Tải bản đầy đủ (.docx) (13 trang)

vai trò của sáu cặp phạm trù cơ bản của phép biện chứng duy vật

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (121.32 KB, 13 trang )

MỤC LỤC

MỤC LỤC……………………………………………………………………...

Trang
0

MỞ ĐẦU……………………………………………………………………….

1

NỘI DUNG……………………………………………………………………..

1

I.

KHÁI QUÁT CHUNG VỀ PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT……...

1

II.

CÁC CẶP PHẠM TRÙ TRONG PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT.

2

1) Cái chung và cái riêng………………………………………………..

2


2) Tất nhiên và ngẫu nhiên………………………………………………

3

3) Bản chất và hiện tượng………………………………………………..

5

4) Nguyên nhân và kết quả………………………………………………

7

5) Khả năng và hiện thực………………………………………………...

8

6) Nội dung và hình thức………………………………………………...

10

KẾT LUẬN…………………………………………………………………….

11

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO……………………………………….

12

1



MỞ ĐẦU
Để đạt được những thành quả cao trong công việc cũng như trong mọi hoạt
động của cuộc sống thì điều kiện quyết định là ở con người, với trí tuệ và năng lực
cao. Đặc biệt quan trọng là phải có một cơ sở lý luận khoa học, lấy đó làm cơ sở
phương pháp luận để xây dựng và tổ chức công việc có hiệu quả.
Cùng với sự phát triển không ngừng của xã hội loài người, phép biện chứng
duy vật ngày càng khẳng định rõ vai trò của nó và con người ngày càng linh hoạt,
sáng tạo hơn trong việc áp dụng những lý luận đó vào từng hoạt động của mình.
Phép biện chứng duy vật đã khái quát một số cặp phạm trù mà mối liên hệ giữa
chúng mang tính quy luật, phản ánh những mặt khác nhau cơ bản, phổ biến nhất và
bền vững của thế giới khách quan. Trong bài viết này, chúng ta sẽ nghiên cứu về
vai trò của sáu cặp phạm trù cơ bản của phép biện chứng duy vật.
NỘI DUNG
I.

KHÁI QUÁT CHUNG VỀ PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT

Phép biện chứng là học thuyết nghiên cứu, khái quát biện chứng của thế giới
thành hệ thống các nguyên lý, quy luật khoa học nhằm xây dựng hệ thống các
nguyên tắc phương pháp luận của nhận thức và thực tiễn.
Phép biện chứng có lịch sử từ thời cổ đại, trải qua 3 hình thức cơ bản: Phép
biện chứng chất phác thời cổ đại, phép biện chứng duy tâm cổ điển Đức và phép
biện chứng duy vật chủ nghĩa Mác-Lênin
Phép biện chứng duy vật là bộ phận quan trọng trong hệ thống tư tưởng triết
học Mác-Lênin. Nó được hình thành từ 3 tiền đề: Kinh tế-chính trị-xã hội, khoa
học tự nhiên và lý luận.
Đây là phép biện chứng đầu tiên mà các hệ thống quan điểm được phân chia
rõ ràng và có cơ sở khoa học. Phép biện chứng duy vật gồm 2 nguyên lý về mối
liên hệ phổ biến và nguyên lý về sự phát triển; ba quy luật: quy luật sự biến đổi về

lượng dẫn đến sự biến đổi về chất và ngược lại, quy luật thống nhất và đấu tranh
của các mặt đối lập, quy luật phủ định của phủ định và sáu cặp phạm trù: cái chung
và cái riêng, nguyên nhân và kết quả, tất nhiên và ngẫu nhiên, nội dung và hình
thức, bản chất và hiện tượng, khả năng và hiện thực
Phép biện chứng duy vật giữ vai trò là một nội dung đặc biệt quan trọng
trong thế giới quan và phương pháp luận triết học của chủ nghĩa Mác - Lênin, tạo
nên tính khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin, đồng thời nó cũng là
2


thế giới quan vả phương pháp luận chung nhất của hoạt động sáng tạo trong các
lĩnh vực nghiên cứu khoa học và hoạt động thực tiễn.
II.

CÁC CẶP PHẠM TRÙ TRONG PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT

Phạm trù là những khái niệm rộng nhất phản ảnh những mặt, những thuộc
tính, những mối liên hệ chung, cơ bản nhất của các sự vật và hiện tượng thuộc một
lĩnh vực nhất định.
1) Cái chung và cái riêng
∗ Khái niệm
Theo quan điểm của phép biện chứng duy vật thì:
Cái riêng là phạm trù dùng để chỉ một sự vật, một hiện tượng, một quá trình
nhất định. Mỗi cái riêng là một kết cấu vật chất, một chỉnh thể tồn tại độc lập
(tương đối) với cái riêng khác.
Cái chung là phạm trù triết học dùng để chỉ những mặt, những thuộc tính
không những có một kết cấu vật chất nhất định mà còn được lặp lại trong nhiều sự
vật hiện tượng hay quá trình riêng lẻ khác. Nói cách khác cái chung là cái được lặp
lại trong nhiều cái riêng.
∗ Quan hệ biện chứng giữa cái chung và cái riêng

Phép biện chứng duy vật cho rằng, cái riêng và cái chung đều tồn tại khách
quan và giữa chúng có sự thống nhất biện chứng. Cụ thể được thể hiện như sau:
- Cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng, thông qua cái riêng mà biểu hiện sự
tồn tại của mình. Điều đó có nghĩa là không có cái chung thuần tuý, trừu tượng tồn
tại bên ngoài cái riêng.
Ví dụ: Thuộc tính cơ bản của vật chất là vận động. Vận động lại tồn tại
dưới các hình thức riêng biệt như vận động vật lý, vận động hoá học, vận động xã
hội v.v..
- Cái riêng chỉ tồn tại trong mối liên hệ với cái chung. Điều đó có nghĩa là
không có cái riêng nào tồn tại tuyệt đối độc lập, không có liên hệ với cái chung
Ví dụ: Các chế độ kinh tế – chính trị riêng biệt đều bị chi phối với các quy
luật chung của xã hội như quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với lực lượng sản
xuất.
- Cái chung là bộ phận của cái riêng, còn cái riêng không gia nhập hết vào
cái chung. Cái riêng phong phú hơn cái chung, vì ngoài những đặc điểm gia nhập
3


vào cái chung, cái riêng còn có những đặc điểm riêng biệt mà chỉ riêng nó có.
Cái chung là cái sâu sắc hơn cái riêng bởi vì nó phản ánh những mặt, những thuộc
tính, nhưng mỗi liên hệ bên trong, tất nhiên, ổn định, phổ biến tồn tại trong cái
riêng cùng loại. Cái chung gắn liên hệ với cái bản chất, quy định sự tồn tại và phát
triển của sự vật.
* Vai trò thực tiễn của cặp phạm trù
Trong hoạt động thực tiễn xã hội việc phát hiện ta cái chung nhất là cái
chung bản chất, quy luật của một sự vật hiện tượng là yếu tố rất quan trọng. Nó là
yếu tố đầu tiên đảm bảo sự thành công của hoạt động thực tiễn vì cái chung, quy
luật chi phối hấu hết khuynh hướng phát triển của những cái riêng lẻ. Đúng như
Lênin đã khẳng định “người nào bắt tay vào những vấn đề riêng trước khi giải
quyết những vấn đề chung, thì kẻ đó trên mỗi bước đi sẽ không sao tránh khỏi

những vấn đề chung đó một cách không tự giác. Mà mù quáng vấp phải những vấn
đề đó trong từng trường hợp riêng thì có nghĩa là đưa chính sách đến chỗ có những
sự dao động tồi tệ nhất và mất hẳn tính nguyên tắc”.
Việc nhân rộng các sáng kiến trong sản xuất kinh doanh, nghiên cứu khoa
học là một tất yếu khách quan trong sự phát triển, đặc biệt trong việc ứng dụng
những thành tựu khoa học kỹ thuật vào đời sống sinh hoạt hàng ngày. Lúc đầu ta
phải triển khai ở một địa phương nhất đinh. Qua biểu hiện thực tiễn ở từng địa
phương đó ta phải đánh giá, tổng kết cân nhắc giữa cái lợi và hại từ đó có thể triển
khai hay không triển khai đồng bộ. Tuy nhiên địa phương chọn thí điểm phải phù
hợp tức là phải đáp ứng những điều kiện tương đối của quá trình triển khai.
Có những cái chung không hợp lý sẽ thoái hóa mất đi dẫn đến cái riêng chỉ
áp dụng ở một vùng nhất định tạo thành đặc trưng thậm chí là thế mạnh của vùng
đó. Trong chiến lược phát triển kinh tế nếu việc phát triển thế mạnh từng vùng
được chú trọng sẽ đem lại hiệu quả kinh tế cao.
2) Tất nhiên và ngẫu nhiên
∗ Khái niệm
Tất nhiên là phạm trù triết học dùng để chỉ cái do những nguyên nhân cơ bản
bên trong của kết cấu vật chất quyết định và trong những điều kiện nhất định nó
phải xảy ra như thế này chứ không thể khác được.
Ngẫu nhiên là phạm trù chỉ cái không do mối quan hệ bản chất, bên trong
kết cấu vật chất, bên trong sự vật quyết định mà do các nhân tố bên ngoài, do sự
4


kết hợp nhiều hoàn cảnh bên ngoài quyết định. Do đó nó có thể xuất hiện hay
không xuất hiện, có thể xuất hiện như thế này hoặc như thế khác.
Như vật, tất nhiên và ngẫu nhiên đều có nguyên nhân. Nguyên nhân cơ bản,
bên trong gắn với tất nhiên còn nguyên nhân bên ngoài gắn với ngẫu nhiên.
Ví dụ: Gieo một con xúc xắc sẽ có một trong sáu mặt ngửa và một trong sáu
mặt sấp, đó là tất nhiên. Nhưng mặt nào sấp, mặt nào ngửa trong mỗi lần tung lại

không phải là cái tất nhiên, mà là cái ngẫu nhiên.
∗ Quan hệ biện chứng giữa tất nhiên và ngẫu nhiên
- Tất nhiên và ngẫu nhiên đều tồn tại khách quan, độc lập với ý thức của con
người và đều có vị trí nhất định đối với sự phát triển của sự vật. Trong đó cái tất
nhiên giữ vai trò quyết định đến khuynh hướng của nó còn cái ngẫu nhiên có thể có
phần thúc đẩy, có phần ngăn cản kìm hãm quá trình tồn tại và phát triển của sự vật
hiện tượng.
Ví dụ: cá tính của lãnh tụ một phong trào là yếu tố ngẫu nhiên, không quyết
định đến xu hướng phát triển của phong trào, nhưng lại có ảnh hưởng làm phong
trào phát triển nhanh hoặc chậm, mức độ sâu sắc của phong trào đạt được như thế
nào….
- Tất nhiên và ngẫu nhiên là hai mặt vừa thống nhất, vừa đối lập. Không có
tất nhiên thuần túy và ngẫu nhiên thuần túy. Tất nhiên vạch đường đi cho mình
thông qua vô số cái ngẫu nhiên. Ngẫu nhiên là hình thức biểu hiện cái tất nhiên và
bổ sung cái tất nhiên.
Ví dụ: Hôm nay, xảy ra tai nạn giao thông trên đường, đó là một chuyện
ngẫu nhiên. Nhưng trong thời gian nhiều ngày qua trên đoạn đường này thường
xảy ra tai nạn giao thông, như vậy, đằng sau những tai nạn ngẫu nhiên nhưng
thường xuyên xảy ra ấy chắc chắn có dấu ấn một cái tất nhiên nào đó. Chẳng hạn,
do đây là đoạn đường vòng quá hẹp hoặc trên đường có nhiều ổ gà và cây to chắn
tầm nhìn của người đi đường và không có biển bảo nguy hiểm từ xa. Chính vì địa
thế đặc biệt đó là điều tất nhiên khiến tai nạn xảy ra thường xuyên trên đoạn đường
này. Cái tất nhiên này được bộc lộ thông qua từng trường hợp tai nạn cụ thể, ngẫu
nhiên xảy ra trên đoạn đường này.
- Tất nhiên quy định ngẫu nhiên, ngẫu nhiên bổ sung cho tất nhiên. Tuy
nhiên, ranh giới giữa tất nhiên và ngẫu nhiên có tính chất tương đối. Tất nhiên và
5


ngẫu nhiên không nằm yên ở trạng thái cũ mà thay đổi cùng sự thay đổi của sự vật

và chúng có thể chuyển hóa lẫn nhau trong những điều kiện nhất định.
Ví dụ: + Trong xã hội công xã nguyên thủy, việc trao đổi vật này để lấy vật
khác là hoàn toàn ngẫu nhiên vì khi đó lực lượng sản xuất thấp kém, mỗi công xã
chỉ sản xuất đủ cho riêng mình dùng. Nhưng về sau, nhờ có sự phân công lao động,
kinh nghiệm sản xuất của con người cũng được tích lũy, con người sản xuất được
nhiều sản phẩm hơn dẫn đến có sản phẩm dư thừa. Khi đó, sự trao đổi sản phẩm
trở nên thường xuyên hơn và trở thành hiện tượng tất nhiên của xã hội.
+ Trao đổi hàng hóa là tất nhiên trong nền kinh tế hàng hóa, nhưng lại
là ngẫu nhiên trong xã hội nguyên thủy – khi sản xuất hàng hóa chưa phát triển.
* Vai trò thực tiễn của cặp phạm trù
Trong hoạt động thực tiễn, thông qua vô số hiện tượng ngẫu nhiên người ta
phát hiện ra cái tất nhiên ẩn giấu đằng sau nó. Chẳng hạn như giá cả thị trường ở
một thời điểm nào đó là một hiện tượng ngẫu nhiên nhưng thông qua hàng loạt
những biến động ấy người ta thấy quy luật tất yếu chi phối đằng sau giá cả thị
trường, đó là sự tác động của quy luật giá trị. Ph.Ănghen đã viết: “Cái mà người ta
quả quyết cho là tất yếu lại hoàn toàn ngẫu nhiên thuần túy cấu thành và cái được
coi là ngẫu nhiên lại là hình thức dưới đó ẩn nấp cái tất yếu”
Áp dụng đặc điểm mối quan hệ giữa tất nhiên và ngẫu nhiên người ta đã tạo
ra một phương pháp khoa học đặc biệt cần thiết trong nghiên cứu kinh tế đó là
phương pháp thống kê đã đem lại nhiều hiệu quả thiết thực. Thực tiễn xã hội cần
căn cứ vào cái tất yếu để hoạch định phương hướng, xây dựng kế hoạch, đồng thời
cũng phải trù liệu sự tác động của các biến cố. Trong kinh tế thị trường với xu
hướng quốc tế hoác ngày càng cao thì cái rủi ro ngẫu nhiên ngày càng nhiều. Mỗi
con người, mỗi quốc gia khi tham gia vào quá trình hội nhập này cần chuẩn bị cho
mình một hành lang tri thức vững chắc và một bản lĩnh kinh tế vững vàng.
3) Bản chất và hiện tượng
* Khái niệm
Bản chất là phạm trù chỉ sự tổng hợp tất cả những mặt, mối liên hệ tất nhiên,
tương đối ổn định bên trong sự vật, quy định sự vận động và phát triển của sự vật.
Hiện tượng là phạm trù chỉ sự biểu hiện ra bên ngoài của bản chất.

Ví dụ: bản chất của một nguyên tố hóa học là mối liên hệ giữa điện tử và hạt
nhân, còn những tính chất hóa học của nguyên tố đó khi tương tác với các nguyên
6


tố khác là hiện tượng thể hiện ra bên ngoài của mối liên kết giữa điện tử và hạt
nhân.
* Mối quan hệ biện chứng giữa bản chất - hiện tượng.
- Bản chất và hiện tượng có tính khách quan và gắn bó chặt chẽ, thống nhất
với nhau:
Bản chất và hiện tượng thống nhất biện chứng với nhau cùng quy định sự
vận động và phát triển của sự vật biểu hiện ở chỗ: bản chất nào thì có hiện tượng
ấy, bản chất khác nhau sẽ bộc lộ ở những hiện tượng khác nhau. Bản chất biến đổi
thì hiện tượng biểu hiện cũng biến đổi. Bản chất biến mất thì hiện tượng biểu hiện
nó cũng mất theo.
Ví dụ: Trong nghiên cứu khoa học người ta thường bắt đầu từ việc quan sát,
thống kê các hiện tượng (quan sát tự nhiên hay qua thí nghiệm) trên cơ sở đó tiến
hành nghiên cứu (có thể thông qua việc xác lập các mô hình giả thuyết,...) về bản
chất của hiện tượng để giải thích hiện tượng quan sát được.
- Bản chất và hiện tượng là quan hệ có tính mâu thuẫn:
Bản chất và hiện tượng thống nhât với nhau nhưng đây là sự thống nhất của
hai mặt đối lập. Do vậy không phải bản chất và hiện tượng phù hợp nhau hoàn toàn
mà luôn bao hàm cả sự mâu thuẫn nhau
Ví dụ: Bản chất của chủ nghĩa đế quốc là xâm lược, bóc lột nhân dân các
nước, gây mất trật tự an ninh về mặt chính trị. Bản chất đó được biểu hiện bằng
nhiều hình thức phức tạp: viện trợ kinh tế, viện trợ có tính chất nhân đạo, hợp tác
văn hóa, du lịch… Những hình thức đó không biểu hiện đầy đủ bản chất của sự vật
và vấn đề. Có khi còn xuyên tạc bởi vẻ bề ngoài. Cho nên xem xét một sự vật phải
thật cặn kẽ để từ hiện tượng đến tận cội nguồn của bản chất để có biện pháp phòng
ngừa. Chúng thường mang tính chất nhân quyền một cách trừu tượng, áp đặt cho

từng nước để gây mất ổn định đối với một quốc gia.
* Vai trò thực tiễn của cặp phạm trù
Trong hoạt động thực tiễn để tìm hiểu sự vật, nhận thức của con người bao
giờ cũng phải bắt đầu từ những hiện tượng để tìm ra bản chất của nó. Những
trường hợp hiện tượng phản ánh sai bản chất không phải là hiếm thấy trong tự
nhiên cũng như trong nghiên cứu khoa học. Đặc biệt đối với con người – một thực
thể có ý thức, bị chi phối bởi lợi ích địa vụ thì quan hệ giữa bản chất của họ với
hiện tượng biểu hiện ra càng phức tạp thậm chí là có hiện tượng cố tình xuyên tạc
7


bản chất. Khi đánh giá một vấn đề, một hiện tượng phải nhìn vào bản chất để kết
luận chứ không phải nhìn về một phía phiến diện từ những hiện tượng biển hiện
của họ.
Tuy nhiên Ph.Ănghen cũng chỉ ra rằng: “nếu hình thái biểu hiện và bản chất
sự vật trực tiếp đồng nhất với nhau, thì mọi khoa học sẽ trở nên thừa”
4) Nguyên nhân và kết quả
* Khái niệm
Phạm trù nguyên nhân và kết quả phản ánh mối quan hệ hình thành của các
sự vật, hiện tượng trong hiện tượng khách quan.
Nguyên nhân là phạm trù chỉ sự tác động lẫn nhau giữa các mặt trong một sự
vật hay giữa các sự vật với nhau, gây ra một biến đổi nhất định nào đó.
Kết quả là phạm trù chỉ những biến đổi xuất hiện do tác động lẫn nhau giữa
các mặt trong một sự vật hay giữa các sự vật với nhau gây ra.
Ví dụ: không phải nguồn điện là nguyên nhân làm bóng đèn phát sáng mà
chỉ là tương tác của dòng điện với dây dẫn mới thực sự là nguyên nhân làm cho
bóng đèn phát sáng.
* Mối quan hệ biện chứng giữa bản chất - hiện tượng.
Nguyên nhân là cái sinh ra kết quả, do đó nguyên nhân có trước kết quả.
Nhưng không phải bất kỳ sự nối tiếp nào về thời gian cũng là quan hệ nhân quả. Ví

dụ, ngày kế tiếp đêm nhưng không phải đêm là nguyên nhân của ngày.
Cùng một nguyên nhân có thể gây ra nhiều kết quả khác nhau, ngược lại một
kết quả có thể do nhiều nguyên nhân tác động vào.
Kết quả sau khi xuất hiện có thể tác động trở lại đối với nguyê nhân đã sinh
ra nó. Như vậy, nếu xem xét kỹ có thể thấy kết quả trong quan hệ này lại là nguyên
nhân trong quan hệ khác và ngược lại. Nói cách khác nguyên nhân và kết quả có
thể chuyển hóa cho nhau.
* Vai trò thực tiễn của cặp phạm trù
Trong mọi hoạt động của con người phải tỉnh táo vạch rõ nguyên nhân thực
sự của mọi hành động. Chẳng hạn ngày nay ta thấy các thế lực đế quốc rất hay bám
vào cái gọi là “bảo vệ nhân quyền” để can thiệp vào công việc nội bộ của các quốc
gia, đặc biệt là các nước đang phát triển có khuynh hướng tiến bộ xã hội. Đồng
thời cũng phải biết phân biệt các loại nguyên nhân biên trong và nguyên nhân bên
8


ngoài, trực tiếp hay gián tiếp để tìm ra nguyên nhân sâu xa của sự vật hiện tượng.
Nếu nguyên nhân đó đem lại hiệu quả tốt để phát huy tạo điều kiện cho những yếu
tố đó và ngược lại.
Ngày này việc phát triển kinh tế thị trường đã tạo ra những con người kinh
tế mới, những con người năng động sáng tạo, quyết đoán… những cong nười này
sẽ thúc đậy sự phát triển kinh tế xã hội. Nhận thức rõ điều này, Đảng và nhà nước
ta đã không ngừng nâng cao chính sách đào tạo cán bộ có trình độ chuyên môn và
năng lực quản lý tốt đáp ứng nhu cầu công nghiệp hóa-hiện đại hóa đất nước.
5) Khả năng và hiện thực
* Khái niệm
Hiện thực là phạm trù chỉ những cái đang tồn tại trên thực tế.
Khả năng là phạm trù chỉ cái chưa xuất hiện, chưa tồn tại trên thực tế, nhưng
sẽ xuất hiện, sẽ tồn tại thực sự khi có các điều kiện tương ứng.
Ví dụ: Trước mắt ta đã có đầy đủ vôi, gạch, ngói, ximăng, sắt thép... Đó là

hiện thực. Từ hiện thực ấy nảy sinh khả năng xuất hiện cái nhà. Cái nhà trong
trường hợp này chưa có, chưa tồn tại, nhưng bản thân khả năng xuất hiện cái nhà
thì tồn tại thật. Dấu hiệu căn bản để phân biệt khả năng với hiện thực là ở chỗ: khả
năng là cái hiện chưa có, chưa tới, còn hiện thực là cái hiện đã có, đã tới.
∗ Mối quan hệ biện chứng giữa khả năng và hiện thực
Thứ nhất, khả năng và hiện thực tồn tại trong mối quan hệ chặt chẽ với
nhau, không tách rời nhau, thường xuyên chuyển hóa lẫn nhau trong quá trình
phát triển của sự vật. Điều đó có nghĩa là trong sự vật hiện đang tồn tại chứa đựng
khả năng, sự vận động phát triển của sự vật chính là quá trình biến khả năng thành
hiện thực. Trong hiện thực mới đó lại nảy sinh khả năng mới, khả năng mới này
nếu có những điều kiện lại biến thành hiện thực mới. Quá trình đó được tiếp tục,
làm cho sự vật vận động, phát triển một cách vô tận trong thế giới vật chất.
Thứ hai, ngoài những khả năng vốn sẵn có, trong những điều kiện mới thì
sự vật sẽ xuất hiện thêm những khả năng mới, đồng thời bản thân mỗi khả năng
cũng thay đổi theo sự thay đổi của điều kiện. Thí dụ: Nước ta vốn là nước kinh tế
kém phát triển, mức sống của nhân dân còn thấp, nhưng lại phải trải qua cuộc cạnh
tranh quốc tế ngày càng quyết liệt để hội nhập. Nếu chúng ta không nhanh chóng
vươn lên thì khả năng càng tụt hậu xa hơn về kinh tế so với các nước trong khu
9


vực và trên thế giới và sự bất lợi về mở rộng sản xuất kinh doanh, trao đổi buôn
bán càng lớn.
Thứ ba, để khả năng biến thành hiện thực, thường cần không phải chỉ
một điều kiện mà là một tập hợp nhiều điều kiện. Thí dụ để một hạt thóc có khả
năng nảy mầm, cần một tập hợp các điều kiện như nhiệt độ, độ ẩm, ánh sáng, áp
suất...
Trong đời sống xã hội, hoạt động có ý thức của con người có vai trò hết sức
to lớn trong việc biến khả năng thành hiện thực. Nó có thể đẩy nhanh hoặc kìm
hãm quá trình biến khả năng thành hiện thực; có thể điều khiển khả năng phát triển

theo chiều hướng nhất định bằng cách tạo ra những điều kiện tương ứng. Không
thấy vai trò của nhân tố chủ quan của con người sẽ rơi vào sai lầm hữu khuynh
chịu bó tay, khuất phục trước hoàn cảnh. Tuy nhiên cũng không được tuyệt đối vai
trò của nhân tố chủ quan mà xem thường những điều kiện khách quan. Như vậy
chúng ta dễ rơi vào sai lầm chủ quan, mạo hiểm, duy ý chí.


Vai trò của cặp phạm trù

Thứ nhất, vì hiện thực là cái tồn tại thực sự, còn khả năng là cái hiện chưa
có, nên trong hoạt động thực tiễn cần dựa vào hiện thực để định ra chủ trương,
phương hướng hành động của mình; nếu chỉ dựa vào cái còn ở dạng khả năng thì
sẽ dễ rơi vào ảo tưởng.
Thứ hai, khả năng là cái chưa tồn tại thật sự nhưng nó cũng biểu hiện
khuynh hướng phát triển của sự vật trong tương lai. Do đó, tuy không dựa vào khả
năng nhưng chúng ta cũng phải tính đến các khả năng để việc đề ra chủ trương, kế
hoạch hành động sát hợp hơn. Khi tính đến khả năng phải phân biệt được các loại
khả năng gần, khả năng xa, khả năng tất nhiên và ngẫu nhiên... Từ đó mới tạo được
các điều kiện thích hợp để biến khả năng thành hiện thực, thúc đẩy sự vật phát
triển.
Thứ ba, việc chuyển khả năng thành hiện thực trong giới tự nhiên được thực
hiện một cách tự động, nhưng trong xã hội, điều đó phụ thuộc nhiều vào hoạt động
của con người. Vì vậy, trong xã hội, chúng ta phải chú ý đến việc phát huy nguồn
lực con người, tạo ra những điều kiện thuận lợi cho việc phát huy tính năng động
sáng tạo của mỗi con người để biến khả năng thành hiện thực thúc đẩy xã hội phát
10


triển. Trên ý nghĩa đó, Đảng ta chủ trương lấy việc phát huy nguồn lực con người
làm nhân tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững của đất nước. Tuy nhiên

cũng cần tránh hai thái cực sai lầm, một là: tuyệt đối hóa vai trò nhân tố chủ quan;
hai là: hạ thấp vai trò nhân tố chủ quan trong việc biến khả năng thành hiện thực
6) Nội dung và hình thức
* Khái niệm
Nội dung là phạm trù triết học dùng để chỉ tổng hợp những mặt, những yếu
tố, những quá trình tạo nên sự vật.
Hình thức là phạm trù chỉ phương thức tồn tại và phát triển của sự vật, là hệ
thống các mối liên hệ tương đối ổn định giữa các yếu tố của sự vật đó.
Ví dụ: nội dung của một cơ thể động vật là toàn bộ các yếu tố vật chất như tế
bào, các bộ phận cơ thể, các khí quan cảm giác, các hệ thống… tạo thành cơ thể
đó. Hình thức của một cơ thể động vật là trình tự sắp xếp, các mối liên hệ giữa các
tế bào, các bộ phận cơ thể, các khí quan, các hệ thống, các quá trình sinh, hóa, lý
diễn ra trong nó.
* Mối quan hệ biện chứng giữa nội dung và hình thức
Nội dung và hính thức thống nhất với nhau cùng quy định sự tồn tại vận
động phát triển của sự vật hiện tượng.
Sự thống nhất biểu hiện ở chỗ sự vật nào cũng có nội dung hình thức của nó
và nội dung chỉ tồn tại trong một hình thức nhất định. Sự thống nhất giữa nội dung
và hình thức là sự thống nhất giữa các mặt đối lập. Nội dung của sự vậy hiện tượng
thường xuyên biến đổi còn hình thức của nó tương đối ổn định. Do đó sự biến đổi
không ngừng về nội dung đến một giai đoạn nhất định sẽ mâu thuẫn với hình thức
của nó và nếu hình thức đó đã quá lỗi thời thì sẽ bị thay thế bằng một hình thức
mới phù hợp.


Vai trò của cặp phạm trù

Thấy được mối quan hệ, sự tác động chặt chẽ của nội dung với hình thức,
trong thực tiễn hoạt động của con người cần tránh các khuynh hướng tách rời nội
dung hay hình thức. Ví dụ: trong một phương thức sản xuất thì lực lượng sản xuất

là nội dung vật chất còn quan hệ sản xuất là hình thức xã hội, sự phát triển của sản
xuất bắt đầu tự sự phát triển của lực lượng sản xuất, lực lượng sản xuất phát triển
đến một trình độ nhất định làm phá vỡ quan hệ sản xuất cũ, xác lập quan hệ sản
11


xuất mới phù hợp. Thực tế khách quan này đòi hỏi con người trong thực tiễn của
mình muốn thúc đẩy sự vật phát triển trước hết phải quan tâm đến nội dung của nó,
phải tác động vào nội dung và làm phong phú nó.
Thực tế có rất nhiều hình thức đã kìm hãm sự phát triển đổi mới nội dung
như những cách thức, cơ chế quản lý bảo thủ, lạc hậu làm kìm hãm sự tiến bộ và
phát triển của con người-xã hội. Đòi hỏi con người phải biết nhìn nhận và dần loại
bỏ những hình thức bảo thủ lạc hậu đó. Sự tác động biện chứng giữa lực lượng sản
xuất và quan hệ sản xuất là một ví dụ tiêu biểu của quan hệ nội dung và hình thức
biểu hiện trong hoạt động thực tiễn xã hội.
KẾT LUẬN
Nghiên cứu các cặp phạm trù của phép biện chứng duy vật đã khái quát mối
liên hệ biện chứng của các sự vật hiện tượng trong quá trình vận động và phát triển
của chúng. Do đó, nghiên cứu những cặp phạm trù này có ý nghĩa rất cần thiết
trong việc xác lập và nâng cao trình độ tư duy biện chứng để giải quyết các vấn đề
thực tiễn kinh tế - xã hội.
Với mỗi phạm trù cần nắm được bản chất và mối liên hệ biện chứng giữa
chúng, từ đó xây dựng các nguyên tắc phương pháp luận của việc nhận thức và giải
quyết các vấn đề thực tiễn.

12


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1 Giáo trình Triết học Mác - Lê nin, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Nhà xuất bản Chính

2

3
4
5
6

trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, năm 2006;
Giáo trình Triết học Mác – Lê nin, Hội đồng Trung ương chỉ đạo biên soạn giáo
trình Quốc gia các bộ môn khoa học Mác – Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, Nhà
xuất bản Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, năm 2004;
Một số vấn đề Triết học Mác – Lênin: Lý luận và thực tiễn (tái bản có bổ sung),
Lê Doãn Tá, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, năm 2003;
Triết học Mác – Lênin (tập II), Học viện chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà
Nội, năm 1994(xuất bản lần thứ ba);
Triết học Mác – Lênin (tập III), Học viện chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà
Nội, năm1994 (xuất bản lần thứ ba)
Triết học Mác – Lênin (tập II), Vụ Công tác Chính trị - Bộ Giáo dục và Đào
tạo, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, năm 1996.

13



×