Tải bản đầy đủ (.doc) (8 trang)

SKKN giải thích định tính các hiện tượng quang học VL11

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (387.06 KB, 8 trang )

PHẦN A: MỞ ĐẦU
I. LÍ DO CHON ĐỀ TÀI:
Vật lí học là cơ sở của nhiều nghành kĩ thuật và công nghệ quan trọng.Sự phát triển của khoa học
Vật lí gắn bó chặt chẽ và có tác động qua lại, trực tiếp với sự tiến bộ của khoa học, kĩ thuật và công
nghệ. Vì vậy những hiẻu biết và nhận thức về Vật lí có giá trị to lớn trong đời sống và sản xuất, đặc
biệt là trong cuộc sống công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước.
Môn Vật lí có vai trò quan trọng trong việc thực hiện mục tiêu đào tạo của hệ thống giáo dục phổ
thông. Việc giảng dạy môn Vật lí có nhiệm vụ cung cấp cho học sinh một hệ thống kiến thức cơ bản ở
trình độ phổ thông, bước đầu hình thành cho học sinh những kĩ năng và thói quen làm việc khoa
học,góp phần tạo ra ở các em những năng lực nhận thức, năng lực hành động và các phẩm chất về
nhân cách mà mục tiêu giáo dục đã đề ra. Nhằm giúp cho các em có được những vốn kiến thức tương
đối đầy đủ để làm hành trang chuẩn bị bước vào đời.
Môn Vật lí có tầm quan trọng to lớn trong việc rèn luyện cho học sinh tư duy logic và tư duy biện
chứng, hình thanh ở các em niềm tin về bản chất khoa học của các hiện tượng tự nhiên cũng như khả
năng nhận thức của con người, khả năng ứng dụng khoa học để đẩy mạnh sản xuất, cải thiện đười
sống.
Vật lý học không phải chỉ là các phương trình và con số. Vật lý học là những điều đang xảy ra
trong thế giới xung quanh ta. Nó nói về các màu sắc trong một cầu vồng, về ánh sáng lóng lánh hiện
tượng Vật lý đang xảy ra trong thiên nhiên quanh ta, trong các đối tượng công nghệ của nền văn minh
mà ta đang sử dụng. Mặt khác, thực tế việc giảng dạy Vật lý hiện nay, chủ yếu dành nhiều thời gian
dạy học sinh nhận diện các kiểu, loại và tính cứng rắn của viên kim cương. Nó có liên quan đến việc đi
bộ, đi xe đạp, lái ô tô và cả việc điều khiển một con tàu vũ trụ... Việc học môn Vật lý không chỉ dừng
lại ở sự tìm cách vận dụng các công thức Vật lý để giải cho xong các phương trình và đi đến những
đáp số, mà còn phải giải thích được các bài toàn khác nhau và cách thức vận dụng các công thức Vật lý
cho từng kiểu, loại toán đó, mà ít chú trọng giúp học sinh giải thích các hiện tượng Vật lý xảy ra trong
tự nhiên. Chính vì lẽ đó tôi đã mạnh dạn nghiên cứu đề tài “ Giải thích định tính các hiện tượng
Quang học” nhằm giúp cho học sinh có cách nhìn đúng đắn về Vật lí học, yêu thích Vật lí học, và hiểu
rõ bản chất Vật lí của các hiện tượng Quang học.

II. PHƯƠNG PHÁP VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU:
* Phương pháp nghiên cứu tài liệu: Đọc sách gáo khoa phổ thông, các sách đại học, sách tham


khoả phần Quang học.
* Phương pháp thống kê: Chọ các hiện tượng có trong chương trình phổ thông và gần gũi với đời
sống hàng ngày.
* Phương pháp phân tích và tổng hợp kinh nghiệm trong quá trình giảng dạy và thực tế đời sống.
* Phạm vi nghiên cứu đề tài này là trong phần Quang học của chương trình chuẩn lớp 11 hiện
hành và một phần của Vật lí 12 cơ bản.

PHẦN B: NỘI DUNG
I. CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ MỘT VÀI HIỆN TƯỢNG QUANG HỌC THƯỜNG GẶP
TRONG ĐỜI SỐNG
a. Cơ sở lý thuyết cơ bản của quang học.
+ Định luật truyền thẳng ánh sáng: Trong một môi trường trong suốt, đồng tính và đẳng
hướng ánh sáng truyền theo đường thẳng.
+ Tính thuận nghịch của sự truyền ánh sáng: Ánh sáng truyền đi theo đường nào thì cũng
truyền ngược lại theo đường đó.
+ Định luật khúc xạ ánh sáng
- Tia khúc xạ nằm trong mặt phẳng tới và ở bên kia pháp tuyến so với tia tới
N
- Với hai môi trường trong suốt nhất định thì tỉ số giữa sin của góc tới
S
(sin i) với sin của góc khúc xạ (sin r) luôn không đổi.
i

I
r
K


Số không đổi này phụ thuộc vào bản chất của hai môi trường và được gọi là chiếc suất tỉ đối của môi
trường chứa tia khúc xạ (môi trường 2) đối với môi trường chứa tia tới (môi trường 1).

Kí hiệu: n 21
= n 21
+ Công thức dạng đối xứng của định luật khúc xạ : n1 sini = n2 sinr
+ Hiện tượng phản xạ toàn phần
- Khi ánh sáng truyền từ mặt phân cách của môi trường chiếc quang hơn (n 1) sang môi trường
chiếc quang kém (n2) thì góc khúc xạ r lớn hơn góc tới i.
- Góc khúc xạ lớn nhất bằng 900; tia khúc xạ nằm là là mặt phân cách hai môi trường thì góc tới
tương ứng gọi là góc giới hạn i gh
N
R
- Với các góc tới có giá trị lớn hơn i gh, thì không còn xảy ra khúc xạ, S
toàn bộ tia sáng tới đều phản xạ trở lại môi trường chiếc quang hơn. Khi đó
i i’
có hiện tượng phản xạ toàn phần.
- Điều kiện để xảy ra hiện tượng phản xạ toàn phần : n2 < n1 ; i ≥ igh .
I
+ Mắt
- Thể thuỷ tinh của mắt có vai trò như vật kính của máy ảnh, còn màng lưới có vai trò như
phim.
- Khi nhìn vật đặt ở điểm cực viễn CV, mắt không cần điều tiết. Còn khi nhìn vật đặt ở điểm cực
cận CC mắt phải điều tiết tối đa rất chóng mỏi mắt. Giới hạn nhìn rõ của mắt là khoảng C VCC. Khoảng
cách thấy rõ ngắn nhất là Đ = OC C (O là quang tâm của mắt). Thường lấy Đ = 25cm. Mắt bình thường
có điểm cực viễn ở xa vô cùng, còn điểm cực cận cách mắt 10cm đến 20cm.
- Mắt cận thị có độ tụ lớn hơn mắt bình thường không có tật, điểm cực viễn của mắt cận thị ở
tương đối gần mắt. Thường sửa tật cận thị bằng cách đeo kính phân kỳ.
- Mắt viễn thị có độ tụ nhỏ hơn mắt bình thường; điểm cực cận của mắt viễn thị ở tương đối xa
mắt. Sửa tật viễn thị bằng cách đeo kính hội tụ.
- Góc trông α của một vật (hoặc ảnh) AB đặt thẳng góc với trục nhìn của mắt O là α = góc
AOB với tgα = .
- Năng suất phân li của mắt bình thường: ε = αmin ≈ 1’ = rad

1
- Hiện tượng lưu ảnh của mắt : Tác động của ánh sáng lên màng lưới còn tồn tại khoảng
10
giây sau khi ánh sáng tắt.
+ Các dụng cụ quang học: Kính lúp, hiển vi, thiên văn.
- Độ bội giác G của một số dụng cụ quang học: G = ≈
Trong đó: α là góc trông ảnh của một vật qua dụng cụ, α0 là góc trông vật đặt ở điểm cực cận
của mắt.
+ Tính chất sóng của ánh sáng
- Ánh sáng là sóng điện từ. Ánh sáng đơn sắc nhìn thấy có một bước sóng λ xác định và có một
màu nhất định. Một chùm ánh sáng trắng song song, gồm các ánh sáng đơn sắc có bước sóng từ 0,4
μm (tia tím) đến 0,76 μm (tia đỏ), đến lăng kính khi ló ra khỏi lăng kính, bị phân tích thành dãy nhiều
màu, từ đỏ đến tím, gọi là quang phổ của ánh sáng trắng. Tia đỏ bị lệch (về phía dáy lăng kính) ít nhất,
tia tím bị lệch nhiều nhất. Nguyên nhân của sự tán sắc đó là do chiếc suất của thuỷ tinh (môi trường)
phụ thuộc vào bước sóng (tần số) ánh sáng.
- Hai sóng ánh sáng kết hợp, do hai nguồn sáng kết hợp phát ra, giao thoa với nhau khi gặp
nhau, tạo nên vân sáng (cực đại giao thoa) và vân tối (cực tiểu giao thoa) trên màn quan sát.
+ Lượng tử ánh sáng
- Chùm ánh sáng đơn sắc có bước sóng λ được coi như dòng các phôtôn (lượng tử ánh sáng),
mỗi phôtôn mang năng lượng xác định ε = h f = h (f là tần số ánh sáng, h là hằng số Plăng; h =
6,625.10-34 J.s; c = 3. 108m/s). Cường độ ánh sáng tỉ lệ với số phôtôn.
- Hiện tượng quang điện là hiện tượng các electrôn bị bật ra (gọi là electrôn quang điện) khi
chiếu vào mặt kim loại chùm ánh sáng có bước sóng λ thích hợp.
b. Một vài hiện tượng quang học thường gặp trong đời sống hằng ngày.
Có rất nhiều hiện tượng diễn ra quanh đời sống hằng ngày của chúng ta như: tại sao lại xuất
hiện cầu vồng sau cơn mưa hay tại sao người tham gia giao thông khi gặp “đèn đỏ” phải dừng lại mà


không phải là một loại “đèn màu” nào khác,...v.v. và rất nhiều hiện tượng khác rất gần gũi với đời sống
chúng ta nhiều lúc chúng ta xem như đó là điều hiển nhiên.

Hiện tượng cầu vồng ?
Trong thời điểm mưa nhiều khi ánh sáng mặt trời xuyên qua những đám mây mưa, đôi khi trên trời
xuất hiện một vòng cung lấp lánh nhiều màu.

Để chúng ta có thể chiêm ngưỡng cảnh quan tuyệt vời này, cần phải hội đủ hai điều kiện gần như trái
ngược: Sự xuất hiện của những giọt nước mưa và ánh sáng mặt trời. Chính ánh sáng Mặt trời xuyên
qua những giọt nước mưa khúc xạ và trải ra thành 7 băng màu. Những băng màu này trải thành vòng
đồng tâm, trong cùng là màu tím, rồi đến chàm, lam, lục, vàng, da cam cho đến màu đỏ ở ngoài cùng.
Thường người ta thấy một vòng cung tròn.
Hiện tượng phân giải màu của ánh sáng rất quen thuộc. Người ta dĩ nhiên có thể tạo ra bằng cách cho
ánh sáng mặt trời (màu trắng) đi qua một lăng kính. Đây cũng là hiện tượng mà ta có thể thấy trong
một bồn phun nước hoặc trong luồng sáng của ánh đèn pha một ô tô trong thời tiết nhiều sương mù.
Trong quầng sáng mà một vài đám mây quanh mặt trời tạo nên, những màu cầu vồng trải theo trình tự
ngược lại, màu đỏ ở trong cùng. Lý do là vì cầu vồng tạo thành ngược mặt trời so với hướng người
quan sát. Những ánh sáng lấp lánh không chỉ khúc xạ mà còn phản chiếu được bằng những giọt nước.
Tại sao trong giao thông người ta dùng đèn đỏ để báo hiệu nguy hiểm mà không dùng đèn màu
khác ?
Có hai lý do. Lý do thứ nhất, lý do khách quan, là trong bảy màu quang phổ, màu đỏ ứng với bước
sóng lớn nhất, nên ánh sáng đỏ truyền trong không khí được xa hơn. Khi một chùm ánh sáng truyền
trong không khí, nhất là không khí có nhiều bụi hoặc hạt nước nhỏ (tức là sương mù), thì một phần
năng lượng ánh sáng bị các phân tử không khí và các hạt đó tán xạ ra mọi phía, nên năng lượng chùm
sáng càng giảm, khi truyền đi càng xa. Phần ánh sáng mất do tán xạ tăng rất nhanh khi bước sóng
giảm, nên ánh sáng có bước sóng dài bị mất mát ít hơn và truyền được xa hơn ánh sáng các màu khác.
Lý do thứ hai, lý do chủ quan là như sau: Khi đứng rất xa một đèn màu, ta trông thấy đèn nhưng không
nhận ra màu của nó. Phải lại gần thêm, mới phân biệt màu của ánh sáng đèn. Nghĩa là đối với các màu
lục, lam, vàng, tím ngưỡng sáng (là lượng ánh sáng nhỏ nhất mà mắt phát hiện được) không trùng với
ngưỡng màu (lượng ánh sáng nhỏ nhất để nhận ra màu ánh sáng). Chỉ riêng với màu đỏ, là hai ngưỡng
đó trùng nhau: ban đêm nếu đặt một chiếc đèn đỏ trên đường, thì từ xa đi lại, lúc bắt đầu trông thấy
đèn ta cũng đồng thời nhận ra màu đỏ của nó. Như vậy dùng đèn đỏ để báo hiệu nguy hiểm thì không
sợ nhầm lẫn và lại có thể nhận thấy được từ xa.


II. PHƯƠNG PHÁP CHUNG ĐỂ GIẢI ĐÁP NHỮNG CÂU HỎI ĐỊNH TÍNH QUANG
HỌC.
Những hiện tượng trong tự nhiên xảy ra xung quanh ta rất đa dạng, phong phú, muôn hình
muôn vẽ. Tuy nhiên, tất cả mọi hiện tượng đếu có nguyên nhân của nó. Dùng tư tưởng khoa học,


phương pháp khoa học và tri thức khoa học chính xác sẽ giúp ta trả lời chính xác bản chất của các hiện
tượng này.
Những hiện tượng Quang học cũng vậy, chúng đều có nguyên nhân cả. Để trả lời đúng, chính
xác và nhanh chóng hiện tượng xảy ra, ngoài việc phải nắm vững kiến thức phần Quang học, ta còn
phải xác định ‘‘mấu chốt’’ của vấn đề, xem những hiện tượng xảy ra đó thuộc mảng kiến thức nào của
phần Quang học: Quang hình học, giao thoa, nhiễu xạ hay hiện tượng phát quang v.v... để giới hạn kiến
thức và giải thích chính xác bản chất hiện tượng.

III. VÀI HIỆN TƯỢNG QUANG HỌC PHỔ BIẾN TRONG TỰ NHIÊN.
1. Hiện tượng cực quang là gì ?
Trong thiên văn học, cực quang là một hiện tượng quang học được đặc trưng
bởi sự thể hiện đầy màu sắc của ánh sáng trên bầu trời về đêm, được sinh ra
do sự tương tác của các hạt mang điện tích từ gió mặt trời với tầng khí quyển
bên trên của hành tinh. Các cực quang mạnh nhất thường diễn ra sau sự
phun trào hàng loạt của Mặt Trời. Các dải sáng này liên tục chuyển động và
thay đổi làm cho chúng trông giống như những dải lụa màu trên bầu trời.
Đây có thể coi là một trong những hình ảnh đẹp của tự nhiên

Bắc cực quang

Hình ảnh cực quang
trên trái đất


Nam cực quang

Trên Trái Đất, Mộc Tinh, Thổ Tinh, Thiên Vương Tinh và Hải Vương Tinh, các cực quang được sinh ra
do tương tác của các hạt trong gió mặt trời với từ trường của hành tinh, và vì thế chúng là rõ nét nhất ở
các vĩ độ cao gần các cực từ. Vì lý do này, cực quang diễn ra ở bắc bán cầu Trái Đất được gọi là bắc
cực quang, hay ánh sáng bắc cực; và ở nam bán cầu thì là nam cực quang. Tuy nhiên, cực quang cũng
diễn ra trên Kim Tinh và Hỏa Tinh mà chúng lại gần như không có từ trường của hành tinh. Trên Kim
Tinh, các phân tử của khí quyển được tích tụ năng lượng trực tiếp từ gió mặt trời; trên Hỏa Tinh, các
cực quang diễn ra gần các điểm dị từ khu vực trong lớp vỏ hành tinh, là tàn dư của từ trường cũ của
hành
tinh
(giả
thiết)

ngày
nay
không
còn
tồn
tại
nữa.
Trên Trái Đất, cực quang diễn ra khi các đới bức xạ Van Allen trở nên "quá tải" với các hạt cao năng
lượng, sau đó chúng đổ xuống các đường sức từ và va chạm với lớp trên của bầu khí quyển Trái Đất.
2. Mặt Trăng , Mặt Trời lúc mới mọc, hoặc sắp lặn có đúng là to hơn ở đỉnh đầu

không ?
Khi nói Mặt Trăng, Mặt Trời to, nhỏ ta phải hiểu là góc trông của các thiên thể ấy to, hay nhỏ.
Và hiểu như thế, thì góc trông Mặt Trời, từ sáng đến trưa, và từ trưa đến chiều không thay đổi hay nói
cho đúng hơn chỉ thay đổi một trị số cực nhỏ, không đáng kể so với góc ấy. Và như thế có nghĩa là Mặt
Trăng, Mặt Trời lúc mới mọc cũng chỉ to như lúc ở trên đỉnh đầu thôi. Và thực sự thì chụp ảnh hoặc đo

góc trông hai thiên thể ấy, người ta thấy đúng là chúng không thay đổi.
Thế thì tại sao khi Trăng mới mọc ta thấy nó “to như cái mâm” để khi lên cao chỉ còn “ nhỏ
bằng cái đĩa”? Đó là vì mắt bị lừa chỉ là một ảo giác mà thôi. Khi trăng lên cao giữa Mặt Trăng và mắt
không có vật gì khác để so, nên ta thấy Mặt Trăng có vẻ như gần. Nhìn một vật ở gần, dưới một góc
nhỏ ta cho nó là bé. Khi trăng ở gần chân trời, giữa Trăng và mắt có xen nhiều vật: nhà, cây cối, nước,


sông ..., ta có cảm giác là mặt trăng ở rất xa. Cho là trăng ở xa mà góc trông lại không giảm, nên ta
tưởng như nó to ra. Để rứt khỏi ảo giác này, ta nên làm thí nghiệm nhỏ sau đây: Lấy một tấm kính hơ
lên ngọn đèn dầu hoả cho muội bám vào thành một lớp đều. Và nhìn Mặt Trời lúc mọc qua tấm kính
đó. Qua tấm kính đen bạn không trông thấy vật gì khác ngoài Mặt Trời, và sẻ thấy nó cũng nhỏ như lúc
ở đỉnh đầu.

3. Chụp ảnh ngoài trời nắng, những người chụp ảnh giàu kinh nghiệm thường lắp
thêm kính lọc màu vàng hoặc màu đỏ nhằm mục đích gì ?
Phim ảnh dù đã được nhạy hoá, vẫn có độ nhạy lớn đối với ánh sáng màu tím, màu lam, và nhỏ
đối với màu vàng, màu đỏ.Vì thế nên độ tương phản của các phần trên phim không hoàn toàn phù hợp
với độ tương phản trên vật, đặt biệt là khi chụp ngoài nắng. Chẳng hạn, một lá cờ đỏ đang tung bay với
mắt thì nổi hẳn trên nền trời xanh, nhưng khi chụp trên phim rồi in trên ảnh, ta thấy lá cờ bị tối, và nền
trời sáng hơn nhiều. Để loại trừ ảnh hưởng này, người ta làm yếu bớt các tia sáng màu lam, màu tím,
bằng cách bắt chùm sáng đi qua một kính lọc, trước khi rọi vào máy.
Kính lọc màu vàng nhạt để các tia đỏ, vàng và da cam qua được gần hoàn toàn, và hấp thụ một
phần các tia lam và tím, nên làm cho ảnh chụp giống như thật. Kính lọc màu vàng sẫm vẫn cho các tia
đỏ và vàng qua gần hết, nhưng hấp thụ các tia lam và tím mạnh hơn, làm cho ảnh tương phản hơn vật,
chẳng hạn làm cho nền trời tối bớt, và các đám mây hiện rõ hơn. Kính lọc màu da cam, và nhất là kính
màu đỏ hấp thụ hết ánh sáng màu lam, màu tím, nên cho những ảnh thật tương phản, khác hẳn thật,
chẳng hạn, vật màu đỏ hiện rất sáng, vật màu lam, tím trở thành tối, trời mây bình thường mà hiện trên
ảnh như sắp có giông. Người sử thành thạo kính lọc có thể gây được nhiều hiệu quả đặc sắc. Khi chụp
ảnh với kính lọc màu, phải chú ý lấy tăng ánh sáng một cách thích hợp.


4. Vì sao dưới ánh sáng ban ngày, nhìn bong bóng xà phòng hay vết dầu loang trên
vũng nước, ta thấy có nhiều màu sặc sỡ ?
Những vân màu sặc sỡ trên bong bóng xà phòng hoặc trên vết dầu loang trên mặt nước là kết
quả của sự giao thoa ánh sáng.
Màng bong bóng xà phòng là một lớp nước mỏng-cỡ phần nghìn milimet-trong suốt, vết dầu
loang cũng là một màng như vậy. Hai mặt của màng cùng phản xạ ánh sáng như hai mặt của tấm cửa.
Ta xét một điểm I trên màng mỏng M mà độ dày được vẽ to gấp nghìn lần độ dày thật. Tia sáng
SIR1 phát đi từ một điểm S của nguồn, phản xạ ở mặt trên của màng và rọi vào mắt. Trong số rất nhiều
tia sáng phát đi từ S, có một tia SKR 2 phản xạ ở mặt dưới của màng và cũng rọi vào mắt. Vì màng rất
mỏng, nên đối với mắt, hai tia IR1 và KR2 như là được phát đi từ cùng một điểm I. Khi hai tia này được
thuỷ tinh thể của mắt hội tụ lên võng mạc, chúng gặp nhau và giao thoa với nhau. Hai tia sáng đi từ
điểm I, mà gặp nhau trên võng mạc của mắt, thì mắt nhìn rõ điểm I: ta nói là mắt điều tiết để nhìn vào
mặt bản. Hai tia sáng giao thoa với nhau, có thể hoặc tăng cường lẫn nhau, hoặc triệt tiêu nhau, tuỳ
theo độ dày của màng và tuỳ theo bước sóng ánh sáng. Chùm ánh sáng rọi vào màng là ánh sáng trắng,
có đủ các màu, ứng với nhiều bước sóng khác nhau, nên cùng một lúc, ở cùng một điểm I, sóng ánh
sáng màu này bị triệt tiêu, sóng ánh sáng màu khác lại được tăng cường, và ánh sáng phản xạ thành có
màu sắc, và màu sắc đó thay đổi theo chổ dày, chỗ mỏng trên màng.
Chùm sáng rọi vào điểm I rất rộng, nhưng con ngươi của mắt lại nhỏ, nên chùm tia lọt vào mắt
vẫn chỉ là một chùm hẹp, nên có thể quan sát được vân giao thoa, mà không cần dùng khe hẹp, như
trong thí nghiệm Yâng.

Chú thích: Tia SIR1
phản xạ ở mặt trên,
tia SKR2 phản xạ ở
mặt dưới của màng
gặp nhau ở điểm I’
trên võng mạc và
giao thoa với nhau



5. Tại sao sân bóng đá có vạch sọc?
Các vạch sọc đậm nhạt xen kẽ mà bạn thấy trên sân bóng không phải
là màu của hai loại cỏ khác nhau. Thực ra, toàn sân chỉ có một loại cỏ mà
thôi. Bí mật nằm ở cách cắt cỏ và hiệu ứng ánh sáng. Những dải cỏ xanh đậm
và nhạt xen kẽ nhau là do máy cắt đi qua và trở lại theo hai chiều, làm cỏ nằm
theo hai chiều đối nhau.
Cũng có cách cắt cỏ để sân bóng có hình caro hay xoắn ốc. Tuy nhiên,
trong các trận đấu, người ta thích dạng thẳng hơn vì giúp nhìn rõ lằn ranh sân.
Các đài truyền hình cũng thích thế vì có thể ước lượng khoảng cách dễ dàng
hơn.

Sân bóng đá luôn có
hình vạch sọc.

6. Vì sao một số cá chết bị sóng biển hắt lên bờ lại phát quang trong đêm tối ?
Con đôm đốm quen thuộc trong những đêm hè ở nông thôn nước ta là loại sinh vật có khả năng
phát quang trong đêm tối. Nếu đom đốm chết, khả năng phát quang của nó cũng mất. Hiện tượng phát
quang này liên quang đến quá trình sống của sinh vật. Đó là hiện tượng phát quang sinh vật.
Nhưng những con cá chết trên bờ biển phát quang và những người đánh cá cho biết chúng
không phát quang khi còn sống. Nhưng khi chúng đã chết, có một loại quang vi khuẩn bắt đầu sinh
sống và phát triển trong cơ thể gần thối rữa của chúng làm cho ta tưởng cá phát quang.
Chính do những quang vi khuẩn mà một số thịt, rau, xác người chết thối rữa cũng phát ánh
sáng xanh. Cũng do vi khuẩn mà đôi khi mồ hôi, nước tiểu, những vết thương cũng phát ánh sáng xanh
trong đêm tối.

7. Vì sao thuỷ tinh mau khi vỡ vụn thành hạt nhỏthì những hạt nhỏ nay có màu
trắng ?
Thuỷ tinh màu là thuỷ tinh pha thêm hoá chất hấp thụ một số màu và chỉ cho một số ánh sáng
đơn sắc đi qua. Chẳng hạn thuỷ tinh màu đỏ hấp thụ các tia lục, lam, tím và hầu như chỉ cho tia đỏ
truyền qua.

Nhìn ánh sáng truyền qua thuỷ tinh ta sẽ thấy màu của nó. Nhưng nếu nhìn ánh sáng phản xạ
và tán xạ trên mặt thuỷ tinh thì rất khó phân biệt được thủy tinh màu gì.
Sự hấp thụ những tia đơn sắc của thuỷ tinh màu còn phụ thuộc vào khoảng cách truyền qua môi
trường tức là vào bề dày của thuỷ tinh. Nếu thuỷ tinh càng dày, ánh sáng càng bị hấp thụ nhiều, thì
màu thủy tinh càng sẫm.
Khi thủy tinh màu bị vỡ vụn thành hạt nhỏ, ánh sáng truyền qua một số hạt nhưng không bị hấp
thụ bao nhiêu, sau đó phản xạ và tán xạ từ các hạt khác và mắt ta nhìn thuỷ tinh vỡ vụn do ánh sáng
phản xạ và tán xạ ấy. Đó là lý do tại sao dưới ánh sáng trắng ta thấy thủy tinh dù có màu gì, khi vỡ vụn
vẫn trở thành màu trắng.
Đối với các chất lỏng có màu, hiện tượng xảy ra cũng tương tự. Nếu ta làm chất lỏng đó thành
bọt thì bọt gì cũng có màu trắng chẳng hạn bia màu vàng, bọt bia lại có màu trắng.

8. Tại sao trên sa mạc ta nhìn thấy xa xa trước mặt có hồ nước nhưng khi đến gần thi
không thấy gì ?
Tại sa mạc, nhiệt độ không khí giảm nhanh theo độ cao, khiến chiết suất không khí tăng nhanh
theo độ cao. Trong điều kiện quang học này, tia sáng từ bầu trời có thể được phản xạ toàn phần đến
mắt người quan sát đứng trên sa mạc, tương tự như được phản chiếu từ mặt hồ nước.
"Ốc đảo trên sa mạc" là ví dụ truyền thống về ảo ảnh quang học. Ảo ảnh này vốn được quan sát bởi
người đi trên sa mạc: họ có thể thấy xuất hiện phía trước vài trăm mét hình ảnh hồ nước lóng lánh,
nhưng khi đến gần thì chỉ thấy cát. Ảo ảnh kiểu này cũng quan sát được khi đi trên đường nhựa trong
thời tiết nắng nóng.


Nguyên nhân vật lý là trong điều kiện sa mạc hay đường nhựa nóng, không khí tại gần mặt đất có nhiệt
độ cao hơn không khí trên cao, dẫn đến chiết suất không khí tăng theo độ cao. Trong điều kiện này, các
tia sáng từ bầu trời xanh có thể được khúc xạ toàn phần đến mắt người quan sát. Do không khí luôn có
các dòng đối lưu gây nhiễu loạn chiết suất, hình ảnh thu được luôn dao động như khi nhìn hình ảnh
bầu trời phản xạ từ mặt nước.

9. Dùng bóng điện mờ có lợi gì hơn bóng trong suốt ?

Dùng đèn điện có bóng thuỷ tinh trong suốt có hai điều bất tiện :
* Dây tóc bóng đèn có độ chói lớn, khi sử dụng phải treo cao hợc phải dùng chao đèn che khuất
dây tóc.
** Nếu ta nhìn vào mặt được rọi sáng, chẳng han trang sách, trong ánh sáng tán xạ từ trang sách
có một phần ánh sáng tán xạ cho ảnh biến dạng của dây tóc và làm loá mắt, khó đọc sách.
Ngựoc lại với bóng đèn mờ, ánh sáng như toả ra từ khắp mặt ngoài của bóng, độ chói của nguồn
giảm đi rất nhiều, nhìn thẳng vào bóng đèn ít bị loá. Mặc khác dưới ánh sáng tán xạ của bóng điện mờ
các vật phản xạ ít hơn, đọc sách dễ chịu hơn. Tuy nhiên trong phòng khách ở các khách sạn, phòng đợi
ở các nhà ga, sân bay, ngoài các bóng đèn mờ, hoặc đèn ống huỳnh quang, người ta vẫn thường thắp
thêm một số bóng đèn dây tóc, vì, chỉ dưới ánh sáng đèn điện dây tóc, kim cương, hột xoàn, mặt đá...
trên nữ trang của các bà, các chị mới lấp lánh mạnh.
10. Tại sao bầu trời màu xanh?
Ánh sáng phát ra từ mặt trời bao gồm nhiều màu sắc, mỗi màu lại có một sóng
ánh sáng khác nhau. Bầu khí quyển tác động tới mỗi màu ánh sáng xuyên qua
khi sóng của nó chạm vào phân tử, các giọt nước nhỏ và những mẩu bụi.Ánh
sáng màu xanh dương có sóng ngắn nên các phân tử trong không khí phán tán
đi nó đi xung quanh, làm cho bầu trời có màu xanh dương. Ánh sáng đỏ có
sóng ánh sáng dài hơn, vì thế hoạt động mạnh hơn và không bị phân tán đi
nhiều như thế.Bầu trời lúc hoàng hôn có màu đỏ là bởi vào buổi tối, ánh sáng
đi xuyên qua bầu khí quyển dày hơn để tới mắt người và chỉ có ánh sáng đỏ mới lọt qua được.

PHẦN C: KẾT LUẬN
I. BÀI HỌC KINH NGHIỆM VÀ Ý NGHĨA.
II.KHẢ NĂNG ỨNG DỤNG

PHẦN III : Khả năng và điều kiện giải thích
* Đối với giáo viên:
- Phải yêu thích bộ môn, có tâm huyết với nghề.
- Trang bị kiến thức các hiện tượng để minh họa cho bài giảng. thêm sinh động .
- Phải luôn lắng nghe sự chỉ dạy góp ý của Ban giám hiệu, của đồng nghiệp, thường

xuyên dự giờ để rút kinh nghiệm và không ngừng học hỏi sáng tạo.


- Giáo viên cần phải nắm vững toàn bộ nội dung kiến thức chương trình, chương trình
mà mình phụ trách, hoặc những câu chuyện của cuộc sống thì lúc đó mình sẽ liên tưởng
ngay đến từng bài học sao cho phù hợp với những thông tin đó. Và điều này giúp giáo
viên không phải lúng túng và mất thời gian khi tìm những ý tưởng cho bài giảng.
- Ngoài ra, trước khi lên tiết giáo viên cần phải xây dựng kịch bản bao gồm những tranh
ảnh, câu chuyện, những hoạt động của thầy và trò…, thầy gồm những bước nào, trò
gồm những bước nào. Từ đó sẽ tạo nên sự phối hợp nhịp nhàng giữa thầy và trò,tạo nên
sự thành công trong tiết học.
*Đối với học sinh.
-phải yêu thích bộ môn vật lý
-phải luôn trao dồi kiến thức để có thể giải thích đúng các hiện tượng
-luôn tìm hiểu các hiện tượng thong qua sách, báo các thông tin trên mạng internet vv…
III. NHỮNG KIẾN NGHỊ, ĐỀ XUẤT.



×