Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

Tư tưởng triết học cơ bản của Phật giáo

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (128.61 KB, 15 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Trong thời đại văn minh xã hội hiện nay, khi tiện nghi vật chất của con người ngày
càng tiến bộ thì khoảng cách giữa người và người ngày càng xa cách. Vì thế, nhiều người đã
tìm đến Phật giáo như một nơi để gửi gắm tinh thần, nương tựa. Phật giáo được truyền bá vào
nước ta khoảng thế kỷ II sau Công nguyên và đã trở thành một tôn giáo có ảnh hưởng sâu sắc
đến đời sống tinh thần của người Việt, bên cạnh đạo Nho và đạo Thiên Chúa. Ngay từ khi được
truyền vào, đạo Phật đã nhanh chóng thích nghi với lối sống của người dân Việt Nam và trong
quá trình hình thành phát triển đất nước, đạo Phật đã không gặp một trở ngại nào trong việc
hòa nhập vào mọi giai tầng của xã hội. Tư tưởng, đạo lý của Phật giáo cũng đã ăn sâu vào nếp
sống, nếp nghĩ của người dân Việt và dần trở thành giá trị tinh thần vô giá cho người dân.
Thông qua việc nhận thức được tầm quan trọng của Phật giáo trong sự phát triển của xã
hội, trong bài tập của mình, em xin chọn đề bài số 07: “Tư tưởng triết học cơ bản của Phật
giáo”.
NỘI DUNG
I. SỰ RA ĐỜI CỦA PHẬT GIÁO
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni là người sáng lập ra đạo Phật, một trong những tôn giáo có tầm
ảnh hưởng lớn nhất trên thế giới trong lịch sử cũng như hiện nay.
1. Thân thế và sự nghiệp của Đức Phật Thích Ca
Đức Thích Ca Mâu Ni được sinh ra trong một gia đình chiến binh, quý tộc giàu sang ở
nước Thích Ca (Shakya), có thủ đô là thành Ca Tỳ La Vệ nằm ở biên giới giữa Ấn Độ và
Nepal ngày nay. Ngài sinh ra là thái tử và có tên là Tất Đạt Đa. Phụ thân ngài là Tịnh Phạn.
Mẫu thân của Ngài là Ma Gia. Đức Phật được thụ thai một cách thần kỳ trong giấc mơ, bà Ma
Gia thấy con voi trắng sáu ngà đi vào bên hông bà và lời tiên tri của nhà hiền triết A Tư Đà
(Asita), rằng đứa bé sẽ trở thành một ông vua vĩ đại, hoặc một nhà hiền triết cao quý. Ông sinh
ngày 8 tháng 4 năm 563 TCN, theo truyền thống Phật lịch thì là ngày 15/04 (rằm tháng tư) còn
gọi là ngày Phật Đản.
Năm 16 tuổi, Thái tử lấy vợ là nàng Yasodhara và sống cực kỳ sang trọng trong cung điện.
Nhưng bẩm tính Thái tử đa sầu đa cảm, khi nhận thấy thực trạng thống khổ cảu đời người
chung quanh mình, bèn quyết tâm đi tìm phương cứu khổ cho bản thân và nhân loại. Lúc Thái
tử bỏ nhà ra đi, chính là lúc vợ vừa hạ sinh con trai đầu lòng và duy nhất. Rahula. Bấy giờ Thái
tử vừa mới được 29 tuổi.


Sáu năm rong rã, ông lang thang đây đó ở khắp thung lũng sông Hằng để cầu Thầy học
Đạo và theo đủ mọi cách khổ hạnh cùng tu luyện của hầu hết các môn phái truyền thống mong
tìm giải thoát. Nhưng không thỏa mãn, ông bỏ tất cả các giáo phái truyền thống kia đi, và tự
mình đi tìm chân lý. Năm 35 tuổi, Tất Đạt Đa đã giác ngộ tìm ra chân chân lí “Tứ diệu đế” và
“Thập nhị nhân duyên”, tìm ra con đường giải thoát nỗi khổ cho chúng sinh. Từ đó ông đi
khắp nơi để truyền bá tư tưởng của mình và đã trở thành người sáng lập ra tôn gáo mới là đạo
Phật.
1


Qua hơn 40 năm hoằng pháp và truyền đạt giáo lý Phật giáo khăp Ấn Độ. Ông qua đời ở
tuổi 80 và để lại cho nhân loại những tư tưởng triết học Phật giáo vô cùng quý báu. Với mục
đích nhằm giải phóng con người khỏi mọi khổ đau bằng chính cuộc sống đức độ của con
người, Phật giáo nhanh chóng chiếm được tình cảm và niềm tin của đông đảo quần chúng lao
động. Nó đã trở thành biểu tượng của lòng từ bi bác ái trong đạo đức truyền thống của các dân
tộc Châu Á. Kinh điển của phật giáo rất đồ sộ gồm ba bộ phận gọi là “tam tạng kinh” bao gồm
Tạng kinh, Tạng luật và Tạng luận.
2. Lịch sử ra đời của Phật Giáo
Đức Thích Ca Mâu Ni đã vì một đại nguyện lớn lao, một lòng từ vô lượng mà khước từ
mọi hạnh phúc, quyền uy, tiện nghi vật chất để cầu đạo giài thoát. Và cũng với đại tâm đại
nguyện ấy, sau khi chứng được đạo quả Vô thượng Bồ đề, Ngài đã dâng hiến thời gian cho
công cuộc hằng hóa độ sanh. Đức Thế Tôn đã chu du khắp đất nước Ấn Độ thời xa xưa ấy, từ
cực Bắc dưới chân núi Hymalaya, đến cực Nam bên ven sông Gange (sông Hằng).
Đức Thế Tôn đã dành những tuần lễ đầu tiên để chiêm nghiệm đến giáo pháp thậm thâm vi
diệu mà Ngài đã chứng đắc, và thọ hưởng pháp lạc mà quả phúc mang đến. Pháp Cú kinh, kệ
số 153-154, đã ghi lại một trong những Phật ngôn đầu tiên Ngài đã thốt lên trong thời gian
này:
“Lang thang bao kiếp sống
Ta tìm nhưng không gặp
Người xây nhà này

Khổ thay, phải tái sanh
Ôi! Người làm nhà kia
Nay ta đã thấy ngươi
Ngươi không làm nhà nữa
Đòn tay người bị gẫy
Kèo cột ngươi bị tan
Tâm ta được tịch diệt
Tham ái thảy tiêu phong”
(Bản dịch của Hòa thượng Thích Minh Châu)
Câu kinh như một lời ca khải hoàn, mô tả sự chiến thắng vẻ vang rực rỡ sau cuộc chiến
đấu nội tâm thầm lặng gian nan. Ông thợ tượng trưng cho ái dục, vô minh, phiền não luôn ẩn
sâu kín trong mỗi con người, nay đã bị phát hiện.
– Đức Phật cũng đã để lại cho thế gian một bài học luân lý đẹp đẽ, đó là sự tỏ lòng tri ân
sâu sa đối với cây bồ đề che nắng che mưa cho Ngài trong suốt thời gian tầm đạo. Đức Thế
Tôn đã đứng cách một khoảng xa để chiêm bái đại thọ suốt trong một tuần. Sau này, nơi đây
vua Asoka (A Dục) dựng lên một tháp kỷ niệm gọi là Animisalocana Cetiya, nay vẫn còn.
– Đức Thế Tôn đã suy nghĩ đến giáo lý giải thoát sâu kín, khó thấy, khó chứng, tịch tịnh
cao thượng, siêu lý luận, ly dục, vô ngã mà Ngài đã chứng đắc; còn chúng sanh thì luôn chìm
2


sâu vào ái dục, định kiến, chấp ngã với nhiều thủ trước… Làm thế nào để con người dễ dàng
chấp nhận giáo lý ấy? Và rồi, với trí tuệ của bậc giác ngộ, Đức Thế Tôn đã quan sát thế gian và
thấy rằng: “Có hạng chúng sinh ít nhiễm bụi đời, nhiều nhiễm bụi đời; có hạng độn căn, lợi
căn; có hạng thiện tánh, ác tánh; có hạng dễ giáo hóa, khó giáo hóa… Như trong hồ sen xanh,
hồ sen hồng, hồ sen trắng, sanh ra dưới nước, lớn lên dưới nước, không vươn lên khỏi mặt
nước, được nuôi dưỡng dưới nước; có loại sanh ra dưới nước, lớn lên dưới nước, vươn lên khỏi
mặt nước, không bị nước thấm ướt…” (Trung Bộ I). Và như vậy, với hình ảnh những cành sen
vươn ra khỏi mặt nước, những cành ở lưng chừng, những cành ở sâu trong lòng nước v.v… đã
gợi lên trong Thế Tôn về căn cơ bất đồng của mọi người. Có những căn cơ thấp như cánh sen

ở đáy hồ, có những căn cơ trung bình như những cánh sen ở lưng chừng nước, cũng có những
căn cơ cao có thể tiếp thu trọn vẹn giáo pháp của Ngài như những cành sen đã nhô ra khỏi mặt
nước. Dù sống trong nghiệp quả bất đồng, nmỗi chúng sanh đều có hạt giống giác ngộ, như
hoa sen dù sống trong bùn tanh hôi, vẫn tỏa hương thơm ngát.
Với ba lần thỉnh cầu và phát khởi thiện nguyện hộ trì giáo pháp của Phạm Thiên, Đức Thế
Tôn quyết định gióng lên tiếng trống Pháp và bắt đầu thực hiện sứ mạng của mình. Ngài tuyên
bố với thế gian, với loài người, với cõi trời và với tất cả, con đường đạo cứu khổ và diệt khổ,
con đường dẫn đến cõi bất sanh bất diệt, cõi Niết bàn đã được khai mở: “Cửa bất tử rộng mở,
cho những ai chịu nghe…” (Trung Bộ I). Và bánh xe Pháp bắt đầu chuyển vận.
Từ đây Phật Giáo bắt đầu ra đời và phát triển mạnh mẽ cho đến ngày nay.
– Mặc dù đạo Phật chưa bao giờ phát triển phong trào truyền giáo, tuy nhiên, các giáo huấn
của Đức Phật lại lan xa và rộng trên tiểu lục địa Ấn Độ và từ đó, xuyên suốt cả Châu Á. Khi
đến với mỗi nền văn hóa mới, các phương tiện và phong cách của đạo Phật lại được thay đổi
để phù hợp với tâm lý của người dân địa phương, nhưng không ảnh hưởng đến những điểm
tinh túy về trí tuệ và lòng bi mẫn. Tuy nhiên, đạo Phật chưa bao giờ phát triển một hệ thống
cấp bậc nói chung về quyền lực, với một vị lãnh đạo tối cao. Mỗi quốc gia nơi đạo Phật lan
truyền đến đều phát triển những hình thức riêng của nơi đó, cấu trúc tôn giáo riêng và vị lãnh
đạo tinh thần riêng.
3. Các tông phái Phật giáo
Đạo Phật có một lịch sử phát triển rất thăng trầm trong suốt hơn 2500 năm và nó lan toả từ
Ấn Độ ra khắp nơi. Do đó, việc hình thành các bộ phái khác nhau có phương pháp tu học và
cách giải thích khác nhau về giáo lý cho thích hợp với tình hình của mỗi xã hội mỗi thời điểm
là chuyện tất yếu. Tuy vậy, bản thân giáo lý Phật giáo không hề có sự phân chia tông phái này.
Sự phân chia thành bộ phái rõ nét đã bắt đầu xảy ra vào thời kỳ kết tập kinh điển lần thứ II
(khoảng 100 năm sau khi Thích Ca Mâu Ni mất). Lần phân chia đầu tiên là do sự bất đồng về
yêu cầu thay đổi 10 điều giới luật. Các điều này tuy không phải là những thay đổi lớn lao
nhưng đủ để gây ra sự tách biệt tăng đoàn thành Đại Chúng bộ (Mahàsamghika) mà đa số là
các tì kheo trẻ muốn thay đổi. Số còn lại bảo thủ các giới luật nguyên thuỷ hình thành Thượng
Tọa bộ (Theravada).
3



Các cuộc phân phái về sau trở nên phức tạp và đa dạng hơn. Đại Chúng bộ có trung tâm
hoạt động tại Amgotara, thuộc vùng Trung Ấn. Nguyên có hệ tư tưởng cấp tiến nên đã xảy ra
việc phân hoá trước. Các cuộc phân hoá này tất cả đều tách ra từ Đại Chúng Bộ và hình thành
tổng cộng thành 9 bộ phái trong đó quan trọng về mặt lý luận bao gồm: Đại chúng bộ, Nhất
thuyết bộ, Thuyết xuất thế bộ, Kê dận bộ, Đa văn bộ, Thuyết giả bộ, Chế đa sơn bộ, Tây sơn
trụ bộ và Bắc sơn trụ bộ. Sự thay đổi về điều kiện xã hội và điạ lý và sự phân hoá trong Đại
Chúng bộ có thể là nguyên nhân gây ra sự chia phái của Thượng Tọa bộ thành tổng cộng 11
bộ. Các phái có sự chuyển hoá về lý luận bao gồm: Tuyết sơn bộ, Thuyết nhất thiết hữu bộ,
Độc tử bộ, Pháp thượng bộ, Hiền vị bộ, Chánh lượng bộ, Mật lâm sơn bộ, Hóa địa bộ, Pháp
tạng bộ, Ẩm quang bộ và Kinh lượng bộ.
Các bộ phái chính ngày nay:
- Theravada: Theravada còn gọi là Phật giáo nguyên thuỷ hay Phật giáo Nam tông, tên
quen gọi là Phật giáo Tiểu thừa. Tông phái này hình thành ngay trong thế kỷ đầu tiên sau khi
Thích Ca viên tịch. Chữ Theravada có nghĩa là “lời dạy của bậc trưởng thượng”, do đó nhiều
sách còn gọi nhóm này là Trưởng Lão bộ. Trong kỳ kết tập kinh điển lần thứ III, hội đồng tham
gia kết tập đã công nhận giáo pháp gọi là thuyết trưởng lão. Sau đó, con trai của vua Asoka (A
Dục) là Mahinda đã đem cả ba tạng kinh đến Tích Lan (Sri Lanka ngày nay). Ba tạng kinh đã
được dịch sang tiếng Pali và các tạng kinh này trở thành nguồn kinh sử dụng của Theravada
cho đến ngày nay.
- Mahayana: Mahayana có tên gọi khác là Phật giáo Đại thừa. Từ thế kỷ I TCN các tư
tưởng “đại thừa” đã bắt đầu xuất hiện và thuật ngữ Mahayana, hay “đại thừa”, chỉ thực sự có
khi nó được đề cập trong bộ kinh Diệu Pháp Liên Hoa. Nói chung, ý tưởng Mahayana là có xu
hướng rộng rãi và tự do hơn là các phép tắc ràng buộc của Theravada. Đến thế kỷ III khái niệm
Mahayana mới được xác định rõ ràng qua các trước tác của bồ tát Long Thọ (Nagarjuna) trong
Trung Luận (hay Trung Quán Luận), chứng minh tính không của vạn vật. Các ý này đã được
Long Thọ khai triển dựa trên khái niệm “Vô ngã” và “Duyên sinh” đã có từ trong các kinh điển
Pali.
- Vajrayana: Varayjana còn có tên gọi là Tantra, Mật tông hay Kim cương thừa. Tông phái

này xuất hiện vào khoảng thế kỷ VI. Phái này chia sẻ chung nhiều tư tưởng với Đại thừa nhưng
có nhấn mạnh trong việc thực hành. Các truyền giảng được tập trung vào nhiều phương pháp
tu học thực nghiệm mãnh liệt để đẩy nhanh việc thăng tiến và có thể ngay trong cuộc sống hiện
tại sẽ đạt đuợc giác ngộ các thực nghiệm này thường được gọi là phương tiện. Nếu như Đại
thừa có nhiều tính chất thiên về triết lý, tư duy thì Mật tông đi xa hơn về mặt thực nghiệm và
cũng thể hiện sự thích ứng linh hoạt của Phật giáo.
- Tịnh Độ tông: Tịnh Độ Tông (Pure Land) xuất hiện vào giữa thế kỷ IV từ sự truyền bá
của sư Huệ Viễn (Hui-yuan). Tư tưởng về Tịnh Độ thì có sẵn trong Phật giáo Ấn Độ nhưng tới
khi sang Trung Quốc thì nó phát triển thành một tông phái. Tịnh Độ tông cũng đuợc xem là
một nhánh của Đại thừa song tông này không có sự truyền thừa như các tông phái khác mà chỉ
4


do sự đóng góp công sức để phát huy giáo lý Tịnh Độ. Nguyên lý của tông phái dựa vào
nguyện lực (tha lực) của Phật A Di Đà và sự nhất tâm niệm danh hiệu Phật
- Thiền tông: Thiền tông (Dhyana) còn có các tên khác là ZEN, ch’an, tên cũ là Thiền na.
Thiền là một phương tiện căn bản đã được đạo Phật sử dụng ngay từ khởi thủy. Nhưng cho đến
khi thiền sư sơ tổ của môn phái thiền Trung Hoa là Bồ Đề Đạt Ma (Bodhidharma) du hành
sang Trung Quốc (năm 520) và truyền lại thì Thiền tông bắt đầu trở thành một tông phái riêng
biệt. Đến đời thứ 6, sư Huệ Năng (Hui-neng) đã đưa Thiền tông phát triển và nó đã thịnh hành
hơn tất cả các tông phái Phật giáo khác ở Trung Quốc. Huệ Năng cũng là người đã hủy bỏ
thông tục truyền thừa, nghĩa là không có sư tổ đời thứ 7 của Thiền Tông, thay vào đó là hàng
loạt các thiền sư có khả năng mở thành các phái thiền khác dựa theo sự phân biệt về cung cách
luyện tập và cách để đưa thiền giả đến chỗ chứng ngộ chân lý.
Khi tiếp cận với cách thức giải thích giáo lý Phật giáo của các bộ phái, nhiều nhà phân tích
phân chia Phật giáo thành 4 trường phái triết học chính là:
Nhất Thiết Hữu bộ: Trường phái này ra đời khoảng thế kỷ III TCN và đã phát triển ở Tây
Bắc Ấn trong thời kỳ kết tập kinh điển lần thứ IV. Sau đó trở nên vững mạnh trong cả vùng
Bắc và Tây Bắc xứ Ấn trong khoảng một ngàn năm sau. Nó mở ra tới Kashmir, Trung Á và
cả Trung Hoa. Abhidharmakośa (Đại Tỳ Bà Sa luận) của đạo sư Thế Thân là tác phẩm quan

trọng nhất của phái này. Trường phái này nhấn mạnh lời dạy của Phật rằng “bản chất đạo đức
của các hành vi sẽ quyết định những kinh nghiệm tương lai của người làm các hành vi ấy”
(theo Andrew Skilton). Phái này cho rằng các yếu tố không thể giản lược của hiện hữu
(dharmas) cũng thể hiện trong quá khứ và tương lai. Do đó, những dharmas đã tạo nên hành vi
trong quá khứ có thể tạo được ảnh hưởng ở một thời điểm sau đó. Sarvāstivādin căn cứ trên
tiền đề duyên khởi (Pratityasamutpàda) là: bởi có cái này nên có cái kia để giải thích về các
nhận thức tri thức. Vì phải có đối tượng (cảm nhận hay nhận thức) mới có tri thức nên nếu thừa
nhận hoạt động của tri thức thì cần chấp nhận sự tồn tại của đối tượng. Học thuyết này còn
tách biệt Phật bảo với Pháp bảo và cho rằng Phật bảo là tập họp của những dharmas làm nên
Phật cũng như các hiểu biết và các cảm-hoạt (hay ngủ uẩn bao gồm sắc, thọ, tưởng, hành, thức
— scandhas) của Phật.
Kinh Lượng bộ: Tông phái này ra đời vào khoảng năm 50 TCN cho đến cuối thế kỷ I. Phái
này bác bỏ quan điểm dharmas của Sarvāstivādin và cho rằng mọi dharmas chỉ hiện hữu tức
thời. Để giải thích các vấn đề về nghiệp (karma), trường phái này đưa ra tư tưởng về các bījas,
hay hạt giống. Hạt giống được trồng bởi những hành vi với đặc tính đạo đức nhất định, sau này
mới đâm chồi, và khi điều kiện cho phép sẽ cho quả phù hợp với hành vi tạo tác. Đối với phái
này thì giáo lý của Tạng kinh thường tồn sẽ tạo thành hạt giống trong tâm thức để khi có dịp sẽ
phát huy tính năng (Tên Kinh Lượng cũng do việc đề cao vai trò của tạng Kinh mà có). Một hệ
quả của lập luận này là ngoài tâm có pháp. Một cách diễn dịch dễ hiểu hơn là chân lý nằm bên
ngoài tâm thức. Họ cũng thừa nhận về lý duyên khởi (vì có cái này nên có cái kia) nhưng cho
rằng tính không được thể hiện trong mọi tình huống của nhận thức.
5


Duy Thức Tông: Phái Duy thức ra đời vào khoảng đầu thế kỷ IV do đạo sư Vô Trước (310390) sáng lập. Trường phái này nhấn mạnh rằng “vạn pháp duy tâm” (nghĩa là mọi vật đều do
tâm). Từ kinh nghiệm thiền định, thuyết này chỉ ra sự sai lầm của nhận thức về các đối tượng
đối với sự hiện hữu thực sự của chúng. Điều mà trường phái muốn nói không phải là mọi sự
đều được làm thành bởi cái tâm, nhưng muốn nói rằng toàn thể kinh nghiệm đều lệ thuộc vào
hay nhờ vào tâm của chúng ta. Mọi sự vật mà chúng ta biết, mọi yếu tố của nhận thức của
chúng ta, cơ bản đều là một thành phần của một quy trình của tâm. Trường phái này cho rằng

tâm thực sự hiện hữu (khác với Trung quán). Như vậy, tâm thì trống rỗng theo nghĩa là tâm
không có phân biệt chủ thể và khách thể.
Trung Quán Tông: Phái này do đạo sư Long Thọ (150–250) sáng lập. Phái Trung quán tập
trung vào chủ đề tính không. Đây là thuộc tính của vạn vật. Vạn vật chỉ do nhân duyên sinh ra,
cho nên những sự vật hiện thấy có là không thực sự tồn tại. Phái này có tên là Trung quán là vì
nó chỉ ra con đường ở giữa chủ nghĩa hằng cửu (mọi vật tồn tại vỉnh viễn) và chủ nghĩa hư vô
(không có gì tồn tại). Chủ thuyết này nhìn nhận sự hiện hữu thông thường của các đối tượng
xuất hiện trong dòng chảy liên tục của các nhân duyên. Không vật gì có thể tồn tại một cách
độc lập với mọi điều kiện bên ngoài (tính hỗ tương tồn tại). Đồng thời, có sự liên hệ phụ thuộc
giữa thành phần và toàn thể trong mỗi sự vật. Thêm vào đó, do tính chất vô thường trên từng
khoảnh khắc, không vật gì có thể hiện hữu tuyệt đối kể cả tâm và và thế giới vật lý bởi vì
chúng thiếu vắng đối tượng thực sự của sự hiện hữu. Như vậy tính không ở đây so với trường
phái Duy Thức, đã được nới rộng áp dụng lên vạn vật.
II. TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC CƠ BẢN CỦA PHẬT GIÁO
1. Quan điểm của Phật giáo về thế giới quan
Quan điểm về thế giới quan của Phật giáo thể hiện tập trung ở nội dung của 3 phạm trù: vô
ngã, vô thường và duyên.
- Vô ngã (không có cái tôi chân thật)
Không cùng quan điểm của kinh Vêđa, đạo Bàlamôn và đa số các môn phái triết học tôn
giáo đương thời thừa nhận sự tồn tại của một thực thể siêu nhiên tối cao, sáng tạo và chi phối
vũ trụ, Phật giáo cho rằng thế giới tồn tại khách quan không phụ thuộc vào thần thánh, không
do thần thánh sáng tạo ra, mặc dù Đạo phật thừa nhận có thần tiên là đẳng cấp cao hơn con
người nhưng thần tiên lại không có vai trò đặc biệt, không sáng tạo thế giới. Theo Phật giáo,
mọi sự vật hiện tượng đều có nguyên nhân của nó nhưng không có gì xác định được nguyên
nhân của mọi nguyên nhân, nghĩa là không thể tìm ra một nguyên nhân đầu tiên (không có một
Đấng tối cao nào sáng tạo ra vũ trụ).
Phật giáo thừa nhận thế giới tồn tại cả vật chất và tinh thần. Thế giới do các yếu tố vật chất
và tinh thần kết hợp với nhau tạo nên. Trong đó, Vật chất gồm “sắc”, là cái có thể cảm nhận
được, nó bao gồm đất, nước, lửa và không khí; Yếu tố tinh thần là “danh”, không có hình chất
mà chỉ có tên gọi. Nó bao gồm: thụ (cảm thụ), tưởng (suy nghĩ), hành (ý muốn để hành động)

và thức (sự nhận thức).
6


Danh và sắc kết hợp lại tạo thành 5 yếu tố gọi là “Ngũ uẩn”. Ngũ uẩn bao gồm sắc (vật
chất), thụ (cảm giác), tưởng (ấn tượng), hành (suy lý) và thức (ý thức), chúng tác động qua lại
với nhau tạo nên vạn vật và con người. Nhưng sự tồn tại của sự vật chỉ là tạm thời, thoáng qua,
không có sự vật riêng biệt nào tồn tại mãi mãi. Do đó, không có “Bản ngã” hay cái tôi chân
thực.
- Vô thường (vận động biến đổi không ngừng)
Vô thường nghĩa là không có gì ổn định, luôn biến đổi. Các sự vật, hiện tượng trong vũ trụ
không đứng yên mà luôn luôn biến đổi không ngừng, sự biến đổi diễn ra trong khoảnh khắc
gọi là niệm vô thường và sự biến đổi diễn ra theo những chu kì nhất định gọi là nhất kì vô
thường, mỗi chu kì có 4 giai đoạn, ở thế giới vật có thể nói chung là “sinh – trụ – dị – diệt”,
nghĩa là sinh ra, tồn tại, biến dạng và mất đi còn ở thế giới sinh vật nói riêng là “sinh – lão bệnh - tử” nghĩa là sinh ra, lớn lên, đau ốm, chết.
Do đó, không có gì trường tồn, bất định, chỉ có sự vận động biến đổi không ngừng.Với
quan niệm này, Đức Phật dạy: “tất cả những gì trong thế gian đó là biến đổi, hư hoại, đều là vô
thường”. Vì vậy mọi sự vật không mãi ở yên trong một trạng thái nhất định, luôn luôn thay đổi
hình dạng, đi từ trạng thái hình thành đến biến dị rồi tan rã. Sinh và diệt là hai quá trình xảy ra
đồng thời trong một sự vât, hiện tượng cũng như trong toàn thể vũ trụ rộng lớn. Đức Phật cũng
dạy rằng không phải là sự vật, hiện tượng sinh ra mới gọi là sinh, mất (hay chết đi) mới gọi là
diệt, mà trong sự sống có sự chết, chết không phải là hết, không phải là hết khổ mà chết là điều
kiện của một sinh thành mới.
- Duyên (điều kiện cho nguyên nhân trở thành kết quả)
Phật giáo trong quá trình giải thích sự biến hóa vô thường của vạn vật, đã xây dựng nên
thuyết nhân duyên. Nhân duyên là tư tưởng, giáo lí cơ thể hiện quan điểm cuả Phật giáo đối
với đời người, với tồn tại và sinh mệnh, là cơ sở triết học của giáo thuyết cụ thể và tuư tưởng
quan trọng của Phật giáo, như nhân quả, không hữu, trung đạo, bình đẳng, từ bi, giải thoát …
Nó là một luận thuyết tương đối hợp lí về sự hình thành diễn biến và về bộ mặt vốn có của thế
giới, là thế giới quan độc đáo của Phật giáo và là đặc trưng cơ bản để phân biệt Đạo phật với

các tôn giáo khác.
Thuyết nhân duyên có ba khái niệm chủ yếu là Nhân, Quả và Duyên. Cái gì phát động ra ở
vật gây ra một hay nhiều kết quả nào đó được gọi là Nhân (nguyên nhân). Cái gì tập hợp lại từ
Nhân được gọi là Quả.
Theo đó Duyên là điều kiện giúp cho nguyên nhân trở thành kết quả. Kết quả ấy lại nhờ có
duyên mà trở thành nhân khác, nhân khác lại nhờ có duyên mà trở thành kết quả mới. Cứ như
vậy mà tạo nên sự biến đổi không ngừng của các sự vật, tuân theo quy luật “Nhân-Quả”, nhân
là cái hạt, quả là cái trái, cái trái do mầm ấy phát sinh. Nhân và quả là hai trạng thái nối tiếp
nhau, nương vào nhau mà có. Nếu không có nhân thì không thể có quả, nếu không có quả thì
không thể có nhân, nhân thế nào thì quả thế ấy.
7


Ở quan điểm này cho thấy một hạn chế của Phật giáo là chỉ thấy sự vận động, tuyệt đối
hóa sự vận động mà không nhìn thấy sự đứng yên tương đối.
Như vậy, thông qua các phạm trù Vô ngã, Vô thường và Duyên, triết học Phật giáo đã bác
bỏ quan điểm duy tâm lúc bấy giờ cho rằng thần Brahman sáng tạo ra con người và thế giới.
Phật giáo cho rằng sự vật và con người được cấu thành từ các yếu tố vật chất và tinh thần. Các
sự vật hiện tượng thế giới nằm trong quá trình liên hệ, vận động, biến đồi không ngừng.
Nguyên nhân của sự vận động , biến đồi nằm trong các sự vật. Đó là quan điểm biện chứng về
thế giới tuy còn mọc mạc chất phát nhưng rất đáng trân trọng. Và đó cũng là quan điểm duy
vật biện chứng về thế giới.
2. Quan điểm của Phật giáo về nhân sinh quan
Nhân sinh quan trong triết học Ấn Độ luôn xuất phát từ quan niệm cho rằng, cuộc đời của
con người là khổ đau. Sự khổ đau ấy được bắt nguồn từ nghiệp chướng của kiếp trước. Con
người càng trải qua nhiều kiếp thì nỗi khổ càng chồng chất, còn gọi là luân hồi. Từ đó triết học
Ấn Độ đề ra nhiệm vụ đi tìm con đường giải thoát con người ra khỏi khổ đau. Sankhya là học
thuyết nhị nguyên luận. Do đó, vấn đề nhân sinh quan của nó cũng liên quan đến bản chất của
học thuyết này. Bất cứ trong một tôn giáo, một triết học nào, phần nhân sinh quan vẫn là quan
trọng.

Phật giáo thừa nhận “Nhân sinh đa khổ”. Dù người sinh trong giai cấp nào, ở địa vị nào, ở
hoàn cảnh nào cũng đều đau khổ. Cái đau khổ căn bản không ai có thể tránh được.
Có một số người cho rằng quan niệm Phật giáo như vậy là thái quá. Ví dụ khi người ta đói
là khổ, nhưng được ăn là vui, khi lạnh là khổ, được mặc ấm là vui. Như vậy đời người vừa có
khổ cũng vừa có vui.
Nghĩ thế là sai lầm. Cái khổ vui đói no, ấm lạnh bên ngoài là những khổ vui mong manh
cạn cợt không đáng kể. Phật giáo nói khổ vui là nhắm vào phần căn bản, là nghĩ đến cuộc đời
đen tối, phủ vây bởi sanh, già, bệnh, chết... Khổ mà Phật giáo nói là cái khổ do sự mâu thuẩn
tạo thành.
Là con người ai cũng mong mình được sống lâu, trẻ mãi, muốn mình mạnh khỏe luôn
đừng đau ốm. Nhưng (thiên nhiên không cho phép, cứ thúc đẩy bắt buộc) chúng ta lại phải
đau, phải già, phải chết. Sự mâu thuẫn này khiến con người khổ đau vô tận. Phật giáo chỉ rõ
những khổ đau của con người. Nhưng Phật giáo vẫn không quên vạch những ưu điểm nơi con
người.
Lúc khoẻ mạnh, làm ăn bình thường, tư tưởng chúng ta cũng bằng phẳng, không có gì tiến
bộ. Những khi gặp biến cố, buộc tâm trí chúng ta phải làm việc, phải suy tư, do đó mới nảy
sinh những ý kiến hay, tư tưởng lạ. Vì thế, lắm khi sự rủi lại hóa thành may. Những thất bại
dạy chúng ta thêm nhiều kinh nghiệm để thành tựu sau này.
Từ bé chỉ thường sống một cuộc đời đầy đủ, được mọi người nuông chiều, con người đó
dù được bao nhiêu tuổi cũng chưa được gọi là trưởng thành. Có vướng phải trở ngại, con người
mới chợt tỉnh dừng lại để quán sát, để tư duy tìm lối thoát. Chính trong lúc ấy tâm mình mới
8


vươn lên khỏi bậc cũ. Chính sự khổ đau ấy đã điêu luyện tâm linh con người cao đẹp hơn, màu
sắc hơn, trầm tỉnh hơn. Con người tiến bộ nhờ khổ nhiều vui ít.
Sợ khổ đau, con người không thể tiến bộ được. Trong kinh điển Phật giáo luôn luôn nhắc
nhở con người phải nhận thức sự khổ đau và xem sự khổ đau là những chất liệu cần yếu để xây
đắp ngôi đền đạo đức. Thiếu khổ đau ngôi đền đạo đức phải tan vỡ. Có hiểu được cuộc đời là
xấu xa, đau khổ con người mới lo tìm cách sửa đổi nếp sống và tâm hồn mình cho tươi đẹp,

trong sạch hơn lên. Do đó, bài thuyết pháp đầu tiên của đức Phật tại Lộc Uyển là pháp Tứdiệu-đế.
Khổ-đế được Ngài nêu lên trước nhất. Khi người ta hiểu được quả đau khổ rồi, mới phăng
lần đến nguyên nhân gây ra đau khổ là Tập-đế. Biết rõ nguyên nhân và kết quả của sự đau khổ,
Phật mới dạy phương pháp trừ diệt những nguyên nhân ấy là Đạo-đế, khi những nguyên nhân
đau khổ đã diệt hết, tâm được thanh tịnh, an lạc giải thoát là Diệt-đế.
Cốt tủy của con người đạo đức, động cơ thúc đẩy sự tu hành hầu hết đều phát nguyện do
nhận thức cuộc đời là đau khổ. Đau khổ có một địa vị trọng yếu trong đời sống con người.
Thiếu nó con người sẽ trở thành hư hỏng, đốn hèn. Người muốn tiến bộ, muốn vươn lên và
giải thoát phải nhìn thẳng vào đau khổ.
Tóm lại, đạo Phật quan niệm con người đau khổ bởi sự mâu thuẫn giữa mình và thiên
nhiên, giữa tình cảm và lý trí. Chúng ta có thể xoay chuyển những mâu thuẩn ấy trở thành
thuận hòa thì tất cả mầm đau khổ đều tan vỡ. Nghĩa là chúng ta phải tận dụng lý trí dẫn tình
cảm, bao giờ lý trí hoàn toàn làm chủ tình cảm là lúc ấy chúng ta sẽ hết khổ đau.
Đức Phật nói khổ đau để chúng ta ý thức được nó, để biết nó ẩn tàng nơi nào, mà tìm
phương pháp diệt trừ nó. Người Phật tử chân chính can đảm chịu đựng mọi sự khổ đau và tin
mình có đủ trí tuệ, có đủ khả năng rứt bỏ ra ngoài sự ràng buộc khốc hại của nó.
Nói đến Phật giáo là nói đến sức mạnh vô biên của tâm minh do con người đầy dũng cảm,
Phật giáo đã dạy con người dám nhìn thẳng sự thật và nói thẳng sự thật. Phật giáo nói kiếp
người là đau khổ, nhưng phải lợi dụng kiếp người này vượt ra ngoài vòng đau khổ. Người Phật
tử biết mang thân này là ô uế, giả tạm, nhưng cần phải mượn thân này làm con thuyền qua bờ
thanh tịnh, an lạc. Người Phật tử không thúc thủ trước những khổ đau, vẫn hiên ngang đập tan
bức thành khổ đau và vượt ra ngoài vòng trần lụy.
Tư tưởng nhân sinh quan trong Triết học Phật giáo Tư tưởng nhân sinh quan trong Triết
học Phật giáo thể hiện qua quan điểm về Tứ diệu đế bao gồm Khổ đế, Nhân đế, Diệt đế và Đạo
đế nhằm “tập trung và thực hành lý giải những vấn đề nhân sinh quan dưới góc độ tâm linh tôn
giáo nhằm đạt tới sự "giải thoát" tức là đạt tới sự đồng nhất tinh thần cá nhân với tinh thần vũ
trụ (Atman và Brahman)”. “Phật giáo đặt vấn đề tìm kiếm mục tiêu nhân sinh ở sự "giải thoát"
khỏi vòng luân hồi, "nghiệp báo" để đạt tới trạng thái tồn tại Niết bàn.
Về nội dung trong Tứ diệu đế có thể khái quát như sau:
1. Khổ đế: Phật giáo cho rằng cuộc đời là bể khổ. Cái khổ của cuộc đời được tóm trong

tám nỗi khổ, còn gọi là “Bát khổ”. Ngoài 4 nỗi khổ: sinh, lão, bệnh, tử còn có:
9


+ Thụ biết ly: yêu thương nhau mà phải xa nhau.
+ Oán tăng hội: ghét nhau mà vẫn phải tụ hội với nhau.
+ Sở cầu bất đắc: muốn mà không được.
+ Ngũ thụ uẩn: khổ vì có sự tồn tại thân xác.
2. Nhân đế (còn gọi Tập đế): Mọi cái khổ đều có nguyên nhân. Ở đây Phật đưa ra 12 nhân
duyên (thập nhị nhân duyên):
2.1. Vô minh: không sáng suốt, không nhận thức được thế giới, sự vật hiện tượng đều là ảo
giả, nhưng lại cứ cho đó là thực.
2.2. Hành: chỉ hoạt động của ý thức, sự dao động của tâm, của khuynh hướng và đã có
manh nha của nghiệp. Nói cách khác, là hoạt động của ý thức do áp lực của nghiệp.
2.3. Thức: Tâm thức từ chỗ trong sáng, cân bằng (minh) trở nên ô nhiễm, mất cân bằng (vô
minh). Cái tâm thức đó tuỳ theo nghiệp mà tìm đến các nhân duyên khác để hiện hình, thành ra
một cuộc đời khác (ý thức ban đầu của bào thai).
2.4. Danh - sắc: Là sự hội họp của các yếu tố vật chất và tinh thần. Đối với loại hữu tình,
sự hội nhập của danh và sắc sinh ra lục căn, tức các cơ quan cảm giác: nhãn, nhĩ, tị, thiệt, thân,
ý. Sự kết hợp đó tạo nên tâm sinh lý sinh vật.
2.5. Lục nhập: là quá trình tiếp xúc của lục căn với các hiện tượng của thế giới khách quan
xung quanh, tức lục trần. Lục căn tiếp xúc với Lục trần (sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp) tạo
thành cảm giác.
2.6. Xúc: là sự tiếp xúc, phối hợp giữa Lục căn, Lục trần và Thức.
2.7. Thụ: là cảm thụ của con người khi tiếp xúc với thế giới bên ngoài, gây ra cảm giác
sướng và khổ (khổ thụ và lạc thụ). Đó là sự trải nghiệm cảm giác.
2.8. Ái: ái là yêu thích, ở đây chỉ sự tham vọng, dục vọng, tức là khát vọng được hưởng
thụ cảm giác.
2.9. Thủ: có “ái” rồi thì có “thủ”, tức là đã yêu thích rồi thì muốn giữ lấy, chiếm lấy. Là sự
bám víu vào sự hưởng thụ.

2.10. Hữu: tiến tới xác định chủ thể chiếm hữu (cái ta) thì phải tồn tại (hữu) tức là đã có
hành động tạo nghiệp. Nói cách khác, là ý nguyện được sinh ra.
2.11. Sinh: Đã có tạo nghiệp (hữu), tức là khhi đã có nghiệp nhân thì ắt có nghiệp quả, tức
là phải sinh ra ta. Tức là sinh và tái sinh.
2.12. Lão - Tử: Đã có sinh tất có già và chết đi. Sinh – Lão – Tử là kết quả cuối cùng của
một quá trình nhưng đồng thời cũng là những nguyên nhân của một vòng luân hồi mới, từ vô
sinh của cuộc đời khác. Từ 1 -> 2 là nhân quá khứ; 3 -> 7 là quả hiện tại; 8 -> 10 là nhân hiện
tại; 11 -> 12 là quả tương lai. Nói một cách khái quát về nguyên nhân gây ra khổ là bởi tam
độc: tham, sân, si.
3. Diệt đế: Phật giáo khẳng định cái khổ có thể tiêu diệt được, có thể chấm dứt được luân
hồi để đến với Niết bàn, hưởng một cuộc sống bình an, hạnh phúc. Muốn diệt khổ phải diệt
tham, sân, si, diệt thập nhị nhân duyên, đưa trạng thái ý thức của con người về tĩnh lặng, hư
10


không. Nghĩa là mọi vật phát sinh đều tuỳ thuộc vào một số nguyên nhân và điều kiện. Khi
nhân bị loại bỏ thhif quả không còn tồn tại. Vì mọi vật có điều kiện và tương đối nên chúng
đều mang tính nhất thời, và đã là nhất thời thì phải bị biến mất. Cái gì đã được sinh ra thì phải
chết. Sự sinh bao hàm cả sự diệt vong. Niết bàn có hai trạng thái hay còn gọi là hai cấp độ giải
thoát: toàn phần và từng phần. Niết bàn từng phần là từng bước loại bỏ tham, sân, si.
4. Đạo đế: Phật giáo chỉ ra con đường giải thoát, diệt khổ, tức là tiêu diệt tham, sân, si.
Con đường tiêu diệt vô minh gồm 8 con đường chính (gọi là Bát chính đạo) gồm:
4.1. Chính kiến: hiểu biết đúng đắn, nhất là Tứ diệu đế. Phải có niềm tin đúng đắn.
4.2. Chính tư duy: suy nghĩ đúng đắn để đạt tới chân lý và giác ngộ, từ đó đi đến quyết
định đúng đắn.
4.3. Chính nghiệp: hành động, làm việc đúng đắn, không làm điều gian ác, giả dối. 4.4.
Chính ngữ: chỉ nói những điều đúng đắn, điều phải, điều tốt; không nói điều xấu, điều ác.
4.5. Chính mệnh: sống đúng đắn, trung thực, nhân nghĩa không tham lam, vụ lợi.
4.6. Chính tinh tiến: nỗ lực, sáng suốt vươn lên một cách đúng đắn.
4.7. Chính niệm: phải luôn tâm niệm và suy nghĩ đến đạo lý chân chính, đến điều tốt,

không được nghĩ đến điều xấu xa, tà đạo.
4.8. Chính định: kiên định tập trung tư tưởng, tam trí vào con đường đạo lý chân chính,
không để bất cứ điều gì làm lay chuyển tâm trí, đạt tới giác ngộ. Tám nguyên tắc này có thể
thâu tóm vào ba điều học tập, rèn luyện là Tam học: Giới - định – tuệ (tức là giữ giới luật, thực
hành thiền định và khai thông trí tuệ). Giới luật gồm ngũ giới: không sát sinh (giới sát); không
trộm cắp; không tham dục; không điêu toa; không uống rượu.Tuệ là kết quả của “giới” và
“định”, tức là người tu hành đạt đến trình độ giác ngộ.
Ngoài ra Phật giáo còn đưa ra 14 điều răn của Đức Phật, mỗi điều răn đều để lại cho đời
những suy tư, những trăn trở, những con đường hướng thiện khác nhau.
1. Kẻ thù lớn nhất của đời người là chính mình. Trong mỗi con người luôn tồn tại những tà
ý xấu xa vốn là kẻ thù tiềm ẩn lớn nhất của đời người mà tự ta khó vượt qua nổi. Có thể khi đối
mặt với bao khó khăn, thử thách, gian nan do khách quan mà nhờ tinh thần, ý chí quyết tâm ta
đều vượt qua nhưng chỉ vì những lúc tâm không vững, yếu đuối thì dù làm việc gì nhỏ cũng
khó mà hoàn thành như mong đợi.
2. Thất bại lớn nhất của đời người là tự đại. Đừng tưởng chỉ mình mình làm được điều đó
và cũng đừng cho mình là trung tâm, là vĩ nhân là người vĩ đại mà hãy nhớ rằng, thời thế tạo ra
anh hùng chứ không có anh hùng nào tạo ra thời thế, thành công chưa có thể nói lên được
nhiều điều về bản thân.
3. Ngu dốt lớn nhất của đời người là dối trá. Lời nói dối đôi khi là tốt trong một vì mục
đích tốt đẹp không phải là sự “dối trá”. Dối trá ở đây có nghĩa như lừa lọc, vụ lợi cho mình, để
mưu cầu điều tốt đẹp cho mình hoặc che giấu đi cái gì xấu xa của mình, nói tóm lại, dối trá là
hành động nói dối có chủ đích vụ lợi cho bản thân mình.
11


4. Bi ai lớn nhất của đời người là ghen tị. Tính ganh ghét và đố kị như một ngọn lứa nhỏ
leo lét trong tâm mỗi người nhưng nó luôn âm ỉ và là một trong những rào cản để con người
hướng đến hạnh phúc hoàn mỹ. Do đó nên trân trọng cái mình đang có để từ đó mà phát triển,
chứ đừng người ta hơn mà thèm muốn, mà đố kị rồi cứ thế sinh ra nhiều hành động xấu xa
thay vì mình hãy biến nó thành động lực để phát triển bản thân.

5. Sai lầm lớn nhất của đời người là đánh mất mình. Trong cuộc sống mỗi người khó mà
tránh khỏi những sai lầm. Có rất nhiều sai lầm nhưng đừng bao giờ đánh mất chính mình.
Nhiều người đã không tự chứng minh được mình mà còn đánh mất luôn cả bản thân vì những
tác động khách quan bất ngờ và chủ quan không may mắn do hoàn cảnh tạo ra.
6. Tội lỗi lớn nhất của đời người là bất hiếu. Với người Á Đông chúng ta thì chữ hiếu
luôn đặt lên hàng đầu với “Thờ cha kính mẹ ấy là chân tu” hay “Cây muốn lặng mà gió chẳng
dừng, con cái muốn hiếu thảo mà cha mẹ không còn nữa”. Do đó phải xem hiếu thảo là trách
nhiệm và hạnh phúc với mỗi người khi mẹ cha còn sống trên cõi đời này.
7. Đáng thương lớn nhất của đời người là tự ti. Tự ti làm con người ta thiếu đi cái tự tin,
cảm thấy mình luôn nhỏ bé, yếu đuối, sẵn sàng buông xuôi tất cả và thật đáng thương và cũng
thật đáng trách.
8. Đáng khâm phục nhất của đời người là vươn lên sau khi vấp ngã. Cái đáng quý, đáng
trân trọng nhất của con người là nghị lực, là ý chí, lòng tin biết vươn lên, biết vượt qua gian
khó, biết chiến thắng “kẻ thù lớn nhất của đời mình. Biết phấn đấu, biết vươn lên, đặc biệt là
sau khi ngã, đó mới là điều đáng khâm phục nhất.
9. Phá sản lớn nhất của đời người là tuyệt vọng. Không được tuyệt vọng mà phải luôn
luôn có hy vọng để sống và sống vì những ước mơ, hoài bão, hy vọng. Khi ta có hy vọng đồng
nghĩa với việc ta đặt trọn mềm tin vào cuộc sống để có động lực sống phấn đấu vươn lên sẽ
mạnh mẽ và đạt ước mơ của mình.
10. Tài sản lớn nhất của đời người là sức khoẻ và trí tuệ. Sức khỏa là vốn quý giá nhất của
con người và có một trí tuệ minh mẫn con ngưới mới có cảm thụ được hạnh phúc xung quanh
mình. Đảm bảo cả hai yếu tố trên là con đường dẫn đến thành công và hạnh phúc.
11. Món nợ lớn nhất của đời người là tình cảm. Trong cuộc sống những món nợ tiền còn
có thể trả được nhưng nợ tình thì khó khăn hơn nhiều và nhiều khi không thể trả được. Do đó
nên sống có tình, có nghĩa thì tránh vong ân bội nghĩa.
12. Lễ vật lớn nhất của đời người là khoan dung. Lòng khoan dung với “Oán trả oán, oán
ấy chồng chất, lấy ân trả oán, oán ấy tiêu tan”. Người với người sống để yêu nhau, ai cũng có
thể mắc lỗi, hãy mở lòng cho nhau cơ hội mà sửa sai, cho người ta cơ hội làm lại sau lỗi lầm.
13. Khuyết điểm lớn nhất của đời người là kém hiểu biết. Kiến thức thật mênh mông, vốn
hiểu biết như hạt bụi giữa sa mạc, vì thế phải tích lũy vốn tri thức, hiểu biết của cuộc sống,

không nên phân biệt, cân nhắc cao thấp.

12


14. An ủi lớn nhất của đời người là bố thí. Cái mà người ta ai cũng có thể cho đi là tấm
lòng bao dung, là cái tâm lương thiện, là cái nghĩ suy mong tốt cho người khác…vì những thứ
ấy, càng cho đi thì lại càng nhận được nhiều hơn.
III. QUÁ TRÌNH DU NHẬP VÀ PHÁT TRIỂN CỦA PHẬT GIÁO VIỆT NAM
2.1. Sự du nhập của Phật giáo vào nước ta
Theo những nghiên cứu lịch sử ghi chép lại thì Phật giáo du nhập vào nước ta được truyền
sang trực tiếp từ Ấn Độ.
Khi Âu Lạc trở thành quận Giao Chỉ của nhà Nam Hán, tại đây được ghi nhận là một trong
ba trung tâm Phật giáo lớn nhất với tên gọi là Luy Lâu và từ nửa sau thế kỷ thứ hai, Luy Lâu
đã tồn tại như một trung tâm Phật giáo quan trọng và phồn thịnh. Điều này cho thấy việc du
nhập Phật giáo vào Giao Châu là rất sớm, có lẽ từ đầu công nguyên.
Việc truyền giáo được xuất phát từ việc giao thương mạnh mẽ với Trung Đông, họ đến
Giao Chỉ lan truyền dần những nét văn hóa Ấn Độ, trong đó có việc thờ cúng Phật, tụng
kinh… Những tăng sĩ mà các thương nhân đem theo trên thuyền buôn nhằm làm công việc cầu
khấn sự phù trợ của đức Phật, là những người đã trực tiếp truyền bá Phật học và lập nên trung
tâm Phật giáo Luy Lâu.
Ngoài ra còn có hai chứng liệu rất quan trọng cho nguồn gốc rất sớm của Phật giáo Việt
Nam. Thứ nhất, tập luận thuyết Phật giáo đầu tiên bằng Hán tự, Lý hoặc luận của Mâu Tử
(165? 170? -?) đã được viết ở Giao Chỉ, chứ không phải ở một nơi nào khác sâu trong nội địa
Hán. Thứ hai, vào thế kỷ thứ hai, ở Giao Chỉ đã có một tăng đoàn đến 500 vị và khoảng 15 bộ
kinh, trong khi đến thế kỷ thứ ba ở Hán mới có tăng đoàn.
Người Giao Chỉ xưa quan niệm Phật như là một vị Bụt (xuất phát từ “Buddha”), có phép
thần thông, nghe và biết mọi chuyện như Ông Trời, nhưng Bụt không ở trên cao, mà thân cận
với mọi người. Người Giao Chỉ tin vào quan niệm về nghiệp báo, luân hồi là ở sự làm lành gặp
lành. Người ta cũng quan niệm về từ bi, về công đức, làm công đức cho kiếp sau được tốt đẹp

là dâng thức ăn cho tăng môn, bố thí cho người nghèo khó. Quan niệm tiết dục cũng là ở chỗ
bỏ bớt những hưởng thụ cho riêng mình, để cho người khốn khó.
Vào thế kỷ thứ hai, sự thâm nhập của Phật giáo đã ở vào một giai đoạn mới. Đã hình thành
tăng đoàn, công việc hành đạo từ đó mà cũng đi vào tổ chức, các tăng sĩ bắt đầu dịch kinh,
sáng tác, chùa chiền cũng đã được xây cất.
Từ thế kỷ thứ ba, Phật giáo tại Giao Chỉ vẫn tiếp tục tự phát triển mạnh mẽ, với sự xuất
hiện của Tăng Hội (? - 280) và tư tưởng thiền của ông. Ông chính là sáng tổ của Thiền học Việt
Nam.
Tuy nhiên, ở đây, khi nói về sự du nhập của Phật giáo vào Việt Nam, ta có thể xem việc
này đã cơ bản hoàn tất trước thế kỷ thứ 10, khi mà một mặt có sự du nhập trực tiếp từ Ấn Độ
cộng với sự ảnh hưởng của Phật giáo Đại thừa từ phương Bắc sau đó, mặt khác là sự sản sinh,
hình thành nền thiền học Việt Nam với những thiền phái đầu tiên nhưng lại rất lớn mạnh. Từ
13


đây đã tạo một tiền đề vững vàng cho sự phát triển của Phật giáo Việt Nam về sau, mà đỉnh
điểm là giai đoạn thế kỷ 10 - 14.
2.2. Sự phát triển của Phật giáo tại Việt Nam
Dưới thời Đinh, Tiền Lê, sau Ngô Quyền, các triều đại Đinh, Tiền Lê, Lý đã nỗ lực xây
dựng một quốc gia độc lập về mọi mặt chính trị, kinh tế, văn hóa, quân sự, và đóng góp của
Phật giáo trong buổi đầu này rất quan trọng. Vào thời Đinh, Lê, thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi
đã truyền đến đời thứ 11, 12, và ảnh hưởng của họ trong dân gian vẫn rất mạnh. Những thiên
chức xã hội mà nhà Phật đã gánh vác trong những thế kỷ vừa qua, nay vẫn tiếp tục. Dưới thời
nhà Ly, Phật giáo vẫn tiếp tục giữ một vai trò rất lớn về mặt chính trị. Ngay điểm khởi đầu, tức
là việc lập nên triều đại này, Phật giáo đã đóng vai trò quyết định.Các tăng sư Phật giáo cũng
trực tiếp tham dự chính sự qua việc trực tiếp thiết lập các kế hoạch, thảo văn thư, tiếp sứ thần,
bàn luận cả những vấn đề về quân sự.
Dưới sự tác động, hướng dẫn tinh thần của các thiền sư, Phật giáo dưới thời Lý đã tạo
dựng một bản sắc văn hóa chính trị đầy tính nhân bản. Nhà Lý đã được xem như một triều đại
thuần từ nhất trong lịch sử phong kiến Việt Nam. Các vị vua của triều đại này có cuộc sống

đạo đức và tâm linh.
Những công trình kiến trúc và điêu khắc Phật giáo cũng đóng góp những giá trị mỹ thuật
cho triều đại nhà Lý. Một công trình nhà Lý mà nay vẫn là một trong những biểu tượng của
dân tộc Việt, chính là Chùa Một Cột, được xây từ năm 1049, khi đó gọi là Chùa Diên Hựu.
Điều này cho thấy sự phát triển lớn của Phật Giáo của nước ta thời kỳ này.
Vào thời nhà Trần, đầu thế kỷ 13, Thiền phái Yên Tử được hình thành từ sự dần dần sáp
nhập vào với nhau của ba thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi, Vô Ngôn Thông và Thảo Đường.
Thiền phái này sau đó, dưới sức ảnh hưởng rất lớn của vua Trần Thái Tông và Tuệ Trung
Thượng Sĩ, đã có một bước phát triển lớn, trở thành thiền phái Trúc Lâm - thiền phái duy nhất
dưới đời nhà Trần. Có thể nói, thời đại nhà Trần là thời đại Phật giáo nhất tông, mà thiền sư
Hiện Quang, tu đạo tại núi Yên Tử, là vị khai tổ của sự nhất tông này.
Vua Trần Thái Tông không nằm chính thức trong tông phả của Trúc Lâm, nhưng có nhiều
cơ duyên với Phật giáo, với thiền phái này. Ông đã tự tu học Phật đạo và để lại nhiều tác phẩm
Phật học có giá trị. Thời kỳ này, các vua Trần là những người có tri thức, lại uyên bác Phật
học. Tuy công việc chính sự của các tăng sĩ không còn nữa, Phật giáo lại vẫn phát triển rực rỡ
hơn bao giờ hết, ảnh hưởng trực tiếp lên chính trị, kinh tế văn hóa, xã hội đời Trần, trở thành
một tinh thần dân tộc thời bấy giờ.
Tóm lại, sau thời kỳ đầu du nhập ở thế kỷ thứ nhất và thứ hai, trực tiếp từ nguồn gốc Ấn
Độ, điều đã cho phép sự phát triển Phật giáo rất sớm ở Việt Nam, vào những thế kỷ sau, Phật
giáo Việt Nam đã có sự giao tiếp với Phật giáo Trung Hoa, tiếp nhận những thâm nhập mới.
Trong giai đoạn du nhập, Phật giáo Việt Nam đã bước đầu tự hình thành nên tư tưởng thiền
định đầu tiên. Trải qua các thời kỳ lịch sử vị trí, vai trò của Phật giáo đã ngày càng phát triển,
đạt đến độ cực thịnh vào thời Trần, và chỉ suy thoái từ nửa sau thế kỷ 14.
14


Sự đi xuống của Phật giáo từ nửa sau thế kỷ 14, là một điều hoàn toàn hợp tính quy luật,
khi mà một hệ tư tưởng tôn giáo không còn có sự ủng hộ của những quyền lực thế tục. Nhưng
dù vậy, tinh thần hòa hợp Phật giáo - dân tộc đó mãi mãi là một trong những trang sử đậm nét
nhất của dân tộc ta.

KẾT LUẬN
Qua những phân tích ở trên, ta nhận thấy rằng: dù còn những hạn chế song chúng ta không
thể phủ nhận những giá trị đạo đức to lớn mà Phật giáo đã mang lại. Trong công cuộc xây
dựng đất nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa Mác – Lênin là tư tưởng chủ đạo, là vũ
khí lý luận soi đường cho chúng ta. Nhưng bên cạnh đó, bộ phận kiến trúc thượng tầng của xã
hội cũ vẫn có sức sông dai dẳng, trong đó, đạo lý nhà Phật đã ít nhiều in sâu vào tư tưởng, tình
cảm của một số bộ phận lớn dân cư Việt Nam. Việc xóa bỏ hoàn toàn ảnh hưởng của nó là
không thể, nên chúng ta cần vận dụng một cách phù hợp để góp phần đạt được mục tiêu của
thời kỳ quá độ cũng như sau này. Do đó, việc tìm hiểu nghiên cứu Phật giáo đối với thế giới
quan, nhân sinh quan của con người là hết sức cần thiết. Việc đi sâu nghiên cứu, đánh giá
những mặt tiến bộ cũng như hạn chế, Phật giáo giúp ta hiểu rõ tâm lý người dân hơn và qua đó
tìm ra được một phương cách để hướng đạo cho con người một cách chân chính, đúng đắn,
theo đạo để làm điều thiện, tránh cái ác.
Tóm lại, nghiên cứu Phật giáo và nhìn nhận, đánh giá những tư tưởng triết học cơ bản của
nó là một nội dung quan trọng nhằm tìm hiểu lịch sử cũng như định hướng cho sự phát triển
nhân cách, tư duy con người Việt Nam trong tương lai. Chúng ta tin tưởng vào một thế hệ trẻ
hôm nay và mai sau cường tráng về thể chất, phát triển về trí tuệ, phong phú về tinh thần, đạo
đức tác phong trong sáng, kế thừa truyền thống cha ông cũng như những giá trị nhân bản Phật
giáo sẽ góp phần bảo vệ và xây dựng xã hội ngày càng ổn định, phát triển.

15



×