 và các đạo luật về tổ chức và hoạt động của
bộ máy Nhà nước, Pháp lệnh thi hành án dân sự được Ủy Ban Thường Vụ Quốc
Hội ban hành ngày 21/04/1993 thay thế Pháp lệnh thi hành án dân sự năm
1989( ngày 28/08/1989). Thực hiện theo Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 1993


công tác thi hành án dân sự được chuyển giao từ Tòa án sang các cơ quan của
Chính Phủ.Tuy nhiên, thi hành án dân sự trước đây cũng như trong giai đoạn hiện
nay là một vấn đề hết sức khó khăn và phức tạp, nhằm tiếp tục củng cố và kiện toàn


công tác thi hành án dân sự năm 2004 ỦY Ban Thường Vụ Quốc Hội ban hành
Pháp lệnh thi hành án dân sự mới thay thế Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 1993
vẫn theo hướng tách hoạt động thi hành án ra khỏi Tòa án đặt dưới sự quản lí của
các cơ quan của Chính Phủ mà trực tiếp là Cục thi hành án thuộc Bộ Tư pháp. Tuy
nhiên, qua mấy năm thực hiện Pháp lệnh thi hành án năm 2004 đã nảy sinh một số
khó khăn, vướng mắc trong công tác quản lí và công tác thực hiện nghiệp vụ. Xuất
phát từ tình hình mới của điều kiện kinh tế- xã hội đòi hỏi phải có những quy định
mới về công tác thi hành án trong một văn bản pháp lí cao nhất do cơ quan quyền
lực Nhà nước ban hành vì lí do đó năm 2008 Quốc Hội nước ta đã ban hành Luật
thi hành án và Luật này có hiệu lực kể từ ngày 01/07/2009.
a. Với ý nghĩa là một bộ phận của hệ thống tư pháp,thi hành án dân sự không
phải là một vấn đề bất biến mà luôn luôn phát triển và hoàn thiện cùng toàn
bộ thống tư pháp trong tiến trình lịch sử của Nhà nước. Việc nghiên cứu toàn
diện cơ sở lý luận và thực tiễn về tổ chức và hoạt động của Thia hành án dân
sự là vấn đề hết sức mới mẻ, cấp thiết trước yêu cấu đổi mới về tổ chức và
nâng cao hiệu quả họt động của lĩnh vực này. Là một sinh viên của trường
Đại học Luật Hà Nội, nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề thi hành án
dân sự trong việc thực hiện các bản án, quyết định của Tòa án trên thực tế là
lý do tôi đã quyết định lựa chọn đề tài: “Thực tiễn việc tổ chức thi hành án
dân sự ở địa phưong” là chuyên đề nghiên cứu trong kỳ thục tập cuối khóa
của mình.


CHƯƠNG I : QUÁ TRÌNH THU THẬP THÔNG TIN
Nhận thức rõ được tầm quan trọng và tính cấp thiết thời sự của chuyên
đề và theo yêu cầu nghiên cứu của đề tài Tôi đã được phân công về nghiên cứu
thực tập tại cơ quan Thi hành án dân sự huyện Sơn Dương – tỉnh Tuyên Quang .
Tại đây, Tôi đã được đội ngũ các anh chị Chấp Hành Viên và Cán bộ trong cơ quan
nhiệt tình giúp đỡ, đặc biệt là Chấp hành viên Nguyễn Thành Thụy là người trực
tiếp hướng dẫn Tôi hoàn thành chuyên đề này . Qua quá trình tìm hiểu hoạt động

Thi hành án dân sự Tôi đã tiếp thu được một số kiến thức thực tế về hoạt động Thi
hành án dân sự ở nước ta hiện nay và những hoạt động nghiệp vụ của đội ngũ Chấp
hành viên và đội ngũ các cán bộ làm công tác thi hành án dân sự tại cơ quan nơi tôi
thực tập .Thông qua đó Tôi xin trình bày một số hiểu biết mà mình đã thu thập
được trong quá trình thực tập của mình.
1.Giới thiệu về địa bàn thực tập .
Huyện Sơn Dương , tỉnh Tuyên Quang là một huyện miền núi. Đây là
một huyện nằm ở phía Nam của tỉnh Tuyên Quang . Với diện tích khoảng gần
80.000ha, đây là Huyện có diện tích tương đối lớn của tỉnh . Địa bàn huyện trải dài
với 33 xã, thị trấn gồm: Thị trấn Sơn Dương và các xã Tân Trào, Trung Yên, Bình
Yên, Lương Thiện, Minh Thanh, Tú Thịnh , Hợp Thành , Kháng Nhật, Sơn Nam,
Thượng Ấm, Đông Lợi , Cấp Tiến, Vĩnh Lợi , Văn Phú, Sầm Dương, Chi Thiết,
Tam Đa, Thiện Kế , Ninh Lai, Đồng Quý, Hợp Hòa, Tuân Lộ, Vân Sơn, Phú Lương
, Phúc Ứng , Đông Thọ, Thanh Phát, Lâm Xuyên, Hồng Lạc, Quyết Thắng , Hào
Phú, Đại Phú.
Với diện tích trải dài và tiếp giáp nhiều địa bàn trong và ngoài tỉnh : Phía
Bắc và Đông Bắc giáp huyện Yên Sơn của tỉnh và các huyện Đại Từ và Định Hóa
của tỉnh Thái Nguyên, phía Nam và Tây Nam giáp huyện Lập Thạch của tỉnh Vĩnh
Phúc và một số huyện miền núi của tỉnh Phú Thọ . Với những nét đặc thù về vị trí


địa lí như vậy ảnh hưởng không nhỏ đến trình độ phát triển kinh tế - xã hội của
huyện .
Dân số của huyện vào khoảng 200.000 người , đây là một địa bàn có mật độ
tương đối cao so với các huyện khác của tỉnh Tuyên Quang . Tuy nhiên, kết cấu dân
số của huyện cũng không đều, người Kinh là cộng đồng chiếm đa số chủ yếu sống
tại khu vực Thị trấn và những vùng có điều kiện kinh tế thuận lợi. Ngoài ra , trên
địa bàn huyện có một bộ phận nhỏ các dân tộc ít người khác sinh sống như người
Tày, Nùng, Dao ở các xã vùng thượng huyện và người Sán Chỉ, Sán Dìu, Ráy , Lô
Lô , Thái ,Dao… ở các xã vùng hạ huyện .Về tôn giáo nhân dân trong huyện chủ

yếu là theo tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên ông bà ngoài ra còn có một bộ phận nhỏ dân
cư theo tín ngưỡng đạo KiTô ( tập trung tại các xã Vĩnh Lợi, Đông Thọ, Đồng
Quý). Địa bàn sinh sống của các dân tộc ít người tập trung chủ yếu ở các vùng có
điều kiện kinh tế, giao thông đi lại khó khăn vì vậy trình độ học vấn và năng lực
hiểu biết pháp luật trong các cộng đồng dân tộc là không giống nhau điều này gây
khó khăn không nhỏ cho công tác tuyên truyền phổ biến pháp luật nói chung và
công tác thi hành án dân sự nói chung.
Khoảng 50% diện tích của huyện là đồi núi thấp, kinh tế chủ yếu là nông
nghiệp với khoảng 70-80% lao động hoạt động trong lĩnh vực này. Ngoài việc trồng
cây lúa nước nhân dân trong huyện còn trồng các cây lương thực khác như Ngô,
Khoai , Sắn… trên các bãi bồi ven sông và các đồi núi thấp. Với vị trí địa lí và điều
kiện khí hậu thuận lợi trên địa bàn Huyện còn trồng cây công nghiệp là cây chè trên
các đồi núi thấp và xây dựng một số xí nghiệp chế biến chè .Tuy nhiên, hiện nay
việc đầu tư vào cây chè vẫn chưa được chú trọng tương xứng với tiềm năng. Ngoài
hoạt động nông nghiệp trên địa bàn huyện còn tiến hành một số hoạt động công
nghiệp ( chủ yếu là khai thác khoáng sản đặc biệt là khai thác quặng thiếc tại khu
vực các xã Kháng Nhật , Hợp Thành…. và một số loại khoáng sản khác).


Đời sống của các tầng lớp nhân dân trong huyện còn gặp rất nhiều khó
khăn .Theo số liệu thống kê của Phòng Lao Động – Thương Binh –Xã Hội năm
2008 toàn huyện vẫn còn khoảng 20% tổng số hộ nằm trong diện đói nghèo trong
đó hộ đói chiếm tỉ lệ là 5% theo tiêu chuẩn mới. Chiếm số lượng nhiều nhất trong
số này là hộ đồng bào các dân tộc ít người , đồng bào các xã nằm trong địa bàn giao
thông đi lại khó khăn. Tình trạng không có việc làm, thiếu việc làm đối với người
trong độ tuổi lao động chiếm một tỉ lệ tương đối lớn điều này đã làm nảy sinh các
vấn đề xã hội tiêu cực như trộm cắp , cờ bạc , ma túy, mại dâm … gây ảnh hưởng
đến an ninh trật tự và là nguyên nhân dẫn đến tình trạng gia tăng tội phạm và tranh
chấp dân sự trong những năm gần đây.
Huyện Sơn Dương là khu vực có nhiều di tích lịch sử cách mạng, cùng với

huyện Định Hóa của tỉnh Thái Nguyên khu di tích lịch sử Tân Trào và các xã lân
cận là chiến khu cách mạng, thủ đô kháng chiến trong chiến tranh chống pháp
trường kỳ . Chính vì vậy, Đảng và Nhà nước cũng như tỉnh ủy và ủy ban nhân dân
tỉnh Tuyên Quang luôn có sự quan tâm đặc biệt và chỉ đạo sát sao đối với chính
quyền huyện trong việc thực hiện nhiệm vụ an ninh – chính trị- xã hội , trong đó có
công tác thi hành án.Ngoài việc thực hiện nhiệm vụ thi hành án của mình Chấp
hành viên và cơ quan thi hành án của huyện còn phải đảm bảo thực hiện rất nhiều
chính sách xã hội như đảm bảo quyền và lợi ích của người có công với cách
mạng ,an ninh chính trị trên địa bàn huyện điều này gây không ít khó khăn cho việc
thực hiện nghiệp vụ thi hành án .
2. Thời gian thực tâp.
Với chương trình đào tạo Cử nhân Luật, để hoàn thành chuyên đề thực
tập của mỗi sinh viên trường Đại Học Luật Hà Nội quy định thời gian thực tập cuối
khóa bắt đầu từ ngày 12/01/2009 và kết thúc vào ngày 24/04/2009 . Thời gian thực
tập liên tục trừ tuần nghỉ Tết nguyên đán (từ 26/01 đến 30/01/2009 ), và các ngày
lễ, ngày nghỉ khác theo quy định của Luật Lao Động . Thực hiện đúng các quy định


của Trường Tôi đã tuân thủ nghiêm ngặt về thời gian và thực hiện đúng các yêu cầu
về công việc do Cán bộ hướng dẫn thực tập phân công.
3. Phương pháp thu thập và nguồn tư liệu thu thập .
3.1.Phương pháp thu thập .
Trong quá trình nghiên cứu chuyên đề Tôi đã sử dụng các phương pháp
nghiên cứu : Phân tích , tổng hợp, lôgic pháp lí và lịch sử, so sánh luật …. nhằm
làm rõ những nhận định được đưa ra trong chuyên đề.
3.2. Nguồn tư liệu thu thập.
Để có được những thông tin phục vụ cho mục đích nghiên cứu của chuyên đề
Tôi đã tiến hành thu thập từ nhiều nguồn thông tinh khác nhau:
- Trước hết, là việc nghiên cứu tài liệu thi hành án của cơ quan, nghiên cứu
các văn bản khác có liên quan đến hoạt động thi hành án, nghiên cứu hồ

sơ thi hành án trong những năm gần đây;
- Tham khảo ý kiến của các Chấp hành viên, Cán bộ làm công tác thi hành
án trong và ngoài cơ quan;
- Tham gia vào các buổi đi làm việc tại cơ sở nhằm đôn đốc giáo dục các
đương sự tự nguyện thi hành án, tiến hành xác minh điều kiện thi hành án
của đương sự để đưa ra hướng giải quyết cho công tác thi hành án;
- Thu thập thông tin trên các phương tiện thông tin đại chúng như Đài phát
thanh, truyền hình, sách báo pháp luật, các chuyên đề về thi hành án dân
sự và các công trình, đề tài nghiên cứu cao học Luật của một số học giả
trong nước.
Sau quá trình tìm hiểu và nghiên cứu bước đầu Tôi đã thu thập được một số kiến
thức mang tính chất lí luận về hoạt động thi hành án dân sự ở nước ta trong giai
đoạn hiện nay.
4. Những vấn đề có tính chất lí luận trong tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự
ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.


4.1. Khái niệm về thi hành án dân sự.
Hoạt động xét xử thể hiện tập trung nhất quyền tư pháp của Nhà nước. Toàn
bộ hoạt động điều tra, truy tố và các hoạt động có liên quan khác đều nhằm phục vụ
cho công tác xét xử để bảo vệ, khôi phục lại quyền và nghĩa vụ hợp pháp của công
dân, tổ chức kinh tế, xã hội và các cơ quan Nhà nước. Tuy nhiên, các quá trình điều
tra, truy tố, xét xử các vụ án mới chỉ là những giai đoạn đầu của quá trình bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Kết thúc giai đoạn xét xử, Tòa án mới chỉ
đưa ra được phán quyết về nội dung vụ án, xác định quyền và nghĩa vụ của các bên.
Khi những phán quyết này của Tòa án được thực thi đầy đủ trong thực tế cuộc sống
thì quyền tư pháp của Nhà nước mới được thực hiện trọn vẹn, công lí trở thành hiện
thực, trật tự tư pháp mới được bảo đảm, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân
mới được bảo vệ.
Điều 136 Hiến pháp 1992 đã quy định : “ Các bản án và quyết định của Tòa

án đã có hiệu lực pháp luật phải được các cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ
chức xã hội, các đơn vị vũ trang nhân dân và mọi công dân tôn trọng ; những người
và đơn vị hữu quan phải nghiêm chỉnh chấp hành”. Nguyên tắc Hiến định này có ý
nghĩa chỉ đạo toàn bộ tổ chức, nội dung hoạt động thi hành án nói chung và hoạt
động thi hành án dân sự nói riêng.
Trong quá trình giải quyết các tranh chấp dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh
tế, lao động,vv… khi mà bản án hoặc quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp
luật được đưa ra thi hành, trong đó xác định các quan hệ pháp lí, sự kiện pháp lí
buộc người phải thi hành án có nghĩa vụ phải làm hoặc không được làm một công
việc nhất định vì lợi ích của người được thi hành án. Đây là thời điểm chức năng
xét xử của Tòa án hoàn thành. Việc thi hành các bản án hoặc các quyết định của
Tòa án là giai đoạn tiếp theo của giai đoạn xét xử ; trong giai đoạn này, Tòa án
không ra bất cứ một phán quyết nào có liên quan đến nội dung vụ án, mà chỉ có thể
giải thích những điểm chưa rõ ràng trong bản án hay quyết định khi có yêu cầu từ


phía cơ quan thi hành án. Khi bản án hoặc quyết định của Tòa án đã có hiệu lực
pháp luật được đưa ra thi hành các đương sự có thể tự nguyện thi hành án, tự thỏa
thuận với nhau về những vấn đề có liên quan đến việc thi hành bản án, quyết định
đó theo quy định của pháp luật. Mặt khác khi đương sự không tự nguyện thi hành
án, người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án theo quy định của pháp luật
thì các chủ thể tham gia vào quá trình thi hành án cũng chỉ có nghĩa vụ thực hiện
đúng những phán quyết của Tòa án như ở trong giai đoạn xét xử mà không có
quyền thay đổi bất cứ một vấn đề gì về nội dung vụ án cũng như trình tự, thủ tục thi
hành án kể cả Chấp hành viên được phân công giải quyết vụ việc đó. Khoản 4 Điều
67 Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 2004 quy định : “ Chấp hành viên không thi
hành đúng bản án, quyết định của Tòa án, trì hoãn việc thi hành án, áp dụng biện
pháp cưỡng chế thi hành án trái pháp luật, vi phạm quy chế Chấp hành viên thì bị
xử lí kỉ luật hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự; nếu gây thiệt hại phải bồi thường”.
Như vậy, thi hành án dân sự là giai đoạn tiếp theo của giai đoạn xét xử và là giai

đoạn cuối cùng của quá trình giải quyết vụ án.
Từ những phân tích trên, với ý nghĩa là một giai đoạn cuối cùng của quá
trình giải quyết một vụ án dân sự nói chung có thể đưa ra khái niệm về thi hành án
dân sự như sau: Thi hành án dân sự Việt Nam là hoạt động hành chính – tư pháp
nhằm thực hiện đầy đủ, kịp thời những bản án, quyết định của Tòa án đã tuyên do
Chấp hành viên và cơ quan thi hành án tiến hành theo trình tự, thủ tục nhất định
do pháp luật quy định.
4.2. Các nguyên tắc thi hành án dân sự.
Các nguyên tắc thi hành án dân sự là những quan điểm chỉ đạo quán triệt
trong toàn bộ tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự. Là một bộ phận cấu thành
của tổ chức và hoạt động Nhà nước nói chung, tổ chức và hoạt động thi hành án
dân sự vừa tuân thủ những nguyên tắc chung về tổ chức và hoạt động Nhà nước
như: Nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa, nguyên tắc mọi công dân đều bình


đẳng trước pháp luật, nguyên tắc Đảng lãnh đạo trong tổ chức và hoạt động của bộ
máy Nhà nước …. vừa tuân thủ nhưng nguyên tắc mang tính chất chuyên môn,
nghiệp vụ đó là các nguyên tắc sau:


Nguyên tắc đảm bảo hiệu lực của các bản án, quyết định của Tòa án ( Điều 3

Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 2004).
Việc thi hành nghiêm chỉnh và triệt để các bản án, quyết định có hiệu lực
pháp luật của Tòa án là một tất yếu khách quan trong hoạt động tư pháp của bất kì
nhà nước nào. Bản án, quyết định của Tòa án là sự phán xét nhân danh Nhà nước
và phải được đảm bảo thực hiện bằng sức mạnh cưỡng chế của Nhà nước. Điều 136
Hiến pháp 1992 quy định : “ Các bản án , quyết định của Tòa án đã có hiệu lực
pháp luật phải được các cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, các đơn
vị vũ trang nhân dân và mọi công dân tôn trọng; những người và đơn vị hữu quan

phải nghiêm chỉnh chấp hành”. Khi bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực
pháp luật được đưa ra thi hành thì tất cả các đương sự, các cơ quan nhà nước, các tổ
chức xã hội hữu quan phải nghiêm chỉnh chấp hành không cho phép bất kì một sự
cản trở, chống đối nào đối với việc thi hành các bản án, quyết định đó.
Nội dung của các bản án, quyết định phải được thi hành một cách đầy đủ, kịp
thời. Khi phát hiện thấy những sai sót hoặc điều chưa rõ ràng trong bản án, quyết
định của Tòa án, những chủ thể tham gia hoạt động thi hành án chỉ có quyền khiếu
nại, yêu cầu Tòa án có thẩm quyền xem xét, quyết định. Mặt khác, khi bản án,
quyết định đã có hiệu lực pháp luật được đưa ra thi hành thì cơ quan Tòa án, Thi
hành án hoặc bất cứ một cơ quan nào khác cũng đều không có quyền sửa đổi, bổ
sung nội dung của vụ án, quyết định đó. Tòa án nơi đã đưa ra bản án, quyết định
được đưa ra thi hành chỉ có quyền giải thích những điều mà cơ quan thi hành án và
Chấp hành viên yêu cầu.
Việc đảm bảo chấp hành nghiêm chỉnh bản án, quyết định của Tòa án được
đưa ra thi hành là đảm bảo sự tôn trọng pháp luật, hiệu lực của Nhà nước, bảo vệ


quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức và cá nhân. Nguyên tắc này đòi hỏi phải có
một bộ máy, cơ chế thích hợp, đội ngũ cán bộ đủ năng lực đảm bảo cho hoạt động
thi hành án có hiệu quả, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ đặt ra trong từng giai đoạn xây
dựng và bảo vệ tổ quốc, bảo vệ Nhà nước pháp quyền Việt nam xã hội chủ nghĩa.


Nguyên tắc chỉ có Chấp hành viên, cơ quan thi hành án được thành lập theo

quy định của pháp luật là có thẩm quyền thi hành án.
Trong lịch sử hình thành và phát triển của công tác thi hành án dân sự Việt Nam ,
pháp luật đã xác lập những cơ sở pháp lí về tính chuyên trách của họat động thi
hành án dân sự. Điều 24 Luật tổ chức Tòa án năm 1960 quy định : “ Tại các Tòa án
nhân dân địa phương có Chấp hành viên làm nhiệm vụ thi hành những bản án và

quyết định về dân sự, những khỏan về bồi thường và tài sản trong các bản án hình
sự”. Điều 4 Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 1993 quy định chỉ có thủ trưởng cơ
quan thi hành án mới có quyền ra quyết định thi hành án và Điều 12 xác định chỉ có
Chấp hành viên là người được Nhà nước giao nhiệm vụ thi hành các bản án, quyết
định của Tòa án theo quy định của pháp luật và được bảo vệ. Nội dung các quy
định này tiếp tục được khẳng định Khoản 1 và Khoản 2 Pháp lệnh thi hành án dân
sự năm 2004.
Nguyên tắc này không chỉ khẳng định tính chuyên trách của hoạt động thi
hành án dân sự mà còn thể hiện trách nhiệm của Nhà nước trong việc bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của công dân, tập thể. Trong điều kiện của nền kinh tế thị
trường, khi trình độ văn hóa pháp lí của nhân dân còn hạn chế nguyên tắc này có
một ý nghĩa rất quan trọng trong việc giữ gìn trật tự kỷ cương xã hội chống lại hiện
tượng “ thỏa thuận” thuê người thi hành án, “ dịch vụ đòi nợ” gây thiệt hại đến lợi
ích của nhân dân lao động.


Nguyên tắc kết hợp chặt chẽ việc tôn trọng quyền tự định đoạt của đương sự

với chủ động tổ chức thi hành án của cơ quan thi hành án và Chấp hành viên trong
hoạt động thi hành án dân sự.


Việc thi hành bản án, quyết định của Tòa án theo yêu cầu của người được thi
hành án thể hiện sự tôn trọng quyền tự định đoạt của đương sự. Đây là điểm khác
biệt cơ bản giữa hoạt động thi hành án dân sự và thi hành án hình sự. Khi bản án
hình sự có hiệu lực pháp luật, việc thi hành các bản án đó được các cơ quan chức
năng thực hiện theo quy định của pháp luật, không phụ thuộc vào ý chí của đương
sự. Đối với các vụ án dân sự nói chung, sau khi bản án hoặc quyết định của Tòa án
có hiệu lực pháp luật, các bên vẫn có quyền tiếp tục thể hiện ý chí của mình về việc
có thi hành các phán quyết của Tòa án. Pháp luật thừa nhận sự thỏa thuận tự

nguyện của người được thi hành án và người phải thi hành án về thể thức, phương
pháp và những vấn đề khác liên quan đến việc chấp hành bản án, quyết định của
Tòa án nếu sự thỏa thuận đó đúng theo quy định của pháp luật, không vi phạm lợi
ích của Nhà nước, xã hội và chuẩn mực đạo đức chung.Điều 6 Pháp lệnh thi hành
án dân sự năm 2004 quy định : “ 1. Nhà nước khuyến khích các đương sự tự
nguyện thi hành án; 2. Người được thi hành án, người phải thi hành án có quyền
thỏa thuận với nhau về thời gian, địa điểm, phương thức thi hành án, nhưng không
được trái pháp luật, đạo đức xã hội ….”.
Bên cạnh việc tôn trọng quyền tự định đọat , tự nguyện thi hành án của
đương sự, pháp luật còn quy định quyền chủ động của cơ quan thi hành án và Chấp
hành viên trong việc tổ chức hoạt động thi hành án dân sự. Khi có yêu cầu thi hành
án của người được thi hành án hoặc người phải thi hành án cơ quan thi hành án và
Chấp hành viên chủ động tiến hành các trình tự thi hành án và được áp dụng các
biện pháp cưỡng chế theo quy định của pháp luật buộc người phải thi hành án thực
hiện đúng phán quyết của Tòa án, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người được
thi hành án. Điều 22 Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 2004 quy định việc thủ
trưởng cơ quan thi hành án chủ động ra quyết định thi hành án trong những trường
hợp sau:
- Án phí, lệ phí tòa án, trả lại án phí, lệ phí tòa án;


- Hình phạt tiền;
- Tịch thu tài sản, truy thu thuế, truy thu tiền, tài sản thu lợi bất chính;
- Xử lí vật chứng đã thu giữ;
- Thu hồi đất theo quyết định của Tòa án;
- Quyết định về biện pháp khẩn cấp tạm thời theo quyết định của Tòa án.
Bên cạnh đó, pháp luật còn quy định người phải thi hành án có điều kiện thi
hành mà không tự nguyện thi hành án thì sẽ bị cưỡng chế theo quy định của pháp
luật( Điều 7 Pháp lệnh).



Nguyên tắc kết hợp vai trò chủ của Chấp hành viên cơ quan thi hành án

trong quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ được giao và sự chỉ đạo của chính
quyền địa phương, sự phối hợp của các cơ quan, tổ chức có liên quan.
Đây là một nguyên tắc quan trọng, xuất phát từ đặc thù của tổ chức hoạt động
thi hành án dân sự ở nước ta. Thực tiễn thi hành án dân sự trong những năm qua đã
khẳng định tính đúng đắn, phù hợp của nguyên tắc này. Họat động thi hành án dân
sự nhằm bảo vệ lợi ích hợp pháp của công dân, tập thể, giữ gìn trật tự kỷ cương xã
hội không chỉ là hoạt động chuyên môn thuần túy của các cơ quan thi hành án,
Chấp hành viên mà còn là trách nhiệm của các cấp tổ chức chính quyền và toàn xã
hội. Trong điều kiện thực tiễn hiện nay, việc đặt công tác thi hành án dân sự trong
tổng thể hoạt động triển khai các nhiệm vụ giữ gìn an ninh, trật tự, an toàn xã hội
thì mới thấy hết được ý nghĩa của nguyên tắc này. Sự phối hợp chặt chẽ giữa vai trò
chủ động, phát huy trách nhiệm của Chấp hành viên, cơ quan thi hành án và sự chỉ
đạo sát sao, kịp thời của ủy ban nhân dân các cấp, sự phối hợp của các cơ quan, tổ
chức có liên quan tạo ra sức mạnh tổng hợp, nâng cao ý thức trách nhiệm của công
dân trong hoạt động thi hành án dân sự. Nguyên tắc này được quy định tại các Điều
8 và Điều 10 Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 2004. Điều 8 Pháp lệnh thi hành án
dân sự quy định trách nhiệm của Chủ tịch Ủy ban nhân dân các cấp có trách nhiệm
phối hợp chỉ đạo các cơ quan trong việc thi hành án ở địa phương; chỉ huy các lực


lượng quân đội có trách nhiệm chỉ đạo công tác phối hợp thi hành án trên địa bàn
mình đóng quân; lực lượng công an, cảnh sát có trách nhiệm giữ gìn trật tự, kịp thời
ngăn chặn những hành vi cản trở, chống đối việc cưỡng chế thi hành án; các tổ
chức và đơn vị hữu quan và mọi công dân có trách nhiệm giúp đỡ thực hiện yêu
cầu của Chấp hành viên nhằm đảm bảo cho công tác thi hành án được thực hiện
theo đúng quy định của pháp luật. Điều 10 của Pháp lệnh quy định trách nhiệm
phối hợp, kiểm tra, giám sát của Viện kiểm sát trong việc thực hiện công tác thi

hành án. Để đảm bảo cho công tác thi hành án được diễn ra theo đúng các trình tự,
quy định của pháp luật thì việc tham gia của Viện kiểm sát vào hoạt động này là hết
sức cần thiết. Thực hiện nhiệm vụ của mình, Viện kiểm sát sẽ giám sát toàn bộ hoạt
động của công tác thi hành án của Chấp hành viên và thủ trưởng cơ quan thi hành
án tránh được những sai sót về mặt tố tụng đồng thời phát hiện nhanh chóng, kịp
thời những hành vi sai phạm, tiêu cực của Chấp hành viên, thủ trưởng cơ quan thi
hành án và cán bộ làm công tác thi hành án, đem lại sự tin tưởng vào sự trong sạch
về công tác thi hành án đối với công dân và toàn xã hội. Tuy nhiên, sự phối hợp
công tác không có nghĩa là đùn đẩy, dựa dẫm, không rõ ràng trách nhiệm. Chấp
hành viên cơ quan thi hành án được pháp luật giao cho chức năng thi hành án,
không chỉ giữ vai trò tham mưu mà thực sự chủ động tổ chức tiến hành các trình tự,
thủ tục thi hành án theo quy định của pháp luật và phải chịu trách nhiệm trước pháp
luật về việc thi hành kịp thời, đúng các bản án, quyết định của Tòa án.


Nguyên tắc thi hành đúng đắn, kịp thời các bản án, quyết định của Tòa án

theo trình tự, thủ tục theo quy định của pháp luật.
Thi hành đúng đắn, kịp thời bản án, quyết định của Tòa án là nguyên tắc có
tính bắt buộc đối với hoạt động thi hành án. Khi bản án, quyết định của Tòa án có
hiệu lực pháp luật đưa ra thi hành thì Chấp hành viên có trách nhiệm thi hành đầy
đủ, kịp thời, đúng đắn các phán quyết của Tòa án không được phép có bất kì sự
thay đổi nào đối với nội dung bản án, quyết định đó mà chỉ được quyền yêu cầu


Tòa án nơi đã ra bản án, quyết định đó giải thích những vấn đề chưa rõ ràng, còn
vướng mắc. Khoản 1 Điều 14 Pháp lệnh quy định : “ Thi hành đúng nội dung bản
án, quyết định của Tòa án; áp dụng đúng các quy định của pháp luật về trình tự, thủ
tục thi hành án; đảm bảo lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của đương
sự”. Tuy nhiên, việc thi hành đầy đủ nội dung của bản án, quyết định của Tòa án

không có nghĩa là Chấp hành viên có thể tùy tiện áp dụng mọi biện pháp để đạt
được mục đích mà phải tuân thủ nghiêm ngặt trình tự, thủ tục mà pháp luật quy
định trong quá trình thi hành án. Pháp luật đã quy định chặt chẽ, cụ thể thủ tục thi
hành án từ thời điểm bắt đầu cho đến giai đoạn kết thúc quá trình thi hành án. Các
biện pháp mà cơ quan thi hành án có thể thực hiện như kê biên, định giá tài sản,
bảo quản, bán đấu giá tài sản, các biện pháp cưỡng chế vv... mặt khác, pháp luật
cũng quy định căn cứ thời hạn để đưa bản án, quyết định ra thi hành. Việc quy định
cụ thể về thời hiệu thi hành án, thời hạn tự nguyện thi hành án, căn cứ tạm hoãn,
tạm đình chỉ và đình chỉ thi hành án, trả lại đơn yêu cầu thi hành án… tạo cơ sở
pháp lí cho Chấp hành viên, cơ quan thi hành án tổ chức việc thi hành án kịp thời,
đúng đắn tránh những sai sót, tùy tiện trong quá thực hiện nhiệm vụ. Việc tuân thủ
pháp luật, thi hành đúng đắn và kịp thời các bản án, quyết định của Tòa án tạo điều
kiện thuận lợi bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người được thi hành án, chống
phiền hà, gây khó khăn trong quá trình thi hành án, góp phần tạo nên niềm tin cho
người dân vào pháp luật, vào hiệu lực hoạt động của bộ máy Nhà nước.
CHƯƠNG II : THỰC TRẠNG VIỆC TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG THI HÀNH
ÁN DÂN SỰ TẠI CƠ QUAN THI HÀNH ÁN DÂN SỰ HUYỆN SƠN
DƯƠNG.
Sau bước đầu thu thập các thông tin cần thiết phục vụ cho việc nghiên cứu của
Chuyên đề Tôi đã tiến hành tìm hiểu hoạt động thi hành án của cơ quan thi hành án


dân sự huyện Sơn Dương và đã thu thập được một số thông tin về hoạt động thi
hành án của cơ quan . Đó là:
1.

Tổ chức cơ cấu hoạt động của cơ quan thi hành án dân sự huyện Sơn Dương.
Tổ chức hoạt động của cơ quan thi hành án dân sự huyện Sơn Dương bao gồm

11 thành viên trong đó có 5 Chấp hành viên 4 Cán bộ giúp việc 1 kế toán 1 văn thư

lưu trữ. 5 Chấp hành viên của cơ quan bao gồm:
- Chấp hành viên Hoàng Quang Hà ( Trưởng cơ quan thi hành án);
- Chấp hành viên Trần Quang Hưng( Phó Trưởng cơ quan thi hành án
);
- Chấp hành viên Ma Đình Thành;
- Chấp hành viên Nguyễn Thành Thụy;
- Chấp hành viên Hoàng Thị Hoa.
5 Chấp hành viên trong cơ quan là những người đáp ứng đủ những yêu cầu và tiêu
chuẩu theo quy định của pháp luật hiện hành : Trung thành với Tổ quốc Việt Nam,
có phẩm chất đạo đức và sức khỏe phục vụ cho công tác, có trình độ chuyên môn là
Cử nhân Luật và đã qua đào tạo về nghiệp vụ Chấp hành viên. Trong đời sống sinh
hoạt hàng ngày cũng như trong hoạt động chuyên môn nghiệp vụ luôn nêu cao tấm
gương đạo đức, tận tụy với công việc, thân thiện với đồng nghiệp và mọi người,
hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao . Các Chấp hành viên của cơ quan luôn là
những Đảng viên gương mẫu trong việc tuân thủ chủ trương chính sách của Đảng,
pháp luật của Nhà nước và vận động mọi người trong cơ quan và nhân dân trong
địa bàn mình sinh sống nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật, xây dựng đời sống văn
hóa.
Hoạt động nghiệp vụ của các Chấp hành viên được tiến hành theo quy định
của pháp luật và hướng dẫn của cơ quan quản lí cấp trên. Do đặc thù về địa bàn tiến
hành chức năng nhiệm vụ và yêu cầu của công tác mỗi Chấp hành viên được phân
công phụ trách thực hiện công tác thi hành án trên một địa bàn nhất định trên cơ sỏ


tính toán phù hợp với các nhiệm vụ khác và số lượng bản án, quyết định phải thi
hành cho mỗi Chấp hành viên. Trung bình mỗi năm một Chấp hành viên được phân
công phụ trách giải quyết khoảng 300 bản án hoặc quyết định phải thi hành.
2. Về đặc điểm của hoạt động thi hành án của cơ qua thi hành án dân sự huyện
Sơn Dương.
Là những nét đặc thù phân biệt với các hoạt động khác có tính chất pháp lí khác

cùng diễn ra trên địa bàn huyện Sơn Dương đó là:


Quan hệ pháp luật thi hành án tại cơ quan thi hành án dân sự huyện Sơn

Dương được hình thành trên cơ sở bản án, quyết định của Tòa án về giải quyết
tranh chấp dân sự được đưa ra thi hành và được tiến hành theo một trình tự do pháp
luật quy định . Đặc điểm trên đã phản ánh đúng quy định tại Điều 18 Pháp lệnh thi
hành án dân sự năm 2004 : “ Khi bản án, quyết định được thi hành theo quy định
tại Điều 2 Pháp lệnh này thì Tòa án đã tuyên bản án, quyết định đó phải cấp cho
người được thi hành án và người phải thi hành án bản án, quyết định có ghi “để thi
hành”.”. Pháp luật còn quy định thời hạn phải đưa ra thi hành đối với các bản án,
quyết định của Tòa án xác định rõ phạm vi nội dung và quyền hạn trách nhiệm
trong quan hệ pháp luật thi hành án dân sự. Chấp hành viên và cơ quan thi hành án
dân sự huyện Sơn Dương thực hiện chức năng nhiệm vụ của mình trên cơ sở các
bản án, quyết định được Tòa án nhân dân chuyển sang để thi hành.


Trong quan hệ pháp luật thi hành án dân sự trên địa bàn huyện Sơn Dương,

Chấp hành viên cơ quan thi hành án dân sự huyện Sơn Dương, người được thi hành
án, người phải thi hành án là chủ thể chính, trong đó Chấp hành viên là chủ thể
trung tâm.
Tham gia vào quan hệ pháp luật thi hành án dân sự có rất nhiều chủ thể.
Trong các chủ thể này thì Chấp hành viên là chủ thể trung tâm, bắt buộc và tham
gia vào toàn bộ quá trình thi hành một bản án, quyết định của Tòa án các chủ thể
khác chỉ tham gia vào hoạt động thi hành án ở từng thời điểm, từng lĩnh vực mà


không nhất thiết phải tham gia vào toàn bộ quá trình và chỉ những chủ thể do pháp

luật quy định mới được tham gia vào quá trình thi hành án. Trong hoạt động thi
hành án dân sự, Chấp hành viên là người duy nhất chỉ đạo toàn bộ tiến trình thi
hành một bản án, quyết định của Tòa án . Là người được Nhà nước giao cho nhiệm
vụ thi hành án, Chấp hành viên thực thi nhiệm vụ của mình một cách độc lập, chỉ
tuân theo pháp luật và chịu trách nhiệm trước pháp luật. Thiếu hoạt động của Chấp
hành viên thì không thể có hoạt động thi hành án dân sự. Hoạt động thi hành án của
Chấp hành viên nhân danh cơ quan Nhà nước, thể hiện quyền lực Nhà nước, thực
hiện trên thực tế sự công bằng xã hội mà Tòa án đã tuyên.


Hoạt động thi hành án dân sự tại cơ quan thi hành án dân sự huyện Sơn

Dương là hoạt động mang tính chất hành chính – tư pháp. Tính chất hành chính
trong tổ chức và hoạt động của cơ quan thi hành án dân sự huyện Sơn Dương thể
hiện ở việc cơ quan thi hành án dân sự vừa thuộc quyền quản lí của Phòng tư pháp
huyện Sơn Dương( theo chiều ngang) vừa chịu sự quản lí về chuyên môn, nghiệp
vụ của các cơ quan thi hành án cấp trên(theo chiều ngang). Tính chất tư pháp của
hoạt động thi hành án thể hiện ở việc hoạt động thi hành án là một giai đoạn tố tụng
độc lập. Hoạt động này được thông qua hoạt động của các cơ quan nhân danh
quyền lực Nhà nước thực hiện các công việc do pháp luật quy định nhằm đảm bảo
công bằng và trật tự xã hội.


Hoạt động thi hành án tại cơ quan thi hành án dân sự huyện Sơn Dương được

tiến hành trên địa bàn huyện Sơn Dương để thi hành các bản án, quyết định của Tòa
án theo quy định của pháp luật. Với chức năng nhiệm vụ theo quy định của pháp
luật hoạt động thi hành án tại cơ quan thi hành án dân sự huyện Sơn Dương thi
hành các phán quyết về dân sự, kinh tế, lao động và các phán quyết khác về phần
dân sự trong các bản án hình sự có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân huyện

Sơn Dương, Tòa án nhân dân tỉnh Tuyên Quang và các Tòa án các tỉnh khác trong
cả nước ủy thác thi hành.


3. Những biện pháp được sử dụng tại cơ quan thi hành án dân sự huyện Sơn
Dương để thi hành án.
Biện pháp được hiểu là những cách thức được thực hiện để tiến hành một công
việc nhất định. Thi hành án là một hoạt động tư pháp nó ảnh hưởng trực tiếp tới
quyền lợi của các đương sự có liên quan vì vậy nó phải được tiến hành theo những
cách thức chặt chẽ do pháp luật quy định. Để tổ chức công tác thi hành án cơ quan
thi hành án dân sự huyện Sơn Dương và Chấp hành viên thường sử dụng hai biện
pháp là biện pháp giáo dục, thuyết phục và biện pháp cưỡng chế để tổ chức thi
hành án.
 Biện pháp giáo dục, thuyết phục.
Đây là biện pháp được các Chấp hành viên và cơ quan thi hành án sử dụng
nhiều nhất để tổ chức thực hiện thi hành án. Biện pháp này thể hiện tính đặc thù
của thi hành án dân sự so với hoạt động thi hành án hính sự. Giáo dục, thuyết phục
các đương sự tự nguyện thi hành án thể hiện quan điểm pháp luật của Nhà nước ta
trong việc tạo điều kiện, cơ hội cho người phải thi hành án được chủ động thực hiện
các nghĩa vụ theo phán quyết của Tòa án và được phép tự thỏa thuận với người
được thi hành án về thời gian và cách thức thực hiện các nghĩa vụ đó.
Sau khi bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật và được chuyển
sang cơ quan thi hành án để tổ chức thi hành trong một thời hạn nhất định do pháp
luật quy định Thủ trưởng cơ quan thi hành án căn cứ vào đơn yêu cầu thi hành án
của người được thi hành án (đối với bản án, quyết định phải có đơn yêu cầu thi
hành án) hoặc đến thời hạn do pháp luật quy định(đối với bản án, quyết định được
quy định tại Điều 22 của Pháp lệnh) ra quyết định thi hành án. Chấp hành viên
được giao phân công giải quyết vụ việc đó sẽ cấp giấy triệu tập các đương sự đến
cơ quan thi hành án để giải thích quyền lợi và nghĩa vụ của họ. Chấp hành viên có
thể trực tiếp đến tận gia đình của người phải thi hành án tiến hành xác minh điều

kiện thi hành án và động viên thuyết phục người phải thi hành án tự nguyện thực


hiện các nghĩa vụ theo phán quyết của Tòa án. Đây là biện pháp được ưu tiên sử
dụng để tổ chức công tác thi hành án. Biện pháp này chiếm tới hơn 90% trong tổng
số giải quyết các vụ án. Sau khi được giáo dục, thuyết phục mà người phải thi hành
án nếu có điều kiện thi hành án mà vẫn cố tình không thi hành thì cơ quan thi hành
án sẽ phải tiến hành biện pháp cưỡng chế để thi hành án.
 Biện pháp cưỡng chế.
Cưỡng chế thi hành án dân sự là biện pháp cưỡng bức bắt buộc của cơ quan thi
hành án, chủ thể thực hiện quyền lực Nhà nước, do Chấp hành viên thực hiện theo
quy định tại Pháp lệnh thi hành án dân sự buộc đương sự phải thực hiện những
hành vi hoặc về tài sản theo quyết định của Tòa án.
Cưỡng chế thi hành án dân sự được áp dụng trong trường hợp người phải thi
hành án hết thời gian tự nguyên, có điều kiện nhưng không tự nguyện thi hành án
hoặc cần ngăn chặn người phải thi hành án tẩu tan, hủy hoại tài sản được quy định
tại Điều 7 Pháp lệnh thi hành án. Khi tiến hành cưỡng chế thi hành án Chấp hành
viên, cơ quan thi hành án dân sự huyện Sơn Dương luôn tuân thủ nghiêm ngặt các
quy định của pháp luật. Tuy nhiên, việc cưỡng chế thường gây ảnh hưởng về an
ninh, trật tự xã hội nên biện pháp này chỉ được thực hiện khi có yêu cầu bức thiết
số vụ việc phải giải quyết thông qua biện pháp này là không nhiều trung bình mỗi
năm cơ quan tổ chức khoảng 20-30 vụ cưỡng chế để thi hành án.
4.Một số sai sót, vướng mắc trong công tác thi hành án tại đơn vị.
* Một là, tình trạng án có điều kiện thi hành nhưng chậm thi hành vẫn còn nhiều.
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên trong đó có nguyên nhân chủ quan
thuộc về ý thức trách nhiệm của bản thân cơ quan thi hành án, Chấp hành viên chưa
tích cực tổ chức thi hành án, như chậm ra quyết định thi hành án, thi hành án chưa
kịp thời xác minh điều kiện thi hành án, tâm lý nể nang ngại va chạm không kiên
quyết áp dụng biện pháp cưỡng chế đối với người phải thi hành án có điều kiện thi
hành án nhưng không tự nguyện thi hành án(Theo bảng thống kê 3 năm trở lại đây).



Ví dụ: Có nhiều bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp
luật từ các năm 1990 hoặc 1992 nhưng vì nhiều lí do vẫn chưa
được thi hành xong vv…
stt

Năm

Số việc

Số việc

Tỷ lệ giải

Tỷ lệ thi

phải giải

thi hành

quyết

hành

quyết

xong ở

xong/tổng xong


xong ở

thời điểm

số phải

/tổng số

thời điểm

báo cáo

thi hành

có điều

báo cáo
1
2
3


kiện thi

hành
2006
252 việc 221 việc 26%
43.22%
2007

721 việc 3158 việc 60%
42%
2008
613 việc 495 việc 61.23%
75%
Hai là, trong quá trình thi hành án Chấp hành viên thiếu thận trọng , khách

quan dẫn đến sai phạm nghiêm trọng các quy định của pháp luật.


Ba là, Chấp hành viên chưa thực hiện đúng các quy định của pháp luật về trả

lại đơn yêu cầu thi hành án. Theo quy định tại điều 29 Pháp lệnh thi hành án dân sự
năm 2004 thì “ Thủ trưởng cơ quan thi hành án có thẩm quyền ra quyết định thi
hành án có quyền trả lại đơn yêu cầu thi hành án và bản án, quyết định cho người
được thi hành án trong trường hợp có quyết định đình chỉ thi hành án hoặc có căn
cứ xác định người phải thi hành án không có tài sản để thi hành án. Khi người phải
thi hành án có điều kiện thi hành án có điều kiện thi hành án thì người được thi
hành án có quyền yêu cầu thi hành bản án, quyết định đó trong thời hạn quy định
tại Khoản 1 Điều 23 của Pháp lệnh này kể từ ngày có điều kiện thi hành”.Qua khảo
sát nghiên cứu cho thấy hiện nay có tình trạng Chấp hành viên chưa thực hiện hết
trách nhiệm của mình trong việc xác minh điều kiện thi hành án của người phải thi
hành án nên dẫn đến một lượng lớn án không có hoặc chưa có điều kiện thi hành
nhưng cơ quan thi hành án chưa trả đơn yêu cầu theo quy định của pháp luật.Đây


chính là nguyên nhân khá cơ bản dẫn đến tình trạng án dân sự tồn đọng hiện nay tại
các cơ quan thi hành án dân sự.



Bốn là, vẫn còn tình trạng một số Chấp hành viên chưa nhận thức rõ vai trò,

vị trí của Chấp hành viên trong quá trình thi hành án. Ví dụ, có trường hợp Chấp
hành viên Ma Đình Thành giao cho cán bộ giúp việc Đào Ngọc Tiến tiến hành xác
minh điều kiện thi hành án nhưng thiếu kiểm tra đôn đốc, nhắc nhở cán bộ giúp
việc dẫn đến tình trạng người phải thi hành án tẩu tán tài sản ,không thi hành án,
gây thiệt hại cho người được thi hành án.
5. Vấn đề án tồn đọng và nguyên nhân của án tồn đọng tại cơ quan thi hành án dân
sự huyện Sơn Dương.
Theo quy định của pháp luật khi bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực
pháp luật đưa ra thi hành, các cơ quan tổ chức và cá nhân có nhiệm vụ thực hiện
các phán quyết đó một cách đúng đắn, nghiêm chỉnh và kịp thời. Nhưng vì nhiều lí
do khác nhau mà trên thực tế số bản án, quyết định chưa được giải quyết trong thời
hạn luật định gây khó khăn, phiền hà cho người được thi hành án và sự tin tưởng
của người dân vaò năng lực, trách nhiệm của Chấp hành viên, cơ quan thi hành án
dân sự. Theo số liệu thống kê 3 năm trở lại đây của cơ quan thi hành án dân sự
huyện Sơn Dương số án tồn đọng đã giảm nhưng vẫn chiếm tỷ lệ cao:

stt

Năm

Tổng số việc phải thi hành Số lượng án chưa Tỷ lệ
của năm báo cáo

được giải quyết đơn vị
vào thời điểm báo (%)

1
2

3

2006
2007
2008

972 việc
1203 việc
1001 việc

cáo
720 việc
573 việc
407 việc

74%
47.6%
40.6%


Có hai loại án tồn đọng là án tồn đọng không có điều kiện thi hành và án tồn đọng
có điều kiện thi hành. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên trong đó có
các nguyên nhân cơ bản sau:
Một là, người phải thi hành án không có tài sản để thi hành án hoặc là tài sản
của họ không đủ để thi hành những nghĩa vụ có giá trị lớn về tài sản gây nên khó
khăn trong việc tổ chức thực hiện cưỡng chế. Ngoài ra, trong nhiều trường hợp
khối tài sản của người phải thi hành án không thể tách rời trong khối tài sản chung
hoặc khối tài sản cưỡng chế là tài sản duy nhất nuôi sống bản thân họ và gia đình.
Hai là, người phải thi hành án đang chấp hành hình phạt tù giam, bản thân
họ không có tài sản riêng nên không có điều kiện để thi hành.

Ba là, người phải thi hành án không có địa chỉ rõ ràng.
Bốn là, người phải thi hành án là cơ quan, tổ chức không có điều kiện thi
hành án hoặc là đã bị giải thể, không có tài sản để thi hành.
Năm là, các nguyên nhân khác ( Án tuyên không rõ; có yêu cầu hoãn, kháng
nghị của cơ quan có thẩm quyền, v v…).
Ngoài những lí do trên, việc tồn đọng một số lượng lớn các bản án, quyết
định của Tòa án không có điều kiện thi hành và bản án, quyết định có điều kiện thi
hành nhưng chưa được thi hành còn do một số nguyên nhân khách quan sau đây:
-Thi hành án là giai đoạn gay go, phức tạp nhất của quá trình giải quyết vụ án.
Trong giai đoạn này có nhiều đương sự có biểu hiện lẩn tránh, chống đối quyết liệt.
Nhiều vụ án phải thi hành kéo dài nhiều năm như các quyết định về cấp dưỡng nuôi
con trong các vụ án hôn nhân và gia đình hay các quyết định về tài sản trong các vụ
án hình sự mà người phải thi hành án bị phạt tù, không có tài sản riêng để thi hành;
- Khối lượng công việc quá lớn và nội dung công việc phức tạp nhưng số lượng cán
bộ trực tiếp được giao nhiệm vụ thi hành án còn thiếu, chất lượng chưa tương xứng
với vị trí công việc được giao. Bên cạnh đó, cơ sở vật chất, phương tiện hoạt động


còn đang thiếu thốn. Chính những điều này đã làm ảnh hưởng đến kết quả hoạt
động của công tác thi hành án.
CHƯƠNG III: MỘT SỐ NHẬN XÉT VÀ KIẾN NGHỊ RÚT RA TỪ THỰC
TIỄN KHẢO HOẠT ĐỘNG THI HÀNH ÁN TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN
NAY.
Thi hành án dân sự là một trong những vấn đề quan trọng của Nhà nước ta
trong giai đoạn hiện nay . Việc nghiên cứu những cơ sở lí luận, thực tiễn nhằm đổi
mới tổ chức nâng cao hiệu quả thi hành án dân sự đang được các nhà lí luận và các
chuyên gia hoạt động thực tiễn quan tâm. Thực tiễn của đời sống xã hội đòi hỏi vấn
đề thi hành án phải luôn được hoàn thiện, phát triển đáp ứng với yêu cầu của nhiệm
vụ xây dựng và bảo vệ đất nước đặt ra. Với khả năng nghiên cứu còn hạn chế, trên
cơ sở những vấn đề đã được tìm hiểu để thực hiện yêu cầu nghiên cứu của Chuyên

đề Tôi xin rút ra một số nhận xét sau đây:
1. Thi hành án dân sự là một nội dung quan trọng, một bộ phận cấu thành của
tổ chức và hoạt động tư pháp. Thông qua hoạt động thi hành án, những phán quyết
của Tòa án nhân danh quyền lực Nhà nước được thực thi, quyền và lợi ích hợp
pháp của công dân, tổ chức được bảo vệ, công lí xã hội trở thành hiện thực. Đảm
bảo hiệu lực của các bản án, quyết định của Tòa án là yêu cầu tất yếu khách quan
trong hoạt động của Nhà nước. Là giai đoạn độc lập, cuối cùng của quá trình giải
quyết vụ án, thi hành án tác động sâu sắc đến toàn bộ hoạt động của cơ quan tư
pháp. Mọi cố gắng của các cơ quan điều tra, truy tố, xét xử để đưa ra được những
phán quyết đều trở nên vô nghĩa nếu phán quyết đó không trở thành hiện thực. Thi
hành án không chỉ đơn thuần là thực thi các bản án, quyết định của Tòa án mà còn
góp phần nâng cao hiệu quả của hoạt động xét xử, bảo vệ trật tự kỉ cương xã hội,
tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa.
2.

Thi hành án dân sự Việt Nam là hoạt động Nhà nước,thể hiện bản chất dân

chủ của chế độ ta. Hơn 50 năm xây dựng và trưởng thành, công tác thi hành án đã


từng bước được củng cố và hoàn thiện. Các cơ quan thi hành án dân sự nói riêng,
các cơ quan tư pháp nói chung là công cụ đắc lực bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của nhân dân lao động.
Tự thỏa thuận, định đoạt để giải quyết các xung đột phát sinh trong giao lưu
dân sự, kinh tế cũng như giải quyết các tranh chấp là một nguyên tắc quan trọng.
Tuy vậy, hoạt động thi hành án dân sự nước ta là hoạt động Nhà nước, mang tính
quyền lực. Trong hoạt động này Nhà nước không chỉ tôn trọng quyền tự định đoạt
của đương sự mà còn chủ động tổ chức thi hành án. Một mặt khuyến khích việc tự
nguyện thi hành án, tự nguyện hòa giải giữa các bên có liên quan mặt khác không
thừa nhận sự tồn tại của “dịch vụ thi hành án” với mục đích đòi nợ thuê làm tổn hại

đến lợi ích của nhân dân lao động, coi thường kỷ cương phép nước. Bản chất dân
chủ bao trùm toàn bộ tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự ở Việt Nam.
3.

Đổi mới tổ chức tổ và hoạt động thi hành án dân sự là một yêu cầu cấp thiết

của cải cách tư pháp, xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam. Trong những năm
qua công tác thi hành án đã có một bước phát triển quan trọng cả về tổ chức bộ máy
cũng như về chất lượng hoạt động góp phần quan trọng vào quá trình bảo vệ
quyền lợi ích của công dân và tập thể lập lại trật tự, kỷ cương xã hội, tăng cường
pháp chế xã hội chủ nghĩa, lấy lại lòng tin vào pháp luật của nhân dân lao động.
Tuy nhiên, trước yêu cầu của sự nghiệp đổi mới đất nước, công tác thi hành
án dân sự bộc lộ những hạn chế và bất cập trong tổ chức và hoạt động. Việc tiếp tục
đổi mới công tác thi hành án dân sự tác động đến nhiều bộ phận khác của hệ thống
tư pháp,trước hết là hoạt động xét xử. Họat động thi hành án dân sự trực tiếp tác
góp phần nâng cao hiệu quả xét xử của cơ quan Tòa án, hoạt động trung tâm của hệ
thống tư pháp. Dưới ánh sáng của Nghị Quyết Đại hội VIII của Đảng, việc đổi mới
công tác thi hành án nói chung và thi hành án dân sự nói riêng là một yêu cầu
khách quan, là một nội dung quan trọng của cải cách tư pháp, xây dựng Nhà nước
pháp quyền Việt Nam.


4. Gấp rút hoàn thiện pháp luật thi hành án nói chung, trong đó có thi hành án
dân sự nhằm tạo cơ sở pháp lí cho việc đổi mới tổ chức và hoạt động thi hành án.
Tránh tình trạng pháp luật thi hành án còn tản mạn, chồng chéo, kém hiệu lực ;
phần lớn các văn bản quy phạm pháp luật dưới dạng đơn hành. Việc ra đời của
nhiều văn bản pháp luật có tính chất tình thế, đơn lẻ. Thậm chí ngay cả Pháp lệnh
thi hành án dân sự năm 1993 và Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 2004 ra đời
trước hết nhằm phục vụ cho việc chuyển giao công tác thi hành án dân sự từ Tòa án
sang các cơ quan của Chính phủ theo Nghị quyết của Quốc hội khóa IX kì họp thứ

nhất ngày 16/10/1992 ; chính vì vậy còn nhiều vấn đề trong tổ chức và hoạt động
thi hành án chưa được quy định hoặc quy định chưa đầy đủ. Mặt khác, việc quản lí
tổ chức thi hành án thuộc các lĩnh vực khác nhau lại do các văn bản pháp luật khác
nhau điều chỉnh, không đồng bộ dẫn đến việc không thống nhất trong việc phối hợp
hoạt động giữa các cơ quan quản lí và tổ chức thi hành án, không phát huy được
hiệu quả của công tác thi hành án.
Xuất phát từ tình hình trên, Luật thi hành án dân sự năm 2008 có hiệu lực thi
hành từ ngày 01/07/2009 là một bước đi hết sức quan trọng, trên cơ sở hệ thống
hóa, pháp điển hóa và mở rộng phạm vi đối tượng điều chỉnh là cần thiết đáp ứng
yêu cầu đổi mới toàn diện công tác thi hành án. Việc ban hành Luật thi hành án dân
sự sẽ tạo ra sự đồng bộ thống nhất trong hệ thống pháp luật, là cơ sở pháp lí cho
việc cải cách tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp.
Từ những nhận xét trên Tôi xin đưa ra một số kiến nghị nhằm kiện
toàn tổ chức và hoạt động công tác thi hành án dân sự trong thời gian tới:
Thứ nhất, khẩn trương kiện toàn tổ chức bộ máy, tăng cường cơ sở vật chất
của các cơ quan thi hành án dân sự. Hiện nay, hệ thống các cơ quan quản lí công
tác thi hành án dân sự, cơ quan thi hành án dân sự từ trung ương đến địa phương đã
được thành lập. Nhiều nơi, hoạt động thi hành án dân sự đã đi vào nề nếp, hiệu quả
hoạt động ngày càng được nâng cao. Tuy vậy, hoạt động của nhiều cơ quan thi hành


×