Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

skkn một số GIẢI PHÁP GIÚP học SINH lớp 5 học tốt môn TOÁN TRONG mô HÌNH VNEN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (469.28 KB, 19 trang )

Cộng hòa xã hội chủ nghĩa việt nam

Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

Sáng kiến kinh nghiệm
Một số giảI pháp giúp học sinh lớp 5
học tốt môn toán Trong mô hình VNEN

1


Quảng Bình, tháng 5 năm 2014

Cộng hòa xã hội chủ nghĩa việt nam

Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

Sáng kiến kinh nghiệm
Một số giảI pháp giúp học sinh lớp 5
học tốt môn toán Trong mô hình VNEN

Họ và tên: Đoàn Thị Phơng
Hòa
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị công tác: Trờng tiểu
học Thanh Thy

2


Quảng Bình, th¸ng 5 n¨m 2014


TỐM TẮT NHỮNG ĐIỂM MỚI, KHÃ NĂNG ÁP DỤNG
VÀ HIỆU QUẢ CỦA SÁNG KIẾN
1.Tên sáng kiến: “Một số giải pháp giúp học sinh lớp 5 học tốt môn Toán
trong mô hình VNEN”
2. Điểm mới:
- Tìm hiểu kỹ đặc điểm và trình độ nhận thức của học sinh.
- Nghiên cứu sách giáo khoa, các tài liệu dạy học có liên quan đến từng tiết dạy
và dạy học theo nhóm đối tượng ( sách HDHT lớp 4).
- Chuẩn bị đồ dùng dạy học, phương tiện dạy học.
- Lựa chọn phương pháp hình thức tổ chức dạy học.
- Dự kiến phân phối thời gian cho từng hoạt động
- Hình thành các kĩ năng tính toán cho học sinh
3. Khã năng áp dụng:
- Giáo viên dạy môn Toán lớp 5
- Học sinh học môn Toán lớp 5
4. Hiệu quả thực hiện:
Trong năm học qua từ việc áp dụng những giải pháp giúp học sinh lớp 5 học tốt
môn Toán trong mô hình VNEN. Qua việc tổ chức hoạt động học tập tôi thấy các
em hứng thú, say sưa sôi nổi hơn trong học tập. Những học sinh giỏi thực sự có
điều kiện phát huy năng lực của mình. Còn những em trước đây kĩ năng tính toán
hạn chế, tiếp thu bài chậm, ít trao đổi, ít giơ tay phát biểu ý kiến thì nay đã mạnh
dạn hơn, tự tin hơn, sôi nổi hơn nhiều. Các em biết hợp tác, giúp đỡ, giao tiếp học
hỏi lẫn nhau, tự tìm tòi, tự phát hiện, tự chiếm lĩnh kiến thức. Các em học tập một
cách hứng thú, tập trung với tinh thần thi đua, vui vẻ, tích cực. Tiết dạy nhẹ nhàng,
tự nhiên, sinh động và hiệu quả. Tỉ lệ học sinh khá giỏi về môn Toán của cả lớp
cũng tăng lên đáng kể cụ thể đầu năm tỉ lệ học sinh khá giỏi đạt 58,6% sau khi áp
dụng sáng kiến tỉ lệ cuối năm học sinh khá giỏi đạt 96,6%, tăng so với đầu năm
38%.
Người thực hiện sáng kiến
Xác nhận của thủ trưởng đơn vị


3


Đoàn Thị Phương Hòa
1.Phần mở đầu:
1.1. Lý do chọn sáng kiến.
Dạy học theo mô hình VNEN là mô hình áp dụng lần đầu tiên tại Việt Nam,.
chuyển đổi từ dạy học truyền thụ của giáo viên sang tổ chức hoạt động giúp học
sinh tự học, chủ động khám phá kiến thức, nó khác hoàn toàn cách tổ chức dạy học
trước đây. Để học sinh tiếp thu tốt nhất lượng kiến thức của bài học thì quá trình tự
học, tự giáo dục của học sinh giữ vai trò trung tâm, còn giáo viên là người hướng
dẫn, đồng hành với học sinh, giúp học sinh tự tìm hiểu kiến thức. Mà tiểu học là
cấp học nền tảng đặt cơ sở ban đầu cho việc hình thành và phát triển nhân cách của
con người, đặt nền móng vững chắc cho giáo dục phổ thông và cho toàn bộ hệ
thống giáo dục quốc dân. Để đạt được mục đích trên, giáo viên giúp các em học tốt
các môn học, học có phương pháp là mục tiêu hàng đầu được đặt ra trong mỗi tiết
học, giúp cho học sinh phát triển kĩ năng, kĩ xảo, năng lực và tư duy.
Mỗi môn học đều góp phần hình thành và phát triển nhân cách cho các em,
cung cấp cho các em những tri thức cần thiết để phục vụ cho cuộc sống, học tập và
sinh hoạt, sao cho tốt nhất và có hiệu quả cao.
Trong đời sống, môn Toán có vai trò rất quan trọng nó là một môn học rất khó,
có tính liên tục, hệ thống kiến thức dạy học trong các cấp mang tính đồng tâm.
Nếu chúng ta không khéo léo trong phương pháp giảng dạy thì sẽ rất khó gây được
hứng thú cho các em có niềm say mê học toán.
Trong chương trình Tiểu học nói chung và lớp 5 nói riêng, môn Toán chiếm thời
gian rất nhiều. Vì vậy việc nâng cao hiệu quả của dạy và học môn Toán là yêu cầu
cấp thiết hiện nay. Là giáo viên đang giảng dạy lớp 5 tôi luôn suy nghĩ và tìm tòi
học hỏi xem phải làm như thế nào để các em có hứng thú yêu thích môn học vừa
khó vừa khô khan này.

Kiến thức được đưa vào chương trình toán lớp 5 có tính kế thừa và mở rộng của
các lớp dưới ở bậc Tiểu học, là điều cơ bản cần thiết và thường gặp trong đời sống
hàng ngày. Dạy học toán lớp 5 là góp phần củng cố kiến thức số đo đại lượng,
phép đo đại lượng, các đối tượng hình học và các kiến thức liên quan. Qua đó, phát
triển năng lực thực hành, tư duy của học sinh. Đồng thời dạy toán là một trong
những biện pháp quan trọng gắn học với hành, gắn kiến thức đã học với đời sống
thực tiễn.
4


Mặt khác đặc điểm nhận thức của học sinh tiểu học là năng lực phân tích tổng
hợp chưa cao, tri giác thường dựa vào hình dạng bên ngoài, nhận thức chủ yếu dựa
vào cái quan sát được, chưa biết phân tích và nhận ra thuộc tính đặc trưng mà trí
tưởng tượng của học sinh đã phát triển, nhưng vẫn phụ thuộc vào mô hình mẫu vật
thật, suy luận của học sinh đã phát triển song vẫn còn là một dãy phán đoán, nhiều
khi còn cảm tính.
Có thể nói dạy học toán, chủ yếu là dạy các hoạt động thông qua các kĩ năng
giải toán. Nhờ đó mà người học được rèn luyện tư duy một cách tích cực, linh
hoạt. Nó yêu cầu người giải phải huy động toàn bộ các kiến thức, kỹ năng vào các
tình huống khác nhau để giải quyết năng động sáng tạo.
Phương pháp dạy học này đã và đang được đông đảo giáo viên tiếp tục nghiên
cứu, vận dụng và từng bước hoàn thiện. Học sinh cần được đặt trước những tình
huống, các bài toán thực tế nhằm rèn khả năng suy nghĩ linh hoạt, sáng tạo, biết
vận dụng những điều đã biết để tìm con đường giải quyết khác nhau, từ đó chọn
được con đường tốt nhất để đi tới kết quả. Qua giải một bài toán, học sinh được
rèn luyện và phát triển tư duy logic, tính chủ động sáng tạo và linh hoạt. Nó góp
phần rèn tính cẩn thận, chính xác, kiên trì, vượt khó, chủ động sáng tạo cho người
học, từ đó thực hiện tốt ba nhiệm vụ: giáo dưỡng, giáo dục và phát triển.
Nếu người giáo viên chúng ta biết phát huy điểm mạnh và hạn chế tối đa
những yếu điểm nói trên của học sinh, thì việc nhận thức được các khái niệm toán

học một cách lô gíc cho các em là rất cần thiết. Từ suy nghĩ đó tôi mạnh dạn đưa
sáng kiến kinh nghiệm: “Một số giải pháp giúp học sinh lớp 5 học tốt môn Toán
trong mô hìnhVNEN” nhằm giúp các em ham thích học môn toán.
1.2. Điểm mới của sáng kiến:
Dạy học Toán là một trong những biện pháp quan trọng gắn học với hành, gắn
kiến thức đã học với đời sống thực tiễn. Vì vậy khi lên lớp giáo viên luôn tạo ra
bầu không khí cởi mở, thoải mái, say mê thì học sinh học tập phấn khởi, hào hứng,
giảm bớt sự căng thẳng khô khan trong toán học. Trước đây, giáo viên tổ chức cho
học sinh hoạt động học tập chủ yếu là hoạt động cả lớp. Còn trong quá trình dạy
học hiện nay tôi muốn chia sẽ kinh nghiệm về cách tổ chức cho học sinh học tập
theo nhóm trong mô hình lớp học VNEN được bố trí thành các nhóm nhỏ (ngồi
thành hình chữ U). Giáo viên là người tổ chức và hướng dẫn để các học sinh trong
nhóm phát huy tốt tính tích cực, tự giác, hợp tác, chia sẽ về các kỹ năng tính toán
và các kỹ năng khác. Do đó đòi hỏi mỗi giáo viên phải nắm được đặc điểm của
5


từng học sinh. Đầu tư nghiên cứu sách giáo khoa, tài liệu dạy học để thiết kế bài
giảng và chuẩn bị các phương tiện dạy học như: phiếu bài tập, khăn trải bàn, vật
mẫu, bảng nhóm,… một cách chu đáo hài hòa thì giờ dạy sẽ thành công. Nhằm góp
phần thực hiện mục tiêu chung của môn toán sau khi học sinh hoàn thành chương
trình tiểu học. Với sáng kiến này do bản thân tôi nghiên cứu, học hỏi đồng chí
đồng nghiệp, đúc rút được qua quá trình dạy học theo mô hình mới thí điểm tại đơn
vị của trường nói chung khối 5 nói riêng.
1.3. Phạm vi áp dụng của sáng kiến:
- Sáng kiến này áp dụng được cho môn Toán trong chương trình lớp 5.
2. Phần nội dung:
2.1. Thực trạng của giải pháp giúp học sinh lớp 5 học tốt môn Toán trong mô
hình VNEN:
Về phía giáo viên: Đầu năm học, giáo viên chúng tôi đều được nhà trường tổ

chức tập huấn phương pháp dạy học theo mô hình trường học kiểu mới (mô hình
VNEN) để vận dụng trong quá trình giảng dạy. Nhưng đối với khối 2,3,4 đã có
sách Hướng dẫn học tập cụ thể nên một số giáo viên đã vận dụng tương đối linh
hoạt mô hình dạy học này. Tuy nhiên trong thời gian đầu, việc vận dụng còn rất bất
cập, lúng túng đặc biệt là đối với những giáo viên đang dạy theo sách giáo khoa
chương trình hiện hành lớp 5. Đây là khối mà chưa có tài liệu hướng dẫn cụ thể vì
vậy việc nghiên cứu sách giáo khoa, tài liệu giảng dạy để thiết kế phiếu học tập
cho mỗi tiết học còn gặp nhiều khó khăn. Khi sử dụng mô hình này còn bị hạn chế
bởi không gian chật hẹp của lớp học, bởi thời gian hạn định cho một tiết học, giáo
viên phải mất nhiều thời gian chuẩn bị đồ dùng và thiết kế nhiệm vụ cho nhóm. Do
vậy giáo viên ngại đổi mới, ngại dạy học theo mô hình. Đôi khi giáo viên còn tổ
chức hoạt động nhóm mang tính hình thức, chưa quan tâm sâu sát đến từng đối
tượng học sinh trong khi các em học nhóm, nhất là học sinh yếu. Chưa tổ chức các
hoạt động phù hợp với từng nhóm, từng học sinh một cách cụ thể dẫn đến kết quả
chưa cao. Bên cạnh đó một số giáo viên tổ chức các hoạt động dạy học còn mang
tính rập khuôn chưa có tính chủ động sáng tạo.
Về phía học sinh: Trong năm học này học sinh khối 2,3,4 được học theo mô hình
trường tiểu học mới. Các em luôn thực hiện theo 10 bước học tập, học theo nhóm
6


là chính nên học sinh tự giác, mạnh dạn, biết chia sẽ, phát huy được tính năng
động sáng tạo. Nhờ đó mà trong những giờ ngoại khóa, tiết học thực hành…chúng
tôi hướng dẫn các em quan sát mô hình học tập ở các khối chọn làm thí điểm này
nhiều học sinh đã có ý thức tự giác, mạnh dạn hơn trước, biết chia sẽ, biết cách tổ
chức trong học nhóm và bước đầu thực hiện được các bước học tập theo mô hình
mới. Thế nhưng trong quá trình giảng dạy tôi thấy nhiều học sinh từ trước không
được làm quen với cách học này nên có phần bỡ ngỡ. Một số học sinh năng lực chỉ
đạo nhóm còn hạn chế thường e dè, chưa mạnh dạn, thiếu tự tin năng lực chỉ đạo
chưa quen, chưa thành thạo 10 bước học tập. Bên cạnh đó tài liệu Hướng dẫn học

tập không có còn phụ thuộc vào cuốn sách hiện hành bởi vậy còn gặp nhiều khó
khăn nhất định. Một số học sinh còn hiếu động chưa có lòng kiên trì và quyết tâm
cao, thấy khó là các em lùi bước vì khả năng phân tích, tổng hợp đề toán kém. Hạn
chế trong việc tìm ra mối quan hệ giữa các dữ kiện của bài toán, tóm tắt bài toán
thiếu chính xác. Học sinh khá giỏi thì chưa có thói quen tìm nhiều cách giải khác
cho một bài toán. Một số em do kĩ năng tính toán hoặc giải toán còn hạn chế nên
rất sợ học vì vậy việc dạy toán bên cạnh những thành công vẫn còn nhiều hạn chế.
2.2. Các giải pháp.
2.2.1 Tìm hiểu kỹ đặc điểm và trình độ nhận thức của học sinh.
Khi nhận lớp giáo viên phải tìm hiểu đặc điểm tâm sinh lý và trình độ nhận thức
của học sinh nhưng việc tìm hiểu phải diễn ra trong một quá trình. Bởi vậy trong
giảng dạy để đạt hiệu quả bản thân tôi không ngừng phối kết hợp với phụ huynh,
gần gũi học sinh, nắm bắt từ phía giáo viên chủ nhiệm năm trước, giáo viên bộ
môn để tìm hiểu rõ đặc điểm của từng đối tượng học sinh. Trước mỗi tiết dạy, mỗi
lượng kiến thức mới bao giờ tôi củng phải hiểu rõ về học sinh của mình, đặc điểm
trình độ từng đối tượng học sinh. Cụ thể các em đã có kĩ năng, kĩ xảo tính toán gì
và chưa hệ thống tốt ở nhóm kiến thức nào, dạng toán điển hình nào...Từ đó giáo
viên phát huy điểm mạnh và sửa chữa sai lầm của các em. Sự hiểu biết này giúp
chúng ta xác định tính vừa sức, tính mức độ của nội dung kiến thức và từ đó nâng
dần kĩ năng tính toán cho từng đối tượng học sinh. Chẳng hạn các em đặt tính
cộng trừ số thập phân các hàng chưa thẳng cột với nhau nên dấu phẩy chưa thẳng
hàng dẫn đến sai kết quả tính. Giáo viên cần lưu ý cho học sinh thêm chữ số 0 vào
7


bên phải phần thập phân để các số tham gia vào phép tính có cùng một số chữ số ở
phần thập phân.
Ví dụ: Thực hiện các phép tính sau :
4,3  0,65 ... ?
35,25  8,774 ...?

4,30
35,250
0,65
8,774
4,95
26,476
Nắm đặc điểm trình độ nhận thức của cả lớp, là một yếu tố quan trọng để giáo
viên chuẩn bị cho giờ dạy đạt hiệu quả cao.
2.2.2. Nghiên cứu sách giáo khoa, các tài liệu dạy học có liên quan đến từng
tiết dạy và dạy học theo nhóm đối tượng.
- Nghiên cứu chương trình, sách giáo khoa, tài liệu dạy học và Hướng dẫn học
tập Toán 4..
+ Tôi xem lại chương trình cả cấp học và lớp học mà tôi được phân công bắt đầu
từ mục tiêu môn học. Đồng thời tìm hiểu trước để nắm toàn bộ nội dung sách giáo
khoa, từng chương, từng nhóm kiến thức… khối lớp mà tôi sẽ dạy.
Học xong toán 5, HS phải đạt chuẩn kiến thức và kĩ năng về:
+ Khái niệm ban đầu về số thập phân, cộng, trừ, nhân chia số thâp phân và tỉ số
phần trăm.
+ Nhận biết về biểu đồ hình quạt và ý nghĩa thực tế của nó; biết thu thập và xử lí
thông tin đơn giản từ một biểu đồ hình quạt.
+ Chuyển đổi thành thạo các đơn vị đo từ lớn đến bé từ bé đến lớn của các bảng
đơn vị đo độ dài, khối lượng, diện tích, thể tích, thời gian và vận tốc.
+ Nhận biết đặc điểm, từ đó tính được diện tích các hình tam giác, hình thang.
Nhận biết được đường tròn, hình tròn, bán kính, đường kính. Từ đó có kĩ năng tính
chu vi, diện tích của hình tròn và một tổ hợp hình. Biết một số đặc điểm của hình
hộp chữ nhật, hình lập phương, hình trụ, hình cầu và có kĩ năng tính diện tích
xung quanh và diện tích toàn phần, thể tích của hình hộp chữ nhật, hình lập
phương.
+ Biết giải và trình bày các bài toán đến bốn bước tính về: Quan hệ tỉ lệ, tỉ số
phần trăm, toán chuyển động đều và bài toán có nội dung hình học.

Ngoài việc nghiên cứu sách và tài liệu để giảng dạy tôi kết hợp tham khảo
nghiên cứu tài liệu Hướng dẫn học Toán 4 để vận tốt trong quá trình dạy học theo
mô hình mới.
+

8


- Định hướng trong quá trình thiết kế bài dạy:
+ Giáo viên trong vai trò là người tổ chức quá trình hoạt động của học sinh, việc
đầu tiên vô cùng quan trọng mà người giáo viên cần làm là thiết kế bài dạy, xác
định mục tiêu, Chuẩn kiến thức kỹ năng và điều kiện dạy học để xây dựng nội
dung cho học sinh hoạt động. Đối với những bài học có liên quan và vận dụng vào
thực tế, giáo viên thiết kế phiếu học tập cho học sinh tự liên hệ từ ví dụ và trực
tiếp cân, đo, đếm… để thấy được vai trò quan trọng của môn toán trong đời sống
con người.
Ví dụ: Những bài tập nâng dần từ bài dễ đến bài khó, giáo viên chỉ cho học sinh
yếu thực hành bài các em tính toán được. Những bài khác cho thảo luận dưới sự
hướng dẫn của giáo viên nếu còn thời gian cho các em làm tại lớp hoặc về nhà làm
lại tiết sau giáo viên kiểm tra.
+ Đối với những nhóm có học sinh yếu giáo viên cần xây dựng các phiếu học tập
với lượng bài tập vừa đủ để học sinh luyện tập và củng cố kiến thức, không nên
cho một lượng bài tập quá tải, quá khó để các em nản mà nghĩ mình làm không
được .
Ví dụ: Việc dạy học phù hợp theo từng nội dung bài học và đối tượng học sinh,
tôi chia theo 3 nhóm đối tượng: giỏi, khá - trung bình - yếu và đặc biệt quan tâm
đến nhóm đối tượng trung bình, yếu. Cho các em thảo luận đi đến thống nhất
những dữ liệu cho biết dễ phát hiện và tìm những dữ liệu cần tìm cùng với sự
hướng dẫn của giáo viên, xác lập mối liên hệ trong các dữ liệu, cho học sinh nhắc
lại công thức áp dụng và đi đến thống nhất lời giải, trình bày bài toán cùng với

việc động viên, khuyến kích kịp thời của các bạn và cô giáo.
+ Đối với nhóm có học sinh kỹ năng tính toán nhanh nên thiết kế phiếu bài tập
nâng cao để bồi dưỡng và phát triển năng lực cho các em. Giáo viên phải khéo léo
đặt tình huống có vấn đề để cho các em khỏi so bì mình được giao việc khó hơn tự
phát huy năng lực phát hiện, sáng tạo và tìm cách giải khác. Sau khi học sinh hoàn
thành và báo cáo kết quả tôi nhận xét , tặng ngay bông hoa điểm tốt hoặc ghi cho
các em điểm 10 khích lệ sự hứng thú và lòng say mê ở các em.
Cùng với những việc làm trên, GV cần kết hợp lựa chọn phương pháp dạy và
hình thức dạy học mới một cách phù hợp để nâng cao chất lượng giáo dục.
2.2.3.. Chuẩn bị đồ dùng và phương tiện dạy học.
Để tổ chức một giờ dạy thành công thì công việc chuẩn bị đồ dùng, phương tiện
và hình thức dạy học là cần thiết không thể thiếu đối với giáo viên. Tùy theo bài
9


dạy để chuẩn bị các phương tiện như tranh ảnh, vật thực cho học sinh quan sát; câu
hỏi hoặc nội dung, phiếu bài tập để học sinh thảo luận, bàn bạc; thời gian quy định
cho mỗi hoạt động; bảng nhóm để học sinh ghi chép kết quả hoạt động.
Học sinh cần chuẩn bị đầy đủ phương tiện học tập như sách vở, bút mực và các
đồ dùng khác phục vụ cho việc thảo luận nội dung học tập như: sưu tầm tranh ảnh,
vật thực…
- Cần ghi rõ đồ dùng trực quan cần chuẩn bị, các phương tiện này dùng cho hoạt
động nào vào lúc nào. Đồ dùng, các phương tiện góp phần không nhỏ tạo ra hiệu
quả giờ dạy .
Khi chuẩn bị đồ dùng dạy học, giáo viên cần xác định mục đích của đồ dùng đó
là gì ? Nó được sử dụng vào lúc nào và cách sử dụng ra sao? Không nên sử dụng
chúng một cách tuỳ tiện không nắm rõ mục đích sử dụng.
Ví dụ:
- Giáo viên cần chuẩn bị đầy đủ đồ dùng dạy học như: bảng nhóm, phiếu bài
tập, khăn trải bàn, vật mẫu, tranh ảnh minh họa…vv…và sử dụng có hiệu quả

nhất định trong từng tiết dạy.
- Học sinh: Sách giáo khoa, vở bài tập, vở nháp, bút , giấy A 0, bút dạ, thước,
tẩy, tranh ảnh, vật mẫu…
2.2.4. Lựa chọn phương pháp và hình thức tổ chức dạy học.
Để thể hiện một tiết dạy thành công thì việc lựa chọn phương pháp và hình thức
dạy học là một trong những yếu tố quan trọng nhất. Bởi vậy bản thân tôi luôn trăn
trở tìm mọi phương pháp và hình thức tổ chức dạy học cho mỗi hoạt động trong
từng tiết dạy làm sao để phát huy tối ưu tính tích cực, chủ động, say mê, sáng tạo
của mỗi học sinh. Nên mỗi tiết dạy tôi luôn lựa chọn phương pháp và hình thức tổ
chức dạy học có thể không giống nhau.
Nhưng cơ bản trong một bài học, giáo viên nên chú ý phương pháp dạy một cách
có hệ thống, từ phần gợi động cơ tạo hứng thú à trải nghiệmà phân tích à
khám phá rút ra bài học à thực hành vận dụng bài học một cách sáng tạo không
nhất thiết phải lặp lại một cách máy móc tất cả các ví dụ trong sách giáo khoa.
- Giáo viên cần có hệ thống câu hỏi một cách tổng hợp qua phiếu bài tập để giúp
học sinh tư duy tốt, hạn chế câu hỏi vụn không mang tác dụng cho các em.
- Trong quá trình dạy học bài mới, giáo viên nên đặt nhiều tình huống có vấn đề,
câu hỏi khoa học từ dễ đến khó, phù hợp với các đối tượng học sinh tránh sự nhàm
10


chán. Giáo viên tổ chức hướng dẫn giúp học sinh tranh luận, nhận xét trong từng
nhóm về bài học đó, có như vậy học sinh mới thấy thích thú vì tự mình phát hiện
ra kiến thức, qua đó giúp các em nhớ lâu và hiểu bài tốt hơn .
- Giáo viên nên chú ý tránh tiết học với không khí căng thẳng nặng nề. Muốn vậy
trong tiết học, giáo viên tổ chức cho các em thi đua làm bài tập theo nhóm và
tuyên dương khen ngợi, khuyến kích để học sinh thích thú và cố gắng hơn .
- Tổ chức giờ học sao cho mọi học sinh đều hoạt động học tập kể cả những học
sinh yếu đều tiếp thu một cách chủ động, tự lực trong mọi khâu để đạt kết quả cao
nhất cho từng cá thể.

Sử dụng linh hoạt nhiều hình thức và phương pháp dạy học để thu hút học sinh
vào hoạt động dạy và học.
- Giáo viên tránh làm thay, nói thay, nghĩ thay cho học sinh, mà chú trọng dạy học
theo từng nhóm đối tượng, trân trọng và khuyến khích mọi suy nghĩ của học sinh,
chuẩn bị tiềm lực để đáp ứng sự phát triển của học sinh.
- Giáo viên giúp học sinh tự đánh giá được kết quả bài làm của mình và của bạn
mình trong nhóm cũng như cả lớp.
Ví dụ: Khi dạy bài: Hình hộp chữ nhật, hình lập phương
Hoạt động 1: Khởi động
Hoạt động 2: Tìm hiểu kiến thức
Giáo viên chuẩn bị phiếu để học thảo luận nhóm như sau:
- Cá nhân đọc thông tin a,b (sách giáo khoa trang 107) ở phần đóng khung và trao
đổi trong nhóm rút ra nhận xét.
- So sánh sự giống nhau và khác nhau giữa hình hộp chữ nhật, hình lập phương
(Ghi kết quả thảo luận vào bảng nhóm).
Lưu ý: Nếu học sinh còn lúng túng, chưa hiểu rõ vấn đề thì giáo viên hướng dẫn
học sinh quan sát thêm vật mẫu và chỉ rõ về các kích thước của nó.
* Gọi các nhóm trình bày, nhận xét rút ra nội dung kiến thức đã tìm hiểu.
Để khắc sâu kiến thức cho học sinh giáo viên cho các nhóm thi kể các đồ vật có
dạng hình hộp chữ nhật và hình lập phương.
2.2.5. Dự kiến phân phối thời gian cho từng hoạt động.
Trong 40 phút để hoàn thành mục tiêu một tiết dạy với nhiều hoạt động giáo
viên phải xác định rõ lượng kiến thức và vai trò của nó để phân phối thời gian hợp
lý, tránh thiếu hoặc thừa thời gian lên lớp. Không những thế mà giáo viên phải dự
kiến những tình huống có thể xảy ra cho từng hoạt động ở mỗi tiết dạy để không
11


rơi vào thế bị động cả về kiến thức và thời gian. Trước khi lên lớp giáo viên đã
chuẩn bị dự kiến được các thời gian và các tình huống như trên thì bao giờ cũng

chủ động tự tin và thành công trong tiết dạy.
Ví dụ: Bài: Ôn tập về số thập phân ( SGK trang 150).
Hoạt động 1: Khởi động (5 phút)
Hoạt động 2: Thực hành ( 30)
Bài 1: ( 6 phút) Học sinh thực hiện theo nhóm.
Bài 2: ( 8 phút) Học sinh làm việc cá nhân.
Bài 3: (6 phút) Cho học sinh làm vào vở
Giáo viên cần quan tâm hơn học sinh yếu và nói rõ thêm cho học sinh biết trong
trường hợp sử dụng các đơn vị tiền tệ để tránh gian lận người ta thường cần viết
thêm chữ số 0 vào bên phải số thập phân để khóa số.
Bài 4: ( 6 phút) Học sinh thực hiện kỹ thuật khăn khăn trải bàn theo nhóm.
Bài 5*: ( 4 phút) Dành cho học sinh Giỏi làm việc cá nhân.
Hoạt động 3: Củng cố - Tổng kết (5 phút)
2.2.6 .Hình thành các kĩ năng tính toán cho học sinh:
- Khi dạy về số và phép tính: Giáo viên hướng dẫn học sinh thực hiện các phép
cộng trừ các số thập phân, cho học sinh nhận biết sự tương tác giữa phép cộng,
trừ các số thập phân với phép cộng, trừ các số tự nhiên. Giáo viên khắc sâu cho
học sinh từ cấu tạo gồm hai phần: phần nguyên và phần thập phân của số thập
phân.
+ Khi dạy phép chia số thập phân, giáo viên cần giúp học sinh nhận rõ bản chất
của gạch bỏ dấu phẩy của số chia là nhân số đó lên 10;100;1000...Và khi gấp số
chia lên bao nhiêu lần thì cũng phải gấp số bị chia lên bấy nhiêu lần để thương
không thay đổi. Đối với phép chia số thập phân có dư, giáo viên cần khắc sâu cho
học sinh phép chia dư trong phép chia có thương là các số tự nhiên thì số dư là
duy nhất, nhưng phép chia có thương là số thập phân thì thương không phải là duy
nhất.
Ví dụ:
16
1


3

16

3

5(dư 1)

10 5,3 (dư 0,1)
1

16

3

10 5,33 (dư 0,01)
10
1
12


Giáo viên cần lưu ý cho học sinh đánh dấu phẩy chính xác ở thương và xác định
số dư thuộc hàng phần nào của số thập phân: Vì thương là 5,3 có hàng phần mười
nên số dư là


1
; thương là 5,33 hàng phần cuối cùng là hàng phần trăm nên số dư
10


1
. Nếu HS yếu còn lúng túng thì giáo viên đến tận học sinh đó giúp các em
100

xác định số dư chính xác .
- Hình thành kỹ năng giải toán có lời văn qua đọc đề; thảo luận phân tích xem
bài toán có dạng toán cụ thể nào và đưa ra hướng giải và cách trình bày cho dạng
toán đó.
+ Giáo viên lệnh cho học sinh đọc đề, thảo luận, phát hiện dạng toán và đưa ra
hướng giải. Đây là một thói quen để hình thành và tạo cho các em kĩ năng phát
hiện và kĩ năng giải 8 dạng toán cơ bản ở tiểu học về: Tìm số trung bình cộng;
tổng - hiệu; tổng - tỉ; hiệu - tỉ; quan hệ tỉ lệ; bài toán về tỉ số phần trăm; bài toán
về chuyển động đều; bài toán có nội dung hình học (chu vi, diện tích, thể tích).
Ví dụ: Dạng toán: “Quan hệ tỉ lệ” sau khi đọc đề phát hiện và biết có hai cách
giải “Rút về đơn vị” và “Lập tỉ số” .
* Giáo viên giúp học sinh hình thành kĩ năng về phát triển ngôn ngữ, tư duy
bằng cách nói, viết tính chất, quy tắc, công thức…
Ở lớp 5 học sinh bước đầu sử dụng phương pháp suy luận, suy diễn, từ đó rèn
luyện những đức tính tốt đẹp của người lao động mới: cần cù, khéo léo, khoa học
và sáng tạo. Như vậy việc dạy toán không bó hẹp trong giờ học toán. Nó sẽ hình
thành một kĩ năng học tập, chiếm lĩnh khoa học và có vai trò quan trọng trong đời
sống.
2. 3. Ví dụ minh họa:
Toán:
TỔNG CỦA NHIỀU SỐ THẬP PHÂN ( sách Toán 5 trang 51)
I.MỤC TIÊU :
- Biết tính tổng nhiều số thập phân.
- Tính chất kết hợp của phép cộng các số thập phân.
- Biết vận dụng các tính chất của phép cộng để tính tổng bằng cách thuận tiện nhất.
- BT cần làm BT1 ( a, b); BT2; BT3 ( a,c).

II. PHƯƠNG PHÁP VÀ HÌNH THỨC DẠY HỌC:
* Phương pháp: Hỏi đáp, luyện tập thực hành, quan sát
* Hình thưc: Cả lớp, nhóm, cá nhân,…
III. CHUẨN BỊ ĐỒ DÙNG DẠY HỌC:
13


Giáo viên: Phiếu bài tập, giấy A0, bảng nhóm
Học sinh: Vở bài tập, bút, thước, bút dạ
IV. CÁC HOẠT ĐỘNG DẠY HỌC:
Hoạt động 1: Khởi động ( 3phút)
“ Tìm nhà thông thái ” với nội dung:

- Bạn Nam ước lượng cửa sổ lớp học của mình cao 1,28 dm
- Bạn Hùng ước lượng cửa sổ lớp học của mình cao 1,29 dm
- Bạn Dũng ước lượng cửa sổ lớp học của mình cao 1,27 dm
Em thử đoán xem theo như ước lượng của cả 3 bạn thì trung bình chiều cao của
cửa sổ lớp học chúng mình là bao nhiêu nhỉ?
Nhận xét
Giới thiệu bài.
Hoạt động 2: Hướng dẫn tìm hiểu bài mới ( 14 phút)
Các nhóm đọc thông tin: a) ví dụ
b) bài toán ở SGK trang 51
Nhận xét và rút ra được kết luận gì viết vào bảng nhóm; nêu nội dung bài học.
Hoạt động 3: Hướng dân thực hành ( 20 phút)
Bài 1: Tính ( 5 phút) Cho học sinh làm việc cặp đôi hoàn thành vào vở nháp

Bài 2: ( 5 phút)
Cá nhân làm bài vào phiếu học tập
Tính rồi so sánh giá trị của (a + b) + c và a + (b + c)

a
2,5
1,34

b
6,8
0,52

c
1,2
4

(a+b) +c

a + (b+ c)

14


Khi cá nhân làm giáo viên giúp học sinh còn chậm.
Sau khi làm xong cho học sinh nêu nhận xét để khắc sâu kiến thức.
Bài 3: ( 5 - 8 phút) Sử dụng tính chất giao hoán và tính chất kết hợp để tính:
Học sinh trao đổi thảo luận và thực hiện kĩ thuật khăn trải bàn

Bài 4*: ( 5 phút) Giải bài toán sau: (Dành cho học sinh khá, giỏi)
Phiếu bài tập
Một con óc sên ngày đầu bò được 28,4 dm; ngày thứ 2 bò được nhiều hơn ngày
đầu 0.8dm; ngày thứ 3 óc sên lại bò được ít hơn ngày đầu 1dm. Cả trong 3 ngày
con óc sên đó bò được bao nhiêu m ?
Hoạt động 4: Ho¹t ®éng øng dông ( 3 phút)


Về nhà thực hành đo và tính chu vi mặt bàn em ngồi học (theo đơn vị m).
3. Phần kết luận:
3.1. Kết quả đạt được:
Với phương pháp dạy học theo mô hình VNEN tất cả học sinh trong lớp đều
được cùng nhau bàn bạc, hợp tác để giải quyết vấn đề. Đây là phương pháp dạy
học dễ tổ chức và áp dụng được cho tất cả các môn học trong chương trình tiểu
học. Qua hoạt động học tập học sinh biết cách trình bày ý kiến của mình với người
khác, với tập thể, làm cho các em trở nên tự giác, linh động, sáng tạo, mạnh dạn, tự
tin hơn. Học sinh biết nghe và lựa chọn để tiếp nhận hiểu biết của người khác để
bổ sung vào vốn hiểu biết của mình, đồng thời tập dượt cho các em vai trò chỉ đạo.
Qua việc tổ chức hoạt động học tập tôi thấy các em hứng thú, say sưa sôi nổi hơn
trong học tập. Những học sinh giỏi thực sự có điều kiện phát huy năng lực của
mình. Còn những em trước đây kĩ năng tính toán hạn chế, tiếp thu bài chậm, ít trao
đổi, ít giơ tay phát biểu ý kiến thì nay đã mạnh dạn hơn, tự tin hơn, sôi nổi hơn
15


nhiều. Các em biết hợp tác, giúp đỡ, giao tiếp học hỏi lẫn nhau, tự tìm tòi, tự phát
hiện, tự chiếm lĩnh kiến thức. Các em học tập một cách hứng thú, tập trung với
tinh thần thi đua, vui vẻ, tích cực. Tiết dạy nhẹ nhàng, tự nhiên, sinh động và hiệu
quả. Lớp học trở nên thân thiện, gần gũi tạo cho các em có được cảm giác mỗi
ngày đến trường là một ngày vui. Kết quả học tập cuối năm của học sinh ở môn
Toán do tôi giảng dạy được nâng lên rõ rệt so với kết quả khảo sát trước khi áp
dụng sáng kiến.
Bảng 1: Kết quả khảo sát trước khi áp dụng sáng kiến:
Toán
Giỏi
SL
%

7

24,1

Khá
SL
10

%
34,5

TBình
SL
%
10

34,5

Yếu
SL
%
2

6,9

Bảng 2: Kết quả khảo sát sau khi áp dụng sáng kiến:
Toán
Giỏi
SL
%

20

69

Khá
SL
8

%
27,6

TBình
SL
%
1

3,4

Yếu
SL
%
0

0

3.2. Bài học kinh nghiệm:
Để giúp học sinh học tốt Toán 5 theo mô hình VNEN thì bản thân tôi đã thực
hiện các giải pháp trên trong quá trình dạy và học. Trong lớp một số học sinh yếu
từ chỗ lười học nay đã có sự tiến bộ nhiều: siêng năng hơn, không còn lo lắng sợ
sệt khi gặp bài toán khó để cho rằng khả năng mình làm không được. Bên cạnh đó

người giáo viên phải thường xuyên làm giàu vốn kiến thức của bản thân để trong
quá trình dạy học có thể ứng xử kịp thời với những tình huống, với những bài khõ
mà học sinh nêu ra. Giáo viên vừa là người thầy truyền đạt những kiến thức vừa là
người cha, người mẹ chăm sóc thương yêu và động viên, an ủi, để giúp học sinh
ngày càng tiến bộ. Đồng thời luôn luôn làm tốt công tác xã hội hóa giáo dục đó là
một yếu tố để nâng cao chất lượng giáo dục.
Qua thực tế vận dụng trong quá trình dạy học, bản thân tôi đã đúc rút ra những
bài học cụ thể như sau:
- Cần xác định rõ mục tiêu bài dạy và thiết kế bài giảng chu đáo.
- Chuẩn bị đầy đủ các phương tiện và nội dung cho hoạt động .
16


- Lựa chọn phương pháp và tổ chức hình thức dạy họcmột cách linh hoạt.
- Tổ chức các hoạt động dạy học phù hợp với mục tiêu, nội dung bài học, môn
học, thời gian học theo từng đặc điểm và trình độ nhận thức của từng học sinh
trong lớp.
- Trong quá trình tổ chức, giáo viên cần quan tâm giúp đỡ nhóm, cá nhân hoạt
động còn yếu, chưa sôi nổi.
- Đánh giá, nhận xét phải hết sức công bằng, vô tư, khách quan, có tính chất động
viên, khích lệ học sinh.
Trên đây là một vài kinh nghiệm nhỏ của bản thân tôi đã áp dụng và đúc rút qua
thực tế giảng dạy Toán ở lớp 5. Tôi xin mạnh dạn trình bày lên đây mong các bạn
đồng nghiệp cùng tham khảo và đóng góp ý kiến để bản thân tôi giảng dạy tốt hơn
trong những năm tiếp theo.

17


TI LIU THAM KHO

1. Ngụ Trn i - Nguyn Th Bỡnh - Nguyn Quý Thao - Bựi Quang Tun -Nguyn
Hng Vy - V Quang Vinh ( Nm 2007) SGK Toỏn 5 - Nh xut bn Giỏo dc H
Ni.
2. Ngụ Trn i - Nguyn Th Bỡnh - Nguyn Quý Thao - Bựi Quang Tun -Nguyn
Hng Vy - V Quang Vinh ( Nm 2007) SGK Toỏn 5 - Nh xut bn Giỏo dc H
Ni.
3 . Ngụ Trn i - Nguyn Quý Thao - Phm Ngc nh - Ngụ nh Tuyt - V B
Khỏnh ( Nm 2013) -Ti liu tp hun dy hc theo mụ hỡnh trng tiu hc mi
Vit Nam lp 4 - Tp 1,2.
4. Trần Diên Hiển: Toán và phơng pháp dạy học toán ở tiểu
học (Dự án phát triển giáo viên tiểu học)
5. Nguyễn Thị Bích Hà - Nguyễn Việt Hà: Dạy bài toán tỷ số
phần trăm theo quan điểm tích cực hóa hoạt động học tập của
học sinh (Chuyên đề GDTH-2006)
6. Ths Lê Ngọc Sơn: Dạy học diện tích hình tam giác( toán 5)
theo hớng dạy học phát hiện và giải quyết vấn đề (TCGD7/2006)84.
7.Ths Nguyễn Thị Châu Giang: Tìm hiểu nội dung dạy học số
thập phân ở lớp 5 trên cơ sở toán học cao cấp ( TCGD-7/2006)
8. Bùi Văn Huệ: Tâm lý học tiểu học (NXB Giáo dục-1997)
9. Đặng Vũ Hoạt: Bài giảng chuyên đề tích cực hóa hoạt động
nhận thức của học sinh
10. Đỗ Đình Hoan: Hỏi đáp về phơng pháp dạy học ở tiểu học
(NXB Giáo dục-1997)
11. Ti liu tp hun bi dng thng xuyờn tiu mụ un 15.( Nm 2013)

18


MỤC LỤC
TT


NỘI DUNG

TRANG

1.
1.1.
1.2.
1.3.
2.
2. 1

Phần mở đầu
Lý do chọn sáng kiến.
Điểm mới của sáng kiến
Phạm vi áp dụng của sáng kiến
Phần nội dung
Thực trạng của giải pháp giúp học sinh lớp 5 học tốt
môn Toán trong mô hình VNEN:
Các giải pháp
Tìm hiểu kỹ đặc điểm và trình độ nhận thức của học
sinh.

4
4
5
6
6
6


8

2.2.3..

Nghiên cứu sách giáo khoa, các tài liệu dạy học có
liên quan đến từng tiết dạy và dạy học theo nhóm đối
tượng.
Chuẩn bị đồ dùng dạy học, phương tiện dạy học.

2.2.4

Lựa chọn phương pháp hình thức tổ chức dạy học.

10

2.2.5.

Dự kiến phân phối thời gian cho từng hoạt động

11

2.2.6 .

Hình thành các kĩ năng tính toán cho học sinh

12

2.3.
3.


Ví dụ minh họa
Phần kết luận:

13
15

3.1
3.2

Kết quả đạt được
Bài học kinh nghiệm
Tài liệu tham khảo

15
16,17
18

2.2
2.2.1
2.2.2.

7
7

9

19




×