Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

Chính sách tiền lương khu vực công của singapore và bài học cho việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (137.86 KB, 18 trang )

Chính sách tiền lương khu vực công của Singapore và bài học cho Việt Nam

MỤC LỤC

LỜI MỞ ĐẦU..........................................................................................................................
Chương 1: Cơ sở lý luận.........................................................................................................
1.1.

Khái niệm:.................................................................................................................1

1.2.

Các chức năng cơ bản của tiền lương khu vực công:.................................................1

1.3.

Vai trò của chính sách tiền lương khu vực công:.......................................................2

1.4.

Nguyên tắc xây dựng chính sách tiền lương khu vực công:.......................................2

Chương 2: Thực trạng chính sách tiền lương khu vực công của Việt Nam và Singapore
................................................................................................................................................ 3
2.1. Khái quát về thực trạng chính sách tiền lương khu vực công của Việt Nam:...............3
2.1.1. Những mặt đạt được:..............................................................................................3
2.1.2. Những mặt tồn tại và bất cập:.................................................................................4
2.2. Khái quát về thực trạng tiền lương khu vực công của Singapore:................................6
2.2.1. Chính sách tiền lương hợp lý, có tính cạnh tranh cao so với khu vực tư nhân:.......6
2.2.2. Mức lương công chức tương xứng với hiệu quả công việc:....................................8
2.2.3. Chính sách tiền lương sạch:....................................................................................9


2.2.4. Tính linh hoạt trong cơ cấu tiền lương công chức:.................................................9
2.3. Sự khác nhau giữa chính sách tiền lương khu vực công của Việt Nam và chính sách
tiền lương khu vực công của Singapore:............................................................................11
Chương 3: Bài học rút ra cho Việt Nam............................................................................12
3.1.

Đãi ngộ tương xứng và giám sát hiệu quả:...............................................................12

3.2.

Lựa chọn chiến lược:...............................................................................................12

3.3.

Trả lương theo năng suất, chất lượng và hiệu quả công việc:..................................13

3.4.

Thay đổi kết cầu tiền lương:....................................................................................13

KẾT LUẬN..............................................................................................................................
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO...............................................................................


Chính sách tiền lương khu vực công của Singapore và bài học cho Việt Nam

LỜI MỞ ĐẦU
Chính sách tiền lương là một trong những nội dung quan trọng của thể chế kinh tế thị
trường. Do đó hoàn thiện chính sách tiền lương sẽ góp phần to lớn hoàn thiện thể chế kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Tuy nhiên, Chính sách tiền lương là vấn

đề rất tổng hợp, có nhiều mối quan hệ chính trị, kinh tế - xã hội tương tác chặt chẽ với nhau,
liên quan đến vấn đề sở hữu, phân bố nguồn lực, quan hệ giữa tích lũy và tiêu dung, phát
triển nguồn nhân lực, an sinh xã hội...
Chính sách tiền lương có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển kinh tế - xã hội và có tác
động lớn đến hệ thống kinh tế - xã hội của cả nước trên tầm vĩ mô, tác động lớn đến bản thân
người lao động hưởng lương và gia đình họ; do vậy tiền lương là mối quan tâm hàng đầu và
là động lực làm việc của người lao động trong bất cứ tổ chức nào. Với tầm quan trọng đó,
việc xây dựng một hệ thống tiền lương khoa học, hợp lý, làm đòn bẩy kích thích năng suất
và chất lượng, hiệu quả lao động luôn là nhiệm vụ lớn đặt ra cho các cơ quan Nhà nước, đặc
biệt trong bối cảnh thị trường lao động của khu vực Nhà nước kém hấp dẫn hơn khu vực tư
nhân và làn sóng ra đi của những người tài, có năng lực trong các cơ quan Nhà nước đang có
xu hướng gia tăng. Mặc dù trong những năm qua luôn được Nhà nước quan tâm cải cách,
điều chính song chính sách tiền lương khu vực công ở nước ta hiện nay vẫn còn nhiều hạn
chế và bất hợp lý, ảnh hưởng không nhỏ tới hoạt động của các cơ quan Nhà nước nói riêng
và sự phát triển kinh tế - xã hội nói chung. Với tầm quan trọng và thực trạng bất cập của
chính sách tiền lương khu vực công ở Việt Nam hiện nay, em mạnh dạn chọn đề tài: “Chính
sách tiền lương khu vực công ở Singapore và bài học cho Việt Nam”
Nội dung cơ bản của đề tài bao gồm:
Chương 1: Cơ sở lý luận
Chương 2: Thực trạng chính sách tiền lương khu vực công của Việt Nam và Singapore
Chương 3: Bài học rút ra cho Việt Nam


Chính sách tiền lương khu vực công của Singapore và bài học cho Việt Nam

Chương 1: Cơ sở lý luận
-

1.1. Khái niệm:
Khu vực công: Khu vực công là khu vực phản ánh hoạt động kinh tế, chính trị, xã hội do


-

Nhà nước quyết định.
Tiền lương: là sự trả công hoặc thu nhập mà có thể biểu hiện bằng tiền và được ấn định bằng
thoả thuận giữa người sử dụng lao động và người lao động, hoặc bằng pháp luật, pháp quy
Quốc gia, do người sử dụng lao động phải trả cho người lao động theo hợp đồng lao động
cho một công việc đã thực hiện hay sẽ phải thực hiện, hoặc những dịch vụ đã làm hoặc sẽ

-

phải làm.
Tiền lương khu vực công: Tiền lương khu vực công là số tiền mà Nhà nước trả cho cán bộ
công chức, viên chức, những người làm việc trong khu vực công, căn cứ vào số lượng, chất
lượng lao động phù hợp với quy luật cung – cầu trên thị trường lao động và khả năng chi trả
từ ngân sách quốc gia và tuân theo quy định của pháp luật.
+) Căn cứ pháp lý: theo Nghị định số 204/2002/NĐ-CP ngày 14/12/2004 về chế độ tiền
lương đối với cán bộ, công chức, viên chức và lực lượng vũ trang; Nghị định 205/2004/NĐCP ngày 14/12/2004 quy định hệ thống thang, bảng lương và chế độ phụ cấp lương trong các
công ty Nhà nước; Nghị định 206/2004/NĐ-CP ngày 14/12/2004 quy định quản lý lao động,
tiền lương và thu nhập trong các công ty Nhà nước.

-

1.2. Các chức năng cơ bản của tiền lương khu vực công:
Thứ nhất, là thước đo giá trị: như đã nói ở trên, tiền lương là sự thể hiện bằng tiền của giá trị
sức lao động, được biểu hiện ra bên ngoài như là giá cả sức lao động;

- Thứ hai, là tái sản xuất sức lao động: Trong quá trình lao động, sức lao động bị hao mòn
dần cùng với quá trình lao động tạo ra sản phẩm. Tiền lương là một trong những tiền đề vật
chất có khả năng đảm bảo tái sản xuất sức lao động trên cơ sở đảm bảo bù đắp lại sức lao

động đã hao phí thông qua thỏa mãn nhu cầu tiêu dùng và các nhu cầu riêng của người lao
động;

Người thực hiện: Giang Thị Thắm

Lớp: D9QL7

1


Chính sách tiền lương khu vực công của Singapore và bài học cho Việt Nam
- Thứ ba, là kích thích lao động và phát triển nguồn nhân lực: tiền lương là bộ phận thu nhập
chính đáng của người lao động nhằm thỏa mãn phần lớn các nhu cầu về vật chất và tinh thần
của người lao động. Do vậy, mức tiền lương là đòn bẩy kinh tế quan trọng để định hướng sự
quan tâm và là động cơ trong lao động của người lao động;
-

Thứ tư, là thúc đẩy sự phân công lao động xã hội: tiền lương dựa trên cơ sở tăng năng suất
lao động, việc tăng năng suất lao động luôn luôn dẫn đến sự tái phân bố lao động. Theo quy
luật thị trường, lao động sẽ tái phân bố vào các khu vực có năng suất cao hơn để nhận được
các mức lương cao hơn;

-

Thứ năm, là chức năng xã hội của tiền lương khu vực công: cùng với việc không ngừng
nâng cao năng suất lao động, tiền lương là yếu tố kích thích không ngừng hoàn thiện các mối
quan hệ lao động. Việc gắn tiền lương với hiệu quả của người lao động và tổ chức sẽ thúc
đẩy quan hệ hợp tác, giúp đỡ lẫn nhau và tạo tiền đề cho sự phát triển toàn diện của con
người và thúc đẩy xã hội phát triển theo hướng dân chủ hóa và văn minh hóa.


-

1.3. Vai trò của chính sách tiền lương khu vực công:
Thu hút và giữ chân được những cán bộ công chức, viên chức, những người lao động có
trình độ, chuyên môn kỹ thuật cao;
Nâng cao năng suất lao động và hiệu quả làm việc trong khu vực công;
Nâng cao chất lượng các dịch vụ công như: Bệnh viện, trường học, quốc phòng, an ninh,…;
Giúp vận hành bộ máy hoạt động trong khu vực công một cách tốt hơn.
1.4. Nguyên tắc xây dựng chính sách tiền lương khu vực công:
Đảm bảo tính công bằng: Quan hệ lương được xác định dựa trên trách nhiệm, mức độ phức
tạp của công việc đảm nhận (có thang bảng lương riêng cho khu vực, chức danh nghề, trình

-

độ chuyên môn đào tạo, mức độ hoàn thành nhiệm vụ, môi trường làm việc);
Đảm bảo tính cạnh tranh: Mức lương phải đảm bảo có khả năng thu hút và khuyến khích

-

phù hợp với thị trường lao động;
Đảm bảo tính hệ thống: Chính sách tiền lương khu vực công phải minh bạch, rõ ràng gắn với
hiệu quả công việc của từng cá nhân, của tổ chức phù hợp với các cơ chế và công cụ quản lý
khác.

Người thực hiện: Giang Thị Thắm

Lớp: D9QL7

2



Chính sách tiền lương khu vực công của Singapore và bài học cho Việt Nam

Chương 2: Thực trạng chính sách tiền lương khu vực công của
Việt Nam và Singapore
2.1. Khái quát về thực trạng chính sách tiền lương khu vực công của Việt Nam:
2.1.1. Những mặt đạt được:
-

Thứ nhất, quan điểm, chủ trương về cải cách chính sách tiền lương của Đảng đến nay là
đúng đắn, phù hợp với nên kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đặc biệt quan
điểm coi việc trả lương đúng cho người lao động là thực hiện đầu tư cho sự phát triển, tạo
động lực để phát triển kinh tế và nâng cao chất lượng dịch vụ công, góp phần làm trong sạch
và nâng cao hiệu quả hoạt động của bộ máy Nhà nước. Đặc biệt, Luật Cán bộ, Công chức đã
quy định công chức có 2 năm liên tiếp không hoàn thành nhiệm vụ sẽ bị cho thôi việc. Thực
hiện tốt việc xác định vị trí việc làm sẽ là cơ sở và căn cứ để tính toán được biên chế công
chức phù hợp với chức năng, nhiệm vụ, phạm vi và đối tượng quản lý trong từng cơ quan, tổ

-

chức, đơn vị.
Thứ hai, tách dần tiền lương khu vực sản xuất kinh doanh với khu vực hành chính nhà nước
và khu vực sự nghiệp cung cấp dịch vụ công; chính sách tiền lương với chính sách bảo hiểm
xã hội và ưu đãi người có công, trợ giúp xã hội. Đó là bước ngoặt rất quan trọng cải cách

-

tiền lương trong điều kiện mới theo định hướng thị trường.
Thứ ba, chú ý gắn cải cách tiền lương cán bộ, công chức, viên chức với cải cách hành chính
và xây dựng nền công vụ, tinh giảm biên chế khu vực hành chính Nhà nước, phát triển khu


-

vực sự nghiệp cung cấp dịch vụ công theo nhu cầu phát triển của xã hội.
Thứ tư, tiếp tục đổi mới cơ chế tiền lương, mở rộng và làm rõ trách nhiệm, quyền tự chủ, tự
chịu trách nhiệm của đơn vị sự nghiệp công lập trong việc xếp lương, trả lương gắn với chất

-

lượng và hiệu quả cung cấp dịch vụ công theo tinh thần xã hội hóa.
Thứ năm, tiền lương danh nghĩa của cán bộ công chức, viên chức có xu hướng tăng do nhiều
lần điều chỉnh mức lương tối thiểu chung trên cơ sở bù trượt giá và tăng trưởng kinh tế, mở
rộng quan hệ tiền lương tối thiểu - trung bình - tối đa, từng bước tiền tệ hóa các khoản ngoài
lương nhằm khắc phục bình quân, bao cấp và ổn định đời sống của cán bộ công chức, viên
chức.

Người thực hiện: Giang Thị Thắm

Lớp: D9QL7

3


Chính sách tiền lương khu vực công của Singapore và bài học cho Việt Nam
Bảng 1: Mức lương tối thiểu chung của Việt Nam qua từng năm

Nghị định
05/CP
Ngày 26/01/1994
06/CP

Ngày 21/01/1997
175/1999/NĐ-CP
Ngày 15/12/1999
77/2000/NĐ-CP
Ngày 15/12/2000
03/2003/NĐ-CP
Ngày 15/01/2003
118/2005/NĐ-CP
Ngày 15/09/2005
94/2006/NĐ-CP
Ngày 07/09/2006
166/2007/NĐ-CP
Ngày 10/12/2007
33/2009/NĐ-CP
Ngày 06/04/2009
28/2010/NĐ-CP
Ngày 25/03/2010
22/2011/NĐ-CP
Ngày 04/04/2011
31/2012/NĐ-CP
Ngày 12/04/2012
66/2013/NĐ-CP
Ngày 27/06/2013
47/2016/NĐ-CP
Ngày 26/05/2016

Thời điểm áp dụng

ĐVT : VNĐ
Mức lương tối thiểu

chung

01/01/1995

120.000

01/01/1997

144.000

01/01/2000

180.000

01/01/2001

210.000

01/01/2003

290.000

01/10/2005

350.000

01/10/2006

450.000


01/01/2008

540.000

01/05/2009

650.000

01/05/2010

730.000

01/05/2011

830.000

01/05/2012

1.050.000

01/07/2013

1.150.000

01/05/2016

1.210.000

2.1.2. Những mặt tồn tại và bất cập:
-


Thứ nhất, duy trì quá lâu một chính sách tiền lương thấp đối với cán bộ công chức, viên
chức. Các lần cải cách vừa qua luôn bị chi phối tuyệt đối bởi khả năng của ngân sách Nhà
nước, nên đã thực hiện một chính sách tiền lương quá thấp đối với cán bộ công chức, viên
chức và gắn chặt với tiền lương tối thiểu chung vốn rất thấp (chỉ đáp ứng 65% - 70% nhu

Người thực hiện: Giang Thị Thắm

Lớp: D9QL7

4


Chính sách tiền lương khu vực công của Singapore và bài học cho Việt Nam
cầu mức sống tối thiểu của người lao động). Hơn nữa, chính sách tiền lương thấp này đã lại
ngày càng thấp xa so với khu vực sản xuất kinh doanh, chưa bảo đảm cho cán bộ công chức,
viên chức sống chủ yếu bằng tiền lương. Đó là một bất cập, nghịch lý và mâu thuẫn lớn.
Theo kết quả điều tra của Công đoàn Viên chức Việt Nam, tiền lương cứng của cán bộ công
chức, viên chức khá thấp, phần lớn là hưởng lương ở mức cán sự và chuyên viên, chiếm
khoảng 73% (cán sự chiếm 32% và chuyên viên 41%), còn ở mức chuyên viên chính là 24%
-

và chuyên viên cao cấp là 3%.
Thứ hai, quan hệ tiền lương tối thiểu - trung bình - tối đa cũng chưa hợp lý, nhất là hệ số
trung bình quá thấp trong quan hệ tiền lương tối thiểu - trung bình - tối đa nên không cải
thiện được đời sống và khuyến khích được cán bộ công chức, viên chức có hệ số lương thấp;
tiền lương trả cho cán bộ công chức, viên chức được quy định bằng hệ số được tính trên cơ
sở tiền lương tối thiểu chung; tiền lương chưa được trả đúng với vị trí làm việc, chức danh
và hiệu quả công tác, chất lượng cung cấp dịch vụ công. Theo Bộ Nội vụ, giai đoạn 20162020 thực hiện mở rộng quan hệ mức lương tối thiểu - trung bình - tối đa từ mức 1 - 2,34 -


-

10 hiện nay lên mức 1 - 3,2 - 15.
Thứ ba, trong khi tiền lương không đủ sống, thì thu nhập ngoài lương lại rất cao (phụ thuộc
vào vị trí, chức danh công việc, lĩnh vực quản lý, vùng, miền…) và không có giới hạn,
không minh bạch, cũng không kiểm soát được. Trong phần thu nhập ngoài lương cho đến
nay không ai có thể thống kê, đánh giá định lượng được, có thể có phần chính đáng, song
chủ yếu là không chính đáng do lợi dụng quyền lực để tham nhũng, tiêu cực trong thi hành
công vụ (từ biếu xén, cơ chế xin - cho, cơ chế ăn chia…). Mức lương tối thiểu của công
chức năm nay được nâng lên 1.210.000 đồng, song vẫn là mức quá thấp, không đủ cho chi
phí trong cuộc sống vốn ngày càng đắt đỏ do lạm phát. Chính điều này đã tạo “đất sống” cho

-

tham nhũng, tiêu cực ngày càng nhức nhối…
Thứ tư, tiền lương Nhà nước quy định trả cho cán bộ công chức, viên chức mặc dù còn rất
thấp, nhưng tổng quỹ lương và trợ cấp do ngân sách nhà nước bảo đảm lại chiếm tỷ lệ khá
cao trong tổng chi ngân sách Nhà nước. Đó là một trong những nút thắt khó gỡ nhất trong
cải cách chính sách tiền lương đối với cán bộ công chức, viên chức vừa qua. Theo Viện
Chiến lược và Chính sách tài chính (Bộ Tài chính), hiện nay mức độ đảm bảo từ ngân sách

Người thực hiện: Giang Thị Thắm

Lớp: D9QL7

5


Chính sách tiền lương khu vực công của Singapore và bài học cho Việt Nam
Nhà nước cho trả lương và các khoản có tính chất lương là khá cao và liên tục tăng nhanh.

Cụ thể, năm 2011, lương, phụ cấp ước chiếm 51% chi thường xuyên của ngân sách Nhà
nước, đạt gần 9,6% GDP. Trong khi năm 2010, con số này chỉ là 6,7% GDP. Ngoài ra, 21
ngành được hưởng ở 16 loại phụ cấp ưu đãi khác nhau đang có xu hướng mở rộng hơn,
-

khiến ngân sách Nhà nước dành cho lương tối thiểu ngày càng bị mỏng đi.
Thứ năm, việc thực hiện chủ trương xã hội hóa các hoạt động sự nghiệp công (dịch vụ công)
còn chậm và đạt kết quả thấp, nhất là trong y tế, giáo dục và đào tạo… gây khó khăn cho cải
cách tiền lương và tạo nguồn để trả lương cao cho cán bộ công chức, viên chức. Đối với các
tỉnh, thành phố lớn đông dân cư như Hà Nội, TP.Hồ Chí Minh… dễ dàng kêu gọi các nhà
đầu tư trong và ngoài nước triển khai thực hiện, nhưng đối với cấp huyện, nhất là đối với
huyện thuộc vùng núi cao, trung du, hải đảo, việc triển khai thực hiện xã hội hóa rất khó
khăn. Đây cũng là một trong những cản trở lớn nhất của cải cách tiến lương, do chưa tách
bạch rõ ràng chính sách tiền lương đối với công chức khu vực hành chính nhà nước và viên
chức khu vực sự nghiệp cung cấp dịch vụ công.
2.2. Khái quát về thực trạng tiền lương khu vực công của Singapore:
Tuy là một nước có hệ thống chính trị tập trung cao, song Singapore lại nổi lên như một
nên kinh tế mạnh với môi trường đầu tư hấp dẫn và nền hành chính trong sạch. Chính phủ
Singapore luôn đứng đầu danh sách về độ minh bạch và chống tham nhũng. Đây là kết quả
của một chính sách đãi ngộ công chức khôn ngoan và sáng suốt khi chọn vấn đề lương công
chức là chìa khóa cho mọi cải cách. Dưới đây là những mặt thành công của chính sách tiền
lương tại Singapore:
2.2.1. Chính sách tiền lương hợp lý, có tính cạnh tranh cao so với khu vực tư nhân:
Mặc dù ở Singapore, trình độ giáo dục vẫn là yếu tố quan trọng để xác định mức
lương khởi điểm nhưng từ rất sớm, Singapore áp dụng tiêu chuẩn thị trường trong việc xác
định mức lương cho công chức. Để thu hút được người tài hoạt động trong khu vực công,
Chính phủ Singapore thường căn cứ vào thu nhập của khối tư nhân để đưa ra mức lương cho
công chức. Ngày 09/04/2007, Chính phủ Singapore đã công bố chế độ lương mới, bắt đầu có
hiệu lực từ tháng 04/2007. Theo đó ngân sách phải chi thêm 214 triệu đô la Singapore


Người thực hiện: Giang Thị Thắm

Lớp: D9QL7

6


Chính sách tiền lương khu vực công của Singapore và bài học cho Việt Nam
(SGD) và nâng tổng số quỹ tiền lương lên 4,7 tỷ SGD/ năm. Trong đó 95% trong tổng số
64000 công chức được tăng lương và 2/3 trong số này được tăng từ 3 – 5%. Cụ thể, nhằm
đảm bảo cuộc sống cho các cán bộ trẻ và có triển vọng, khuyến khích họ cống hiến hơn nữa
cho đất nước, tránh tình trạng chảy máu chất xám, Singapore đã tăng mức lương của cán bộ
trung cấp trẻ và có triển vọng trong khu vực công lên gần ngang với thu nhập của người ở độ
tuổi 32 – 35 làm việc trong khu vực tư nhân.
+) Mức lương chuẩn để tính lương cho các chức vụ từ Thư ký thường trực trở lên là 2,2 triệu
SGD, ngang bằng với mức thu nhập trung bình cùng năng lực 8 ngành trong khu vực tư
nhân.
+) Lương của Thư ký thường trực và Bộ trưởng khởi điểm 1,2 triệu SGD lên 1,6 triệu tương
đương 73% mốc lương chuẩn, đến cuối năm 2007 sẽ nâng lên bằng 77% và cuối năm 2008
sẽ là 88%.
+) Lương của Thủ tướng tăng từ 2,5 SGD triệu lên 3,1 triệu SGD; của Bộ trưởng Cao cấp và
Cố vấn Bộ trưởng từ 2,7 triệu lên 3,04 triệu SGD.
+) Lương của cán bộ trung cấp trẻ và có triển vọng tăng từ 372 nghìn SGD lên 384 nghìn
SGD gần ngang với thu nhập của người có độ tuổi từ 32 – 35 làm việc trong khu vực tư
nhân.
+) Trong tiền lương có phần trả cố định hàng tháng, cụ thể Thủ tướng 102 nghìn, Thư ký
thường trực và Bộ trưởng là 52,4 nghìn SGD. Phần còn lại được trả theo tỷ lệ tăng trưởng
kinh tế và hiệu quả công việc hàng năm.
-


Để suy trì tính cạnh tranh, việc đánh giá lương hàng năm của công chức rất được coi trọng,
làm căn cứ để xem xét mức lương cần sửa đổi. Đặc biệt Singapore chú trọng việc đánh giá
lương của các bộ trưởng và công chức cao cấp để điều chỉnh nhằm đảm bảo mức cạnh tranh
với khu vực tư nhân.

Người thực hiện: Giang Thị Thắm

Lớp: D9QL7

7


Chính sách tiền lương khu vực công của Singapore và bài học cho Việt Nam
-

Hiện nay mức lương của các Bộ trưởng và các công chức cấp cao tương đương mức lương
bình quân của 8 nhóm người có mức lương cao nhất trong 6 ngành nghề lương cao (chủ
ngân hàng, doanh nhân, giám đốc điều hành các công ty xuyên quốc gia, luật sư, kế toán
trưởng và kiến trúc sư)
Ghi nhận trong tham luận cho thấy hiện nay, mức lương Bộ trưởng và công chức ở
Singapore vào loại cao nhất thế giới. Lương của Thủ tướng Singapore cao gấp 2 lần Thủ
tướng Nhật và Tổng thống Mỹ, tức khoảng gần 500.000 USD/ năm. Lương các Bộ trưởng
cũng ở dưới mức đó một chút. Có thể thấy, chế độ đãi ngộ công chức của Singapore là cao
nhất thế giới, hơn nhiều so với Mỹ (đơn cử, lương của Tổng thống Singapore đạt khoảng 3,2
triệu SGD một năm, gấp 5 lần lương của Tổng thống Mỹ, khoảng 400.000 USD). Việc chấp
nhận chi trả lương công chức ở mức cao và bảo đảm tính cạnh tranh với khu vực tư nhân là
một sự lựa chọn chiến lược của các nhà lãnh đạo Singapore trong nhiều thập niên qua, nhờ
đó Singapore đã thu hút và giữ được những người tài năng nhất làm việc cho Chính phủ.
Năm 2007, Bộ trưởng Nội vụ Teo Chee Hean từng nói: “Chúng tôi không muốn lương là
động lực duy nhất để níu kéo công chức, nhưng cũng không muốn lương là lý do để họ rời

bỏ nhà nước”
2.2.2. Mức lương công chức tương xứng với hiệu quả công việc:
Singapore kiên định với việc trả lương công chức tương xứng với hiệu quả công việc.
Căn cứ vào chất lượng dịch vụ đối với công dân mà Singapore trả mức lương và các khoản
tiền thưởng tương xứng cho công chức. Năm 1989, Singapore áp dụng chế độ tiền thưởng 3
tháng lương cho các quan chức cao cấp có thành tích công việc tốt, chiếm khoảng 1% tổng
số công chức nhà nước. Tuy nhiên, ngoài việc phụ thuộc vào hiệu quả công việc, mức lương
công chức của Singapore còn phụ thuộc vào hiệu quả tổng thể của nền kinh tế. Singapore sẽ
không trả các khoản tiền thưởng cho công chức nếu nền kinh tế hoạt động kém hiệu quả.
Ngoài ra, việc đề bạt công chức ở Singapore cũng phải căn cứ hoàn toàn vào thành tích công
việc
2.2.3. Chính sách tiền lương sạch:

Người thực hiện: Giang Thị Thắm

Lớp: D9QL7

8


Chính sách tiền lương khu vực công của Singapore và bài học cho Việt Nam
Kết hợp với trả lương cao, Singapore xây dựng một hệ thống luật giám sát rõ ràng và
một hệ thống đánh giá công chức hiệu quả, thực chất nhằm quản lý và kiểm soát chặt chẽ thu
nhập của đội ngũ công chức.
-

Việc làm này đã khiến cho đội ngũ cán bộ công chức thực hiện một cách tự giác và nghiêm
túc bốn không: “không được, không thể, không muốn và không dám tham nhũng”,
Singapore cũng đã đổi mới cơ chế quản lý ngân sách bằng việc phần quyền tự chủ tài chính
đến tận cấp vụ của các Bộ.


-

Hơn nữa, cán bộ công chức mà bị kết án trước Tòa về hành vi tham nhũng còn bị mất việc
làm (nếu họ là những quan chức đã nghỉ hưu thì sẽ bị cắt lương hưu và những lợi ích khác).
Họ cũng sẽ không nhận được bất kỳ một sự bổ nhiệm nào ở khu vực công trong tương lai.
2.2.4. Tính linh hoạt trong cơ cấu tiền lương công chức:
Singapore áp dụng hệ thống lương linh hoạt từ tháng 7 - 1988 sau cuộc suy thoái kinh
tế năm 1985. Theo đó, cơ cấu tiền lương công chức được tạo ra từ những thành phần có thể
điều chỉnh dựa trên hiệu suất của nền kinh tế mà không ảnh hưởng xấu tới khoản thu nhập
mang về gia đình. Hình thức của hệ thống lương công vụ linh hoạt mới bao gồm:

-

Lương cơ bản;

-

Một phần thu nhập khác hàng tháng (MVC);

-

Một tháng lương thứ 13 (NPAA);

-

Thưởng giữa năm hoặc cuối năm (khoản thu nhập khác hàng năm còn gọi là AVC).
Hơn nữa, cán bộ công chức mà bị kết án trước Tòa về hành vi tham nhũng còn bị mất
việc làm (nếu họ là những quan chức đã nghỉ hưu thì sẽ bị cắt lương hưu và những lợi ích
khác). Họ cũng sẽ không nhận được bất kỳ một sự bổ nhiệm nào ở khu vực công trong tương

lai.
Như vậy, thành công trong cải cách lương của Singapore đã chứng tỏ vai trò của Hội
đồng lương quốc gia (NWC) trong việc bảo đảm sự hài hòa thông qua việc thực hiện chế độ

Người thực hiện: Giang Thị Thắm

Lớp: D9QL7

9


Chính sách tiền lương khu vực công của Singapore và bài học cho Việt Nam
lương linh hoạt. Về mặt kỹ thuật, nó chứng tỏ rằng sự thành công của công cuộc cải cách
tiền lương là dựa trên cơ sở của sự tin cậy giữa mối quan hệ ba bên: lao động, nhà quản lý
và chính quyền. Bên cạnh những thành tựu to lớn mà Singapore đạt được thì không thể tránh
khỏi khó khăn gặp phải khi áp dụng chính sách tiền lương này:
Đơn cử, trong cuộc bầu cử tại Singapore năm 2011, Ủy ban điều chỉnh tiền lương của
đảng cầm quyền Nhân dân Hành động (PAP) đã giành tỷ lệ ủng hộ thấp nhất kể từ năm
1965. Đảng cầm quyền Nhân dân Hành động PAP hiện đang vấp phải nhiều chỉ trích liên
quan tới việc giới chức trong nội các được trả lương quá cao trong bối cảnh nền kinh tế gặp
khó khăn. Các Đảng đối lập đã công khai chỉ trích thu nhập của bộ trưởng và so sánh lương
của họ với dân thường. Họ cho rằng, người dân trong nước đang phải đối mặt với áp lực
ngày càng gia tăng về chi phí sinh hoạt, và áp lực tiền lương từ dòng chảy lao động nước
ngoài. Chính phủ Singapore buộc phải thắt chặt những quy định lao động nước ngoài, áp
mức giá cao hơn cho người nước ngoài khi mua bất động sản tại Singapore. Cuộc khủng
hoảng tài chính toàn cầu năm 2008 làm cho nền kinh tế gặp nhiều khó khăn, mức lương trả
cao đã được điều chỉnh (4/1/2012) cho phù hợp với tình hình. Chính phủ Singapore đã thành
lập Ủy ban rà soát tiền lương, xem xét mức lương Bộ trowngr và lương hiện tại của các
chính trị gia. Mức cắt giảm tới 1/3 các khoản lương trị giá hàng triệu đô la của các nhà lãnh
đạo.

Tỷ lệ lương bị cắt giảm cao nhất là Chủ tịch Quốc hội (giảm 53%), từ 1,17 triệu
SDG/năm xuống còn 550.000 SGD/năm (khoảng 9 tỉ Việt Nam đồng). Tiếp theo, mức cắt
giảm của Tổng thống (giảm 51%), từ 3,14 triệu SGD/năm còn 1,54 triệu SGD/năm. Lương
các Bộ trưởng giảm 37% còn 1,1 triệu SGD/năm. Lương Thủ tướng giảm 36%, còn 2,2 triệu
SGD/năm trong khi các thành viên nội các sẽ nhận số lương bằng một nửa của Thủ tướng.
Riêng lương của các nghị sĩ quốc hội với phụ cấp kiêm nhiệm 15.000 SGD/tháng thì không
đổi. Việc cắt giảm lương vào ngày 4/1/2012 không tác động đến lương của nhóm những
công chức có thu nhập thấp.
2.3. Sự khác nhau giữa chính sách tiền lương khu vực công của Việt Nam và
chính sách tiền lương khu vực công của Singapore:

Người thực hiện: Giang Thị Thắm

Lớp: D9QL7

10


Chính sách tiền lương khu vực công của Singapore và bài học cho Việt Nam

Chính sách tiền lương khu vực công của

Chính sách tiền lương khu vực công của

Việt Nam

Singapore

- Chính sách tiền lương thay đổi liên tục - Chính sách trả lương mang tính chất thu
nhưng lại duy trì mức tiền lương tối thiểu hút và cạnh tranh cao so với khu vực tư

quá lâu và quá thấp, không đảm bảo được nhân.
mức sống tối thiểu cho cán bộ công chức,
viên chức, thấp hơn rất nhiều so với khu vực
tư nhân
- Tiền lương của cán bộ công chức viên
chức dựa theo mức tiền lương tối thiểu
chung mà Nhà nước ban hành, thấp hơn - Tiền lương của cán bộ công chức được căn
nhiều so với khu vực tư nhân, chỉ đáp ứng cứ vào khối tư nhân (lương bằng bình quân
65 – 70% mức sống tối thiểu của cán bộ của 8 nhóm người có mức lương cao nhất
trong 6 ngành nghề lương cao).

công chức, viên chức.
- Tiền lương của cán bộ công chức, viên
chức được trả dựa theo khả năng chi trả của
ngân sách Nhà nước.

- Tiền lương của cán bộ công chức được trả
dựa theo cơ chế thị trường, quỹ lương thay
đổi tùy vào khả năng của nền kinh tế

Người thực hiện: Giang Thị Thắm

Lớp: D9QL7

11


Chính sách tiền lương khu vực công của Singapore và bài học cho Việt Nam

Chương 3: Bài học rút ra cho Việt Nam

3.1.

Đãi ngộ tương xứng và giám sát hiệu quả:
Singapore luôn đứng trong tốp đầu các nước có chỉ số quản lý minh bạch và môi

trường đầu tư hấp dẫn nhất thế giới. Có nhiều yếu tố, nhưng có thể nói, chính chế độ đãi ngộ
công chức cao và hấp dẫn là yếu tố then chốt tạo ra một nền hành chính lành mạnh và hiệu
quả trong mấy thập kỷ qua.
Tổng thống Singapore, Lý Hiển Long, trước câu hỏi trong một cuộc phỏng vấn tại
Mỹ năm 2010 rằng: việc ông lên làm tổng thống có phải là nhờ ảnh hưởng của cha ông, đã
trả lời khẳng khái rằng: ở Singapore, chúng tôi trả lương cao để thu hút người tài nhất làm
trong chính phủ và bản thân tôi cũng phải chứng minh được điều đó.
Kết hợp với trả lương cao, Singapore xây dựng một hệ thống luật giám sát rõ ràng và
một hệ thống đánh giá công chức hiệu quả và thực chất. Singapore cũng đã đổi mới cơ chế
quản lý ngân sách bằng việc phân quyền tự chủ tài chính đến tận cấp Vụ.
Yếu tố đầu tiên quyết định sự chuyên nghiệp chính là việc cán bộ công chức được trả
lương cao. Khi ấy, cán bộ sẽ ý thức được trách nhiệm cho tương xứng, cũng như luôn phải
nỗ lực làm việc để không mất mức lương đó. Trả lương cao cũng giúp tạo ra sức cạnh tranh.
Với mức đãi ngộ cao, các cơ quan nhà nước có lý do chính đáng để sa thải những
công chức không đủ năng lực hoặc làm việc không trách nhiệm, không tương xứng với mức
lương được trả. Còn với lương thấp, bất kỳ công chức nào cũng sẽ có thể lấy lý do nuôi sống
gia đình và bản thân để giải thích cho hành vi tư lợi của mình.
3.2.

Lựa chọn chiến lược:
Ở Việt Nam, giải pháp cho vấn đề lương công chức hiện nay vẫn gặp những trở ngại,

quanh co và bế tắc. Theo báo cáo của Bộ Nội vụ, đến nay, mức lương tối thiểu của cán bộ,
công chức đã được điều chỉnh 14 lần. Tuy nhiên, thực tế những năm gần đây, mức tăng


Người thực hiện: Giang Thị Thắm

Lớp: D9QL7

12


Chính sách tiền lương khu vực công của Singapore và bài học cho Việt Nam
lương chỉ là để bù đắp mức tăng giá tiêu dùng, chứ chưa thể nói đến việc nâng cao cuộc
sống cho cán bộ, công chức.
Một chính sách đãi ngộ công chức khôn ngoan và sáng suốt của chính phủ Singapore
là chọn vấn đề lương công chức là chìa khóa cho mọi cải cách. Nhìn vào mô hình phát triển
của Singapore, có thể thấy động lực làm việc và sự tuân thủ luật pháp của công chức là yếu
tố mấu chốt. Từ đó, mọi chính sách và luật pháp đi vào cuộc sống chứ không chỉ trên giấy
tờ, hoặc bị bóp méo khi triển khai.Do vậy, vấn đề tăng lương công chức nhất thiết phải là sự
lựa chọn chiến lược và quyết tâm chính trị ở những cấp cao nhất. Cách làm cần tiếp tục
nghiên cứu, song cam kết để công chức sống đàng hoàng bằng lương cần được hiện thực hóa
trong tương lai gần nếu muốn cải cách hành chính đi vào thực chất.
3.3.

Trả lương theo năng suất, chất lượng và hiệu quả công việc:
Để khuyến khích những người làm việc thật sự có năng suất, chất lượng và hiệu quả

cần thực hiện việc trả lương theo hiệu quả công việc chứ không phải theo ngạch, bậc đơn
thuần. Tiền lương phải bảo đảm tái sản xuất sức lao động. Muốn vậy, tiền lương tối thiểu
phải tương ứng chỉ số giá sinh hoạt từng thời kỳ và phải tính đến sự phù hợp với từng ngành,
nghề, cũng như đặc thù riêng của từng khu vực. Đồng thời phải có sự so sánh với mức lương
tối thiểu trong khu vực doanh nghiệp.
3.4.


Thay đổi kết cầu tiền lương:
Phải thay đổi cơ bản kết cấu tiền lương công chức, trong đó bao gồm phần lương

“cứng” theo thang, bậc lương quy định chung và bằng với mức lương tối thiểu mà từng
người đang được hưởng; và phần lương “mềm” thưởng theo năng suất, hiệu quả công việc
và mức độ hoàn thành nhiệm vụ, được chi trả từ nguồn kinh phí tăng lương do Chính phủ
phân bổ cho mỗi đơn vị.
Giải pháp này không những tạo động lực làm việc cho cả người giỏi và người kém để
đạt được mức lương cao nhất có thể mà còn góp phần quan trọng giải quyết khó khăn eo hẹp

Người thực hiện: Giang Thị Thắm

Lớp: D9QL7

13


Chính sách tiền lương khu vực công của Singapore và bài học cho Việt Nam
về tài chính trong việc tạo nguồn để tăng lương thích đáng cho cán bộ, công chức và để điều
chỉnh lương linh hoạt theo biến động của thị trường.

Người thực hiện: Giang Thị Thắm

Lớp: D9QL7

14


Chính sách tiền lương khu vực công của Singapore và bài học cho Việt Nam


KẾT LUẬN
Chính sách tiền lương nói chung và chính sách tiền lương khu vực công nói riêng là
một bộ phận quan trọng trong hệ thống chính sách kinh tế - xã hội của Nhà nước. Chính sách
này có liên quan mật thiết tới tăng trưởng và phát triển kinh tế, nó ảnh hưởng trực tiếp đến
đời sống của những người làm công ăn lương, và các mối quan hệ khác. Hoàn thiện cải
chính sách tiền lương khu vực công cho phù hợp với nhu cầu và sự phát triển kinh tế - xã hội
là vấn đề hết sức cấp bách và cần thiết. Nhận thức được điều này, Nhà nước ta đã liên tục cải
cách chính sách tiền lương khu vực công nhằm đảm bảo lợi ích cho cán bộ công chức, viên
chức. Về cơ bản công cuộc cải cách này đã đem lại những hiệu quả đáng ghi nhận. Tuy
nhiên trong các cuộc cải cách đó, Nhà nước ta mới chỉ tập trung vào nâng cao mức lương tối
thiểu, trong hoàn cảnh hiện nay chính sách lương nay không còn phù hợp, nó bộc lộ nhiều
hạn chế và bất cập.
Những phân tích trên cho thấy đã đến lúc phải có bước đột phá thật sự trong việc cải
cách chính sách tiền lương, không chỉ là ở vấn đề tạo nguồn tài chính để tăng lương tối thiểu
đơn thuần mà cả về vấn đề nghiệp vụ tiền lương, nghĩa là cải cách cả hệ thống thang bảng
lương, khắc phục những hạn chế, bất cập của nó xuất phát từ những đòi hỏi khách quan của
cuộc sống. Tiền lương cần phải gắn liền vói sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, trả
lương đúng và hiệu quả chính là thực hiện đầu tư cho phát triển, góp phần quan trọng làm
lành mạnh, trong sạch đội ngũ cán bộ, nâng cao tinh thần trách nhiệm và hiệu suất công tác
của bộ máy hành chính.
Trên đây là bài tiểu luận của em về: “Chính sách tiền lương khu vực công của
Singapore và bài học cho Việt Nam”, bài làm không tránh khỏi được thiếu sót mong cô nhận
xét để bài làm của em được hoàn thiện hơn!
Em xin chân thành cảm ơn!

Người thực hiện: Giang Thị Thắm


Chính sách tiền lương khu vực công của Singapore và bài học cho Việt Nam


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. PGS.TS Nguyễn Tiệp, Đại học Lao động – Xã hội, Giáo trình Tiền lương – Tiền
Công, Nhà xuất bản Lao động – Xã hội.
2. PGS.TS Nguyễn Ngọc Quân và ThS. Nguyễn Vân Điềm, Giáo trình Quản trị nhân
lực, Nhà xuất bản Đại học kinh tế quốc dân, 2012.
3. TS. Đặng Văn Huấn, Bài học từ sự khôn ngoan của Singapore, Đại học Portland
State, Hoa Kỳ, 2015.
4. Trang web:
- />- />
cong.htm
/>
-

o-khu-vuc-cong-cua-singapore-bai-hoc-kinh-nghiem-cho-viet-nam-53909.html
/>
mot-cuoc-cai-cach-manh-me.html
- TS. Nguyễn Hữu Dũng, Viện Khoa học Lao động và Xã hội, Chính sách tiền lương:
Thực trạng, vấn đề và yêu cầu đặt ra cho giai đoạn 2011 – 2015.

Người thực hiện: Giang Thị Thắm



×