Tải bản đầy đủ (.doc) (56 trang)

12 câu hỏi tủ ôn thi triết học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (334.31 KB, 56 trang )

BÀI SOẠN TRIẾT HỌC

CÂU 1:
ĐỊNH NGHĨA CỦA LÊNIN VỀ PHẠM TRÙ VẬT CHẤT. Ý
NGHĨA VỀ MẶT THẾ GIỚI QUAN VÀ PHƯƠNG PHÁP LUẬN
I. PHÂN TÍCH ĐỊNH NGHĨA
Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức là mối quan hệ xuyên
suốt trong lòch sử triết học. Việc giải quyết nó đã tạo nên hai
khuynh hướng trái ngược nhau trong thế giới khách quan: chủ
nghóa duy vật và chủ nghóa duy tâm.
Tất cả những quan điểm cho rằng vật chất là cái có trước,
vật chất quyết đònh ý thức thì đó đều là những quan điểm duy
vật. Tuy nhiên, khi nói về đònh nghóa vật chất, các nhà duy vật
trong lòch sử lại có nhiều cách trả lời khác nhau.
Theo các nhà duy vật cổ đại thì vật chất đó là những vật thể
cụ thể. Ví dụ ở Trung Hoa, các nhà duy vật cho rằng vật chất bao
gồm các yếu tố như: kim, mộc, thủy, hỏa, thổ. Ở Ấn Độ và
Hy Lạp cổ đại thì lại coi thực thể của thế giới là các chất như:
đất, nước, lửa, không khí.
Đến thời kỳ phục hưng, thế kỷ 17, 18, khoa học tự nhiên - thực
nghiệm châu Âu phát triển khá mạnh, đặc biệt là học thuyết
nguyên tử cổ đại đã được phát triển lên một tầm cao mới. Tuy
nhiên, các nhà khoa học lại cho rằng nguyên tử là phần tử nhỏ
nhất trong thế giới và không thể phân chia được. Từ đó họ đã
quy vật chất về nguyên tử và quan niệm rằng nguyên tử là
bất biến. Ngoài ra, các nhà khoa học cũng đã đồng nhất vật
chất với khối lượng, coi vận động của vật chất chỉ là biểu
hiện của vận động cơ học, nguồn gốc vận động nằm ngoài
vật chất. Có thể nói, cùng với sự phát triển của khoa học,
chủ nghóa duy vật trong thời kỳ này nói chung và phạm trù vật
chất nói riêng đã có bước phát triển mới, chứa đựng nhiều


yếu tố biện chứng, nhưng vẫn còn tồn tại một hạn chế đó là
đã quy vật chất vào những dạng vật thể cụ thể.
Tóm lại, quan sự phân tích tất cả những quan điểm trước Mác
về vật chất, chúng ta thấy các nhà duy vật trong thời kỳ này
chưa có một quan điểm đúng về vật chất do mắc phải các
nhược điểm sau: Thứ nhất, đó là tính máy móc thể hiện ở
việc đã quy vật chất vào những vật thể cụ thể. Thứ hai, là
tính siêu hình, cho rằng những vật thể đó là bất biến, không
LÊ HUỲNH TẤN DUY

1


BÀI SOẠN TRIẾT HỌC

thay đổi. Thứ ba, là sự duy tâm về mặt xã hội thể hiện qua
việc chưa hiểu được đâu là vật chất, đâu là tinh thần trong xã
hội, và cái nào quyết đònh cái nào.
Đến cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20, khi xuất hiện những phát
minh mới trong lónh vực khoa học tự nhiên như: đònh luật bảo toàn
và chuyển hóa năng lượng, học thuyết tiến hóa, học thuyết tế
bào và đặc biệt là sự phát hiện ra điện tử, chứng minh điện
tử là một trong những thành phần phần cấu tạo nên nguyên
tử, khối lượng của điện tử không phải là khối lượng tónh mà
là khối lượng thay đổi theo tốc độ vận động của điện tử.
Những quan điểm đó là bước tiến mới của loài người trong
việc nhận thức và làm chủ giới tự nhiên, bác bỏ quan niệm
siêu hình về vật chất. Những quan điểm đương thời về giới hạn
tột cùng của vật chất là nguyên tử hoặc khối lượng sụp đổ
trước khoa học. Và đây cũng chính là mãnh đất để chủ nghóa

duy tâm lợi dụng cho rằng “vật chất” của chủ nghóa duy vật đã
biến mất, nền tảng của chủ nghóa duy vật đã sụp đổ.
Chính trong hoàn cảnh như vậy, triết học Mác ra đời và đã kế
thừa thành quả của các quan điểm trước đó về vật chất,
đồng thời dựa vào những tiến bộ của khoa học tự nhiên hiện
đại để có thể đức ra một đònh nghóa đúng về vật chất. Tuy
nhiên, Mác và Ănggen đã không đưa ra một đònh nghóa cụ thể
về vật chất mà chỉ nêu lên một số kết luận như sau:
Thứ nhất, không được quy vật chất vào vật thể cụ thể, vào
những dạng tồn tại cụ thể của vật chất như những nhà duy vật
trước đó đã làm, mà phải từ những dạng tồn tại cụ thể ấy
tìm thấy được những thuộc tính chung nhất giữa chúng để đưa
vào phạm trù vật chất, đó chính là thực tại khách quan hay nói
cách khác vậ chất chính là thực tại khách quan, không phụ
thuộc vào ý muốn của con người.
Thứ hai, thực tại khách quan này không độc lập và tách khỏi sự
vật cụ thể mà chỉ thông qua những dạng vật thể cụ thể đó
mới biết được thực tại khách quan.
Thứ ba, có vô vàn những dạng vật chất khác nhau và khoa học
sẽ ngày càng phát hiện ra những dạng vật chất mới, nhưng
không phải vì thế mà vật chất tiêu tan.
Kế thừa những quan điểm của triết học trước Mác, những tư
tưởng của Mác và ngen, đồng thời tổng kết những thành tựu
LÊ HUỲNH TẤN DUY

2


BÀI SOẠN TRIẾT HỌC


của khoa học tự nhiên, Lênin đã chỉ rõ rằng vật chất không bò
tiêu tan, CNDV không bò bác bỏ. Cái bò tiêu tan, bò bác bỏ chính
là giới hạn hiểu biết trước đây về vật chất, là quan điểm siêu
hình, máy móc trong nhận thức khoa học cho rằng giới tự nhiên
là có tận cùng về cấu trúc; rằng giới hạn cuối cùng, bất
biến của giới tự nhiên là nguyên tử hoặc khối lượng… Từ đó
Lênin đưa ra đònh nghóa về vật chất cụ thể như sau: “Vật chất
là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách
quan được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm
giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh và tồn
tại không lệ thuộc vào cảm giác”. Như vậy, đònh nghóa về
vật chất của Lênin bao gồm những nội dung cơ bản sau:

LÊ HUỲNH TẤN DUY

3


BÀI SOẠN TRIẾT HỌC

- Thứ nhất, vật chất là một phạm trù triết học.
Theo Lênin, vật chất là một phạm trù “rộng đến cùng cực,
rộng nhất, mà cho đến nay, thực ra nhận thức luận vẫn chưa
vượt quá được”. Vật chất với tư cách là phạm trù triết học nó
chỉ vật chất nói chung, vô hạn, vô tận, không sinh ra, không
mất đi, còn các đối tượng, các dạng vật chất khoa học cụ thể
nghiên cứu đều có giới hạn, nó sinh ra và mất đi để chuyển
hóa thành cái khác. Vì vậy không thể quy vật chất nói chung
về vật thể, không thể đồng nhất vật chất nói chung với
những dạng cụ thể của vật chất như các nhà duy vật trong lòch

sử cổ đại, cận đại đã làm.
- Thứ hai, vật chất là thực tại khách quan.
Thực tại tức là có thật dù mắt thường có thể nhìn thấy hoặc
không nhìn thấy, ví dụ như: đất, đá, nhà cửa, màu của ánh
sáng… Khách quan, theo Lênin là cái đang tồn tại độc lập với
loài người và với cảm giác của con người. Đây là khái niệm
đối lập, mâu thuẫn với khái niệm chủ quan như: tâm tư, tình
cảm, nguyện vọng, ý thức… Trong đời sống xã hội, vật chất là
cái tồn tại xã hội không phụ thuộc vào ý thức xã hội của
con người. Nói cách khác, vật chất là cái tồn tại khách quan
bên ngoài ý thức và không phụ thuộc vào ý thức, bất kể sự
tồn tại ấy con người đã nhận thức được hay chưa nhận thức
được.
- Thứ ba, vật chất là cái gây nên cảm giác ở con người
khi gián tiếp hoặc trực tiếp tác động lên giác quan của
con người.
Vật chất chính là cái tác động lên các cơ quan cảm giác và
gây ra cảm giác, vật chất chính là nguồn gốc của cảm giác.
Con ngừơi có thể nhận thức được thực tại khách quan nhờ các
giác quan của mình, sự hiểu biết của con người chính là hình ảnh
về thực tại khách quan. Giác quan của con người có tầm quan
trọng trong quá trình nhận thức. Nó như cầu nối giữa khách quan
với hiện thực, nhận thức của con người được phát triển, được
nâng lên một tầm cao là nhờ có các giác quan. VD: con người
hoàn thiện thò giác của mình bằng kính viễn vọng; hoàn thiện
thính giác của mình bằng điện thoại di động, máy bộ đàm…
- Thứ tư, cảm giác, tư duy, ý thức chỉ là sự phản ánh
của vật chất.
LÊ HUỲNH TẤN DUY


4


BÀI SOẠN TRIẾT HỌC

Ý thức là hình ảnh chủ quan về thế giới khách quan. Ýù thức
là thuộc tính của dạng vật chất có tổ chức cao là bộ óc con
người. Ý thức phản ánh vật chất một cách tích cực, chủ động,
sáng tạo. Mặc dù vật chất quyết đònh ý thức nhưng ý thức
cũng có sự tác động trở lại đối với vật chất.
II. Ý NGHĨA
Với những nội dung cơ bản như trên, phạm trù vật chất trong
đònh nghóa của Lênin có nhiều ý nghóa to lớn, thể hiện như sau:
- Thứ nhất, đònh nghóa này đã khắc phục được những hạn chế
của chủ nghóa duy vật trước Mác về vật chất, nó giúp phân
biệt giữa vật chất và vật thể, chỉ rõ vật thể là biểu hiện
của vật chất. Nó đưa ra một quan điểm đúng đắn về vật chất
khi cho rằng vật chất chính là thực tại khách quan.
- Thứ hai, quan điểm này đã góp phần chống lại các quan
điểm duy tâm và giải quyết đúng đắn vấn đề cơ bản của
triết học trên lập trường duy vật biện chứng, đó là vật chất
là cái có trước và quyết đònh ý thức, ý thức phản ánh vật
chất một cách chủ động, sáng tạo. Khi khẳng đònh vật chất là
cái được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh,
Lênin muốn nhấn mạnh rằng bằng những phương thức nhận
thức khác nhau con người có thể nhận thức được thế giới vật
chất. Như vậy, đònh nghóa vật chất của Lênin đã bác bỏ thuyết
không thể biết, đã khắc phục được những khiếm khuyết trong
các quan điểm siêu hình, máy móc về vật chất.
- Thứ ba, đònh nghóa này đã mở đường, đònh hướng cho các

ngành khoa học cụ thể phát triển trong việc tiếp tục tìm kiếm
các dạng hoặc các hình thức mới của vật thể trong thế giới.
Những khám phá mới trong các ngành khoa học chẳng những
không bác bỏ đònh nghóa về vật chất của Lênin mà ngược lại,
càng khẳng đònh tính đúng đắn của nó, và đòi hỏi các nhà
khoa học lẫn các nàh duy vật biện chứng không ngừng rèn
luyện tư duy, bổ sung tri thức.
Thứ tư, khi nhận thức các hiện tượng thuộc đời sống xã hội,
đònh nghóa vật chất của Lênin đã cho phép xác đònh cái gì là
vật chất trong lónh vực xã hội. Từ đó giúp các nhà khoa học có
cơ sở lý luận để giải thích những nguyên nhân cuối cùng của
các biến cố xã hội, những nguyên nhân thuộc về sự vận
động của phương thức xản xuất. Trên cơ sở ấy, người ta có thể
LÊ HUỲNH TẤN DUY

5


BÀI SOẠN TRIẾT HỌC

tìm ra các phương án tối ưu để hoạt động thúc đẩy xã hội phát
triển. Hơn nữa, đònh nghóa còn khắc phục quan niệm duy tâm về
tính thứ nhất của tinh thần, đặc biệt quan niệm duy tâm về xã
hội. Từ đònh nghóa của Lênin còn có thể suy rộng ra về vai trò
quyết đònh của tồn tại xã hội đối với ý thức xã hội.
III. CÁC THUỘC TÍNH CƠ BẢN CỦA VẬT CHẤT
1. Khách quan.
2. Vận động.
3. Không gian và thời gian.
4. Tính phản ánh.


CÂU 2:
Ý THỨC DO ĐÂU MÀ CÓ? BẢN CHẤT CỦA Ý THỨC?
Trong lòch sử triết học, vấn đề nguồn gốc, bản chất và vai trò
của ý thức là trung tâm của cuộc đấu tranh giữa CNDV và
CNDT. Trên cơ sở những thành tựu của triết học duy vật, của
khoa học, của thực tiễn xã hội, triết học Mác-Lênin góp phần
làm sáng tỏ vấn đề trên đây.
I. NGUỒN GỐC CỦA Ý THỨC
1. Nguồn gốc tự nhiên:
Dựa trên cơ sở những thành tựu của khoa học tự nhiên, nhất là
sinh lý học thần kinh, CNDV biện chứng cho rằng ý thức không
phải có nguồn gốc siêu tự nhiên, không phải ý thức sản sinh
ra vật chất như các nhà thần học và duy tâm khách quan đã
khẳng đònh mà ý thức là một thuộc tính của vật chất, nhưng
không phải là của mọi dạng vật chất mà chỉ là thuộc tính
của một dạng vật chất có tổ chức cao là bộ óc con người.
Bộ óc của con người là cơ quan vật chất của ý thức, ý thức
là chức năng của bộ óc con người, ý thức phụ thuộc vào hoạt
động bộ óc người. Do đó khi bộ óc bò tổn thương thì hoạt động
của ý thức sẽ không bình thường. Vì vậy kh6ng thể tách rời ý
thức khỏi hoạt động của bộ óc. Ý thức không thể diễn ra,
tách rời hoạt động sinh lý thần kinh của bộ óc người.
Con người là sản phẩm cao nhất của quá trình phát triển từ
thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, và bộ óc con người
LÊ HUỲNH TẤN DUY

6



BÀI SOẠN TRIẾT HỌC

là một dạng vật chất có tổ chức, cấu trúc đặc biệt tinh vi,
phức tạp... Quá trình ý thức và quá trình sinh lý trong bộ óc con
người không đồng nhất, không tách rời, không song song mà là
hai mặt của một quá trình sinh lý thần kinh mang nội dung ý
thức.
Khi khoa học kỹ thuật tạo ra những máy móc thay thế cho một
phần lao động trí óc của con người thì không có nghóa là máy
móc có ý thức như con người. Máy móc là một kết cấu kỹ
thuật còn con người là một thực thể xã hội. Máy móc không
thể thay thế cho hoạt động trí tuệ của con người, không thể
sáng tạo lại hiện thực dưới dạng tinh thần trong bản thân nó như
con người. Do đó, chỉ có con người với bộ óc của nó mới có
ý thức.
Nhưng tại sao bộ óc con người, một tổ chức vật chất cao lại có
thể sinh ra được ý thức? Để trả lời cho câu hỏi này, chúng ta
phải nghiên cứu mối liên hệ vật chất giữa bộ óc với thế
giới khách quan. Chính mối liên hệ vật chất ấy đã hình thành
nên quá trình phản ánh thế giới vật chất vào óc người.
Phản ánh là một thuộc tính phổ biến trong mọi dạng vật chất.
Phản ánh là sự tái tạo những đặc điểm của một hệ thống
vật chất này ở hệ thống vật chất khác trong quá trình tác
động qua lại của chúng. Kết quả của sự phản ánh phụ thuộc
vào cả hai vật (vật tác động và vật nhận tác động). Trong
quá trình ấy, vật nhận tác động bao giờ cũng mang thông tin
của vật tác động. Đây là điều quan trọng để làm sáng tỏ
nguồn gốc tự nhiên của ý thức.
Ý thức là hình thức cao nhất của sự phản ánh thế giới hiện
thực. Ý thức chỉ nảy sinh ở giai đoạn phát triển cao của thế

giới vật chất cùng với sự xuất hiện con người. Ý thức là ý
thức con người, nằm trong con người, không thể tách rời con
người. Ý thức bắt nguồn từ một thuộc tính của vật chất –
thuộc tính phản ánh – phát triển thành. Nội dung của ý thức là
thông tin về thế giới bên ngoài, về vật được phản ánh. Ý
thức là sự phản ánh thế giới bên ngoài vào đầu óc con
người. bộ óc người là cơ quan phản ánh song chỉ có riêng bộ
óc thôi thì chưa thể có ý thức. Không có sự tác động của thế
giới bên ngoài lên các giác quan và qua đó đến bộ óc thì hoạt
động ý thức không thể xảy ra.
LÊ HUỲNH TẤN DUY

7


BÀI SOẠN TRIẾT HỌC

Như vậy, bộ óc người (cơ quan phản ánh về thế giới vật chất
xung quanh) cùng với thế giới bên ngoài tác động lên bộ óc
đó là nguồn gốc tự nhiên của ý thức.
2. Nguồn gốc xã hội:
Để cho ý thức ra đời, ngoài nguồn gốc tự nhiên thì cần phải
có một điều kiện không thể thiếu nữa đó là những tiền đề,
nguồn gốc xã hội. Ý thức ra đời cùng với quá trình hình thành
bộ óc con người nhờ lao động, ngôn ngữ và những QHXH.
Lao động theo Mác, là một quá trình diễn biến giữa người và tự
nhiên, trong đó bản thân con người đóng vai trò môi giới, điều
tiết và giám sát trong sự trao đổi vật chất giữa người và tự
nhiên. Lao động là điều kiện đầu tiên và chủ yếu để con
người tồn tại. Lao động cung cấp cho con người những phương tiện

cần thiết để sống, đồng thời lao động sáng tạo ra cả bản thân
con người. Nhờ có lao động, con người tách ra khỏi giới động
vật. Chính thông qua hoạt động lao động nhằm cải tạo thế giới
khách quan mà con người mới có thể phản ánh được thế giới
khách quan, mới có ý thức về thế giới đó.
Ý thức với tư cách là hoạt động sáng tạo không thể có được
ở bên ngoài quá trình con người lao động làm biến đổi thế giới
xung quanh. Vì thế có thể nói rằng, lao động tạo ra ý thức tư
tưởng hoặc nguồn gốc cơ bản của ý thức tư tưởng là sự phản
ánh thế giới khách quan vào đầu óc con người trong quá trình
lao động của con người.
Lao động không xuất hiện ở trạng thái đơn nhất, ngay từ đầu
nó đã mang tính tập thể xã hội. Vì vậy, nhu cầu trao đổi kinh
nghiệm và tư tưởng cho nhau xuất hiện. Chính nhu cầu đó đòi
hỏi xuất hiện ngôn ngữ.
Ngôn ngữ do nhu cầu của lao động và nhờ lao động mà hình
thành. Ngôn ngữ là hệ thống tín hiệu vật chất mang nội dung
ý thức. Không có ngôn ngữ thì ý thức không thể tồn tại và
thể hiện được. Ngôn ngữ vừa là phương tiện giao tiếp trong xã
hội vừa là công cụ của tư duy nhằm khái quát hóa, trừu tượng
hóa hiện thực. Nhờ ngôn ngữ mà con người tổng kết được thực
tiễn, trao đổi thông itn, trao đổi tri thức từ thế hệ này sang thế
hệ khác.
Ý thức không phải thuần túy là hiện tượng cá nhân mà là
một hiện tượng xã hội, do đó không có phương tiện trao đổi xã
LÊ HUỲNH TẤN DUY

8



BÀI SOẠN TRIẾT HỌC

hội về mặt ngôn ngữ thì ý thức không thể hình thành và phát
triển được.
Tóm lại, nguồn gốc trực tiếp và quan trọng nhất quyết đinh sự ra
đời và phát triển của ý thức là lao động, là thực tiễn xã hội.
Ý thức phản ánh hiện thực khách quan vào bộ óc con người
thông qua lao động, ngôn ngữ và các QHXH. Ý thức là sản
phẩm xã hội, là một hiện tượng xã hội.
II. BẢN CHẤT CỦA Ý THỨC:
CNDVBC dựa trên cơ sở lý luận phản ánh coi ý thức là sự phản
ánh hiện thực khách quan vào trong bộ óc con người một cách
năng động, sáng tạo.
Ý thức cũng như vật chất đều là “hiện thực” nghóa là đều
tồn tại. Nhưng giữa chúng có sự khác nhau mang tính đối lập. Ý
thức là sự phản ánh, là cái phản ánh, còn vật chất là cái
được phản ánh. Vật chất tồn tại khách quan và độc lập với ý
thức, còn ý thức là hiện thực chủ quan, là hình ảnh tinh thần
của sự vật khách quan, lấy cái khách quan làm tiền đề, bò cái
khách quan quy đònh, không có tính vật chất. Vì vậy không thể
tách rời vật chất với ý thức.
Khi nói ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan,
thì đó không phải là hình ảnh vật lý hay hình ảnh tâm lý động
vật về sự vật, mà đó chính là ý thức của con người. Con người
là một thực thể xã hội năng động, sáng tạo. Ý thức lại ra đời
trong quá trình con người hoạt động cải tạo thế giới, cho nên ý
thức cũng mang tính năng động, sáng tạo lại hiện thực theo nhu
cầu thực tiễn xã hội.
Tính sáng tạo của ý thức thể hiện rất phong phú. Trên cơ sở
những cái đã có trước, ý thức có khả năng tạo ra tri thức

mới về sự vật, có thể tưởng tượng ra cái không có trong thực
tế, có thể tiên đoán, dự báo tương lai, có thể tạo ra những giả
thuyết khoa học hết sức trừu tượng và khái quát cao… Những
khả năng ấy càng nói lên tính chất phức tạp và phong phú
của đời sống tâm lý – ý thức ở con người mà khoa học còn
phải tiếp tục đi sâu nghiên cứu để làm sáng tỏ bản chất của
những hiện tượng ấy.
Ý thức ra đời trong quá trình con người hoạt động cải tạo thế
giới, cho nên quá trình phản ánh hiện thực khách quan vào bộ
LÊ HUỲNH TẤN DUY

9


BÀI SOẠN TRIẾT HỌC

óc con người là quá trình năng động, sáng tạo thống nhất ba
mặt sau:
- Một là, trao đổi thông tin giữa chủ thể và đối tượng phản
ánh. Sự trao đổi này mang tính chất hai chiều, có đònh hướng, có
chọn lọc các thông tin cần thiết.
- Hai là, mô hình hóa đối tượng trong tư duy dưới dạng hình ảnh
tinh thần. Thực chất đây là quá trình “sáng tạo lại” hiện thực
của ý thức theo nghóa mã hóa các đối tượng vật chất thành
các ý tưởng tinh thần phi vật chất.
- Ba là, chuyển mô hình từ tư duy ra hiện thực khách quan, tức
quá trình hiện thực hóa tư tưởng, thông qua hoạt động thực tiễn
biến cái quan niệm thành cái thực tại, biến các ý tưởng phi
vật chất trong tư duy thành các dạng vật chất ngoài hiện thực.
Tính sáng tạo của ý thức không có nghóa là ý thức đẻ ra vật

chấ. Sáng tạo của ý thức là sáng tạo sủa sự phản ánh, theo
quy luật và trong khuôn khổ của sự phản ánh mà kết quả bao
giờ cũng là những khách thể tinh thần.
Sáng tạo và phản ánh là hai mặt thuộc bản chất của ý
thức. thức là sự phản ánh và chính thực tiễn xã hội của con
người tạo ra sự phản ánh phức tạp, năng động, sáng tạo của
bộ óc.
Ý thức là một hiện tượng xã hội, sự ra đời, tồn tại của ý
thức gắn liền với hoạt động thực tiễn lòch sử, chòu sự chi phối
không chỉ của các quy luật sinh học mà chủ yếu là của quy
luật xã hội, do nhu cầu giao tiếp xã hội và các điều kiện sinh
hoạt hiện thực của con người quy đònh. Ý thức mang bản chất
xã hội.
III. KẾT CẤU CỦA Ý THỨC
Tình cảm. (thể hiện trong các mối quan hệ)
Ý chí. (mục đích)
Tri thức. (cái phản ánh thế giới khách quan, là phương
thức tồn tại của ý thức)
Tự ý thức. (điều chỉnh hoạt động của mình)
Vô thức.

LÊ HUỲNH TẤN DUY

10


BÀI SOẠN TRIẾT HỌC

CÂU 3:
TRÌNH BÀY QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA DUY VẬT BIỆN

CHỨNG VỀ QUAN HỆ GIỮA VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC.
NHỮNG NGUYÊN TẮC PHƯƠNG PHÁP LUẬN ĐƯC RÚT RA
TỪ MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG ĐÓ?
I. MỐI QUAN HỆ GIỮA VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC
Chúng ta biết rằng vấn đề cơ bản, quan trọng nhất của triết
học đó là tìm cách giải quyết thỏa đáng mối quan hệ biện
chứng giữa hai phạm trù vật chất và ý thức, nhằm vạch ra
những đònh hướng cơ bản để giải quyết các vấn đề khác của
triết học. Đây cũng chính là nội dung chính của cuộc đấu tranh
không khoan nhượng giữa CNDV và CNDT trong lòch sử triết học cho
đến ngày hôm nay.
Theo quan điểm của CNDT, thì thực thể của thế giới, cơ sở của
mọi tồn tại là một bản nguyên tinh thần nào đó. Hay nói cách
khác, họ cho rằng trong mối quan hệ giữa vật chất và ý thức
thì ý thức là yếu tố sản sinh ra vật chất và quyết đònh vật
chất.
Các quan điểm của CNDV trước Mác mặc dù đã thấy được vai
trò quyết đònh của vật chất đối với ý thức, nhưng không thấy
được sự tác động trở lại của ý thức đối với vật chất. Và do
vậy, những nhà duy vật cổ đại đã không thể giải quyết một
cách toàn diện mối quan hệ giữa hai phạm trù triết học này.
Trên cơ sở kế thừa và phát triển quan điểm của Mác, Ăngghen
về vật chất, khắc phục những hạn chế của CNDV máy móc,
siêu hình lẫn CNDT, Lênin đã nêu lên đònh nghóa về vật chất
với nội dung như sau: “Vật chất là một phạm trù triết học
dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con
người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép
lại, chụp lại, phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào
cảm giác”.
Với những nội dung cơ bản như trên, phạm trù vật chất trong

đònh nghóa của Lênin có nhiều ý nghóa to lớn. Đònh nghóa này
đã khắc phục được những hạn chế của chủ nghóa duy vật trước
Mác về vật chất, nó giúp phân biệt giữa vật chất và vật
thể, chỉ rõ vật thể là biểu hiện của vật chất. Quan điểm này
đã góp phần chống lại các quan điểm duy tâm và giải quyết
LÊ HUỲNH TẤN DUY

11


BÀI SOẠN TRIẾT HỌC

đúng đắn vấn đề cơ bản của triết học trên lập trường duy vật
biện chứng, đó là vật chất là cái có trước và quyết đònh ý
thức, ý thức phản ánh vật chất một cách chủ động, sáng
tạo. Đònh nghóa này đã mở đường, đònh hướng cho các ngành
khoa học cụ thể phát triển trong việc tiếp tục tìm kiếm các dạng
hoặc các hình thức mới của vật thể trong thế giới. Khi nhận
thức các hiện tượng thuộc đời sống xã hội, đònh nghóa vật
chất của Lênin đã cho phép xác đònh cái gì là vật chất trong
lónh vực xã hội. Từ đó giúp các nhà khoa học có cơ sở lý luận
để giải thích những nguyên nhân cuối cùng của các biến cố
xã hội, những nguyên nhân thuộc về sự vận động của phương
thức xản xuất. Trên cơ sở ấy, người ta có thể tìm ra các phương
án tối ưu để hoạt động thúc đẩy xã hội phát triển.
Về phạm trù ý thức: đó là thuộc tính của một dạng vật
chất có tổ chức cao là bộ não người (nguồn gốc tự nhiên) và
là một sản phẩm của xã hội, là một hiện tượng xã hội
(nguồn gốc xã hội). Xét về bản chất thì ý thức là là sự phản
ánh thế giới xung quanh lên bộ não người, là hình ảnh chủ

quan của thế giới khách quan.
Trước khi tìm hiểu, phân tích về mối quan hệ giữa vật chất và
ý thức, chúng ta cần phải khẳng đònh việc đem đối lập vật
chất và ý thức chỉ nhằm giải quyết vấn đề nhận thức luận,
vấn đề cơ bản của triết học, ngoài điều đó ra mọi sự đối lập
đều trở nên vô nghóa. Bởi vì bản thân hoạt động của con
người là sự hoạt động có ý thức, do đó mọi sự chia tách siêu
hình đều không thể hiện được sự thống nhất này.
Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức thể hiện trên hai
nội dung sau:
- Thứ nhất, vật chất là cái có trước, ý thức là cái có
sau; vật chất là nguồn gốc của ý thức; quyết đònh ý
thức.
+ Vật chất là cái có trước, ý thức là cái có sau bởi vì: ý
thức là ý thức của con người, mà con người chỉ xuất hiện lần
đầu tiên cách đây khoảng bốn triệu năm, trong khi đó thế giới
vật chất đã tồn tại trước khi có loài người xuất hiện. Do đó,
về mặt khoa học đã chứng minh rất rõ vật chất là cái có
trước ý thức.

LÊ HUỲNH TẤN DUY

12


BÀI SOẠN TRIẾT HỌC

+ Vật chất là nguồn gốc của ý thức bởi vì: xét về nguồn gốc
tự nhiên của ý thức thì đó là bộ não người đang hoạt động và
thế giới khách quan tác động vào các giác quan của con người.

Còn về nguồn gốc xã hội của ý thức thì đó là lao động và
ngôn ngữ. Chúng ta thấy rõ rằng cả bốn yếu tố tạo thành
nguồn gốc của ý thức đều thuộc về phạm trù vật chất, vì
chúng tồn tại khách quan và đều là những dạng vật chất cụ
thể. Do đó, chúng ta có thể kết luận vật chất chính là nguồn
gốc của ý thức.
+ Vật chất quyết đònh ý thức: tức là vật chất quyết đònh nội
dung, hình thức biểu hiện của ý thức, khi vật chất thay đổi thì ý
thức cũng phải thay đổi theo. Bởi vì ý thức chỉ là hình ảnh của
thế giới vật chất khách quan, mọi tâm tư, tình cảm,… của con
người có được là do những cái bên ngoài tác động vào các
giác quan của con người.
- Thứ hai, ý thức có thể tác động trở lại vật chất
thông qua hoạt động của con người.
Tuy nhiên, bên cạnh việc khẳng đònh tính có trước và quyết đònh
của vật chất đối với ý thức, CNDV cũng đồng thời vạch rõ sự
tác động trở lại của ý thức đối với vật chất. Ý thức do vật
chất sinh ra và quyết đònh, song sau khi ra đời, ý thức có tính độc
lập tương đối nên có sự tác động trở lại to lớn đối với vật
chất thông qua hoạt động thực tiễn của con người. CNDV đã chỉ ra
tính độc lập tương đối và vai trò của ý thức trong hoạt động của con người,
hoạt động xã hội, làm biến đổi tự nhiên và biến đổi chính mình.
Nói vai trò của ý thức là nói tới vai trò của con người vì chỉ có con người
mới có ý thức. Bản thân ý thức tự nó không trực tiếp làm thay đổi được
gì trong hiện thực. Nhưng ý thức chỉ đạo hoạt động của con người và nhờ
đó mà thế giới vật chất mới được cải tạo.
Ví dụ: mọi đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng phải được truyền bá
vào quần chúng để đònh hướng cho họ hoạt động.
Sự tác động của ý thức đối với vật chất phải thông qua hoạt động của
con người bắt đầu từ khâu nhận thức quy luật khách quan, vận dụng đúng

đắn những quy luật ấy và phải có ý chí, phương pháp để tổ chức hành
động. Vai trò của ý thức thể hiện ở chỗ trang bò cho con người những tri
thức về bản chất quy luật khách quan của đồi tượng. Trên cơ sở ấy, con
người có thể xác đònh đúng đắn mục tiêu và đề ra phương hướng hoạt
động phù hợp, cũng như trong việc xác đònh các biện pháp để tổ chức
thực hiện các hoạt động thực tiễn. Cuối cùng, bằng nỗ lực và ý chí mạnh
mẽ của mình, con người có thể thực hiện được mục tiêu đề ra.

LÊ HUỲNH TẤN DUY

13


BÀI SOẠN TRIẾT HỌC

Ý thức, tư tưởng có thể quyết đònh làm cho con người hoạt động đúng đắn
và thành công, mở đường cho thực tiễn khi phản ánh đúng thế giới khách
quan. Ngược lại, nó cũng có thể làm cho con người hoạt động sai và thất bại
khi phản ánh sai thế giới khách quan, mà nguyên nhân là do trình độ nhận
thức kém đẫn đến lý luận sai, phương pháp sai hoặc có trường hợp là vì lợi
ích của chủ thể nhận thức mà đôi khi họ xuyên tạc hiện thực.
Vì vậy phải phát huy tính năng động sáng tạo của ý thức, phát huy vai trò
nhân tố con người để tác động cải tạo thế giới khách quan, đồng thời
phải khắc phục bệnh bảo thủ, trì trệ, thái độ tiêu cực, thụ động, ỷ lại
trong quá trình đổi mới hiện nay.
II. Ý NGHĨA PHƯƠNG PHÁP LUẬN
Việc nhận thức mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức mang lại
một số ý nghóa quan trọng sau:
- Thứ nhất, nếu vật chất là cái có trước, ý thức là cái có sau;
vật chất là nguồn gốc của ý thức; quyết đònh ý thức, thì:

+ Trong hoạt động của mình con người phải tôn trong nguyên tắc
khách quan, tức là tôn trọng vai trò quyết đònh của vật chất.
Điều này được thể hiện là mọi vấn đề trong xã hội đều phải xuất phát
từ hiện thực, phải căn cứ vào nhân tố vật chất, hoàn cảnh, điều kiện
vật chất…
Cơ sở để phát huy tính năng động của ý thức là việc thừa nhận và tôn
trọng tính khách quan của vật chất, của các quy luật tự nhiên và xã hội.
Nếu như thế giới vật chất với những thuộc tính và quy luật của nó tồn tại
khách quan thì trong nhận thức và hoạt động thực tiễn phải xuất phát từ
thực tế khách quan, lấy thực tế khách quan làm căn cứ cho mọi hoạt động
của mình, không được lấy ý muốn chủ quan của mình làm chính sách, không
được lấy tình cảm làm điểm xuất phát cho chiến lược và chính sách cách
mạng. Nếu chỉ xuất phát từ ý muốn chủ quan, nếu lấy ý chí áp đặt cho
thực tế, lấy ảo tưởng thay cho hiện thực thì sẽ mắc phải bệnh duy ý chí.
Ví dụ: khi con người đề ra đường lối, chủ trương, chính sách hoặc mục đích cho
mình thì không được thuần túy xuất phát từ ý muốn chủ quan mà phải
xuất phát từ cuộc sống hiện thực, có như vậy mới có khả năng thực hiện
trên thực tế. Tuy nhiên, điều này rất khó đạt được, mà sự sai lầm của
ĐCSVN là một minh chứng, thể hiện qua bệnh chủ quan, duy ý chí đã từng
tồn tại trong một thời kỳ lòch sử; cũng như ngay sau khi giành được chính
quyền, chúng ta đã vội vàng thực hiện việc công hữu hóa mọi thành phần
kinh tế, điều đó là một sai lầm và chúng ta đã phải trả giá. Nguyên
nhân của sai lầm này là do chúng ta không căn cứ vào tình hình thực tế
của đất nước trong thời kỳ này, nhất là trên lónh vực kinh tế.
+ Muốn giải thích những hiện tượng về tinh thần phải xuất phát
từ đời sống vật chất của chính nó.
Ví dụ: đời sống vật chất của nhân dân ba miền ở Việt Nam là khác nhau,
điều đó chi phối sự hình thành, phát triển nhân cách, quan niệm, quan điểm
sống… của mỗi người dân ở ba miền Bắc, Trung, Nam là không giống nhau.
- Thứ hai, nếu ý thức có thể tác động trở lại vật chất thông qua

hoạt động của con người thì:
LÊ HUỲNH TẤN DUY

14


BÀI SOẠN TRIẾT HỌC

Trong đời sống xã hội của mình, con người phải phát huy tính năng
động, chủ quan tức là phát huy vai trò của ý thức để nó có thể
tác động trở lại vật chất theo hướng tích cực. Phải bồi dưỡng,
phát huy ý kiến cá nhân, phát huy tính năng động, sáng tạo của
ý thức, sự nhạy bén nắm bắt cái mới; phát huy nhân tố con
người.
Ví dụ: con người phải biết tôn trọng tri thức khoa học, làm chủ tri thức khoa
học, biến tri thức khoa học của nhân loại, của các ngành khác thành tri
thức của mình, đó vừa là quyền đồng thời cũng là nghóa vụ của mội cá
nhân. Ngoài ra, chúng ta cũng cần phải tìm mọi cách để truyền bá tri thức
khoa học vào quần chúng để đònh hướng cho họ hành động, tạo nên sức
mạnh toàn dân.
- Thứ ba, khắc phục chủ nghóa duy tâm, chủ nghóa giáo điều, bảo
thủ; khắc phục cả những biểu hiện của chủ nghóa duy kinh tế, xem
kinh tế là nhân tố duy nhất, xem thường các nhân tố tinh thần
trong đời sống xã hội.
Thực tế ở Việt Nam là một minh chứng sinh động cho các vấn đề trên. Bên
cạnh những thành tựu đã đạt được trong quá trình xây dựng CNXH, Đảng ta
đã phạm sai lầm chủ quan duy ý chí, vi phạm quy luật khách quan trong việc
xác đònh mục tiêu, bước đi về xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật cải tạo
XHCN và quản lý kinh tế… Vì vậy từ lý luận của chủ nghóa Mác-Lênin và
từ những kinh nghiệm trong quá trình lãnh đạo, Đại hội Đảng lần thứ VII đã

rút ra bài học quan trọng là: “Mọi đường lối, chủ trương chính sách của Đảng
phải xuất phát từ thực tế, tôn trọng quy luật khách quan”.
Đất nước ta đang bước vào thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Đảng ta
chủ trương “lấy việc phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự
phát triển nhanh và bền vững”, muốn vậy “phải khơi dậy trong nhân dân
lòng yêu nước, ý chí quất cường, phát huy tài trí của người Việt Nam,
quyết tâm đưa nước nhà ra khỏi nghèo nàn, lạc hậu”.
CÂU 4:
TRÌNH BÀY HAI NGUYÊN LÝ PHỔ BIẾN CỦA PHÉP BIỆN CHỨNG DUY
VẬT. NGUYÊN TẮC PHƯƠNG PHÁP LUẬN RÚT RA TỪ HAI NGUYÊN LÝ
ĐÓ?
Phép biện chứng duy vật được xây dựng trên cơ sở một hệ thống những
nguyên lý, những phạm trù cơ bản, những quy luật phổ biến phản ánh
đúng đắn hiện thực. Trong hệ thống đó, nguyên lý về mối liên hệ phhổ
biến và nguyên lý về sự phát triển là hai nguyên lý khái quát nhất. Vì
thế Ăngghen đã đònh nghóa: “Phép biện chứng chẳng qua chỉ là môn
khoa học về những quy luật phổ biến của sự vận động và sự phát
triển của tự nhiên, của xã hội loài người và của tư duy”.
I. NGUYÊN LÝ VỀ MỐI LIÊN HỆ PHỔ BIẾN
1. Căn cứ khoa học:
Chủ nghóa duy bật biện chứng khẳng đònh tính thống nhất vật chất của thế
giới là cơ sở của mối liên hệ giữa các sự vật, hiện tượng. Các sự vật,
LÊ HUỲNH TẤN DUY

15


BÀI SOẠN TRIẾT HỌC

hiện tượng tạo thành thế giới, dù có đa dạng, phong phú, có khác nhau bao

nhiêu song chúng đều là những dạng khác nhau của một thế giới duy nhất,
thống nhất – thế giới vật chất. Nhờ có tính thống nhất đó, chúng không
thể tồn tại biệt lập, tách rời nhau mà tồn tại trong sự tác động qua lại,
chuyển hóa lẫn nhau theo những quan hệ xác đònh. Chính trên cơ sở đó,
triết học biện chứng đã đưa ra nguyên lý về mối liên hệ phổ biến.
Trước khi tìm hiểu, phân tích nguyên lý này, chúng ta cần phải làm rõ khái
niệm mối liên hệ. Mối liên hệ là phạm trù triết học dùng để chỉ
sự quy đònh, sự tác động qua lại, cự chuyển hóa lẫn nhau giữa các
sự vật, hiện tượng hay giữa các mặt của một sự vật, của một
hiện tượng trong thế giới.
Cũng cần thiết phải phân biệt giữa liên hệ với quan hệ. Quan hệ chỉ là
cái thoáng qua, không phải là bắt buộc. Còn liên hệ thì mang ý nghóa sâu
hơn, nó chi phối sức mạnh của sự vật.
2. Nội dung của nguyên lý này thể hiện chủ yếu như sau:
Trong thế giới vật chất có vô vàn những mối liên hệ và chúng diễn ra
trong một khoảng không gian, thời gian nhất đònh. Mối liên hệ của các sự
vật hiện tượng mang những thuộc tính như: tính khách quan; tính phổ biến và
tính phong phú, đa dạng. Nguyên nhân tạo nên những thuộc tính này của
mối liên hệ là do thế giới vật chất tồn tại một cách khách quan, là một
thể thống nhất và thế giới này cũng rất đa dạng, phong phú.
- Thứ nhất, mối liên hệ là khách quan, là vốn đó của mọi sự vật,
hiện tượng. Ngay cả những vật vô tri, vô giác cũng đang hàng ngày, hàng
giờ chòu sự tác động của các sự vật, hiện tượng khác như: ánh sáng, nhiệt
độ, độ ẩm… Con người, một sinh vật phát triển cao nhất trong tự nhiên, dù
muốn hay không cũng luôn bò tác động bởi các sự vật, hiện tượng khác
và các yếu tố ngay trong chính bản thân. Ngoài sự tác động của tự nhiên
như các sự vật khác, con người còn tiếp nhận sự tác động của xã hội,
của vô vàn những mối liên hệ chằn chòt. Vấn đề là con người phải hiểu
biết các mối liên hệ, vận dụng chúng vào hoạt động của mình để giải
quyết các mối liên hệ phù hợp nhằm phục vụ nhu cầu, lợi ích của bản

thân con người và của xã hội.
- Thứ hai, mối liên hệ mang tính phổ biến, thể hiện:
+ Bất cứ sự vật, hiện tượng nào cũng liên hệ với sự vật, hiện tượng khác.
Không có sự vật, hiện tượng nào nằm ngoài mối quan hệ. Điều này được
chứng minh một cách sinh động thông qua sự xuất hiện của xu hướng toàn
cầu hóa, khu vực hóa mọi mặt của đời sống xã hội trên thế giới. Trong
thời đại ngày nay, không một quốc gia nào không có những mối quan hệ,
liên hệ với các quốc gia khác trên một số lónh vực của đời sống xã hội.
Còn nếu xét về khía cạnh không gian và thời gian, tính phổ biến thể hiện
ở bất kỳ nơi đâu và bất cứ lúc nào cũng tồn tại những mối liên hệ
giữa các sự vật, hiện tượng, giữa các mặt trong bản thân một sự vật,
hiện tượng với nhau.
+ Mối liên hệ biểu hiện dưới những hình thức riêng biệt, cụ thể tùy theo
điều kiện nhất đònh. Song dù dưới hình thức nào, chúng cũng chỉ là biểu
hiện của mối liên hệ phổ biến nhất, chung nhất, và phép biện chứng duy
LÊ HUỲNH TẤN DUY

16


BÀI SOẠN TRIẾT HỌC

vật chỉ nghiên cứu những mối liên hệ chung nhất, bao quát nhất của thế
giới mà thôi.
Nghiên cứu mối liên hệ của các sự vật, hiện tượng trong thế giới còn cho
thấy rõ tính đa đạng, phong phú của nó. Dựa vào tính đa dạng đó, người ta
phân chia các mối liên hệ thành những cặp khác nhau như: mối liên hệ
bên trong và mối liên hệ bên ngoài, mối liên hệ chủ yếu và mối liên
hệ thứ yếu, mối liên hệ bản chất và mối liên hệ không bản chất, mối
liên hệ tất nhiên và mối liên hệ ngẫu nhiên…

- Thứ ba, mối liên hệ mang tính đa dạng, phong phú.
Tính đa dạng, phong phú của mối liên hệ thể hiện ở chỗ giữa các sự vật
khác nhau, trong những không gian và thời gian khác nhau thì mối liên hệ
giữa chúng cũng sẽ khác nhau.
Chính tính đa dạng trong quá trình tồn tại, vận động và phát triển của bản
thân sự vật và hiện tượng quy đònh tính đa dạng của mối liên hệ. Đo đó,
trong một sự vật, có thể bao gồm rất nhiều loại mối liên hệ, chứ không
phải chỉ có một cặp mối liên hệ xác đònh.
Mỗi loại mối liên hệ đều có vai trò khác nhau đối với sự vận động và
phát triển của sự vật. Vì dụ: mối liên hệ bên trong là sự tác động qua lại,
sự chuyển hóa lẫn nhau giữa các yếu tố, các thuộc tính, các mặt của một
sự vật. Mối liên hệ này giữ vai trò quyết đònh tới sự tồn tại và phát triển
của sự vật. Mối liên hệ bên ngoài là mối liên hệ giữa các sự vật, hiện
tượng. Mối liên hệ này nói chung không giữ vai trò quyết đònh đối với sự
tồn tại, sự vận động và sự phát triển của sự vật. Nó thường phải thông
qua mối liên hệ bên trong mới có thể tác động đối với sự tồn tại, vận
động và phát triển của sự vật.
Các cặp mối liên hệ khác cũng có quan hệ biện chứng giống như mối
quan hệ biện chứng của cặp mối liên hệ nêu trên. Đương nhiên mỗi cặp
mối liên hệ có những đặc trưng riêng. Trong các cặp mối liên hệ đó nói
chung mối liên hệ bản chất, mối liên hệ tất nhiên, mối liên hệ chủ
yếu… giữ vai trò quyết đònh. Song tùy theo những điều kiện, hoàn cảnh cụ
thể các mối liên hệ tương ứng với chúng có thể giữa vai trò quyết đònh.
Nói cách khác, vai trò quyết đònh của mối liên hệ trong từng cặp phụ
thuộc vào quan hệ hiện thực xác đònh.
Sự phân chia từng cặp mối liên hệ như vậy chỉ có ý nghóa tương đối bởi vì
mỗi loại mối liên hệ chỉ là một hình thức, một bộ phận, một mắt xích
của mối liên hệ phổ biến. Mỗi loại mối liên hệ có thể chuyển hóa lẫn
nhau tùy theo phạm vi bao quát của mối liên hệ hoặc do kết quả vận động
và phát triển của chính các sự vật. Ví dụ khi xem xét các doanh nghiệp tồn

tại với tư cách là các đơn vò độc lập thì mối liên hệ giữa chúng là mối
liên hệ bên ngoài. Trong quá trình vận động và phát triển của mình các
doanh nghiệp kết hợp với nhau thành tổng công ty, thì mối liên hệ giữa các
doanh nghiệp lại trở thành mối liên hệ bên trong.
Tuy sự phân chia có tính tương đối nhưng lại rất cần thiết bởi vì mỗi loại mối
liên hệ có vò trí và vai trò xác đònh trong sự vận động và phát triển của
sự vật. Con người phải nắm bắt đúng các mối liên hệ đó để có cách

LÊ HUỲNH TẤN DUY

17


BÀI SOẠN TRIẾT HỌC

tác động phù hợp nhằm mang lại hiệu quả cao nhất trong hoạt động của
mình.
3. Ý nghóa:
Khi nhận thức về sự vật, hiện tượng chúng ta phải có quan điểm toàn diện,
tức phải xem xét rất nhiều mối liên hệ tác động vào sự vật đó, nhưng
đồng thời phải chỉ ra được đâu là mối liên hệ cơ bản nhất, mối liên hệ
bên trong chi phối sự tồn tại, phát triển của sự vật đó.
Quan điểm này khác với quan điểm xem xét một cách dàn trải, chung chung,
đại khái và đối lập với quan điểm xem xét phiến diện, chỉ xét sự vật,
hiện tượng trong một mối liên hệ đã vội vàng kết luận về bản chất hay
về tính quy luật của chúng.
Quan điểm toàn diện đòi hỏi chúng ta nhận thức về sự vật trong mối liên
hệ qua lại giữa các bộ phận, các yếu tố, các mặt của chính sự vật và
trong sự tác động qua lại giữa sự vật đó với sự vật khác, kể cả mối liên
hệ trực tiếp và mối liên hệ gián tiếp. Bởi vì chỉ trên cơ sở đó mới có

thể nhận thức đúng về sự vật. Càng hiểu được nhiều mối liên hệ, con
người càng ít phạm sai lầm.
Đồng thời quan điểm toàn diện đòi hỏi chúng ta phải biết phân biệt
từng mối liên hệ, phải chú ý tới mối liên hệ bên trong, mối liên hệ bản
chất, mối liên hệ chủ yếu, mối liên hệ tất nhiên,… để hiểu rõ bản chất
của sự vật và có phương pháp tác động phù hợp nhằm đem lại hiệu quả
cao nhất trong hoạt động của bản thân. Đương nhiên trong nhận thức và
hành động, chúng ta cũng cần lưu ý tới sự chuyển hóa lẫn nhau giữa các
mối liên hệ ở những điều kiện nhất đònh.
Trong hoạt động thực tế, theo quan điểm toàn diện, khi tác động vào sự
vật, chúng ta không những phải chú ý tới những mối liên hệ nội tại của
nó mà còn phải chú ý tới những mối liên hệ của sự vật ấy với các sự
vật khác. Đồng thời chúng ta phải biết sử dụng đồng bộ các biện pháp,
các phương tiện khác nhau để tác động nhằm đem lại hiệu quả cao nhất.
Để thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ,
văn minh”, một mặt, chúng ta phải phát huy nội lực của đất nước ta; mặt
khác phải biết tranh thủ thời cơ, vượt qua thử thách do xu hướng quốc tế
hóa và toàn cầu hóa đưa lại.
Phải tôn trọng quan điểm lòch sử – cụ thể: phải đặt đối tượng vào đúng
không gian, thời gian, mối liên hệ trong quá trình nhận thức và tự nhận
thức.
Chúng ta biết rằng mối liên hệ chi phối sức mạnh của sự vật. Do đó, trong
quá trình hoạt động thực tiễn xây dựng CNXH phải phát huy sức mạnh đại
đoàn kết dân tộc, đúng như lời Chủ tòch Hồ Chí Minh đã nói: “Vũ khí tối
tân không bằng toàn dân đoàn kết”.
II. NGUYÊN LÝ VỀ SỰ PHÁT TRIỂN
1. Cơ sở khoa học:
Thế giới vật chất luôn vận động, vận động là sự biến đổi nói chung và
khuynh hướng tất yếu của vận động là phát triển. Trên cơ sở quan niệm
đó, CNDV biện chứng đã đưa ra nguyên lý về sự phát triển.

2. Nội dung nguyên lý:
LÊ HUỲNH TẤN DUY

18


BÀI SOẠN TRIẾT HỌC

Trước khi tìm hiểu nội dung nguyên lý này, chúng ta cần có một cái nhìn cơ
bản về sự vận động và phát triển. Giữa vận động và phát triển có
những điểm giống và khác nhau cơ bản sau:
Giống nhau: vận động là tự thân vận động, do các mặt đối lập trong cấu
trúc vật chất liên hệ tác động qua lại làm cho sự vật biến đổi. Tương tự
như vậy, phát triển cũng là sự tự phát triển.
Khác nhau:
- Vận động là sự biến đổi nói chung: trong vận động có nhiều hình thức
vận động khác nhau như vận động thẳng đứng, vận động nằm ngang, vận
động song song, vận động véctơ, vận động vòng tròn…
- Phát triển là khuynh hướng tất yếu của vận động mà phát triển không
theo đường thẳng hay vòn tròn khép kín mà nó theo hình xoắn ốc và phát
triển nhất đònh phải làm xuất hiện cái mới, từ thấp đến cao, từ chưa
hoàn thiện đến hoàn thiện, từ đơn giản đến phức tạp. Cái mới bao giờ
cũng từ cái cũ mà ra nhưng khác về chất so với cái cũ. Phát triển là
cuộc đấu tranh của các mặt đối lập, của khuynh hướng vừa kế thừa
những tinh hoa của cái cũ, cải biến để đưa vào cái mới với khuynh hướng
đào thải những cái không còn sức sống.
Tư tưởng cơ bản của nguyên lý: tất cả các sự vật, hiện tượng ở trạng thái
động nằm trong khuynh hướng chung là phát triển. nguồn gốc của sự phát
triển là mâu thuẫn của sự vật; cách thức của sự phát triển là lượng của
sự vật thay đổi dẫn đến chất của sự vật thay đổi; còn khuynh hướng của

sự phát triển không phải diễn ra theo một đường thẳng mà là một đường
quanh co phức tạp được biểu diễn bằng đường xoắn ốc đi lên, đây là quá
trình phủ đònh của phủ đònh, trong đó cái mới ra đời thay thế cái cũ và
hết mỗi một chu kỳ sự vật lại lặp lại dường như cái ban đầu nhưng ở mức
độ cao hơn.
Quan điểm biện chứng xem xét sự phát triển là một quá trình tiến lên từ
thấp đến cao. Quá trình đó diễn ra vừa dần dần vừa nhảy vọt, đưa tới sự ra
đời của cái mới thay thế cái cũ. Dù trong hiện thực khách quan hay trong tư
duy, sự phát triển diễn ra không phải lúc nào cũng theo đường thẳng, mà
rất quanh co, phức tạp, thậm chí có những bước lùi tạm thời.
Theo quan điểm biện chứng, sự phát triển là kết quả của quá trình thay đổi
dần dần về lượng đẫn đến sự thay đổi về chất, là quá trình diễn ra theo
đường xoáy ốc. Điều đó có nghóa là qua quá trình phát triển dường như sự
vật ấy quay trở về thời điểm khởi đầu, song trên cơ sở mới cao hơn.
Quan điểm DVBC khẳng đònh nguồn gốc của sự phát triển nằm trong bản
thân sự vật, do mâu thuẫn trong chính sự vật quy đònh. Nói cách khác đó là
quá trình giải quyết liên tục mâu thuẫn trong bản thân sự vật. Do đó cũng
là quá trình tự thân của mọi sự vật.
Trên cơ sở khái quát sự phát triển của mọi sự vật, hiện tượng tồn tại trong
hiện thực, CNDVBC khẳng đònh sự phát triển là một phạm trù triết học dùng
để chỉ sự vận động từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ chưa
hoàn thiện đến hoàn thiện hơn của sự vật.
Sự phát triển không bao quát toàn bộ sự vận động mà chỉ khái quát xu
hướng chung của sự vận động – xu hướng vận động đi lên của sự vật, sự
LÊ HUỲNH TẤN DUY

19


BÀI SOẠN TRIẾT HỌC


vật mới ra đời thay thế cho sự vật cũ. Sự phát triển chỉ là một trường hợp
đặc biệt của sự vận động. Trong quá trình phát triển của mình, trong sự vật
sẽ hình thành dần dần những quy đònh mới cao hơn về chất, sẽ làm thay
đổi mối liên hệ, cơ cấu, phương thức tồn tại và vận động, chức năng vốn
có theo chiều hường ngày càng hoàn thiện hơn.
Sự phát triển thể hiện rất khác nhau trong hiện thực, tùy theo hình thức tồn
tại cụ thể của các dạng vật chất. Ví dụ như sự phát triển ở giới vô cơ, giới
hữu cơ sẽ có những biểu hiện khác nhau; sự phát triển của xã hội, của tư
duy, của mỗi con người là không giống nhau.
Như vậy, sự phát triển là hiện tượng diễn ra không ngừng trong tự nhiên,
trong xã hội, trong bản thân con người và trong tư duy. Nếu xem xét từng
trường hợp cá biệt thì có những vận động đi lên, vân động tuần hoàn,
thậm chí có những vận động đi xuống. Song nếu xem xét cả quá trình vận
động với không gian và thời gian dài thì vận động đi lên là khuynh hướng
chung của mọi sự vật.
Sự phát triển có các thuộc tính đó là tính khách quan, tính phổ biến và tính
đa dạng, phong phú.
- Thứ nhất, tính khách quan.
Bởi vì nguồn gốc của sự phát triển nằm ngay trong bản thân sự vật. Đó là
quá trình giải quyết liên tục những mâu thuẫn nẩy sinh trong sự tồn tại và
vận động của sự vật. Vì thế sự phát triển là tiến trình khách quan, không
phụ thuộc vào ý muốn của con người.
- Thứ hai, tính phổ biến.
Tính phổ biến của sự phát triển được hiểu là nó diễn ra trong mọi lónh vực:
tự nhiên, xã hội và tư duy; ở bất cứ sự vật, hiện tượng nào của thế giới
khách quan. Chỉ trên cơ sở của sự phát triển, mọi hình thức của tư duy,
nhất là các khái niệm và các phạm trù, mới có thể phản ánh đúng đắn
hiện thực luôn vận động và phát triển.
- Thứ ba, tính đa dạng, phong phú: Khuynh hướng phát triển là khuynh

hướng chung của mọi sự vật, hiện tượng. Song mỗi sự vật, hiện
tượng lại có quá trình phát triển không giống nhau. Tồn tại ở
không gian, thời gian khác nhau, sự vật phát triển sẽ khác nhau.
Đồng thời trong quá trình phát triển của mình, sự vật còn chòu sự
tác động của các sự vật, hiện tượng khác. Sự tác động đó có
thể thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của sự vật, đôi khi có
thể làm thay đổi chiều hướng phát triển của sự vật, thậm chí làm
cho sự vật thụt lùi. Điều đó càng thể hiện tính đa dạng, phong phú
của sự phát triển của sự vật. Dù sự vật, hiện tượng có thể có
những giai đoạn vận động đi lên như thế này hoặc như thế khác
nhưng xem xét toàn bộ quá trình thì chúng vẫn tuân theo khuynh
hướng chung.
3. Ý nghóa:
Mọi sự vật, hiện tượng đều nằm trong quá trình vận động và phát triển,
nên trong nhận thức và hoạt động của bản thân, chúng ta phải có quan
điểm phát triển, phải tin tưởng vào sự ra đời, sự thắng lợi của cái mới.
Điều đó có nghóa là khi xem xét, đánh giá bất kỳ sự vật, hiện tượng nào
LÊ HUỲNH TẤN DUY

20


BÀI SOẠN TRIẾT HỌC

cũng phải đặt chúng trong trạng thái động nằm trong khuynh hướng chung là
phát triển, phải tìm ra được nguồn gốc, cách thức, khuynh hướng cụ thể của
sự phát triển ấy, vạch ra xu hướng biến đổi, chuyển hóa chúng.
Quan điểm phát triển đòi hỏi không chỉ nắm bắt những cái hiện đang
tồn tại ở sự vật mà còn phải thấy rõ khuynh hướng phát triển trong tương
lai của chúng, phải thấy được những biến đổi đi lên cũng như những biến

đổi có tính chất thụt lùi. Song điều cơ bản là phải khái quát những biến
đổi để vạch ra khuynh hướng biến đổi chính của sự vật.
Xem xét sự vật theo quan điểm phát triển còn phải biết phân chia quá
trình phát triển của sự vật ấy thành những giai đoạn. Trên cơ sở ấy tìm ra
phương pháp nhận thức và cách tác động phù hợp nhằm thúc đẩy sự vật
tiến triển nhanh hơn hoặc kìm hãm sự phát triển của nó.
Quan điểm phát triển góp phần chống lại tư tưởng bảo thủ, trì trệ, đònh
kiến trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn của chúng ta.
Chúng ta cần phải tăng cường phát huy nỗ lực của bản thân trong việc
hiện thức hóa quan điểm phát triển vào nhận thức và cải tạo sự vật
nhằm phục vụ nhu cầu, lợi ích của bản thân và của toàn xã hội.
Với tư cách là những nguyên tắc phương pháp luận, quan điểm toàn diện,
quan điểm lòch - sử cụ thể, quan điểm phát triển góp phần đònh hướng, chỉ
đạo hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn cải tạo hiện thực, cải tạo
chính bản thân chúng ta.
Trong quá trình phát triển của sự vật, ở mỗi một giai đoạn khác nhau, sự
phát triển của sự vật cũng không giống nhau. Vì vậy khi xem xét sự vật,
cần phải có quan điểm lòch sử - cụ thể. Quan điểm lòch sử - cụ thể đòi hỏi
chúng ta khi nhận thức về sự vật và tác động vào sự vật phải chú ý
điều kiện, hoàn cảnh lòch sử - cụ thể, môi trường cụ thể trong đó sự vật
sinh ra, tồn tại và phát triển. Một luận điểm nào đó là luận điểm khoa học
trong điều kiện này, nhưng sẽ không phải là luận điểm khoa học trong điều
kiện khác.
Quan điểm toàn diện và quan điểm lòch sử - cụ thể có mối quan hệ mật
thiết, không tách rời nhau. Toàn diện nhưng phải cụ thể, cụ thể lại phản
ánh sự toàn diện.
Để xác đònh đường lối, chủ trương của từng giai đoạn cách mạng, của từng
thời kỳ xây dựng đất nước, bao giờ Đảng ta cũng phân tích tình hình cụ thể
của đất nước ta cũng như bối cảnh lòch sử quốc tế diễn ra trong từng giai
đoạn và trong từng thời kỳ đó. Dó nhiên, trong khi thực hiện đường lối, chủ

trương, Đảng ta cũng bổ sung và điều chỉnh cho phù hợp với diễn biến của
hoàn cảnh cụ thể.
CÂU 5:
TRÌNH BÀY NỘI DUNG VÀ GIÁ TRỊ PHƯƠNG PHÁP LUẬN CỦA QUY
LUẬT TỪ NHỮNG THAY ĐỔI VỀ LƯNG DẪN ĐẾN NHỮNG THAY ĐỔI
VỀ CHẤT VÀ NGƯC LẠI
I. VỊ TRÍ, VAI TRÒ CỦA QUY LUẬT VÀ MỘT SỐ KHÁI NIỆM CƠ BẢN:

LÊ HUỲNH TẤN DUY

21


BÀI SOẠN TRIẾT HỌC

Quy luật là mối liên hệ bản chất, tất nhiên, phổ biến và lặp lại giữa các
mặt, các yếu tố, các thuộc tính bên trong của mỗi một sự vật, hay giữa
các sự vật, hiện tượng với nhau.
Quy luật xã hội và quy luật tự nhiên có đặc điểm chung là hoàn toàn
khách quan nhưng quy luật tự nhiên thì diễn ra có tính chất tự phát, không
cần con người tác động vào, tồn tại vónh viễn. Trái lại, các quy luật xã hội
phải thông qua hoạt động có ý thức của con người. Mặc dù vậy nó vẫn
mang tính khách quan vì thế hệ đang sống không bao giờ làm lại những gì mà
tiền nhân của họ đã làm, họ chỉ kế thừa những thành quả của thế hệ
trước mà thôi. Đến thế hệ của họ, điều kiện sống lại quy đònh những
nhiệm vụ mới cũng như họ phải tự đặt ra nhiệm vụ cho mình căn cứ vào
hoàn cảnh lòch sử cụ thể.
Vật chất quyết đònh ý thức, hoạt động của con người mang tính năng động,
sáng tạo nhưng vẫn phải tuân thủ những quy luật khách quan về sự phát
triển.

Quy luật lượng chất là một trong ba quy luật cơ bản của phép BCDV
và nó có vò trí, vai trò rất quan trọng giúp ta hiểu rõ hơn nguyên
lý về sự phát triển, cụ thể quy luật này trình bày cách thức của
sự phát triển của các sự vật, hiện tượng trong thế giới vật chất.
Bất kỳ một sự vật, hiện tượng nào cũng là một chỉnh thể thống nhất
giữa lượng và chất. Vì vậy để hiểu được một cách sâu sắc về quy luật
này, trước hết chúng ta cần nắm vững một số khái niệm cơ bản như chất
là gì, lượng là gì.
Chất:
Là phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy đònh khách quan vốn
có của sự vật, là sự thống nhất hữu cơ của những thuộc tính làm
cho sự vật là nó chứ không phải là cái khác.
Mỗi sự vật, hiện tượng trong thế giới đều có những chất vốn có, làm
nên chúng và nhờ đó con người mới có thể phân biệt sự vật, hiện tượng
này với sự vật, hiện tượng khác.
Mỗi sự vật có rất nhiều thuộc tính, mỗi thuộc tính lại biểu hiện một chất
của sự vật. Do vậy, mỗi sự vật có vô vàn chất thì sự vật mới tồn tại.
Chất và sự vật có mối quan hệ chặt chẽ, không tách rời nhau. Trong hiện
thực khách quan không thể tồn tại sự vật không có chất và không thể có
chất nằm ngoài sự vật.
Chất của sự vật được biểu hiện qua những thuộc tính nhưng không phải
thuộc tính nào cũng biểu hiện chất của sự vật. Chỉ những thuộc tính cơ
bản khi được tổng hợp mới tạo thành chất của sự vật. Chính chúng quy đònh
sự tồn tại, vận động và phát triển của sự vật. Chỉ khi nào chúng thay đổi
hay mất đi thì sự vật mới thay đổi hay mất đi.
Chất của sự vật không những được quy đònh bởi chất của những yếu tố
tạo thành mà còn bởi phương thức liên kết giữa các yếu tố tạo thành.
Trong hiện thực, có những sự vật được tạo thành bởi các yếu tố giống nhau
song chất của chúng lại khác nhau. Ví dụ như kim cương và than chì đều có
cùng thành phần hoá học là các nguyên tố cácbon, nhưng do phương thức

kiên kết giữa các nguyên tử cácbon là khác nhau vì thế chất của chúng
LÊ HUỲNH TẤN DUY

22


BÀI SOẠN TRIẾT HỌC

hoàn toàn khác nhau. Kim cương rất cứng, còn than chì lại mềm hơn. Trong
một tập thể nhất đònh nếu phương thức liên kết giữa các cá nhân biến
đổi thì tập thể đó có thể trở nên vững mạnh hoặc sẽ trở thành yếu
kém, nghóa là chất của tập thể ấy đã biến đổi. Từ đó, có thể thấy sự
thay đổi về chất của sự vật phụ thuộc cả vào sự thay đổi của các yếu tố
cấu thành sự vật lẫn sự thay đổi của các phương thức liên kết giữa các
yếu tố ấy.
Lượng:
Lượng là phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy đònh vốn có của
sự vật về mặt số lượng, quy mô, trình độ, nhòp điệu của sự vận
động và phát triển cũng như các thuộc tính của sự vật.
Lượng là cái vốn có của sự vật, quy đònh sự vật ấy là nó. Lượng của sự
vật tồn tại không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của con người, tồn tại
cùng với chất của sự vật. Do đó, lượng của sự vật cũng có tính khách quan
như chất của sự vật.
Lượng của sự vật thường được biểu thò thông qua những đơn vò đo lường cụ
thể về kích thước, số lượng, quy mô,… cũng có những lượng chỉ được biểu
thò dưới dạng trừu tượng và khái quát như: trình độ nhận thức, ý thức
trách nhiệm của công dân,…
Khi phân biệt về mặt khái niệm thì lượng và chất là khác nhau như vậy để
chúng ta có thể nhận biết đâu là lượng, đâu là chất. Còn trong bản thân
một sự vật, thì bao giờ lượng và chất cũng thống nhất, lượng nào cũng là

lượng của một chất và chất nào cũng là chất của một lượng nhất đònh.
Sự phân biệt chất và lượng của sự vật chỉ mang tính tương đối. Điều này
phụ thuộc vào từng mối quan hệ cụ thể xác đònh. Trong mối quan hệ này
thì những thuộc tính của sự vật đóng vai trò là chất của nó nhưng trong
mối quan hệ khác lại biểu thò lượng của sự vật và ngược lại.
Ví dụ: sinh viên khoa luật thương mại có bản chất khác so với sinh viên khoa
luật hình sự. Nhưng nếu xét trong mối quan hệ khác, thì sinh viên của cả hai
khoa này đóng vai trò là lượng vì họ đều là sinh viên của các khoa chuyên
ngành trong trường đại học luật.
II. NỘI DUNG CỦA QUY LUẬT:
Lượng và chất là hai mặt đối lập, thống nhất trong bản thân một sự vật,
hiện tượng. Lượng thì thường xuyên biến đổi, trong khi đó chất thì tương đối
ổn đònh. Chính vì vậy, hai mặt đối lập này vừa thống nhất lại vừa đấu tranh
với nhau, từ đó hình thành nên quy luật: “Từ những thay đổi về lượng
dẫn đến những thay đổi về chất và ngược lại”. Quy luật này có
những nội dung cơ bản sau:
- Thứ nhất, trong sự vật tính quy đònh về chất không tồn tại nếu
tính không có tính quy đònh về lượng và ngược lại.
Khi sự vật đang tồn tại, chất và lượng của sự vật đó thống nhất với nhau
ở một độ nhất đònh. Độ là phạm trù tiết học dùng để chỉ khoảng
giới hạn trong đó sự thay đổi về lượng của sự vật chưa làm thay đổi
căn bản chất của sự vật ấy.
Trong độ, sự vật vẫn còn là nó chứ chưa biến thành cái khác. Tuy nhiên,
trong phạm vi một độ nhất đònh, hai mặt chất và lượng luôn tác động lẫn
LÊ HUỲNH TẤN DUY

23


BÀI SOẠN TRIẾT HỌC


nhau làm cho sự vật, hiện tượng vận động và biến đổi. Sự vận động và
biến đổi của sự vật, hiện tượng bao giờ cũng bắt đầu từ sự thay đổi về
lượng. Khi lượng thay đổi đến một giới hạn nhất đònh thì dẫn đến sự thay đổi
về chất, giới hạn đó phụ thuộc vào từng sự vật, hiện tượng cụ thể.
- Thứ hai, thời điểm mà tại đó sự thay đổi về lượng đã đủ làm
thay đổi về chất của sự vật người ta gọi là điểm nút.
Sự vật tích lũy đủ về lượng tại điểm nút sẽ làm cho chất mới của nó ra
đời. lượng mới và chất mới của của sự vật thống nhất với nhau tạo nên
độ mới và điểm nút mới của sự vật ấy. Quá trình đó liên tiếp diễn ra
trong sự vật và vì thế sự vật luôn phát triển chừng nào nó còn tồn tại.
Chất của sự vật thay đổi do lượng của nó đã thay đổi trước đó gây ra gọi
là bước nhảy. Vậy bước nhảy là một phạm trù triết học dùng để
chỉ sự chuyển hóa về chất của sự vật do sự thay đổi về lượng của
sự vật trước đó gây nên.
Bước nhảy là sự kết thúc một giai đoạn phát triển của sự vật và là điểm
khởi đầu của một giai đoạn phát triển mới. Nó là sự gián đoạn trong quá
trình vận động và phát triển liên tục của sự vật.
- Thứ ba, sự phát triển của bất cứ sự vật nào cũng bắt đầu từ
sự tích lũy về lượng trong độ nhất đònh cho tới điểm nút để thực
hiện bước nhảy về chất. Song điểm nút của quá trình ấy không cố
đònh mà có thể có những thay đổi do tác động của những điều kiện
khách quan và chủ quan quy đònh. Ví dụ thời gian để hoàn thành sự nghiệp
công nghiệp hóa ở mỗi nước là khác nhau: 150 năm, 60 năm, 15 năm…
- Thứ tư, chất mới của sự vật chỉ có thể xuất hiện khi sự thay đổi
về lượng của nó đạt tới điểm nút. Chất mới của sự vật ra đời sẽ tác
động trở lại lượng đã thay đổi của sự vật. Chất mới ấy có thể làm thay
đổi quy mô, kết cấu, trình độ, nhòp điệu của sự vận động và phát triển
của sự vật.
III. Ý NGHĨA PHƯƠNG PHÁP LUẬN:

- Thứ nhất, đây là một quy luật khách quan, diễn ra trong cả lónh vực tự
nhiên, xã hội lẫn tư duy. Nội dung của quy luật cho thấy rằng sự vận động
và phát triển của sự vật bao giờ cũng diễn ra bằng cách tích lũy dần dần
về lượng đến một giới hạn nhất đònh, thực hiện bước nhảy để chuyển về
chất. Do đó, trong hoạt động thực tiễn cũng như trong hoạt động nhận thức
chúng ta phải biết từng bước tích lũy về lượng để làm biến đổi về chất
theo quy luật. Điều đó giúp chúng ta tránh được tư tưởng chủ quan, duy ý chí,
nôn nóng, đốt “cháy giai đoạn” muốn thực hiện những bước nhảy liên tục.
- Thứ hai, chúng ta phải chống lại tư tưởng bảo thủ, trì trệ, “hữu khuynh”
thường được biểu hiện ở chỗ coi sự phát triển chỉ là sự thay đổi đơn thuần
về lượng. Bởi vì chúng ta biết rằng quy luật của xã hội, khác với quy luật
tự nhiên, chỉ được thực hiện thông qua ý thức của con người. Do đó, khi đã
tích lũy đủ về số lượng phải có quyết tâm để tiến hành bước nhảy, phải
kòp thời chuyển những thay đổi về lượng thành những thay đổi về chất, từ
những thay đổi mang tính chất tiến hóa sang những thay đổi mang tính chất
cách mạng.

LÊ HUỲNH TẤN DUY

24


BÀI SOẠN TRIẾT HỌC

Trong hoạt động thực tế, chúng ta còn phải biết vận dụng linh hoạt các
hình thức của bước nhảy. Sự vận dụng linh hoạt đó sẽ tùy thuộc vào việc
phân tích đúng đắn những điều kiện khách quan và những nhân tố chủ
quan cũng như sự hiểu biết sâu sắc quy luật này. Tùy theo từng trường hợp,
điều kiện, quan hệ cụ thể chúng ta sẽ lựa chọn hình thức bước nhảy phù
hợp nhằm mang lại hiệu quả và chất lượng cho hoạt động của mình. Song con

người và đời sống xã hội của con người rất đa dạng, phong phú do rất
nhiều yếu tố cấu thành, do đó để thực hiện được bước nhảy toàn bộ,
trước hết phải thực hiện những bước nhảy cục bộ làm thay đổi về chất
của từng yếu tố.
Ngoài ra, sự thay đổi về chất của sự vật còn phụ thuộc vào sự thay đổi
phương thức liên kết giữa các yếu tố tạo thành sự vật. Do đó, trong hoạt
động của mình chúng ta phải biết cách tác động vào phương thức liên kết
giữa các yếu tố tạo thành sự vật trên cơ sở hiểu rõ bản chất, quy luật,
kết cấu của sự vật đó.
Ví dụ: trên cơ sở hiểu rõ về gen, con người có thể tác động vào phương
thức liên kết giữa các nhân tố tạo thành gen làm cho gen biến đổi phục vụ
những mục đích nhất đònh của mình. Hay trong một tập thể, chính sự đổi mới
về cơ chế quản lý, lãnh đạo và quan hệ giữa các thành viên trong tập thể
sẽ làm cho tập thể đó phát triển vững mạnh.
Đối với nước ta, từ một nước thuộc đòa nửa phong kiến đi lên CNXH, bỏ
qua giai đoạn TBCN thì nhất đònh phải trải qua một thời kỳ quá độ trước khi
xây dựng thành công CNCS.
Thực tế cách mạng Việt Nam cũng đã là minh chứng rất sinh động cho quy
luật này. Trong cuộc kháng chiến giành độc lập dân tộc, vận dụng triệt
để quy luật lượng - chất, Đảng ta chủ trương đánh đổ từng bộ phận để đi
đến thống nhất đất nước bằng khẩu hiệu “đánh cho Mỹ cút, đánh cho
Ngụy nhào”.
CÂU 6:
TRÌNH BÀY NỘI DUNG VÀ GIÁ TRỊ PHƯƠNG PHÁP LUẬN CỦA QUY
LUẬT THỐNG NHẤT VÀ ĐẤU TRANH CỦA CÁC MẶT ĐỐI LẬP
Quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập (còn gọi là quy
luật mâu thuẫn) là quy luật quan trọng nhất của phép biện chứng, là hạt
nhân của phép biện chứng, nó vạch ra nguồn gốc bên trong của sự vận
động và phát triển. Chính vì vậy, Lênin đã viết: “Có thể đònh nghóa vắn
tắt phép biện chứng là học thuyết về sự thống nhất của các mặt đối

lập. Như thế là nắm được hạt nhân của phép biện chứng, nhưng điều đó
đòi hỏi phải có những giải thích và một sự phát triển thêm”.
I. NỘI DUNG QUY LUẬT:
1. Một số khái niệm cơ bản:
Để tìm hiểu về nội dung của quy luật, trước hết chúng ta cần nắm vững
một số khái niệm sau:
a) Mặt đối lập:
Trong tất cả các sự vật, hiện tượng trên thế giới đều chưa đựng những mặt
trái ngược nhau. Ví dụ: trong sinh vật có đồng hóa và dò hóa; trong kinh tế thò
LÊ HUỲNH TẤN DUY

25


×