Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

tiểu luận cao học vai trò của nhà nước với sự phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (118.21 KB, 23 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Sự phát triển của nền kinh tế trong hơn 10 năm kể từ khi đổi mới đến
nay đã thu được rất nhiều kết quả đáng kể. Chúng ta đã thoát khỏi cuộc
khủng hoảng kinh tế - xã hội, đời sống nhân dân được nâng cao, đất nước
đổi mới rất nhiều…Đó là thành quả của quá trình phát triển nền kinh tế theo
cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng
và Nhà nước ta. Trong đó vai trò của Đảng và Nhà nước là hết sức to lớn.
Nhà nước là những người hoạch định ra các chính sách, chiến lược phát triển
kinh tế, phát huy tối đa các mặt tích cực và hạn chế tối thiểu những mặt tiêu
cực của kinh tế thị trường. Quan trọng nhất là sự định hướng của Nhà nước
để kinh tế phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta đã
chọn. Đây chính là điểm khác biệt nền kinh tế thị trường ở nước ta so với
các nước khác. Chính sự định hướng này đảm bảo sự phát triển kinh tế thị
trường do dân và vì dân.
Tuy nhiên, sự nhận thức về vấn đề vai trò của Nhà nước trong nền
kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa còn có sự khác nhau đó
là: còn có ý kiến cho rằng Nhà nước không can thiệp vào nền kinh tế thị
trường vì sự can thiệp của Nhà nước sẽ làm mất đi động lực phát triển của
kinh tế thị trường. Cũng có ý kiến cho rằng trong cơ chế cũ, Nhà nước có
điều kiện khẳng định vai trò của mình, điều tiết sự vận hành của nền kinh tế,
còn trong nền kinh tế thị trường vai trò được giảm nhẹ, nên chỉ quản lý vĩ
mô, còn hoạt động doanh nghiệp tự giải quyết…Khi mọi vấn đề được thông
suốt thì nền kinh tế phát triển sẽ không đạt hiệu quả. Do đó, vấn đề này đang
trở nên cấp bách đối với chúng ta.
Mặt khác, Nhà nước đã phát huy vai trò của mình một cách có hiệu
quả nhưng không phải là không có hạn chế đó là: Sự cồng kềnh của bộ máy
quản lý, chưa xoá bỏ được thói quen của cơ chế cũ, chưa thích nghi được với
1


cơ chế mới nên hiệu quả chưa cao. Do đó, trong tiểu luận "vai trò của Nhà


nước với sự phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam" em chỉ muốn làm rõ hơn mối quan hệ với Nhà nước với
sự phát triển nền kinh tế thị trường, cũng như đưa ra một số giải pháp nhằm
nâng cao vai trò của Nhà nước ta hiện nay.
Do trình độ và điều kiện có hạn, nên bài tiểu luận này không tránh
khỏi thiếu sót. Em rất mong được sự góp ý và nhận xét của thầy.

2


I.KHÁI NIỆM CHUNG VỀ "NHÀ NƯỚC" VÀ "NỀN KINH TẾ
THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA" Ở VIỆT NAM
1. Một số vấn đề về Nhà nước
a. Khái niệm Nhà nước:
Lịch sử cho thấy không phải khi nào xã hội cũng có nhà nước. Trong
xã hội nguyên thuỷ, do kinh tế còn thấp kém, chưa có sự phân hoá giai cấp,
cho nên chưa có nhà nước. Nhưng lực lượng sản xuất phát triển đã dẫn đến
sự ra đời chế độ tư hữu và từ đó xã hội phân chia thành các giai cấp đối
kháng và cuộc đấu tranh giai cấp không điều hoà được xuất hiện. Điều đó
dẫn đến nguy cơ các giai cấp chẳng những tiêu diệt lẫn nhau mà còn tiêu diệt
luôn cả xã hội. Để thảm hoạ đó không diễn ra, một cơ quan quyền lực đã ra
đời. Đó là Nhà nước.
Theo V.I. Lenin nhận định: " Nhà nước là sản phẩm và biểu hiện của
những mâu thuẫn giai cấp không thể điều hoà được. Bất cứ ở đâu, hễ lúc nào
chừng nào mà, về mặt khách quan, những mâu thuẫn giai cấp không thể điều
hoà được, thì Nhà nước xuất hiện. Và ngược lại: Sự tồn tại của Nhà nước
chứng tỏ rằng những mâu thuẫn giai cấp là không thể điều hoà được". Nhà
nước chỉ ra đời, tồn tại trong một giai đoạn nhất định của sự phát triển xã hội
và sẽ mất đi khi những cơ sở tồn tại của nó không còn nữa.
b. Đặc trưng cơ bản của Nhà nước

Bản chất của Nhà nước được thể hiện ở đặc trưng cơ bản của nó. Bất
kỳ Nhà nước nào cũng có 3 giai đoạn đặc trưng cơ bản sau:
- Nhà nước quản lý dân cư trên một vùng lãnh thổ nhất định
Khác với tổ chức thị tộc, bộ lạc thời nguyên thuỷ được hình thành trên
cơ sở phân chia dân cư theo lãnh thổ mà họ cư trú. quyền lực nhà nước có
hiệu lực với mọi thành viên trong lãnh thổ không phân biệt huyết thống.
Đặc trưng này làm xuất hiện mối quan hệ giữa từng nười trong cộng đồng
3


với nhà nước. Mọi nhà nước được xác định bằng một biên giới quốc gia nhất
định.
- Nhà nước có một bộ máy quyền lực chuyên nghiệp mang tính cưỡng
chế đối với mọi thành viên trong xã hội.
Khác vơi cơ quan điều hành công việc chung trong thị tộc, bộ lạc, nhà
nước của giai cấp thống trị nào cũng có một bộ máy quyền lực chuyên
nghiệp. Bộ máy quyền lực đó bao gồm các đội vũ trang đặc biệt (quân đội,
cảnh sát, nhà tù…) và bộ máy quản lý hành chính. Nhà nước thực hiện
quyền lực của mình trên cơ sở sức mạnh cưỡng bức của pháp luật và dùng
các thiết chế bạo lực để pháp luật của mình được thực thi trong thực tế.
- Nhà nước hình thành hệ thống thuế khoá để duy trì và tăng cường
bộ máy cai trị.
Nhà nước không thể tồn tại nếu không dựa vào thuế khoá, quốc trái
và các hình thức bóc lột khác. Đó là những chế độ trong đó có tính chất
cưỡng bức để nuôi sống bộ máy cai trị. Hệ thống thuế khoá như vậy hoàn
toàn không có trong hình thức tổ chức xã hội thị tộc, bộ lạc. Nó chỉ tồn tại
gắn liền với hình thái tổ chức nhà nước bằng các hình thức khác nhau như
vậy, nhà nước của giai cấp bóc lột không những là công cụ trấn áp giai cấp
mà con là công cụ thực hiện sự bóc lột các giai cấp áp bức.
c. Chức năng cơ bản của nhà nước.

Bản chất giai cấp của nhà nước còn được thực hiện ở các chức năng
của nó. Tùy theo góc độ khác nhau, chức năng của nhà nước được phân chia
khác nhau:
- Dưới góc độ tính chất của quyền lực chính trị, nhà nước có chức
năng thống trị chính trị của giai cấp và chức năng xã hội.

4


+ Chức năng thống trị chính trị của giai cấp - chức năng giai cấp là
chức năng nhà nước làm công cụ chuyên chính của một giai cấp nhằm bảo
vệ sự thống trị giai cấp đó đối với toàn thể xã hội.
+ Chức năng xã hội của nhà nước là chức năng nhà nước thực hiện sự
quản lý những hoạt động chung vì sự tồn tại xã hội, thoả mãn một số nhu
cầu chung của cộng đồng dân cư nằm dưới sự quản lý của nhà nước.
Trong 2 chức năng đó thì chức năng thống trị chính trị là cơ bản
nhất, chức năng xã hội phải phụ thuộc và phục vụ cho chức năng thống trị
chính trị.
- Dưới góc độ phạm vi tác động của quyền lực, nhà nước có chức
năng đối nội và đối ngoại.
+ Chức năng đối nội của nhà nước nhằm duy trì trật tự kinh tế, xã hội,
chính trị những trật tự khác hiện có trong xã hội theo lợi ích của giai cấp
thống trị. Thông thường điều đó phải được pháp luật hoá và được thực hiện
nhờ sự cưỡng bức của bộ máy nhà nước.
+ Chức năng đối ngoại của nhà nước nhằm bảo vệ biên giới lãnh thổ
quốc gia và thực hiện các mối quan hệ kinh tế, chính trị, xã hội với các nhà
nước khác vì lợi ích của giai cấp thống trị cũng như lợi ích của quốc gia,
khi lợi ích quốc gia không mâu thuẫn với lợi ích của giai cấp thống trị.
Cả hai chức năng đối nội và đối ngoại của nhà nước đều xuất phát từ
lợi ích của giai cấp thống trị. Chúng là hai mặt của một thể thống nhất. Tính

chất của chức năng đối nội quyết định tính chất chức năng đối ngoại của
nhà nước; ngược lại tính chất và những nhu cầu của chức năng đối ngoại có
tác động mạnh mẽ trở lại chức năng đối nội.
d. Bản chất, chức năng và vai trò của nhà nước xã hội chủ nghĩa
Việt Nam.

5


Nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam là cột trụ của hệ thống chính trị,
là công cụ thực hiện quyền lực của nhân dân, là tổ chức thực hiện quyền
làm chủ của nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt
Nam.
- Nhà nước quản lý mọi mặt đời sống xã hội bằng pháp luật, quản lý
kinh tế bằng kế hoạch, bằng chính sách, bằng những đòn bẩy kinh tế và các
công cụ điều tiết khác.
- Nhà nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đựoc tổ chức theo
nguyên tắc nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân, lấy liên minh giai
cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ tri thức làm nền tảng, đặt
dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam.
- Trong tổ chức và hoạt động của mình, quyền lực nhà nước đựoc tổ
chức theo nguyên tắc thống nhất nhưng có sự phân công và phân phối hợp
chặt chẽ giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện quyền lập pháp,
hành pháp và tư pháp. Tổ chức và hoạt động của nhà nước được thực hiện
theo nguyên tắc tập trung dân chủ.
- Nhà nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam có sự thống nhất hữu
cơ chức năng giai cấp và chức năng xã hội trong tổ chức, trong hoạt động
của mình. Càng đứng vững trên lập trường giai cấp công nhân, càng có khả
năng phát hiện, nhận thức và giải quyết có hiệu quả những vấn đề có liên
quan tới chức năng xã hội. Ngược lại, việc thực hiện tốt chức năng xã hội sẽ

góp phần nâng cao hiệu quả thực hiện chức năng giai cấp.
2. Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam.
a. Nền kinh tế thị trường
* Khái niệm:

6


- Kinh tế thị trường là một kiểu tổ chức kinh tế - xã hội, trong đó quá
trình sản xuất, phân phối, trao đổi và tiêu dùng đều được thực hiện thông qua
thị trường.
Vì thế kinh tế thị trường không chỉ là "công nghệ" là "phương tiện"
để phát triển kinh tế - xã hội, mà còn là những quan hệ kinh tế - xã hội, nó
không chỉ bao gồm các yếu tố của lực lượng sản xuất, mà còn cả một hệ
thống quan hệ sản xuất.
* Sự cần thiết phải phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam.
Kinh tế thị trường là một kiểu quan hệ kinh tế- xã hội mà trong đó,
sản xuất và tái sản xuất gắn bó với thị trường, tức là gắn chặt với qaun hệ
hàng hoá- tiền tệ với quan hệ cung cầu… Chủ nghĩa tư bản( CNTB) đã biết
sử dụng kinh tế thị trường để tiếp cận sự tăng trưởng và phát triển kinh tế.
Nhung kinh tế thị trường không phải là sản phẩm riêng có của CNTB mà nó
là thành tựu của nền văn minh nhân loại và kinh tế thị trường vẫn tồn tại
ngay cả dưới Chủ nghĩa xã hội. Cơ sở của sự tồn tại đó là:
Thứ nhất: Sự phân công lao động xã hội, nó không mất đi mà
ngày càng phát triển. Sự chuyên môn hoá ngày càng sâu, sự phân công lao
đông trong nước tiến tới sự phân công lao động và hợp tác quốc tế. Phân
công lao động xã hội thuộc về phạm trù của lực lượng sản xuất tuy nhiên
trong từng xã hội cụ thể thì nó vẫn mang dấu ấn của quan hệ sản xuất của xã
hội đó.

Thứ hai: Sự tách biệt nhất định tương đối về kinh tế, mà biểu
hiện trước hết là còn tồn tại những quan hệ sản xuát khác nhau về tư kiệu
sản xuất, ngay cả những đơn vị kinh tế cung quan hệ sản xuất, cùng thành
phần cũng có sự tách biệt về kinh tế. Do trình độ xã hội hoá chưa cao, chưa
thể phân phối trực tiép sản phẩm cho nhau mà vẫn phải sử dụng quan hệ

7


hàng hoá, tiền tệ để tính toán hiệu quả kinh tế, để thực hiện sự trao đổi, mua
bán sản phẩm.
Ở Việt Nam chúng ta, mấy chục năm liền nền kinh tế vận hành theo
cơ chế tập trung quan liêu bao cấp. Đặc trưng của nó là Nhà nước giao kế
hoạch cho các doanh nghiệp với một hệ thông chỉ tiêu pháp lệnh: Nhà nước
cung cấp vật tư, tiền vốn cho các doanh nghiệp, trên cơ sở các doanh nghiệp
sản xuất theo kế hoạch. Lãi Nhà nước thu, lỗ Nhà nước bù. Do đó đã làm
triệt tiêu động lực của sản xuất kinh doanh. Bên cạnh đó, Nhà nước còn bao
cấp qua giá, phân phối mang tính chất binh quân. Cách làm đó khiến cho nền
kinh tế bị hiện vật hoá, quan hệ tiền tệ không được coi trọng làm cho sản
xuất bị trì trệ, kém phát triển. Đây chính là một trong những nguyên nhân
làm cho Chủ nghĩa xã hội nói chung và Việt Nam nói riêng lâm vào khủng
hoảng. Nhân thức được nhưng điều đó, tại Đại hội lần thứ VI của Đảng
(12/1986) đă tiến hành đổi mới. Chuyển nền kinh tế hoạt động theo cơ chế
kế họach tập trung- hành chính- quan liêu- bao cấp sang phát triển nền kinh
tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thi trường có sự quản lý của Nhà
nứơc theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
b. Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
* Khái niệm:
- Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa tính chất là kiểu tổ
chức nền kinh tế - xã hội vừa dựa trên những nguyên tắc và quy luật của

kinh tế thị trường, vừa dựa trên những nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa
xã hội.
Bởi vậy, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có hai nhóm
nhân tố cơ bản tồn tại trong nhau, kết hợp với nhau và bổ sung cho nhau. Đó
là nhóm nhân tố của kinh tế thị trường và nhóm nhân tố của xu hướng mới
đang vận động, đang phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong đó,
8


nhân tố thứ nhất đóng vai trò "động lực" thúc đẩy sản xuất xã hội phát triển
nhanh hiệu quả, nhóm thứ hai đóng vai trò "hướng dẫn", "chế định" sự vận
động của nền kinh tế theo những mục tiêu đã xác định, bổ sung những mặt
tích cực, hạn chế những mặt tiêu cực của thị trường, hoàn thiện mô hình chủ
nghĩa xã hội.
* Đặc trưng cơ bản của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa ở Việt Nam.
- Về mục tiêu phát triển kinh tế thị trường
Mục tiêu hàng đầu của phát triển kinh tế thị trường ở nước ta là giải
phóng sức sản xuất, động viên mọi nguồn lực trong nước và ngoài nước để
thực hiện, công nghiệp hoá - hiện đại hoá, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật
của công nghiệp xã hội, nâng cao hiệu quả kinh tế - xã hội, cải thiện từng
bước đời sống nhân dân. Khác với những nước khác, ở nước ta, thực hiện tư
tưởng Hồ Chí Minh và đường lối đổi mới của Đảng. Lấy sản xuất gắn liền
với cải thiện đời sống nhân dân, tăng trưởng kinh tế đối với tiến bộ và công
bằng xã hội, khuyến khích làm giàu hợp pháp, gắn liền với xoá đói giảm
nghèo.
- Nền kinh tế thị trường bao gồm nhiều thành phần, trong đó kinh tế
nhà nước giữ vai trò chủ đạo.
Trong nền kinh tế nước ta tồn tại ba loại hình sở hữu cơ bản là sở hữu
toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân. Từ ba loại hình sở hữu cơ bản đó

hình thành nhiều thành phần kinh tế, nhiều tổ chức sản xuất kinh doanh.
Các thành phần kinh tế đó là kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế cá thể,
kinh tế tiểu chủ, kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế có
vốn đầu tư nước ngoài, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Các
thành phần kinh tế nói trên tồn tại một cách khách quan và là những bộ phận
cần thiết của nền kinh tế trong thời kỳ qua độ lên Chủ nghĩa xã hội. Vì vậy,
9


phát triển kinh tế thị trường nhiều thành phần là một tất yếu đối với nước ta.
chỉ có như vậy, chúng ta mới khai thác được mọi nguồn lực kinh tế, nâng
cao được hiệu quả kinh tế, phát huy được tiềm năng của các thành phần kinh
tế vào phát triển chung của nền kinh tế đất nước nhằm thoả mãn nhu cầu
ngày càng tăng của nhân dân.
Trong nền kinh tế thị trường nhiều thành phần ở nước ta, kinh tế nhà
nước giữ vai trò chủ đạo. Việc xác lập vài trò chủ đạo của kinh tế nhà nước
là vấn đề có tính nguyên tắc và là sự khác biệt có tính chất bản chất giữa
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với kinh tế thị trường tư bản
chủ nghĩa. Tính định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường ở
nước ta đã quyết định kinh tế nhà nước phải giữ vai trò chủ đạo trong cơ cấu
kinh tế nhiều thành phần. Bởi lẽ mỗi một chế độ xã hội đều có một cơ sở
kinh tế tương ứng với nó, kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể tạo nền
tảng cho chế độ xã hội mới - xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
- Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, thực hiện
nhiều hình thức phân phối thu nhập, trong đó lấy phân phối theo lao động là
chủ yếu.
Mỗi chế độ xã hội có chế độ phân phối tương ứng với nó. Chế độ
phân phối do quan hệ sản xuất thống trị, trước hết là quan hệ sở hữu quyết
định. Nhưng quan hệ phân phối, các hình thức thu nhập là hình thức thực
hiện về mặt kinh tế của quan hệ sản xuất về tư liệu sản xuất.

Trong nền kinh tế thị trường ở nước ta, tồn tại các hình thức phân
phối thu nhập sau đây: phân phối theo lao động, phân phối thông qua các
quỹ phúc lợi tập thể và xã hội; phân phối theo đóng góp.
Sự khác biệt cơ bản giữa kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa với kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa là ở chỗ xác lập chế độ công
hữu và thực hiện phân phối theo lao động. Phân phối theo lao động là đặc
10


trưng cơ bản của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nó là hình
thức thực hiện về mặt kinh tế của chế độ công hữu. Vì thế phân phối theo lao
động được xác định là hình thức phân phối chủ yếu trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội. Bên cạnh đó việc phân phối thông qua các quỹ phúc lợi xã
hội và tập thể có ý nghĩa quan trọng để thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh
tế gắn liền với cải thiện đời sống nhân dân, với tiến bộ và công bằng xã hội.
- Cơ chế vận hành nền kinh tế là cơ chế thị trường có sự quản lý của
nhà nước xã hội chủ nghĩa.
Nhà nước quản lý nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
theo nguyên tắc kết hợp kế hoạch với thị trường. Thị trường là một bộ phận
cấu thành của nền kinh tế, nó tồn tại khách quan, tự vận động theo những
quy luật vốn có của nó. Còn kế hoạch hoá là hình thức thực hiện của tính kế
hoạch, nó là sản phẩm chủ quan của chủ thể quản lý kế hoạch và cơ chế thị
trường là hai phương tiện khác nhau để phát triển và điều tiết nền kinh tế. Kế
hoạch là sự điều chỉnh có ý thức của chủ thể quản lý đối với nền kinh tế, còn
cơ chế thị trường là sự tự điều tiết của bản thân nền kinh tế. Vì vậy kế hoạch
và thị trường cần được kết hợp với nhau ở cả tầm vĩ mô lẫn vi mô trong cơ
chế vận hành nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa cũng là nền
kinh tế mở, hội nhập.
Đặc điểm này phản ánh sự khác biệt giữa nền kinh tế thị trường định

hướng xã hội chủ nghĩa mà chúng ta đang xây dựng với nền kinh tế đóng,
khép kín trước đổi mới, đồng thời phản ánh xu hướng hội nhập của nền kinh
tế nước ta trong điều kiện toàn cầu hoá kinh tế.
Thực hiện mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại theo hướng đa phương
hoá và đa dạng hoá các hình thức đối ngoại, gắn thị trường trong nước với
thị trường khu vực và thế giới, trang thủ mọi cơ hội để mở ra thị trường mới,
11


thực hiện những thông lệ trong quan hệ kinh tế nhưng vẫn giữ được độc lập
chủ quyền và bảo vệ được lợi ích quốc gia, dân tộc trong quan hệ kinh tế đối
ngoại.
II. VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN NỀN
KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở
VIỆT NAM
1. Thực trạng của kinh tế thị trường ở Việt Nam thời kỳ quá độ
a. Trình độ phát triển nền kinh tế thị trường ở nước ta còn ở giai
đoạn sơ khai. Nó được biểu hiện rất rõ như:
+ Cơ sở vật chất - kỹ thuật còn ở trình độ thấp, trong nhiều ngành kinh
tế, máy móc thiết bị cũ kỹ, công nghệ lạc hậu. Lao động thủ công vẫn thiếm
tỷ trọng lớn trong tổng số lao động xã hội.
+ Kết cấu hạ tầng như hệ thống đường giao thông, bến cảng, hệ thống
thông tin liên lạc còn lạc hậu, kém phát triển.
+ Do cơ sở vật chất - kỹ thuật còn ở trình độ thấp làm cho phân công
lao động kém phát triển, sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế chậm, nền kinh tế
nước ta chưa thoát khỏi nền kinh tế nông nghiệp.
+ Khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp trên thị trường trong
nước, cũng như thị trường nước ngoài còn rất yếu.
b. Thị trường dân tộc thống nhất đang trong quá trình hình thành
nhưng chưa đồng bộ.

+ Thị trường hàng hoá dịch vụ đã hình thành nhưng còn hạn hẹp và
còn nhiều hoạt động tiêu cực (hàng giả, hàng nhập lậu…).
+ Thị trường hàng hoá sức lao động mới manh nha, một số trung tâm
giới thiệu việc làm và xuất khẩu lao động mới xuất hiện nhưng đã nảy sinh
hiện tưởng khủng hoảng.

12


+ Thị trường tiền tệ, thị trường vốn đã có nhiều tiến bộ nhưng vẫn còn
nhiều trắc trở.
+ Thị trường chứng khoán ra đời nhưng cũng chưa có nhiều "hàng
hoá" để mua bán và mới có rất ít doanh nghiệp đủ điều kiện tham gia thị
trường này.
c. Nhiều thành phần kinh tế tham gia thị trường.
Do vậy nền kinh tế nước ta có nhiều loại hình sản xuất hàng hoá cùng
tồn tại, đan xen nhau, trong đó sản xuất hàng hoá (phân tán còn phổ biến).
d. Sự hình thành thị trường trong nước gắn với mở rộng kinh tế đối
ngoại, hội nhập vào thị trường khu vực và thế giới, trong hoàn cảnh trình độ
phát triển kinh tế - kỹ thuật của nước ta thấp xa so với hầu hết các nước
khác.
e. Quản lý Nhà nước về kinh tế - xã hội còn yếu
Văn kiện Đại hội đai biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng ta nhận
định về vấn đề này như sau "Hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách chưa
đồng bộ và nhất quán, thực hiện chưa nghiêm.
Công tác tài chính, ngân hàng, giá cả, kế hoạch hoá, kế hoạch xây
dựng, quản lý đất đai còn nhiều yếu kém, thủ tục hành chính đổi mới chậm.
Thương nghiệp Nhà nước bỏ trống một số trận địa quan trọng, chưa phát huy
tốt vai trò chủ đạo trên thị trường. Quản lý xuất nhập khẩu có nhiều sơ hở,
tiêu cực, một số trường hợp gây tác động xấu đối với sản xuất. Chế độ phân

phối còn nhiều bất hợp lý. Bội chi ngân sách và nhập siêu còn lớn, lạm phát
bị kiềm chế nhưng chưa vững chắc".
2. Nguyên nhân của thực trạng trên:
Sở dĩ có tình trạng trên là do những nguyên nhân khách quan và chủ
quan, trong đó nguyên nhân chủ quan là chính.
a, Nguyên nhân khách quan:
13


- Do những yếu kém vốn có của nền kinh tế.
- Do những thiên tai lớn xảy ra liên tiếp.
- Do cuộc khủng hoảng tài chính- kinh tế ở một số nước Châu á.
- Do tình hình thế giới và tình hình khu vực luôn có nhưng diễn biến
bất ngờ và phức tạp.
b, Nguyên nhân chủ quan:
- Việc tổ chức thực hiện nghị quyết, chủ trương chính sách của Đảng
chưa tốt, kỷ luật, kỷ cương chưa nghiêm.
- Một số quan điểm , chủ trương chưa rõ, chưa có sự nhận thức thống
nhất và chưa được thông suốt giữa các cấp, các ngành.
- Cải cách hành chính tiến hành chậm, thiếu kiên quyết, hiệu quả thấp.
- Công tác tư tưởng, công tác lý luận, tổ chức cán bộ có nhiều yéu
kém, bất cập

14


3. Bài học kinh nghiệm:
Quá trình 15 năm đổi mới (1986 - 2000) đã cho chúng ta nhiều kinh
nghiệm quý báu. Nhiều bài học đổi mới do Đại hội VI, VII, VIII của Đảng
nêu lên đến nay vẫn còn giá trị, nhất là những bài học chủ yếu sau đây.

Một là, trong quá trình đổi mới phải kiên trì mục tiêu độc lập dân tộc
và chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ
Chí Minh.
Hai là, đổi mới phải dựa vào nhân dân, vì lợi ích của nhân dân, phù
hợp với thực tiễn, luôn luôn sáng tạo.
Ba là, đổi mới phải kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.
Bốn là, đường lối đúng đắn của Đảng là nhân tố quyết định thành
công của sự nghiệp đổi mới.
4. Vai trò của Nhà nước và giải pháp tăng cường vai trò của Nhà
nước.
a. Vai trò của Nhà nước
- Cơ chế quản lý và vận hành nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa là cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước dưới sự lãnh
đạo của Đảng cộng sản Việt Nam. Thực hiện cơ chế đó sẽ bảo đảm tính định
hướng, điều khiển hướng tới đích xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế theo
phương châm: Nhà nước điều tiết vĩ mô, thị trường hướng dẫn doanh
nghiệp.
Cơ chế vận hành nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
thể hiện trên các mặt như Nhà nước đóng vai trò là "nhân vật trung tâm" và
quản lý kinh tế vĩ mô, thông qua các chức năng:
+ Tạo môi trường pháp lý, kinh tế - xã hội ổn định thuận lợi để cho
các chủ thể kinh tế hoạt động theo cơ chế thị trường

15


+ Định hướng và hướng dẫn sự phát triển kinh tế - xã hội bằng việc
soạn thảo, ban hành các kế hoạch, quy hoạch, các chương trình phát triển
kinh tế - xã hội và các chính sách (đặc biệt là các chính sách tài chính, tiền
tệ, tín dụng) để hướng các chủ thể kinh tế vào thực hiện các kế hoạch, quy

hoạch và các chương trình phát triển kinh tế - xã hội đã đặt ra;
+ Tổ chức là một chức năng quan trọng của quản lý Nhà nước về kinh
tế, nó bao gồm: Nhà nước sắp xếp, tổ chức lại các đơn vị kinh tế, đặc biệt là
sắp xếp, củng cố các doanh nghiệp Nhà nước; phân phối các khu công
nghiệp tập trung, các vùng kinh tế nhằm tạo ra cơ cấu kinh tế hợp lý, phù
hợp với nền kinh tế thị trường; tổ chức lại hệ thống quản lý, sắp xếp lại các
cơ quan quản lý Nhà nước về kinh tế. Đổi mưói thể chế và thủ tục hành
chính. Đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ, công chức quản lý Nhà nước và
quản lý doanh nghiệp; thiết lập mối quan hệ kinh tế với các nước và các tổ
chức kinh tế quốc tế.
+ Điều tiết kinh tế, điều hành vĩ mô nên kinh tế, trong đó Nhà nước
cần cân nhắc kỹ lưỡng những mệnh lệnh hành chính để cho các hoạt động
thị trường được diễn ra chủ yếu theo sự hướng dẫn của các quy luật giá trị,
quy luật cung cầu, cạnh tranh; bảo đảm nguyên tắc vận hành của nền kinh tế
là nguyên tắc thị trường "tự điều chỉnh". Mặt khác, do thị trường trong nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa không phải là thị trường tự
điều tiết hoàn toàn, mà còn phải phục vụ các mục tiêu kinh tế - xã hội của
đất nước trong từng thời kỳ, do đó nó còn phải chịu sự quản lý của Nhà nước
xã hội chủ nghĩa. Do vậy, không thể xem các quan hệ thị trường hoạt động
theo quy luật kinh tế khách quan một cách biệt lập với sự điều tiết của Nhà
nước bằng các chính sách kinh tế của mình.
+ Nhà nước thực hiện chức năng kiểm tra, kiểm soát nhằm thiết lập kỷ
cương trong hoạt động kinh tế, phát hiện và ngăn chặn các hiện tượng vi
16


phạm pháp luật và làm sai chính sách, bảo vệ tài sản quốc gia và lợi ích của
nhân dân, góp phần tăng trưởng kinh tế và từng bước thực hiện công bằng xã
hội.


17


b. Giải pháp tăng cường vai trò của Nhà nước
Đối với nước ta hiện nay đang ở giai đoạn đầu của quá trình xây dựng
Nhà nước ngày càng phát triển thoát li khỏi các hoạt động kinh doanh,
nhưng vai trò quản lý kinh tế của Nhà nước không hề giảm sút. Nhà nước
không chỉ có trách nhiệm để cho và làm cho thị trường hoạt động hiệu quả
mà còn phải sử dụng kinh tế thị trường phục vụ cho mục tiêu của Chủ nghĩa
xã hội. Điều này đòi hỏi Nhà nước phải làm tốt vai trò quản lý nền kinh tế,
thể hiện qua một số giải pháp sau:
1. Đưa nền kinh tế đi đúng quỹ đạo tiến lên chủ nghĩa xã hội chứ
không phải tự phát đi theo con đường tư bản chủ nghĩa thực hiện thắng lợi
các mục tiêu do Đảng và Nhà nước đề ra trong mỗi thời kỳ. Nhà nước phải
có vai trò quan trọng trong việc định hướng phát triển kinh tế đất nước.
Công cụ của việc định hướng phát triển kinh tế - xã hội của Nhà nước bao
gồm nhiều loại, trong đó chủ yếu là: hoạch định chiến lược phát triển, quy
hoạch phát triển, kế hoạch phát triển.
2. Cung ứng hàng hoá công cộng, những hàng hoá dịch vụ mà thị
trường không cung ứng hay cung ứng không dầy đủ, đặc biệt là kết cấu hạ
tầng kinh tế và xã hội.
3. Cung cấp các dịch vụ xã hội là một trách nhiệm tối cao khác của
Nhà nước. Nhà nước cần tăng chi tiêu cho cả giáo dục, y tế và các dịch vụ xã
hội khác, đồng thời phải đảm bảo mọi người được bình đẳng trong việc tiếp
cận với các dịch vụ đó. Chính phủ cần tham gia cung ứng các dịch vụ này do
các dịch vụ này có tác động tích cực ra bên ngoài, tức là có lợi ích xã hội,
lợi ích cá nhân và do đó khu vực tư nhân không cung cấp đầy đủ.
4. Cung cấp một khung pháp lý đầy đủ, đồng bộ nhất quán, minh bạch
và vững chắc, không chỉ là một hệ thống luật lệ và quy định, mà còn bao
hàm các định chế cần thiết để thực hiện và cưỡng chế việc thi hành pháp

18


luật. Trong các nền kinh tế thị trường phần lớn các giao dịch dựa trên hợp
đồng. Khi những luật lệ quy định quyền sở hữu được rõ ràng và cơ chế
cưỡng bức thi hành luật vận hành tốt thì chi phí hoạt động kinh doanh thấp
hơn và thị trường vận hành hiệu quả hơn.
5. Thực hiện nhất quán chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần,
tạo ra một môi trường khuyến khích cạnh tranh và một sân chơi bình đẳng
cho mọi cá nhân, tổ chức không phân biệt thành phần kinh tế và hình thức sở
hữu trong việc sử dụng các nguồn lực phát triển, lựa chọn việc làm và tham
gia vào các hoạt động kinh doanh là một chức năng quan trọng khác của Nhà
nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
6. Tạo môi trường thuận lợi cho sự hình thành và phát triển đồng bộ
các loại thị trường như thị trường tài chính, thị trường hàng hoá, dịch vụ, thị
trường lao động, đất đai…nhằm giải phóng lực lượng sản xuất và thực hiện
vai trò tổ chức quản lý để cho các loại thị trường này hoạt động theo các quy
luật vốn có. Cần phải loại bỏ những méo mó của thị trường và xây dựng nền
tảng thể chế và pháp lý cho các thị trường ra đời và vận hành có hiệu quả..
Chính phủ trước mắt nên tạo ra cơ hội cho thị trường hoạt động càng tự do
càng tốt.
7. Gắn phát triển kinh tế với bảo vệ tài nguyên, môi trường và cân
bằng sinh thái, đảm bảo sự phát triển bền vững. Bên cạnh mục tiêu thúc đẩy
tăng trưởng nhanh và bền vững, Nhà nước còn phải đóng vai trò quan trọng
trong việc thực hiện mục tiêu công bằng xã hội để đảm bảo cho cả cộng
đồng chứ không phải chỉ một số người được hưởng lợi ích từ thành tựu phát
triển chung của nền kinh tế, nhằm phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân
tộc cùng tham gia phát triển kinh tế.

19



Đây chính là vấn đề cốt lõi của nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa, một tiêu chí quan trọng bậc nhất để phân định chủ nghĩa xã
hội và chủ nghĩa tư bản.
8. Đảm bảo một môi trường kinh tế vĩ mô ổn định. chỉ trên cơ sở một
môi trường kinh tế, chính trị, xã hội ổn định và có thể dự đoán được, các gia
đình mới yên tâm đầu tư tiết kiệm dài hạn của mình vào thị trường tài chính
chính thức và các doanh nghiệp không lo ngại khi đầu tư vào các dự án có
thời gian thu hồi vốn dài. Những kinh nghiệm thành công nhất về phát triển
kinh tế ở Đông á, Trung Quốc cho thấy sự ổn định kinh tế vĩ mô có thể được
duy trì trên cơ sở các yếu tố như mức thâm hụt ngân sách thấp, tốc độ tăng
trưởng tiền tệ và tín dụng hợp lý, các khoản nợ của khu vực công cộng duy
trì ở mức có thể quản lý được, lãi suất thực dụng và tránh để đồng nội tệ bị
đánh giá quá cao.
Tóm lại: Trong quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, Nhà nước cần giảm mạnh nhiệm vụ sản xuất,
phân phối hàng hoá và dịch vụ. Sự can thiệp của Nhà nước chỉ hợp lý ở
những lĩnh vực mà thị trường không cung cấp hoặc cung cấp không hiệu
quả. Nhà nước cần hạn chế sự kiểm soát trực tiếp các hoạt động kinh doanh
của khu vực tư nhân; thay vào đó Nhà nước nên tập trung vào xây dựng cơ
sở hạ tầng, ổn định kinh tế vĩ mô và tạo dựng một môi trường thể chế và
pháp lý, kích thích cạnh tranh và tạo sân chơi bình đẳng cho mọi doanh
nghiệp và cá nhân giam gia vào các hoạt động kinh tế; đảm bảo cho mọi
người cùng được hưởng lợi từ thành quả phát triển chung của nền kinh tế.

20


KẾT LUẬN

Sau hơn 10 năm thực hiện đường lối đổi mới, chúng ta đã được những
thành tựu đáng kể đưa đất nước thoát khỏi khủng hoảng kinh tế- xã hội. Tuy
nhiên nền kinh tế còn nhiều khó khăn, yếu kém đặc biệt là nước ta chưa
thoát khỏi một nước nghèo. Để vượt qua bức tường đó, trước mắt chúng ta
không ít những thách thức lớn, trong đó nguy cơ tụt hậu to lớn và gay gắt.
Đồng thời chúng ta cũng có những cơ hội để phát triển. Vấn đề đặt ra là phải
chủ động nắm thời cơ , kiên quyết đẩy lùi và khắc phục những nguy cơ
nhằm vươn lên phát triển nhanh, vững chắc và đúng hướng. Điều đó đòi hỏi
phải nâng cao hơn nữa vai trò quản lý kinh tế của Nhà nước, nhằm thực hiện
tốt hơn chức năng định hướng chỉ đạo và dẫn dắt nội lực phát triển, tạo
khuôn khổ pháp luật thống nhất, môi trường ổn định, hạn chế tiêu cực của cơ
chế thị trường …đáp ứng yêu cầu tăng trưởng nhanh, ổn định, vững chắc và
công bằng xã hội.

21


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Triết học Mac-Lênin . NXB Chính trị quốc gia
2. Giáo trình Kinh tế chính trị Mac-Lênin . NXB Chính trị quốc gia
3. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII. NXB Chính trị
quốc gia.
4. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX. NXB Chính trị
quốc gia.
5. Tạp chí Kinh tế và phát triển số 90 tháng 12 năm 2004
6. Tạp chí Kinh tế và phát triển số
7. Tạp chí Triết học số

tháng


tháng

năm 2004

năm 2004

8. Tạp chí Cộng sản số 22 tháng 11 năm 2004
9. Tạp chí Cộng sản số 20 tháng 10 năm 2004

22


23



×