1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thị trường chứng khoán Việt Nam tuy mới hình thành và còn non trẻ
nhưng sự phát triển của nó trong những năm gần đây đã thu hút sự tham gia
của toàn xã hội.
Một trong những nguyên nhân quan trọng góp phần “lôi kéo” các nhà
đầu tư là hiệu quả kinh doanh và triển vọng tăng trưởng của các công ty
niêm yết . Các nhà đầu tư có xu hướng đầu tư vào những công ty làm ăn có
hiệu quả và có triển vọng tăng trưởng cao. Nhiều bằng chứng khoa học
(chẳng hạn mô hình định giá CAPM) cho thấy lợi nhuận (hay cổ tức) là một
trong những yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến giá trị thị trường cổ phiếu. Thị
trường chứng khoán Việt Nam cũng không nằm ngoài quy luật ấy. Friedland
(1994) cung cấp bằng chứng cho thấy khi công ty cổ phần niêm yết muốn
huy động vốn, họ thường điều chỉnh lợi nhuận cao nhất có thể để tác động
đến giá bán cổ phiếu phát hành. Khi không có nhu cầu tăng vốn các công ty
thường duy trì mức lợi nhuận hợp lý (nếu có thể) nhằm giữ giá cổ phiếu của
công ty không sụt giảm. Nói cách khác, tối đa hóa giá trị thị trường của công
ty là mục tiêu ưu tiên của các công ty cổ phần niêm yết.
Báo cáo tài chính được lập dựa trên cơ sở của chuẩn mực kế toán.
Chuẩn mực kế toán luôn tồn tại một “khoảng không tự do” nào đó, thông qua
đó các công ty có thể lựa chọn để làm “đẹp” báo cáo tài chính, tạo lập và
cung cấp thông tin tài chính thuận lợi nhằm tác động tích cực đến giá cổ
phiếu công ty.
Giảm chi phí thuế ( theo nghĩa rộng, bao gồm cả số tuyệt đối số thuế
phải nộp và giảm chi phí cơ hội thông qua dịch chuyển thời gian nộp thuế )
2
là một trong những mục tiêu ưu tiên của bất kỳ công ty nào, ngay cả đối với
công ty cổ phần niêm yết mặc dù ở những công ty này còn tồn tại những mục
tiêu cạnh tranh khác, chẳng hạn tối đa hóa lợi nhuận để ảnh hưởng đến giá cổ
phiếu của công ty. Lập luận này được khẳng định phần nào qua kết quả
nghiên cứu của Nguyễn Thị Minh Trang (2010). Đối với công ty cổ phần
niêm yết, như đã nói ở trên, tối đa hóa giá trị thị trường của công ty là mục
tiêu ưu tiên hàng đầu. Tuy nhiên khi có cơ hội, liệu các công ty cổ phần niêm
yết có báo cáo lợi nhuận thấp hơn để giảm thuế thu nhập doanh nghiệp hay
không? Chẳng hạn, việc giảm thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp từ 28%
xuống còn 25% kể từ năm 2009 mang lại cơ hội lớn cho các công ty thực
hiện điều chỉnh lợi nhuận để tiết kiệm thuế. Thật vậy, báo cáo lợi nhuận thấp
hơn thấp hơn thực tế trong năm 2008, dịch chuyển phần lợi nhuận được
“điều chỉnh” này sang năm 2009 thì công ty sẽ tiết kiệm được 3% trên phần
lợi nhuận dịch chuyển: một lợi ích không thể bỏ qua đối với bất kỳ công ty
nào, kể cả công ty cổ phần niêm yết. Để trả lời cho câu hỏi trên đây, luận văn
muốn xem xét hành vi điều chỉnh lợi nhuận của công ty cổ phần niêm yết
trong bối cảnh thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp giảm từ 28% xuống còn
25% kể từ năm 2009.
Qua tìm hiểu về tình hình thị trường chứng khoán Việt Nam, nghiên cứu
các mô hình lý thuyết về điều chỉnh lợi nhuận được áp dụng trên thế giới, tôi
quyết định chọn đề tài “Ảnh hưởng của sự thay đổi tỷ suất thuế thu nhập
doanh nghiệp đến việc điều chỉnh lợi nhuận: Trường hợp các công ty cổ
phần niêm yết tại Sở giao dịch chứng khoán TP Hồ Chí Minh” làm luận
văn tốt nghiệp của mình.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu của nghiên cứu này là nhằm làm rõ hành vi quản trị lợi
nhuận trong các công ty có nhiều mục tiêu cạnh tranh trong việc báo cáo lợi
3
nhuận. Cụ thể, luận văn tìm kiếm câu trả lời: có hay không việc điều chỉnh
lợi nhuận để giảm chi phí thuế thu nhập doanh nghiệp trong khi hành động
này có thể làm tổn hại đến mục tiêu tối đa hóa giá trị thị trường của công ty?
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là hành động quản trị lợi nhuận
trong bối cảnh giảm thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp ở các công ty cổ
phần niêm yết. Bối cảnh lựa chọn là thời điểm có sự thay đổi thuế suất thuế
thu nhập doanh nghiệp: năm 2008.
4. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp nghiên cứu kinh nghiệm, thu thập số
liệu báo cáo tài chính để kiểm định giả thuyết về hành động quản trị lợi
nhuận của các công ty cổ phần niêm yết. Số liệu báo cáo tài chính được thu
thập từ Sở Giao dịch chứng khoán TP Hồ Chí Minh. Sử dụng mô hình đánh
giá quản trị lợi nhuận của Friedlan (1994) để kiểm định giả thuyết. Phân tích
kết quả được thực hiện thông qua việc vận dụng các công cụ thống kế toán
(phân tích phi tham số Wilcoxon)
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Về mặt nghiên cứu, đề tài này được xem có thể là một trong các
nghiên cứu kinh nghiệm đầu tiên ở nước ta về quản trị lợi nhuận của các
công ty cổ phần niêm yết. Thật vậy, chúng tôi chưa tìm thấy nghiên cứu kinh
nghiệm nào về hành động quản trị lợi nhuận của các công ty niêm yết tại
nước ta.
Về mặt thực tiễn, kết quả của nghiên cứu này sẽ cung cấp bằng chứng
về hành động quản trị lợi nhuận của các công ty niêm yết trong bối cảnh
giảm thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp, qua đó cảnh báo cho các nhà đầu
4
tư, các cơ quan hoạch định chính sách về tính trung thực của chỉ tiêu lợi
nhuận.
6. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục, danh mục và tài liệu tham khảo,
luận văn gồm có bốn chương.
Chương 1: Cơ sở lý thuyết về quản trị lợi nhuận trong điều kiện thay
đổi thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp.
Chương 2: Giả thuyết và phương pháp nghiên cứu.
Chương 3: Phân tích và trình bày kết quả
Chương 4: Kết luận và gợi ý từ vấn đề nghiên cứu
5
Chương 1
CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ ĐIỀU CHỈNH LỢI NHUẬN KHI
CÓ SỰ THAY ĐỔI THUẾ SUẤT THUẾ THU NHẬP DOANH
NGHIỆP Ở CÔNG TY CỔ PHẦN NIÊM YẾT
1.1. Mục tiêu điều chỉnh lợi nhuận của công ty cổ phần niêm yết
Sự ra đời của mô hình công ty cổ phần đã làm thay đổi bộ mặt và vai trò
của thị trường chứng khoán trên thị trường tài chính thế giới. Công ty cổ
phần được hình thành và phát triển qua phương thức huy động vốn trên thị
trường chứng khoán. Việc phát hành trái phiếu và đặc biệt là cổ phiếu cũng
như các loại chứng khoán đa dạng khác đã giúp công ty cổ phần có được ưu
thế tuyệt đối về vốn so với các lọai hình doanh nghiệp khác. Điều đó nói lên
sự tương tác giữa công ty cổ phần và thị trường chứng khoán. Thị trường
chứng khoán lớn mạnh như ngày nay chủ yếu nhờ vào sự phát triển cả về số
lượng và chất lượng của các công ty cổ phần.
Theo Luật Doanh nghiệp, công ty cổ phần là doanh nghiệp trong đó:
Vốn điều lệ được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần. Cổ đông
chỉ chịu trách nhiệm về nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp
trong phạm vi số vốn góp vào doanh nghiệp. Công ty cổ phần có quyền phát
hành chứng khoán ra công chúng theo quy định của pháp luật về chứng
khoán và các cổ đông có quyền tự do chuyển nhượng cổ phần của mình.
Công ty cổ phần có ba loại hình :
- Công ty cổ phần nội bộ là công ty nhỏ, mới thành lập, số lượng cổ
đông ít, chỉ phát hành cổ phiếu trong nội bộ công ty.
- Công ty cổ phần đại chúng là công ty cổ phần có phát hành rộng rãi
cổ phiếu ra công chúng, ngoài các đối tượng nội bộ công ty.
6
- Công ty cổ phần niêm yết là các công ty cổ phần đại chúng có đủ
điều kiện, được Sở giao dịch chứng khóan lựa chọn theo những tiêu chuẩn
nhất định để niêm yết trên sở.
Quản trị lợi nhuận của các công ty cổ phần niêm yết nhằm đến những
mục tiêu sau đây [8] :
* Vì lợi ích của cổ đông (tối đa hóa giá trị thị trường của cổ phiếu)
Các doanh nghiệp nói chung và công ty cổ phần nói riêng có rất nhiều
mục tiêu khác nhau được đề ra, nhưng dưới góc độ quản trị tài chính, mục
tiêu của doanh nghiệp là tối đa hóa giá trị tài sản của chủ sở hữu [5].
- Tối đa hóa lợi nhuận sau thuế. Tuy nhiên, tối đa hóa lợi nhuận sau
thuế chưa hẳn gia tăng được giá trị cho cổ đông. Do đó, chỉ tiêu tối đa hóa
lợi nhuận cần được bổ sung bằng chỉ tiêu tối đa hóa lợi nhuận trên vốn cổ
phần.
- Tối đa hóa lợi nhuận trên cổ phần. Chỉ tiêu này có thể bổ sung cho
chỉ tiêu đầu tiên. Tuy nhiên, chỉ tiêu này vẫn còn những hạn chế của nó. Thứ
nhất, tối đa hóa lợi nhuận trên cổ phần không xét đến yếu tố thời giá tiền tệ
và độ dài thời gian của lợi nhuận kỳ vọng. Thứ hai, cũng chưa xét đến yếu tố
rủi ro, và nó cũng không cho phép sử dụng chính sách cổ tức để tác động đến
giá cổ phiếu trên thị trường.
- Tối đa hóa giá trị thị trường của cổ phiếu là mục tiêu thích hợp nhất
của công ty cổ phần vì nó kết hợp nhiều yếu tố như độ dài thời gian, rủi ro,
chính sách cổ tức và những yếu tố khác có ảnh hưởng đến giá cổ phiếu.
* Tối thiểu chi phí thuế
Tối thiểu chi phí thuế thu nhập doanh nghiệp cũng góp phần gia tăng
lợi ích cho chủ sở hữu (cổ đông). Các công ty cổ phần niêm yết thường là
các công ty hàng đầu trong các lĩnh vực, ngành nghề kinh doanh, có quy mô
lớn (chẳng hạn để được niêm yết tại Sở giao dịch chứng khóan thì công ty
7
phải có vốn điều lệ ít nhất 80 tỷ đồng). Với quy mô họat động lớn như vậy
nên mức lợi nhuận chịu thuế của các công ty cổ phần niêm yết thường rất lớn
và như vậy chi phí thuế thu nhập doanh nghiệp cũng rất lớn. Vậy làm thế nào
để giảm lợi nhuận chịu thuế nhằm tiết kiệm chi phí thuế thu nhập doanh
nghiệp, tăng lợi nhuận sau thuế và từ đó gia tăng giá trị cổ phần cũng là một
động cơ quan trọng của các nhà quản trị công ty. Các công ty thực hiện tối
thiểu chi phí thuế theo hai hướng: (1) dịch chuyển thời hạn nộp thuế về sau,
và từ đó tạo ra chi phí cơ hội trên số thuế nộp chậm; (2) giảm tuyệt đối số
thuế phải nộp bằng cách báo cáo lợi nhuận chịu thuế giảm trong năm trước
năm giảm thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp, chẳng hạn, các công ty có
thể báo cáo thu nhập chịu thuế thấp trong năm 2008 (thuế suất 28%), chuyển
số lợi nhuận này qua năm 2009 (thuế suất 25%).
Tuy nhiên, mục tiêu giảm thuế trong một năm nào đó (thông qua báo
cáo lợi nhuận giảm) sẽ có ảnh hưởng ngược lại với mục tiêu đầu tiên. Thật
vậy, về nguyên tắc, tất cả các cổ đông đều không muốn cổ phiếu mình nắm
giữ giảm giá. Giá cổ phiếu càng cao đồng nghĩa với kỳ vọng càng lớn của họ
về khả năng sinh lợi của công ty, từ đó gây sức ép lên các nhà quản trị về
việc phải tạo ra mức lợi nhuận cao tương ứng nếu không muốn nhận phản
ứng tiêu cực từ thị trường, không làm nản lòng nhà đầu tư. Hơn nữa, một
lượng lớn cổ phiếu thuộc sở hữu của các nhà lãnh đạo doanh nghiệp, nên bản
thân họ cũng không muốn giá cổ phiếu mình đang nắm giữ bị sụt giảm. Do
đó, nếu không đạt được kết quả kinh doanh như mong muốn, các công ty cổ
phần niêm yết sẽ có động lực điều chỉnh tăng lợi nhuận để “làm đẹp” báo
cáo tài chính công bố. Vậy các công ty cổ phần niêm yết sẽ lựa chọn mục
tiêu tối đa hóa giá trị cổ phiếu bằng cách “làm đẹp” báo cáo tài chính công
bố hay chọn mục tiêu tiết kiệm một lượng đáng kể chi phí thuế thu nhập
doanh nghiệp có thể thực hiện được trong thời điểm này. Nếu lựa chọn mục
8
tiêu tối đa hóa giá trị thị trường của cổ phiếu thì các nhà quản trị phải thực
hiện điều chỉnh tăng lợi nhuận trên báo cáo tài chính. Nếu chọn mục tiêu tiết
kiệm thuế thu nhập doanh nghiệp thì phải thực hiện việc điều chỉnh giảm thu
nhập chịu thuế. Tại Việt Nam tồn tại một mối liên hệ chặt chẽ giữa kế toán
và thuế, luật thuế can thiệp mạnh mẽ vào lĩnh vực kế toán để quy định các
nguyên tắc đánh giá, nguyên tắc lập và trình bày báo cáo tài chính. Vì vậy,
nhà quản trị có thể thực hiện việc điều chỉnh lợi nhuận chịu thuế thông qua
điều chỉnh lợi nhuận kế toán nhằm mục tiêu tiết kiệm chi phí thuế thu nhập
doanh nghiệp.
* Mục tiêu khác (chế độ tiền lương, tiền thưởng dành cho nhà quản trị)
Tiền lương, tiền thưởng là một trong những lý do khiến các nhà quản trị
công ty thực hiện điều chỉnh lợi nhuận nhằm đạt được lợi ích của chính họ.
Chế độ lương thưởng dựa vào kết quả đã tạo nên động cơ thúc đẩy nhà quản
trị điều chỉnh lợi nhuận nhằm mang lại thu nhập có lợi nhất cho họ. Rất
nhiều nghiên cứu đã chứng minh giả thuyết này. Khi lợi nhuận kinh doanh
lớn hơn giới hạn trên của mức lợi nhuận nhận tiền thưởng, nhà quản trị sử
dụng các phương pháp kế toán để điều chỉnh lợi nhuận giảm xuống nhưng
vẫn nằm trong mức đạt tiền thưởng. Việc này làm dịch chuyển lợi nhuận một
phần lợi nhuận vào năm sau. Ngược lại, khi lợi nhuận thực tế nhỏ hơn nhiều
so với giới hạn dưới của mức lợi nhuận đạt tiền thưởng thì nhà quản trị sẽ
điều chỉnh giảm đi để dịch chuyển phần lợi nhuận này sang năm sau vì dù
sao thì họ cũng không đạt điểm thưởng trong năm này.
9
1.2. Lựa chọn chính sách kế toán – cơ sở để điều chỉnh lợi nhuận kế toán
trong công ty cổ phần niêm yết
1.2.1. Chính sách kế toán
Theo chuẩn mực 21- Trình bày báo cáo tài chính “Chính sách kế toán
của doanh nghiệp là những nguyên tắc, cơ sở và các phương pháp kế toán cụ
thể được doanh nghiệp áp dụng trong quá trình lập và trình bày báo cáo tài
chính.”
Lựa chọn chính sách kế toán là việc chọn lựa có cân nhắc nằm trong
khuôn khổ của chuẩn mực kế toán về các nguyên tắc, cơ sở và các phương
pháp kế toán mà doanh nghiệp có thể áp dụng trong các trường hợp khác
nhau nhằm phục vụ cho mục đích chủ quan của nhà quản trị (Nguyễn Công
Phương, 2009). Việc lựa chọn một chính sách kế toán nào đó áp dụng cho
một dạng giao dịch cụ thể sẽ ảnh hưởng đến doanh thu, chi phí và hệ quả là
lợi nhuận kế toán sẽ được điều chỉnh. Để thực hiện điều chỉnh lợi nhuận, nhà
quản trị doanh nghiệp thường vận dụng tổng hợp các chính sách kế toán có
thể.
1.2.2. Khả năng lựa chọn chính sách kế toán
Chuẩn mực kế toán luôn luôn có mức linh hoạt nào đó để các doanh
nghiệp vận dụng phù hợp với đặc thù của mỗi doanh nghiệp. Dựa vào
nguyên tắc ghi nhận doanh thu, chi phí, những lựa chọn có thể của chính
sách kế toán của doanh nghiệp được trình bày tóm tắt dưới đây.
1.2.2.1. Ghi nhận doanh thu
Trường hợp giao dịch về cung cấp dịch vụ thực hiện trong nhiều kỳ kế
toán thì việc xác định doanh thu của giao dịch trong từng kỳ được thực hiện
theo phương pháp tỷ lệ hoàn thành. Theo phương pháp này, doanh thu được
10
ghi nhận trong kỳ kế toán được xác định theo tỷ lệ phần công việc đã hoàn
thành. Phần công việc hoàn thành được xác định theo một trong ba phương
pháp tùy thuộc vào bản chất của dịch vụ:
+ Đánh giá phần công việc hoàn thành
+ So sánh tỷ lệ % giữa khối lượng công việc đã hoàn thành với tổng
khối lượng công việc phải hoàn thành
+ Tỷ lệ % chi phí đã phát sinh so với tổng chi phí ước tính để hoàn
thành toàn bộ giao dịch cung cấp dịch vụ.
Phần công việc hoàn thành không phụ thuộc vào các khoản thanh toán định
kỳ hay các khoản ứng trước của khách hàng.
Một trong ba phương pháp xác định phần công việc hoàn thành để ghi
nhận doanh thu trong kỳ phụ thuộc nhiều vào ý muốn chủ quan của nhà quản
trị. Các nhà quản trị có thể ghi nhận tăng doanh thu trong kỳ so với thực tế
bằng cách đánh giá phần công việc hoàn thành, tỷ lệ % giữa khối lượng công
việc đã hoàn thành với khối lượng công việc phải hoàn thành hoặc tỷ lệ %
chi phí đã phát sinh so với tổng chi phí ước tính để hoàn thành toàn bộ giao
dịch cung cấp dịch vụ tăng lên. Hoặc ngược lại có thể ghi nhận doanh thu
giảm đi. Việc xác định mức doanh thu ghi nhận trong kỳ sẽ ảnh hưởng đến
lợi nhuận kế toán trong kỳ, từ đó có thể làm cho lợi nhuận kế toán tăng lên
hoặc giảm đi.
11
1.2.2.2. Ghi nhận chi phí
a. Ghi nhận chi phí liên quan đến hàng tồn kho
a1) Phương pháp tính giá thành của sản phẩm và ước tính giá trị sản
phẩm dở dang
Doanh nghiệp có thể lựa chọn một phương pháp đánh giá sản phẩm dở
dang cuối kỳ, ước tính mức độ hoàn thành của sản phẩm dở dang trong số
các phương pháp được phép (theo NVLTT, theo hoàn thành tương đương .
…). Việc lựa chọn và ước tính này sẽ ảnh hưởng đến giá thành sản phẩm
hoàn thành và từ đó ảnh hưởng đến giá vốn hàng bán. Hệ quả là ảnh hưởng
đến lợi nhuận trong kỳ của doanh nghiệp.
a2) Xác định giá vốn của hàng xuất kho
Có 4 phương pháp xác định giá vốn của hàng xuất kho bao gồm:
phương pháp nhập trước – xuất trước, phương pháp nhập sau – xuất trước,
phương pháp thực tế đích danh, phương pháp bình quân gia quyền. Việc lựa
chọn phương pháp tính giá hàng xuất kho sẽ liên quan trực tiếp đến giá vốn
hàng bán ra, từ đó có thể làm thay đổi chi phí sản xuất và giá vốn hàng bán
trong kỳ. Kết quả là ảnh hưởng đến lợi nhuận báo cáo trong kỳ.
a3) Dự phòng giảm giá hàng tồn kho
Vào cuối kỳ kế toán năm, khi giá trị thuần có thể thực hiện được của
hàng tồn kho nhỏ hơn giá gốc thì phải lập dự phòng giảm giá hàng tồn kho.
Việc ước tính giá trị thuần có thể thực hiện được (thông qua ước tính chi phí
hoàn thành, chi phí bán) sẽ có ảnh hưởng đến mức dự phòng cần lập hay
hoàn nhập, và từ đó ảnh hưởng đến chi phí (giá vốn hàng bán).
12
b. Ghi nhận chi phí liên quan đến TSCĐ
b1) Ghi nhận giá TSCĐ
Việc ghi nhận nguyên giá của TSCĐ có ảnh hưởng đến giá trị tính
khấu hao. Tuy nhiên, ảnh hưởng này không thường xuyên vì biến động tăng
TSCĐ không thường xuyên.
* Đối với TSCĐ hữu hình
Để ghi nhận là TSCĐ hữu hình đơn vị phải xác định mức độ chắc chắn
của việc thu được lợi ích kinh tế trong tương lai, dựa trên các bằng chứng
hiện có tại thời điểm ghi nhận ban đầu và phải chịu mọi rủi ro liên quan. Khi
xác định các bộ phận cấu thành TSCĐ hữu hình, doanh nghiệp phải áp dụng
các tiêu chuẩn TSCĐ hữu hình cho từng trường hợp cụ thể. Doanh nghiệp có
thể hợp nhất các bộ phận riêng biệt không chủ yếu như: khuôn đúc, công cụ,
khuôn dập và áp dụng các tiêu chuẩn TSCĐ hữu hình vào tổng giá trị đó.
Các phụ tùng và thiết bị phụ trợ thường được coi là tài sản lưu động và được
hạch toán vào chi phí khi sử dụng. Các phụ tùng chủ yếu và các thiết bị bảo
trì được xác định là TSCĐ hữu hình khi doanh nghiệp ước tính thời gian sử
dụng chúng nhiều hơn một năm. Nếu phụ tùng và thiết bị bảo trì chỉ được
dùng gắn liền với TSCĐ hữu hình và việc sử dụng chúng là không thường
xuyên thì chúng được hạch toán là TSCĐ hữu hình riêng biệt và được khấu
hao trong thời gian ít hơn thời gian sử dụng hữu ích của TSCĐ hữu hình liên
quan.
Trong từng trường hợp cụ thể, có thể phân bổ tổng chi phí của tài sản
cho các bộ phận cấu thành của nó và hạch toán riêng biệt cho mỗi bộ phận
cấu thành. Trường hợp này được áp dụng khi từng bộ phận cấu thành tài sản
có thời gian sử dụng hữu ích khác nhau, hoặc góp phần tạo ra lợi ích kinh tế
cho doanh nghiệp theo những tiêu chuẩn quy định khác nhau nên được sử
dụng các tỷ lệ và các phương pháp khấu hao khác nhau. Ví dụ, một thân máy
13
bay và động cơ của nó cần được hạch toán thành hai TSCĐ hữu hình riêng
biệt, có tỷ lệ khấu hao khác nhau, nếu chúng có thời gian sử dụng hữu ích
khác nhau.
* Đối với TSCĐ vô hình
Doanh nghiệp cần phân biệt các chi phí ban đầu liên quan đến TSCĐ
vô hình, chi phí nào được ghi tăng nguyên giá, chi phí nào ghi tăng chi phí
sản xuất kinh doanh trong kỳ. Việc phân biệt này ảnh hưởng đến chi phí phát
sinh trong kỳ, từ đó ảnh hưởng đến lợi nhuận trong kỳ của doanh nghiệp có
thể làm cho lợi nhuận trong kỳ của doanh nghiệp tăng lên hoặc giảm đi.
Ngoài những chi phí phát sinh liên quan trực tiếp từ khâu thiết kế, triển khai,
xây dựng đến khâu chuẩn bị đưa tài sản vào trạng thái sử dụng được ghi
nhận vào nguyên giá TSCĐ. Trong đó, chi phí của giai đoạn triển khai được
ghi nhận là TSCĐ vô hình nếu thỏa mãn được 7 điều kiện:
- Tính khả thi về mặt kỹ thuật đảm bảo cho việc hoàn thành và đưa tài
sản vô hình vào sử dụng theo dự tính hoặc để bán;
- Doanh nghiệp dự định hoàn thành tài sản vô hình để sử dụng hoặc để
bán;
- Doanh nghiệp có khả năng sử dụng hoặc bán tài sản vô hình đó;
- Tài sản vô hình đó phải tạo ra được lợi ích kinh tế trong tương lai;
- Có đầy đủ các nguồn lực về kỹ thuật, tài chính và các nguồn lực khác
để hoàn tất các giai đoạn triển khai, bán hoặc sử dụng tài sản vô hình đó;
- Có khả năng xác định một cách chắc chắn toàn bộ chi phí trong giai
đoạn triển khai để tạo ra tài sản vô hình đó;
- Ước tính có đủ tiêu chuẩn về thời gian sử dụng và giá trị theo quy
định cho TSCĐ vô hình.
Trong 7 điều kiện để ghi nhận chi phí giai đoạn triển khai vào nguyên
giá TSCĐ vô hình, tùy thuộc vào ý muốn chủ quan của nhà quản trị, có thể
14
lựa chọn thỏa mãn 7 điều kiện này. Hoặc không thỏa mãn 1 trong 7 điều kiện
này, nhưng nếu không thỏa mãn 1 trong 7 điều kiện trên thì toàn bộ chi phí
phát sinh trong giai đoạn này được ghi nhận vào chi phí sản xuất, kinh doanh
trong kỳ. Điều này ảnh hưởng trực tiếp đến việc xác định lợi nhuận của
doanh nghiệp. Các chi phí khác phát sinh đem lại lợi ích kinh tế trong tương
lai cho doanh nghiệp nhưng không được ghi nhận vào nguyên giá TSCĐ vô
hình thì được ghi nhận là chi phí sản xuất, kinh doanh trong kỳ. Bao gồm:
chi phí thành lập doanh nghiệp, chi phí đào tạo nhận viên và chi phí quảng
cáo phát sinh trong giai đoạn trước hoạt động của doanh nghiệp mới thành
lập, chi phí cho giai đoạn nghiên cứu, chi phí chuyển dịch địa điểm được ghi
nhận là chi phí sản xuất, kinh doanh trong kỳ hoặc được phân bổ dần vào chi
phí sản xuất, kinh doanh trong thời gian tối đa không quá 3 năm. Đối với các
khoản chi phí đã được doanh nghiệp ghi nhận là chi phí để xác định kết quả
kinh doanh trong kỳ trước đó thì không được tái ghi nhận vào nguyên giá
TSCĐ vô hình.
Doanh nghiệp cần phân biệt các chi phí ban đầu liên quan đến TSCĐ
vô hình, chi phí nào được ghi tăng nguyên giá, chi phí nào ghi tăng chi phí
sản xuất kinh doanh trong kỳ.
b2) Chính sách khấu hao TSCĐ
* Đối với khấu hao TSCĐ hữu hình: Giá trị phải khấu hao của TSCĐ
hữu hình được phân bổ một cách có hệ thống trong thời gian sử dụng hữu ích
của chúng. Phương pháp khấu hao phải phù hợp với lợi ích kinh tế mà tài sản
đem lại cho doanh nghiệp. Số khấu hao của từng kỳ được hạch toán vào chi
phí sản xuất, kinh doanh trong kỳ, trừ khi chúng được tính vào giá trị của các
tài sản khác, như: Khấu hao TSCĐ hữu hình dùng cho các hoạt động trong
giai đoạn triển khai là một bộ phận chi phí cấu thành nguyên giá TSCĐ vô
hình (theo quy định của chuẩn mực TSCĐ vô hình), hoặc chi phí khấu hao
15
TSCĐ hữu hình dùng cho quá trình tự xây dựng hoặc tự chế các tài sản khác.
Có 3 phương pháp khấu hao TSCĐ bao gồm:
+ Phương pháp khấu hao đường thẳng
+ Phương pháp khấu hao theo số dư giảm dần
+ Phương pháp khấu hao theo số lượng sản phẩm
Doanh nghiệp có thể lựa chọn một trong 3 phương pháp trên để tính
và trích khấu hao TSCĐ. Tùy thuộc vào đặc điểm của TSCĐ, hoạt động sản
xuất kinh doanh và mục đích của doanh nghiệp mà doanh nghiệp có thể lựa
chọn phương pháp khấu hao thích hợp. Bởi lẽ việc trích khấu hao TSCĐ sẽ
được tính vào chi phí sản xuất, kinh doanh trong kỳ. Do đó, lựa chọn phương
pháp khấu hao sẽ cho phép dịch chuyển lợi nhuận giữa các niên độ. Cụ thể
như doanh nghiệp áp dụng phương pháp khấu hao theo số dư giảm dần sẽ
làm gia tăng chi phí, giảm lợi nhuận trong những năm đầu, hoặc áp dụng
phương pháp khấu hao đường thẳng sẽ làm cho phần khấu hao được ghi
nhận vào chi phí liền đều qua các năm sử dụng,…
* Đối với khấu hao TSCĐ vô hình: Giá trị phải khấu hao của TSCĐ vô
hình được phân bổ một cách có hệ thống trong suốt thời gian sử dụng hữu
ích ước tính hợp lý của nó. Thời gian tính khấu hao của TSCĐ vô hình tối đa
là 20 năm. Việc tính khấu hao được bắt đầu từ khi đưa TSCĐ vô hình vào sử
dụng. Thời gian sử dụng hữu ích của TSCĐ vô hình có thể vượt quá 20 năm
khi có những bằng chứng tin cậy. Việc trích khấu hao TSCĐ vô hình được
ghi nhận vào chi phí sản xuất, kinh doanh trong kỳ. Do vậy, lựa chọn phương
pháp khấu hao và ước tính thời gian sử dụng hữu ích của TSCĐ sẽ ảnh
hưởng đến giá trị khấu hao cần trích lập từ đó ảnh hưởng đến chi phí trong
kỳ báo cáo.
16
Doanh nghiệp có thể thay đổi phương pháp khấu hao và thời gian sử
dụng hữu ích ước tính của tài sản, nếu trong suốt thời gian sử dụng hữu ích
của TSCĐ vô hình, doanh nghiệp xét thấy có thể thay đổi cách thức ước tính
về lợi ích kinh tế trong tương lai mà doanh nghiệp dự tính thu được. Do đó,
có thể thay đổi phương pháp khấu hao. Ví dụ: Phương pháp khấu hao theo số
dư giảm dần phù hợp hơn phương pháp khấu hao đường thẳng. Ngoài ra, nếu
thời gian sử dụng hữu ích ước tính của tài sản khác biệt lớn so với các ước
tính trước đó thì thời gian khấu hao phải được thay đổi tương ứng. Ví dụ:
Thời gian sử dụng hữu ích có thể tăng lên do đầu tư thêm chi phí làm tăng
năng lực của tài sản so với năng lực hoạt động được đánh giá ban đầu.
Doanh nghiệp có thể thay đổi phương pháp khấu hao và thời gian sử
dụng hữu ích ước tính của tài sản, nếu trong suốt thời gian sử dụng hữu ích
của TSCĐ vô hình, doanh nghiệp xét thấy có thể thay đổi cách thức ước tính
về lợi ích kinh tế trong tương lai mà doanh nghiệp dự tính thu được. Do đó,
có thể thay đổi phương pháp khấu hao. Tùy thuộc vào từng điều kiện cụ thể
doanh nghiệp có thể lựa chọn thay đổi phương pháp khấu hao và thời gian sử
dụng hữu ích của tài sản, việc lựa chọn này nằm trong giới hạn cho phép.
Tuy nhiên, nó sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến chi phí ghi nhận trong kỳ để xác
định lợi nhuận kỳ báo cáo.
b3) Ghi nhận chi phí sửa chữa TSCĐ
Chi phí sửa chữa lớn TSCĐ được ghi nhận vào chi phí trong một kỳ
tùy thuộc ít nhiều chủ quan của doanh nghiệp. Thật vậy, doanh nghiệp có thể
lựa chọn số kỳ phân bổ chi phí sửa chữa lớn TSCĐ tùy thuộc vào ý muốn
chủ quan của nhà quản trị. Ngoài ra, doanh nghiệp có thể ước tính trích
trước chi phí sửa chữa lớn TSCĐ vào chi phí sản xuất kinh doanh trong kỳ
tại thời điểm chưa phát sinh chi phí sửa chữa lớn TSCĐ và mức chi phí tính
17
trích trước này, sẽ làm gia tăng chi phí trong kỳ từ đó làm giảm lợi nhuận của
kỳ báo cáo. Đây cũng là một trong số các lựa chọn, các nhà quản trị doanh
nghiệp có thể sử dụng để điều chỉnh lợi nhuận theo ý muốn chủ quan của họ.
c. Ghi nhận chi phí đi vay
Đối với các khoản chi phí đi vay phát sinh trong kỳ doanh nghiệp cần
phân biệt khoản chi phí nào được vốn hóa vào nguyên giá TSCĐ, khoản chi
phí nào không được phép và chỉ được ghi nhận vào chi phí sản xuất kinh
doanh trong kỳ. Việc phân biệt này ảnh hưởng đến lợi nhuận của kỳ báo cáo
vì giả thuyết rằng tất cả các khoản chi phí đi vay phát sinh trong kỳ đều được
ghi nhận vào chi phí tài chính từ đó sẽ làm cho chi phí trong kỳ tăng lên dẫn
đến giảm lợi nhuận.
d. Ghi nhận giao dịch bằng ngoại tệ
Doanh nghiệp có thể điều chỉnh thời gian phát sinh các nghiệp vụ kinh
tế bằng ngoại tệ sẽ làm thay đổi khoản chênh lệch tỷ giá hối đoái được xử lý
tính vào chi phí hoặc doanh thu trong kỳ. Ngoài ra, áp dụng phương pháp
tính giá xuất ngoại tệ khác nhau sẽ dẫn đến tỷ giá xuất ngoại tệ khác. Từ đó,
có thể ảnh hưởng đến doanh thu hoặc chi phí phát sinh trong kỳ và làm thay
đổi lợi nhuận báo cáo trong kỳ.
1.3. Liên kết giữa kế toán và thuế : Điều kiện cần để thực hiện điều
chỉnh thu nhập chịu thuế
Như đã trình bày ở trên, việc giảm thuế thu nhập doanh nghiệp luôn
gắn liền với việc báo cáo một khoản thu nhập chịu thuế thấp hơn thực tế.
Nếu thu nhập chịu thuế có liên kết chặt chẽ với lợi nhuận kế toán, việc điều
chỉnh lợi nhuận kế toán sẽ kéo theo sự điều chỉnh thu nhập chịu thuế. Việc
phân tích mức độ liên kết giữa kế toán và thuế sau đây sẽ làm căn cứ cho
18
việc nghiên cứu hành động quản trị lợi nhuận để tiết kiệm thuế thu nhập
doanh nghiệp của các công ty.
1.3.1. Lợi nhuận kế toán và thu nhập chịu thuế
Theo Chuẩn mực kế toán số 17, lợi nhuận kế toán là lợi nhuận hoặc lỗ
của một kỳ trước khi trừ thuế thu nhập doanh nghiệp được xác định theo quy
định của chuẩn mực kế toán và chế độ kế toán. Theo Luật thuế thu nhập
doanh nghiệp, thu nhập chịu thuế bằng doanh thu và thu nhập khác trừ đi chi
phí chịu thuế.
Lợi nhuận kế toán và thu nhập chịu thuế có sự tương đồng và khác
biệt. Nguyên nhân là do có sự tương đồng hay khác biệt về ghi nhận doanh
thu, chi phí của kế toán và của thuế. Kế toán ghi nhận doanh thu, chi phí dựa
vào nguyên tắc kế toán (được quy định trong chuẩn mực và chế độ kế toán) .
Thuế ghi nhận thu nhập và chi phí dựa vào nguyên tắc của thuế thu nhập
doanh nghiệp (được quy định trong Luật thuế thu nhập doanh nghiệp và các
nghị định, thông tư hướng dẫn có liên quan). Sự tương đồng hay khác khác
biệt về nguyên tắc đo lường, ghi nhận doanh thu và chi phí trong kế toán và
trong thuế được tóm lược ở mục 1.3.2
1.3.2. Phân tích liên kết giữa các nguyên tắc, phương pháp của kế toán và
của thuế
Trên thế giới tồn tại hai hệ thống kế toán thuế: Kế toán liên kết với
thuế khi các nguyên tắc đo lường thuế được áp đặt trong kế toán để xác định
lợi nhuận kế toán. Ở hệ thống này, lợi nhuận kế toán và lợi nhuận chịu thuế
không có sự khác biệt đáng kể.
Kế toán độc lập tương đối với thuế là hệ thống mà lợi nhuận kế toán
không chịu ảnh hưởng của các nguyên tắc đo lường của luật thuế. Doanh
19
nghiệp lựa chọn những chính sách kế toán khác nhau cho mục tiêu kế toán
và mục tiêu thuế.
Kế toán thuế tại Việt Nam theo mô hình phụ thuộc. Kế toán và thuế
liên kết với nhau theo một trong các dạng sau [11]:
1) Nguyên tắc thuế độc lập Tồn tại các nguyên tắc kế toán khác và nguyên
với nguyên tắc kế toán
tắc thuế khác nhau nhằm cho các mục tiêu
khác nhau của chúng
2) Nguyên tắc thuế và Các nguyên tắc thuế và kế toán giống nhau
nguyên tắc kế toán giống
nhau
3) Nguyên tắc thuế tuân Một nguyên tắc kế toán được sử dụng để lập
theo nguyên tắc kế toán
báo cáo tài chính và cũng được sử dụng cho
mục tiêu thuế
Các nguyên tắc kế toán đưa ra những lựa
chọn, trong đó một số nguyên tắc được vận
dụng dẫn đến lợi nhuận được báo cáo thấp hơn
hoặc chậm hơn những nguyên tắc khác.
4) Nguyên tắc kế toán tuân Một nguyên tắc thuế được phép sử dụng cho
theo nguyên tắc thuế
mục tiêu thuế và cũng được sử dụng cho mục
tiêu báo cáo tài chính
Cụ thể ở các trường hợp sau [11] :
20
Vùng liên kết
Trường hợp
1. Xác định giá của
Nguyên tắc thuế và nguyên tắc kế toán giống
TSCĐ
nhau. Vì thuế và kế toán đều áp dụng nguyên
tắc giá gốc, nguyên tắc nhất quán, nguyên tắc
thận trọng, việc xác định giá trị TSCĐ cũng
tuân theo các nguyên tắc trên, tuân theo chuẩn
mực kế toán tài sản cố định : xác định giá trị
ban đầu, chi phí phát sinh sau khi ghi nhận ban
đầu, giá trị sau khi ghi nhận ban đầu được xác
định theo nguyên giá, khấu hao luỹ kế và giá trị
còn lại, đánh giá lại tài sản ... theo quy định của
Nhà nước.
2. Phân loại thuê tài sản
Nguyên tắc thuế tuân theo nguyên tắc kế toán.
Việc phân loại thuê tài sản là thuê tài chính hay
thuê hoạt động căn cứ vào bản chất các điều
khoản ghi trong hợp đồng và tuân theo chuẩn
mực số 06 thuê tài sản. Thuế chỉ căn cứ kiểm
tra.
3. Khấu hao
- Phương pháp đường Nguyên tắc kế toán tuân theo nguyên tắc thuế.
thẳng
Theo luật thuế thu nhập doanh nghiệp : mức
trích khấu hao tài sản cố định căn cứ vào giá trị
tài sản cố định và thời gian trích khấu hao. Bộ
Tài chính căn cứ luật thuế thu nhập doanh
nghiệp để ban hành quyết định 206/2003/QĐBTC về chế độ quản lý, sử dụng và trích khấu
21
hao TSCĐ nhằm giúp cho cơ quan thuế dễ dàng
trong việc quản lý chi phí khấu hao để xác định
thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp cho các
- Phương pháp khấu hao
đơn vị.
nhanh
- Nguyên tắc thuế tuân theo nguyên tắc kế toán:
Dựa vào nguyên tắc phù hợp : Việc ghi nhận
doanh thu và chi phí phải phù hợp với nhau.
Nên đối với các doanh nghiệp có hiệu quả kinh
tế cao trong những năm đầu sử dụng các thiết
bị, kỹ thuật công nghệ cần đầu tư đổi mới
nhiều, kế toán đưa ra các phương pháp tính
khấu hao khác nhau để doanh nghiệp áp dụng
nhằm thu hồi vốn nhanh và dễ dàng tái đầu tư
mới. Khi lựa chọn phương pháp trích khấu hao
đơn vị phải đăng ký cơ quan thuế để làm cơ sở
xác định tính thuế thu nhập doanh nghiệp.
Thuế chỉ áp dụng khấu hao theo phương pháp
đường thẳng, còn việc khấu hao nhanh là do kế
toán áp dụng cho phù hợp với yêu cầu của
doanh nghiệp.
4. Nợ tiềm tàng, dự Nguyên tắc thuế tuân theo nguyên tắc kế toán:
phòng
Việc trích lập dự phòng được thực hiện theo
chuẩn mực kế toán, cơ quan thuế chỉ kiểm tra
và xác định chi phí hợp lý.
5. Trợ cấp và hỗ trợ của Nguyên tắc kế toán tuân theo nguyên tắc thuế.
chính phủ
Các khoản trợ cấp, hỗ trợ tài chính đều phải
22
chịu thuế.
6. Chi phí nghiên cứu và Nguyên tắc thuế tuân theo nguyên tắc kế toán.
triển khai
Chi phí nghiên cứu, triển khai được ghi nhận
theo quy định của chuẩn mực kế toán, cơ quan
thuế chỉ xem xét để tính chi phi hợp lý từ đó
xác định thuế thu nhập doanh nghiệp.
7. Hàng tồn kho:
- Đánh giá hàng tồn kho
- Đánh giá hàng nhập kho: Nguyên tắc thuế và
nguyên tắc kế toán giống nhau
- Đánh giá hàng xuất kho: Nguyên tắc thuế tuân
theo nguyên tắc kế toán.
- Khác
Việc đánh giá hàng tồn kho : phương pháp quản
lý hàng tồn kho, phương pháp tính giá xuất kho
hoặc các khoản chi vượt định mức nguyên vật
liệu… được tuân theo chuẩn mực, chế độ kế
tóan, Cơ quan thuế chỉ kiểm tra và xác định các
khoản chi phí hợp lý để tính thuế thu nhập
doanh nghiệp.
8. Hợp đồng dài hạn
Nguyên tắc thuế độc lập với nguyên tắc kế toán,
việc ghi nhận doanh thu theo tiến độ hợp đồng
kế toán thực hiện nhưng thuế không thực hiện.
9. Chi phí lãi vay
- Vốn hóa
Nguyên tắc thuế và nguyên tắc kế toán giống
nhau. Vốn hoá chi phí đi vay vào giá trị tài sản
của chế độ kế toán và quy định của thuế giống
nhau.
23
- Khác
- Nguyên tắc thuế độc lập với nguyên tắc kế
toán: Quy định kế toán: chi phí đi vay là lãi
tiền vay, kể cả tiền vay trên các khoản thấu chi
được hạch toán vào chi phí sản xuất kinh doanh
trong kỳ.
Nhưng theo quy định của thuế : chi trả lãi tiền
vay là chi phí hợp lý được trừ để tính thuế thu
nhập doanh nghiệp khi đơn vị vay của các tổ
chức tài chính, tín dụng hoặc các tổ chức khác
theo lãi suất thực tế nhưng tối đa không quá 1,2
lần mức lãi suất cho vay của ngân hàng thương
mại tại thời điểm vay.
10. Giao dịch bằng ngoại - Phát sinh trong kỳ:
tệ
Nguyên tắc thuế và
nguyên tắc kế toán giống nhau
- Đánh giá cuối kỳ: Nguyên tắc thuế độc lập với
nguyên tắc kế toán. Các khoản chênh lệch tỷ giá
do đánh giá lại chênh lệch tỷ giá vào cuối kỳ,
quy định của thuế không được tính vào chi phí
hợp lý hay thu nhập trong kỳ, nhưng theo quy
định của chế độ kế toán các khoản chênh lệch
này được hạch toán vào chi phí hay doanh thu
tài chính trong kỳ (trừ các khoản mục vốn bằng
tiền và nợ phải trả ngắn hạn dưới một năm)
11. Tiền lương và an sinh Nguyên tắc thuế và nguyên tắc kế toán giống
xã hội
nhau. Tuân theo quy định của luật lao động và
chế độ hiện hành. Các khoản chi trong quỹ
24
lương được cơ quan thẩm quyền duyệt đều
được tính vào chi phí hợp lý trong kỳ. Các
khoản chi ủng hộ do các nguồn khác đài thọ đều
không được tính vào chi phí hợp lý trong kỳ.
12. Thay đổi chính sách Nguyên tắc thuế tuân theo nguyên tắc kế toán.
kế toán và sai sót trọng Việc thay đổi chính sách kế tóan (như thay đổi
yếu
phương pháp tính giá hàng tồn kho...) hay sai
sót trong việc ghi nhầm, bỏ sót ... ảnh hưởng
đến báo cáo kết quả kinh doanh thì doanh
nghiệp cần phải điều chỉnh và thuyết minh lý do
điều chỉnh báo cáo.
13. Phạm vi của thực thể Nguyên tắc thuế độc lập với nguyên tắc kế toán.
kế toán và thuế
Theo luật thuế thì tổ chức, cá nhân kinh doanh
hàng hóa dịch vụ có thu nhập phải chịu thuế.
Theo luật kế toán, đơn vị kế toán là tổ chức độc
lập và cung cấp thông tin trung thực qua các
báo cáo.
14. Tiền phạt và tiền bồi Nguyên tắc thuế độc lập với nguyên tắc kế toán.
thường, ủng hộ, chi phí
đào tạo
Theo quy định của thuế không được ghi nhận
vào chi phí hợp lý để tính trừ thu nhập chịu
thuế. Nhưng theo quy định của kế toán, các
khoản tiền phạt được tính vào chi phí kinh
doanh của doanh nghiệp.
Đối với tiền ủng hộ thuế chỉ được tính theo từng
trường hợp, chi phí đào tạo thì thuế tính hết.
15. Đầu tư tài chính
Nguyên tắc thuế tuân theo nguyên tắc kế toán.
25
Việc ghi nhận các khoản đầu tư tài chính, dự
phòng giảm giá đầu tư tài chính, ghi nhận chênh
lệch mua, bán chứng khoán… được tuân theo
quy định của kế toán, cơ quan thuế kiểm tra để
tính thuế phải nộp.
Nếu mức độ liên kết rơi vào dạng 2,3 và 4, việc lựa chọn chính sách
kế toán để điều chỉnh lợi nhuận kế toán sẽ có ảnh hưởng đến thu nhập chịu
thuế. Nghiên cứu của Nguyễn Công Phương (2010) cho thấy, trong các
nguyên tắc kế toán và thuế hiện tại, các dạng 2,3 và 4 chiếm 75 %. Hay nói
cách khác, mức độ phụ thuộc giữa kế toán và thuế ở nước ta là rất cao. Đây
là điều kiện tiền đề cho hành động quản trị lợi nhuận của các doanh nghiệp
nhằm tiết kiệm thuế.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1
Công ty cổ phần được hình thành và phát triển qua phương thức huy
động vốn trên thị trường chứng khoán. Thị trường chứng khoán lớn mạnh
như ngày nay chủ yếu nhờ vào sự phát triển cả về số lượng và chất lượng của
các công ty cổ phần. Quản trị lợi nhuận của các công ty cổ phần niêm yết
nhằm đến những mục tiêu: Tối đa hóa giá trị thị trường của cổ phiếu; tối
thiểu chi phí thuế thu nhập doanh nghiệp để góp phần gia tăng lợi ích cho
chủ sở hữu và các mục tiêu khác như tiền lương, thưởng dành cho nhà quản