Tải bản đầy đủ (.docx) (25 trang)

Chương 5 Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc và đoàn kết quốc tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (93.56 KB, 25 trang )

Chương 5
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết
dân tộc và đoàn kết quốc tế
I. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠI ĐOÀN KẾT
DÂN TỘC
1. Vai trò của đại đoàn kết dân tộc trong sự
nghiệp cách mạng
a) Đại đoàn kết dân tộc là vấn đề có ý nghĩa
chiến lược, quyết định thành công của cách mạng
- Vấn đề chiến lược
+ Chiến lược là một từ có nguồn gốc từ lĩnh vực
quân sự, đó là phương cách để chiến thắng trong
một cuộc chiến tranh. Có nhiều định nghĩa khác
nhau nhưng có thể hiểu chiến lược là chương
trình hành động, kế hoạch hành động được thiết
kế để đạt được một mục tiêu cụ thể, là tổ hợp các
mục tiêu dài hạn và các biện pháp, các cách
thức, con đường đạt đến các mục tiêu đó.
+ So với chiến lược, Sách lược là những biện
pháp, cách thức, đường lối, hình thức tổ chức và
đấu tranh cụ thể được thực hiện trong một giai
đoạn nhất định nhằm thực hiện thành công một
chính sách, chiến lược nào đó. Trong tương quan
với chiến lược thì chiến lược là kế hoạch quy mô
lớn, mang viễn kiến và tầm bao quát rộng; còn


sách lược là chuỗi những hành động và lịch trình
chi tiết nhằm cụ thể hóa và thực hiện chiến lược.
+ Thủ đoạn chính trị giống với sách lược, nhưng
nó chỉ nhằm thực hiện một mục tiêu nào đó, khi


đạt được mục tiêu rồi thì không đoàn kết nữa.


Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc
là vấn đề có ý nghĩa chiến lược, cơ bản, nhất
quán và lâu dài, xuyên suốt tiến trình cách
mạng. Tại Hội nghị Mặt trận Liên Việt năm
1955, Người nói: “Đoàn kết của ta không
những rộng rãi, mà còn đoàn kết lâu dài.
Đoàn kết là một chính sách dân tộc, không
phải là một thủ đoạn chính trị. Ta đoàn kết để
đấu tranh cho thống nhất và độc lập của Tổ
quốc; ta còn phải đoàn kết để xây dựng nước
nhà. Ai có tài, có đức, có sức, có lòng phụng
sự Tổ quốc và phụng sự nhân dân thì phải
đoàn kết với họ”

- Đoàn kết là sức mạnh:
+ Hồ Chí Minh viết: "Đoàn kết trong Mặt trận
Việt Minh, nhân dân ta đã làm Cách mạng Tháng
Tám thành công, lập nên nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa. Đoàn kết trong Mặt trận Liên Việt,
nhân dân ta đã kháng chiến thắng lợi, lập lại hòa
bình ở Đông Dương, hoàn toàn giải phóng miền
Bắc Đoàn kết trong Mặt trận Tổ quốc Việt Nam,
nhân dân ta đã giành được thắng lợi trong công


cuộc khôi phục kinh tế, cải tạo xã hội chủ nghĩa
và trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở

miền Bắc"
+ Đoàn kết làm ra sức mạnh. Hồ Chí Minh rất
nhiều lần nhấn mạnh luận điểm này. Người viết:
"Đoàn kết là sức mạnh của chúng ta. Đoàn kết
chặt chẽ, thì chúng ta nhất định có thể khắc phục
mọi khó khăn, phát triển mọi thuận lợi và làm
tròn nhiệm vụ nhân dân giao phó"; "Đoàn kết là
một lực lượng vô địch của chúng ta để khắc phục
khó khăn, giành lấy thắng lợi":; "Đoàn kết là sức
mạnh, đoàn kết là thắng lợi" ’ "Đoàn kết là sức
mạnh, là then chốt của thành công"
+ "Bây giờ còn một điểm rất quan trọng, cũng là
điểm mẹ, Điểm này mà thực hiện tốt thì đẻ ra
con cháu đều tốt: Đó là đoàn kết"
+ "Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết,
Thành công, thành công, đại thành công"*'...
b) Đại đoàn kết dân tộc là mục tiêu, nhiệm vụ
hàng đầu của Đảng, của dân tộc
- Đại đoàn kết dân tộc là mục tiêu, nhiệm vụ
hàng đầu của Đảng
+ Trước khi cách mạng tháng 8/1945 thành công:
* “ Trước Cách mạng Tháng Tám và trong kháng
chiến, thì nhiệm vụ tuyên huấn là làm cho đồng
bào các dân tộc hiểu được mấy việc: Một là đoàn


kết. Hai là làm cách mạng hay kháng chiến để
đòi độc lập. Chỉ đơn giản thế thôi. “
* Trong lời kết thúc buổi ra mắt của Đảng Lao
động Việt Nam ngày 3-3-1951, Hồ Chí Minh đã

thay mặt Đảng tuyên bố trước toàn thể dân tộc:
"Mục đích của Đảng Lao động Việt Nam có thể
gồm trong 8 chữ là: Đoàn kết toàn dân, phụng sự
Tổ quốc”.
+ Sau cách mạng tháng 8: Năm 1963, khi nói
chuyện với cán bộ tuyên truyền và huấn luyện
miền núi về cách mạng xã hội chủ nghĩa, Hồ Chí
Minh chỉ rõ: " Bây giờ mục đích của tuyên truyền
huấn luyện là: Một là đoàn kết. Hai là xây dựng
chủ nghĩa xã hội. Ba là đấu tranh thống nhất
nước nhà"


Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, yêu nước nhân
nghĩa - đoàn kết là sức mạnh, là mạch nguồn
của mọi thắng lợi.

- Đại đoàn kết dân tộc là mục tiêu, nhiệm vụ
hàng đầu của dân tộc
+ Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, do
quần chúng. ách mạng muốn thành công nếu chỉ
có đường lối đúng thì chưa đủ, mà trên cơ sở của
đường lối đúng, Đảng phải cụ thể hóa thành
những mục tiêu, nhiệm vụ và phương pháp cách
mạng phù hợp với từng giai đoạn lịch sử để lôi


kéo, tập hợp quần chúng, tạo thực lực cho cách
mạng.



Quần chúng phải đoàn kết

+ Khi quần chúng chưa ý thức được phải đoàn
kết, Đảng phải thức tỉnh quần chúng, tuyên
truyền, giác ngộ và dẫn dắt quần chúng đứng lên
đấu tranh để cách mạng thành công
2. Lực lượng đại đoàn kết dân tộc
- Đại đoàn kết dân tộc là đại đoàn kết toàn dân,
Dân” và “nhân dân” trong tư tưởng Hồ Chí Minh
vừa là tập hợp đông đảo quần chúng, vừa được
hiểu là mỗi con người Việt Nam cụ thể và cả hai
đều là chủ thể của đại đoàn kết dân tộc.
- Căn cứ nào để đoàn kết
+ Lợi ích tối cao của dân tộc: Lợi ích quốc gia dân tộc là các mục tiêu mà quốc gia theo đuổi để
bảo đảm sự tồn tại và phát triển của mình, bao
gồm: Giữ vững chủ quyền; thống nhất và toàn
vẹn lãnh thổ; ổn định chế độ chính trị; bảo đảm
an ninh và an toàn cho người dân; giữ gìn bản
sắc văn hóa dân tộc; bảo đảm các điều kiện cho
quốc gia phát triển kinh tế, xã hội,...
+ Lợi ích của nhân dân: Cơ sở để Hồ Chí Minh đưa
ra quan điểm đại đoàn kết rộng rãi như vậy chính
là niềm tin của Người vào mỗi người dân Việt
Nam. Hồ Chí Minh luôn tin rằng, ai cũng có ít hay


nhiều lòng yêu nước tiềm ẩn bên trong. Lý tưởng
độc lập dân tộc và thống nhất Tổ quốc, tất cả vì
cuộc sống tự do, hạnh phúc của nhân dân là

mẫu số chung, là điểm quy tụ mọi người vào khối
đại đoàn kết dân tộc.
- Động lực, lực lượng chính của đoàn kết là: Liên
minh công- nông. Người chỉ rõ rằng, “đại đoàn
kết tức là trước hết phải đoàn kết đại đa số nhân
dân, mà đại đa số nhân dân ta là công nhân,
nông dân và các tầng lớp nhân dân lao động
khác. Đó là nền gốc của đại đoàn kết. Nó cũng
như cái nền của nhà, gốc của cây. Nhưng đã có
nền vững, gốc tốt, còn phải đoàn kết với các tầng
lớp nhân dân lao động khác”. Sau này, Hồ Chí
Minh đã nhận rõ vai trò to lớn của đội ngũ trí thức
và Người có một sự bổ sung quan trọng: coi liên
minh công - nông - lao động trí óc (trí thức) là
nền tảng của khối đại đoàn kết toàn dân.
3. Hình thức tổ chức khối đại đoàn kết dân tộc
a) Hình thức tổ chức của khối đại đoàn kết dân
tộc là mặt trận thống nhất
- Hình thức biểu hiện là mặt trận dân tộc thống
nhất
+ Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, đại đoàn kết dân
tộc không thể chỉ dừng lại ở quan niệm, ở những
lời kêu gọi, những lời hiệu triệu mà phải trở thành
một chiến lược cách mạng, phải trở thành khẩu


hiệu hành động của toàn Đảng, toàn dân tộc. Nó
phải biến thành sức mạnh vật chất, trở thành lực
lượng vật chất có tổ chức. Tổ chức đó chính là
mặt trận dân tộc thống nhất.

+ Toàn dân tộc chỉ trở thành lực lượng to lớn, có
sức mạnh vô địch trong đấu tranh bảo vệ và xây
dựng Tổ quốc khi được tập hợp, tổ chức lại thành
một khối vững chắc, được giác ngộ về mục tiêu
chiến đấu chung và hoạt động theo một đường lối
chính trị đúng đắn. Nếu không được như vậy, thì
quần chúng nhân dân dù có đông tới hàng triệu,
hàng trăm triệu con người cũng chỉ là một số
đông không có sức mạnh. Thất bại của các tổ
chức yêu nước và giải phóng dân tộc ở Việt Nam
trước khi Đảng ta ra đời đã chứng minh rất rõ
điều này.
- Tìm thấy con đường cách mạng, để có lực lượng
cần lập ra các tổ chức quần chúng.
+ Quá trình tìm đường cứu nước của Hồ Chí Minh
cũng là quá trình tìm kiếm mô hình và cách thức
tổ chức quần chúng nhân dân, nhằm tạo sức
mạnh cho quần chúng trong cuộc đấu tranh để tự
giải phóng mình và giải phóng xã hội. Chính vì
vậy, ngay sau khi tìm thấy con đường cứu nước,
Hồ Chí Minh đã rất chú ý đưa quần chúng nhân
dân vào những tổ chức yêu nước phù hợp với
từng giai cấp, từng ngành nghề, từng giới, từng
lứa tuổi, từng tôn giáo, phù hợp với từng giai


đoạn của cách mạng. Đó có thể là các hội ái hữu
hay tương trợ, công hội hay nông hội, đoàn thanh
niên hay hội phụ nữ, đội thiếu niên nhi đồng hay
hội phụ lão, hội Phật giáo cứu quốc, Công giáo

yêu nước hay những nghiệp đoàn... Trong đó, bao
trùm nhất là mặt trận dân tộc thống nhất.


mặt trận dân tộc thống nhất là hình thức tập
hợp tất cả các cá nhân, con người Việt Nam

- Tùy theo từng thời kỳ, căn cứ vào yêu cầu và
nhiệm vụ cách mạng, cương lĩnh và điều lệ của
mặt trận dân tộc thống nhất có thể có những nét
khác nhau, tên gọi của mặt trận dân tộc thống
nhất theo đó, cũng có thể khác nhau: Hội phản
đế đồng minh (1930), Mặt trận Dân chủ (1936),
Mặt trận nhân dân phản đế(1939), Mặt trận Việt
Minh (1941), Mặt trận Liên Việt (1946), Mặt trận
dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam (1960),
Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam (1955 - 1976).
b) Một số nguyên tắc cơ bản về xây dựng và hoạt
động của Mặt trận dân tộc thống nhất
- Mặt trận dân tộc thống nhất phải được xây
dựng trên nền tảng khối liên minh công - nông trí thức, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng.
+ Đây là nguyên tắc cơ bản nhất, là cốt lõi trong
chiến lược đại đoàn kết của Hồ Chí Minh, nó hoàn
toàn khác với tư tưởng đoàn kết, tập hợp lực


lượng của các nhà yêu nước Việt Nam trong lịch
sử.
+ Hồ Chí Minh viết: "Lực lượng chủ yếu trong
khối đoàn kết dân tộc là công nông, cho nên liên

minh công nông là nền tảng của mặt trận dân tộc
thống nhất"
* Đây là một lực lượng đông đảo
* Là người trực tiếp sản xuất tất cả mọi tài phú
làm cho xã hội sống.
* Vì họ đông hơn hết, mà cũng bị áp bức bóc lột
nặng nề hơn hết.
* Vì chí khí cách mạng của họ chắc chắn, bền bỉ
hơn của mọi tầng lớp khác.
+ Cần sự lãnh đạo của Đảng: Theo Hồ Chí Minh,
đại đoàn kết là công việc của toàn dân tộc, song
nó chỉ có thể được củng cố và phát triển vững
chắc khi được Đảng lãnh đạo.
* Chỉ có chính đảng của giai cấp công nhân được
vũ trang bởi chủ nghĩa Mác - Lênin mới đánh giá
đúng được vai trò của quần chúng nhân dân
trong lịch sử, mới vạch ra được đường lối chiến
lược và sách lược đúng đắn để lôi kéo, tập hợp
quần chúng vào khối đại đoàn kết trong mặt trận,
biến tiến trình cách mạng trở thành ngày hội thật
sự của quần chúng.


* Đảng cộng sản thông qua hoạt động thực tiễn
để khẳng định vai trò của mình: Hồ Chí Minh còn
cho rằng, sự lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận
vừa là một tất yếu, vừa phải có điều kiện. Tính tất
yếu thể hiện ở năng lực nắm bắt thực tiễn, phát
hiện ra các quy luật khách quan của sự vận động
lịch sử để vạch ra đường lối và phương pháp cách

mạng phù hợp, lãnh đạo Mặt trận thực hiện thành
công các nhiệm và cách mạng mà không một lực
lượng nào, một tổ chức chính trị nào trong Mặt
trận có thể làm được. Mục tiêu của Đảng là đấu
tranh giải phóng dân tộc và giải phóng giai cấp,
kết hợp độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội.
Ngoài lợi ích của giai cấp và lợi ích của dân tộc,
Đảng không có lợi ích nào khác. Mặc dù vậỵ,
quyền lãnh đạo Mặt trận của Đảng không phải do
Đảng tự phong cho mình, mà phải được nhân dân
thừa nhận. Hồ Chí Minh chỉ rõ, khi chưa giành
được chính quyền. "Đảng không thể đòi hỏi Mặt
trận thừa nhận quyền lãnh đạo của mình, mà
phải tỏ ra là một bộ phận trung thành nhất hoạt
động nhất và chân thành nhất. Chỉ trong đấu
tranh và trong công tác hàng ngày, khi quần
chúng rộng rãi thừa nhận chính sách đúng đắn và
năng lực lãnh đạo của Đảng thì Đảng mới giành
được vị trí lãnh đạo"
* Tổ chức Đảng, Đảng viên phải trở thành tấm
gương: Trong quá trình lãnh đạo mặt trận, Đảng


phải đi đúng đường lối quần chúng, không được
quan liêu, mệnh lệnh và gò ép các thành viên
trong mặt trận, phải dùng phương pháp vận
động, giáo dục, thuyết phục, nêu gương, lấy lòng
chân thành để đối xử, cảm hóa, khơi gợi tinh thần
tự giác, tự nguyện, tuyệt đối không được lấy
quyên uy của mình để buộc các thành viên khác

trong mặt trận phải tuân theo. Nói chuyện tại lớp
bồi dưỡng cán bộ về công tác mặt trận, Hồ Chí
Minh căn dặn: "Phải thành thật lắng nghe ý kiến
của người ngoài Đảng. Cán bộ và đảng viên
không được tự cạo, tự đại, cho mình là tài giỏi
hơn mọi người: trái lại phải học hỏi điều hay, điều
tốt ở mọi người...phải tích cực và phải chủ
động...làm việc phải kiên nhẫn, phải thiết tha với
công tác Mặt trận. Cán bộ và đảng viên có quyết
tâm làm như thế thì công tác Mặt trận nhất định
sẽ tiến bộ nhiều”
- Mặt trận dân tộc thống nhất phải hoạt động trên
cơ sở bảo đảm lợi ích tối cao của dân tộc, quyền
lợi cơ bản của các tầng lớp nhân dân.
+ Ngay từ năm 1925, khi nói về chiến lược đại
đoàn kết, Hồ Chí Minh đã chỉ ra rằng, chỉ có thể
thực hiện đoàn kết khi có chung một mục đích,
một số phận.
+ Mục đích chung của Mặt trận dân tộc thống
nhất được Hồ Chí Minh xác định cụ thể phù hợp
với từng giai đoạn cách mạng, nhằm tập hợp tới


mức cao nhất lực lượng dân tộc vào khối đại đoàn
kết. Như vậy, độc lập, tự do là nguyên tắc bất di
bất dịch, là ngọn cờ đoàn kết và là mẫu số chung
để quy tụ các tầng lớp, giai cấp, đảng phái, dân
tộc. tôn giáo vào trong Mặt trận, vấn đề còn lại là
ở chỗ phải làm thế nào để tất cả mọi người thuộc
bất cứ giai tầng nào, lực lượng nào trong Mặt trận

cũng phải đặt lợi ích tối cao đó lên trên hết, trước
hết.
- Mặt trận dân tộc thống nhất phải hoạt động
theo nguyên tắc hiệp thương dân chủ bảo đảm
đoàn kết ngày càng rộng rãi và bền vững.
+ Hiệp thương dân chủ là gì? Nguyên tắc hiệp
thương dân chủ đòi hỏi tất cả mọi vấn đề của Mặt
trận đều phải được đem ra để tất cả các thành
viên cùng nhau bàn bạc công khai, để đi đến
nhất trí, loại trừ mọi sự áp đặt hoặc dân chủ hình
thức. Đảng là lực lượng lãnh đạo mặt trận, nhưng
cũng là một thành viên của mặt trận.
+ Để thực hiện nguyên tắc hiệp thương dân chủ
phải đứng vững trên lập trường giai cấp công
nhân, giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa lợi ích
dân tộc và ích lợi giai cấp, lợi ích chung và lợi ích
riêng, lợi ích lâu dài và lợi ích trước mắt.. Phải
làm cho tất cả các thành viên trong mặt trận
thấm nhuần lợi ích chung, lợi ích tối cao của dân
tộc, phải đặt lợi ích chung lên trên hết trước hết.
Những lợi ích riêng chính đảng phù hợp với lợi ích


chung của đất nước và dân tộc phải được tôn
trọng. Ngược lại, những lợi ích bộ phận không
phù hợp sẽ dần dần được giải quyết cùng với tiến
trình chung của cách mạng, thông qua lại ích
chung, với sự nhận thức ngày càng đúng đắn hơn
của mỗi người, mỗi bộ phận về mối quan hệ giữa
lại ích chung và lợi ích riêng. Trong quá trình hoạt

động, mặt trận cần quan tâm, xem xét, giải quyết
thỏa đáng, thấu tình đạt lý mối quan hệ lợi ích
giữa các thành viên bằng việc thực hiện nghiêm
túc nguyên tắc hiệp thương dân chủ.
- Mặt trận dân tộc thống nhất là khối đoàn kết
chặt chẽ lâu dài, đoàn kết thật sự, chân thành,
thân ái giúp đỡ nhau cùng tiến bộ
+ Là một tập hợp nhiều giai tầng, dân tộc, tôn
giáo, đảng phái, bên cạnh những điểm tương
đồng, giữa các thành viên của Mặt trận vẫn có
những điểm khác nhau cần phải bàn bạc, hiệp
thương dân chủ để thu hẹp những nhân tố khác
biệt, cục bộ, nhân lên những nhân tố tích cực,
nhân tố chung, đi đến thống nhất, đoàn kết.
+ Mặt khác, Người nêu rõ: "Đoàn kết phải gắn với
đấu tranh, đấu tranh để tăng cường đoàn kết"
Người thường xuyên căn dặn mọi người cần phải
khắc phục tình trạng đoàn kết xuôi chiều, đồng
thời phải có tấm lòng nhân ái, khoan dung, độ
lượng, khắc phục thiên kiến, hẹp hòi, thiển cận,
phải nêu cao tinh thần tự phê bình và phê bình


để biêu dương mặt tốt, khắc phục mặt chưa tốt,
nhằm củng cố và mở rộng khối đoàn kết trong
mặt trận dân tộc thống nhất


Người viết: "Đoàn kết thực sự nghĩa là mục
đích phải nhất trí và lập trường cũng phải

nhất trí. Đoàn kết thực sự nghĩa là vừa đoàn
kết, vừa đấu tranh, học những cái tốt của
nhau, phê bình những cái sai của nhau và
phê bình trên lập trường thân ái, vì nước, vì
dân. Tóm lại, muốn tiến lên chủ nghĩa xã hội
thì toàn dân cần đoàn kết lâu dài, đoàn kết
thực sự và cùng nhau tiến bộ"

II. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐOÀN KẾT QUỐC
TẾ
1. Vai trò của đoàn kết quốc tế
a) Thực hiện đoàn kết quốc tế nhằm kết hợp sức
mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại, tạo sức
mạnh tổng hợp cho cách mạng Việt Nam
- Việt Nam đoàn kết để tranh thủ sự ủng hộ quốc
tế. Tập hợp lực lượng bên ngoài, tranh thủ sự
đồng tình, ủng hộ và giúp đỡ của bạn bè quốc tế,
kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh của các
trào lưu cách mạng thế giới tạo ra sức mạnh tổng
hợp cho cách mạng chiến thắng kẻ thù.
+ Sức mạnh dân tộc là tổng hợp các yếu tố vật
chất và tinh thần, song trước hết là chủ nghĩa


yêu nước truyền thống, ý thức tự lực, tự cường
của dân tộc.
+ Sức mạnh quốc tế trong tư tưởng Hồ Chí Minh
rất rộng: Phong trào đấu tranh giải phóng dân
tộc; Phong trào cách mạng của công nhân và
nhân dân lao động các nước chính quốc và TBCN

nói chung; Phong trào Xã hội chủ nghĩa; Phong
trào vì Hòa bình, ĐLDT, Dân chủ và tiến bộ xã
hội; Phong trào cách mạng của nhân dân Đông
Dương...
+ Sức mạnh thời đại mà Hồ Chí Minh nhận thức
còn là sức mạnh của tiến bộ khoa học công nghệ,
làm thay đổi có tính cách mạng về các lĩnh vực
như: năng lượng, vật liệu, công nghệ sinh học,
giao thông vận tải…
=> Theo Hồ Chí Minh thực hiện đoàn kết dân tộc
phải gắn liền với đoàn kết quốc tế. Đoàn kết dân
tộc phải là cơ sở cho thực hiện đoàn kết quốc tế.
Đoàn kết quốc tế là nhân tố thường xuyên và hết
sức quan trọng giúp cho cách mạng Việt Nam đi
tới thắng lợi.
b) Thực hiện đoàn kết quốc tế nhằm góp phần
cùng nhân dân thế giới thực hiện thắng lợi các
mục tiêu cách mạng của thời đại
- Kết hợp nhuần nhuyễn các vấn đề dân tộc- giai
cấp, Độc lập dân tộc- Chủ nghĩa xã hội,... không
chỉ vì sự thắng lợi của cách mạng mỗi nước mà


còn vì sự nghiệp chung của nhân loại: Hòa bình,
Độc lập dân tộc, Dân chủ, Tiến bộ xã hội và xã
hội chủ nghĩa .
- Muốn đoàn kết quốc tế trong cuộc đấu tranh vì
mục tiêu chung, các đảng cộng sản phải kiên trì
chống lại mọi khuynh hướng cơ hội, vị kỷ dân tộc,
chủ nghĩa dân tộc nước lớn…

- Thắng lợi của cách mạng Việt Nam là thắng lợi
của tư tưởng Hồ Chí Minh: Kết hợp nhuần nhuyễn
các vấn đề dân tộc-giai cấp, ĐLDT-CNXH,
CNYNTT-CNQTVSTS mà cốt lõi là Độc lập dân tộc
gắn liền với Chủ nghĩa xã hội.
2. Nội dung và hình thức đoàn kết quốc tế
- Phong trào cộng sản, phong trào công nhân thế
giới là lực lượng nòng cốt của đoàn kết quốc tế.
+ Tiếp nhận chủ nghĩa Mác-Lênin, Hồ Chí Minh
đã tìm thấy phương hướng cho cuộc đấu tranh
giải phóng dân tộc, đồng thời Người cũng tìm
thấy một lực lượng ủng hộ mạnh mẽ công cuộc
đấu tranh giải phóng dân tộc ở các nước thuộc
địa, đảm bảo cho sự nghiệp cách mạng của nước
nhà đi đến thắng lợi vẻ vang. Đó là phong trào
cộng sản và công nhân quốc tế; là Liên Xô và sau
này là các nước Xã hội chủ nghĩa; là Quốc tế III và
sau này là Cục thông tin quốc tế.
+ Thực tế, Người nhận thấy, chủ nghĩa đế quốc là
một lực lượng phản động quốc tế, là kẻ thù chung


của nhân dân lao động toàn thế giới. Vì vậy, chỉ
có sự đoàn kết, nhất trí, đồng tình và ủng hộ lẫn
nhau của lao động thế giới theo tinh thần “bốn
phương vô sản đều là anh em” mới có thể thắng
được những âm mưu thâm độc của chủ nghĩa
thực dân.
+ Chủ trương đoàn kết giai cấp vô sản các nước,
đoàn kết giữa các đảng Cộng sản trong tư tưởng

Hồ Chí Minh còn xuất phát từ tính tất yếu về vai
trò của giai cấp vô sản trong thời đại ngày nay,
thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên CNXH trên
phạm vi toàn thế giới.
+ Thắng lợi của hai cuộc kháng chiến trường kỳ
của dân tộc ta không tách rời sự đồng tình, ủng
hộ của Liên Xô và các nước Xã hội chủ nghĩa, của
các Đảng Cộng sản và công nhân quốc tế.
- Đoàn kết với phong trào đấu tranh giải phóng
dân tộc của các nước thuộc địa.
+ Ra đi tìm đường cứu nước từ một nước nô lệ
nên trái tim Người cùng nhịp đập với nổi thống
khổ của các dân tộc khác cùng hoàn cảnh với dân
tộc mình.
+ Từ sớm, Hồ Chí Minh đã phát hiện ra âm mưu
chia rẽ dân tộc để dễ bề cai trị của các nước đế
quốc, tạo sự thù ghét, đối kháng dân tộc, chủng
tộc,… nhằm làm suy yếu sức mạnh của các


phong trào giải phóng dân tộc ở các nước thuộc
địa.
- Đoàn kết với các lực lượng tiến bộ, những người
yêu chuộng hoà bình, dân chủ, tự do và công lý
+ Xuất phát từ mục tiêu chung của nhân loại tiến
bộ là đấu tranh cho hoà bình, độc lập, thống nhất
và tiến bộ, Hồ Chí Minh quan tâm đến việc khơi
dậy lương tri của loài người, tạo nên tiếng nói ủng
hộ mạnh mẽ từ các tổ chức quần chúng, các
nhân sĩ trí thức và từng người cụ thể trên hành

tinh đối với cuộc cách mạng chính nghĩa của
nhân dân ta.
+ Quan điểm ngoại giao này cũng thể hiện chủ
nghĩa nhân văn trong tư tưởng Hồ Chí Minh.
Người đã tìm thấy bạn ngay trong các nước đi
xâm lược. Bởi vậy, mà Người chủ trương chống
thực dân, chống bọn xâm lược chứ không phải
chống người Pháp, người Mỹ nói chung.
- Hình thức đoàn kết quốc tế: Nhận thức được
tầm quan trọng của vấn đề đoàn kết quốc tế đối
với cách mạng dân tộc, ngay từ rất sớm, Hồ Chí
Minh đã quan tâm đến việc thành lập các mặt
trận. Đó là: Mặt trận đại đoàn kết dân tộc, Mặt
trận đoàn kết Việt- Miên- Lào, Mặt trận nhân dân
Á- Phi đoàn kết với Việt Nam, Mặt trận nhân dân
thế giới đoàn kết với Việt Nam chống đế quốc
xâm lược.


3. Nguyên tắc xây dựng khối đại đoàn kết quốc tế
a) Đoàn kết trên cơ sở thống nhất mục tiêu và lợi
ích, có lý có tình
- Đối với phong trào cộng sản công nhân quốc tế,
dứt khoát giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc
gắn liền với chủ nghĩa xã hội, dựa trên nền tảng
chủ nghĩa Mác-Lênin và chủ nghĩa quốc tế vô
sản, có lý, có tình.
+ “Có lý” tức là phải tuân thủ những nguyên tắc
cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin, phải xuất phát
từ lợi ích chung của cách mạng thế giới; đồng

thời phải biết vận dụng linh hoạt, sáng tạo, có
hiệu quả vào hoạt động thực tiễn của mỗi nước,
mỗi đảng.
+ “Có tình” là sự cảm thông, tôn trọng lẫn nhau
trên tinh thần, tình cảm của những người cùng
chung lý tưởng, chung mục tiêu đấu tranh; phải
khắc phục tư tưởng “sô vanh”, nước lớn, áp đặt,
hoặc dung các giải pháp về kinh tế, chính trị,…
để gây sức ép với nhau. Có tình còn đòi hỏi trong
mọi vấn đề phải chờ đợi nhau để cùng nhận thức,
cùng hành động vì lợi ích chung. Tôn trọng lợi ích
của mỗi dân tộc, mỗi đảng nếu lợi ích đó không
phương hại đến lợi ích chung, lợi ích của đảng
khác, dân tộc khác.
+ “Có lý, có tình” vừa thể hiện nguyên tắc, vừa là
một nội dung của chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí


Minh - chủ nghĩa nhân văn cộng sản. Nó có tác
dụng to lớn trong việc củng cố khối đoàn kết
quốc tế của giai cấp công nhân và tình đoàn kết
trong nhân dân lao động.
- Đối với các dân tộc trên thế giới, Hồ Chí Minh
giương cao ngọn cờ độc lập, tự do và quyền bình
đẳng giữa các dân tộc.
+ Độc lập tự do cho mỗi dân tộc theo Hồ Chí
Minh là quyền trời cho, là “lẽ phải không ai chối
cải được”. Suốt cuộc đời mình, Người không chỉ
đấu tranh cho độc lập, tự do của dân tộc mình
mà còn cho các dân tộc khác trên thế giới.

+ Trong quan hệ với các nước láng giềng cũng
như các nước khác, Hồ Chí Minh thực hiện nhất
quán quan điểm có tính nguyên tắc: Dân tộc Việt
Nam tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn
lãnh thổ, quyền tự quyết của tất cả các quốc gia,
dân tộc trên thế giới, đồng thời mong muốn các
quốc gia, dân tộc trên thế giới quan hệ hợp tác,
hữu nghị với Việt Nam trên cơ sở những nguyên
tắc đó. Người cũng khẳng định nhất quán chính
sách ngoại giao của Việt Nam là: “làm bạn với tất
cả các nước dân chủ, không gây thù oán với một
ai”[4].
- Đối với các lực lượng tiến bộ trên thế giới, Hồ
Chí Minh giương cao ngọn cờ hoà bình trong công
lý.


+ Giương cao ngọn cờ hoà bình và đấu tranh bảo
vệ hoà bình, chống chiến tranh xâm lược là tư
tưởng bất di bất dịch của Hồ Chí Minh, nhưng đó
phải là “một nền hoà bình chân chính xây trên
công bình và lý tưởng dân chủ” Người khẳng
định: “Chính sách ngoại giao của Chính phủ Việt
Nam thì chỉ có một điều tức là thân thiện với tất
cả các nước dân chủ trên thế giới để giữ gìn hoà
bình”, “thái độ của Việt Nam đối với những nước
Á châu là thái độ anh em, đối với ngũ cường là
thái độ bạn bè”



Chính quan điểm này của Hồ Chí Minh và
lòng khao khát hoà bình của nhân dân Việt
Nam đã làm rung động trái tim của nhân dân
tiến bộ trên thế giới. Bởi vậy, trong hai cuộc
kháng chiến, dân tộc ta đã nhận được sự
đồng tình, ủng hộ to lớn của rất nhiều lực
lượng yêu chuộng hoà bình trên thế giới.

b) Đoàn kết trên cơ sở độc lập, tự chủ, tự lực, tự
cường
- Nội lực luôn là nhân tố quyết định hàng đầu,
còn nguồn lực ngoại sinh chỉ có thể phát huy tác
dụng thông qua nguồn lực nội sinh. Chính vì vậy,
Hồ Chí Minh luôn nêu cao tinh thần “tự lực cánh
sinh, dựa vào sức mình là chính”, “muốn người
khác giúp mình thì trước hết tự mình phải giúp
lấy mình đã”. Người còn chỉ rõ “Một dân tộc
không tự lực cánh sinh mà cứ ngồi chờ dân tộc


khác giúp đỡ thì dân tộc đó không xứng đáng
được độc lập”
- Trong quan hệ quốc tế, Người nhấn mạnh: phải
có thực lực, thực lực là cái chiêng, ngoại giao là
cái tiếng, chiêng có to tiếng mới lớn. Vì vậy,
muốn tranh thủ được sự ủng hộ quốc tế, Đảng
phải có đường lối độc lập, tự chủ và đúng đắn.
KẾT LUẬN
1. Sáng tạo của Hồ Chí Minh trong tư tưởng về
đại đoàn kết

- Đại đoàn kết dân tộc là một chiến lược cách
mạng được Hồ Chí Minh đề ra từ rất sớm, trở
thành tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt tiến trình cách
mạng Việt Nam, là cội nguồn sức mạnh làm nên
mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam, một đóng
góp quan trọng vào kho tàng kinh nghiệm cách
mạng thế giới.
- Nhận thức của Hồ Chí Minh về truyền thống
đoàn kết của dân tộc và quan điểm về tập hợp
lực lượng của chủ nghĩa Mác-Lênin.
+ Truyền thống đoàn kết của dân tộc Việt Nam
xuất hiện cùng quá trình dựng nước và giữ nước.
Đó là vốn quý của dân tộc ta chiến thắng hoạ
xâm lăng và âm mưu đồng hoá của kẻ thù.
Nhưng nó chỉ là đoàn kết một cách tự phát, thiếu
lý luận khoa học, cách mạng chỉ đường.


+ Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin do
những đặc điểm của thời đại mình đã chưa đánh
giá đầy đủ vấn đề dân tộc và vấn đề đoàn kết
dân tộc trong Mặt trận dân tộc thống nhất. Khẩu
hiệu của Mác là: “Vô sản tất các nước đoàn kết
lại”, Lênin phát triển trong điều kiện mới thành:
“Vô sản tất cả các nước và các dân tộc bị áp bức
đoàn kết lại”.
- Hồ Chí Minh đã nâng truyền thống đoàn kết của
dân tộc lên tầm cao mới: lấy lý luận Mác-Lênin
dẫn đường dựa trên điều kiện thực tế của Việt
Nam

+ Mở rộng khối đại đoàn kết với biên độ lớn.
+ Hiện thực hoá qua việc thành lập các mặt trận
qua mỗi thời kỳ để tập hợp lực lượng cách mạng.
- Thực tiễn cách mạng Việt Nam đã và đang
chứng minh sức sống kỳ diệu của tư tưởng đại
đoàn kết Hồ Chí Minh. Trung thành và kiên định đi
theo ngọn cờ đại đoàn kết của Hồ Chí Minh,
nghiên cứu để kế thừa, vận dụng và phát triển
sáng tạo tư tưởng này của Người là một trong
những nhân tố quan trọng giúp chúng ta vượt
qua mọi khó khăn, thử thách, hoàn thành nhiệm
vụ, góp phần nước Việt Nam độc lập, dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh.


2. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết
trong giai đoạn hiện nay.
- Trong công cuộc đổi mới đất nước, đại đoàn kết
phải được củng cố và phát triển nhằm rửa được
cái nhục đói nghèo và lạc hậu so với các nước
trong khu vực và trên thế giới; khơi dậy tinh thần
tự hào, tự tôn dân tộc, quyết tâm chấn hưng đất
nước; phát huy tính năng động của mỗi người
dân, của cả cộng đồng, khắc phục những mặt trái
của kinh tế thị trường, giữ vững và phát huy nền
văn hoá đậm đà bản sức dân tộc.
- Xây dựng Đảng cầm quyền thật sự trong sạch,
vững mạnh; xây dựng một chế độ dân chủ, một
Nhà nước thật sự của dân, do dân, vì dân; một hệ

thống chính trị có hiệu quả và hiệu lực thực tế.
- Chủ động xác định rõ các bước hội nhập quốc
tế, củng cố khối đoàn kết với mọi lực lượng tiến
bộ trên thế giới vì mục tiêu hoà bình, độc lập, dân
chủ và phát triển.
3. Ý nghĩa của việc học tập:
- Thấy rõ vai trò, sức mạnh to lớn của đại đoàn
kết; tin tưởng vào tiềm năng cách mạng của
quần chúng nhân dân.
- Đóng góp sức mình vào xây dựng, củng cố khối
đại đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế; thật sự
đoàn kết trong tập thể nhằm tương trợ, giúp đỡ
lẫn nhau cùng tiến bộ.



×