Tải bản đầy đủ (.doc) (75 trang)

Bảo tồn và phát huy giá trị lễ hội Côn Sơn Kiếp Bạc thị xã Chí Linh, tỉnh Hải Dương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.77 MB, 75 trang )

LỜI CAM ĐOAN
Em xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của cá nhân em và được
sự hướng dẫn khoa học của Tiến sĩ Lê Thị Hiền. Các nội dung nghiên cứu
trong khóa luận với đề tài “Bảo tồn và phát huy giá trị lễ hội Côn Sơn - Kiếp
Bạc thị xã Chí Linh, tỉnh Hải Dương” của em là trung thực và chưa công bố
dưới bất kỳ hình thức nào trước đây. Những số liệu thống kê, kết quả nghiên
cứu được sử dụng trong đề tài là khách quan, phục vụ cho việc phân tích,
nhận xét, đánh giá được cá nhân thu thập từ các nguồn khác nhau có ghi rõ
nguồn gốc. Nếu phát hiện có bất kỳ sự gian lận nào em xin hoàn toàn chịu
trách nhiệm về nội dung khóa luận của mình.
Hà Nội, ngày 24 tháng 7 năm 2017
Sinh viên

Nguyễn Thụy Minh Khuê


LỜI CẢM ƠN
Trải qua thời gian và quá trình nghiên cứu, với sự giúp đỡ, hướng dẫn
nhiệt tình của các thầy cô trong Khoa Văn hóa - Thông tin và Xã hội, sự cố
gắng khắc phục khó khăn của bản thân, em đã hoàn thành đề tài nghiên cứu
khoa học “Bảo tồn và phát huy giá trị lễ hội Côn Sơn - Kiếp Bạc thị xã Chí
Linh, tỉnh Hải Dương”. Qua đây em đã rút ra được nhiều bài học, kinh
nghiệm bổ ích trong công tác quản lý di sản, quản lý văn hóa, bảo tồn và phát
huy di sản văn hóa cổ truyền trong bối cảnh hiện nay đồng thời giúp em hiểu
rõ hơn những kiến thức, lý thuyết đã được nhà trường trang bị, áp dụng vào
thực tiễn công việc.
Em xin chân thành cảm ơn các thầy, các cô trong Khoa văn hóa Thông tin và xã hội đã tạo điều kiện, định hướng, tư vấn, giúp đỡ em trong
quá trình lựa chọn và thực hiện đề tài. Đặc biệt em xin gửi lời cảm ơn sâu sắc
tới cô Lê Thị Hiền, Tiến sĩ - giảng viên hướng dẫn, đã trực tiếp tận tình, chu
đáo, chỉ bảo, hướng dẫn em hoàn thành công trình nghiên cứu. Xin chân
thành cảm ơn các cán bộ trong ban quản lý di tích Côn Sơn - Kiếp Bạc, cùng


các cơ quan chức năng quản lý văn hoá tại tỉnh Hải Dương đã nhiệt tình giúp
đỡ em trong việc tìm hiểu nghiên cứu lịch sử hình thành, quá trình phát triển,
ý nghĩa các giá trị, các giải pháp bảo tồn và phát huy lễ hội của địa phương.
Mặc dù có rất nhiều cố gắng để thực hiện đề tài một cách hoàn chỉnh
nhất, song do kinh nghiệm nghiên cứu khoa học của bản thân còn hạn chế
cũng như hạn chế về kiến thức và kinh nghiệm nên không tránh khỏi những
thiếu sót nhất định mà bản thân chưa thấy được. Em rất mong nhận được sự
đóng góp của quý thầy, cô và các bạn sinh viên dể khóa luận được hoàn chỉnh
hơn và qua đó em có thêm những nguồn tư liệu mới trên con đường học tập
cũng như nghiên cứu sau này.
Em xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 24 tháng 07 năm 2017
Sinh viên
Nguyễn Thụy Minh Khuê


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
LỜI CẢM ƠN
LỜI CAM ĐOAN............................................................................................1
LỜI CẢM ƠN..................................................................................................2
MỤC LỤC........................................................................................................3
MỞ ĐẦU..........................................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài................................................................................................................1
2. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu..................................................................3
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu......................................................................................3
4. Lịch sử nghiên cứu............................................................................................................4
5. Phương pháp nghiên cứu..................................................................................................6
6. Đóng góp của đề tài...........................................................................................................7
7. Cấu trúc của đề tài.............................................................................................................7


Chương 1 LÝ LUẬN CHUNG VỀ CÔNG TÁC BẢO TỒN PHÁT HUY
GIÁ TRỊ LỄ HỘI VÀ KHÁI QUÁT VỀ LỄ HỘI CÔN SƠN - KIẾP BẠC
...........................................................................................................................8
1.1. Một số khái niệm cơ bản.................................................................................................8
1.1.1. Lễ hội............................................................................................................................8
1.1.2. Khái niệm bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa...............................................10
1.2 Đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước về công tác bảo tồn và phát huy giá trị
lễ hội.....................................................................................................................................12
1.3 Khái quát về di tích và lễ hội Côn Sơn - Kiếp Bạc........................................................16
1.3.1. Đặc điểm di tích.........................................................................................................16
1.3.2 Diễn trình lễ hội...........................................................................................................22
Tiểu kết.................................................................................................................................27

Chương 2 THỰC TRẠNG CÔNG TÁC BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY GIÁ
TRỊ LỄ HỘI CÔN SƠN - KIẾP BẠC.........................................................27
2.1. Các giá trị của lễ hội Côn Sơn - Kiếp Bạc....................................................................28
2.1.1. Giá trị cố kết cộng đồng.............................................................................................28
2.1.2. Hướng về cội nguồn..................................................................................................31
2.1.3. Sáng tạo và hưởng thụ các giá trị văn hóa...............................................................32
2.1.4. Cân bằng đời sống tâm linh.......................................................................................33
2.1.5. Bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc..........................................................34


2.1.6. Ý nghĩa kinh tế...........................................................................................................35
2.1.7. Trao đổi tri thức giao lưu văn hóa giữa các vùng văn hóa trong nước và giữa các
quốc gia................................................................................................................................36
2.2. Công tác bảo tồn và phát huy giá trị lễ hội Côn Sơn - Kiếp Bạc.................................36
2.2.1 Tuyên truyền về giá trị lễ hội.......................................................................................36
2.2.2. Công tác xã hội hóa trong việc bảo tồn phát huy giá trị di tích và lễ hội..................40

2.2.3. Phục dựng nâng cấp lễ hội........................................................................................41
2.2.4. Xây dựng tuyến tua du lịch........................................................................................42
2.3. Đánh giá thực trạng công tác bảo tồn phát huy giá trị lễ hội.......................................45
2.3.1. Những ưu điểm..........................................................................................................45
2.3.2. Những hạn chế tồn đọng...........................................................................................47
Tiểu kết.................................................................................................................................49

Chương 3 GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC BẢO TỒN
VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ LỄ HỘI CÔN SƠN – KIẾP BẠC....................50
3.1. Tuyên truyền về giá trị lễ hội bằng nhiều hình thức.....................................................50
3.2. Nâng cao trình độ cán bộ quản lý.................................................................................51
3.3. Đa dạng hóa các sản phẩm và loại hình du lịch..........................................................53
3.4. Gắn bảo tồn lễ hội với phát triển du lịch.......................................................................54
3.5. Xây dựng cơ sở hạ tầng...............................................................................................56
3.6. Chú trọng công tác bảo tồn và phát huy giá trị lễ hội...................................................57
Tiểu kết.................................................................................................................................60

KẾT LUẬN....................................................................................................61
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................62
PHỤ LỤC.......................................................................................................64


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong cuộc sống của nhân loại nói chung cũng như của nhân dân ta nói
riêng, lễ hội đóng vài trò quan trọng trong đời sống tinh thần con người, bắt
nguồn và phát triển từ thực tiễn hoạt động của đời sống xã hội, sự giao lưu, tiếp
biến văn hoá của cộng đồng, nhằm thỏa mãn những khát vọng, những ước
muốn tâm linh vừa linh thiêng, vừa trần tục của mọi người dân, du khách thập
phương không chỉ trong nước mà còn du khách quốc tế. Và đặc biệt sau những

giờ lao động mệt nhọc, lúc nhàn rỗi, con người có nhu cầu tụ hội để nghỉ ngơi,
giao tiếp cộng cảm với cộng đồng. Những lễ hội và lễ hội truyền thống của đân
tộc ta chính là nơi phổ cập những giá trị văn hóa, ươm mầm tài năng cho thế hệ
trẻ. Lễ hội là một dạng sinh hoạt văn hóa tổng hợp của con người. Đồng thời lễ
hội thể hiện nét đẹp văn hóa của vùng miền, dân tộc.
Trong giai đoạn hiện nay, việc giữ gìn và phát triển lễ hội đang
ngày càng trở nên quan trọng. Trên địa bàn cả nước, rất nhiều lễ hội đã được
phục dựng, bảo tồn và phát triển mạnh mẽ gây sự chú ý của toàn dân. Lễ hội
là hoạt động văn hóa xã hội tổng hợp mang tính giáo dục cao, có tính nghệ
thuật. Lễ hội liên kết con người về mặt ý thức, khẳng định thế giới quan, lý
tưởng thẩm mỹ, đạo đức, đồng thời thỏa mãn nhu cầu tâm linh của con
người. Chính vì vậy vấn đề đặt ra ở đây là công tác tổ chức, tín ngưỡng tâm
linh trong lễ hội đã phù hợp với truyền thống văn hóa dân tộc chưa, phong tục
tập quán địa phương cũng như việc bảo tồn, gìn giữ, phát huy giá trị của lễ
hội truyền thống và giải quyết tốt những vấn đề phát sinh trong khi lễ hội diễn
ra chưa. Do đó, chúng ta cần phải nghiên cứu, tìm hiểu về công tác tổ chức,
phải có những biện pháp quản lý phù hợp để phát triển lễ hội sao cho phù
hợp để phát tiển lễ hội sao cho vừa giữ được nét đẹp truyền thống của dân
tộc, vừa đáp ứng được nhu cầu văn hóa chính đáng của nhân dân, phát
triển đất nước, góp phần làm phong phú thêm kho di sản văn hóa, kế thừa
phát huy di sản văn hóa dân tộc Việt Nam hiện nay.

1


“Dù ai buôn bán gần xa
Hai mươi tháng tám giỗ cha thì về”.
“Tháng tám giỗ cha” từ lâu đã đi sâu vào tâm thức mỗi người dân Việt
Nam, trở thành tập tục văn hóa truyền thống uống nước nhớ nguồn của
dân tộc. Hàng năm, theo lễ cổ vào ngày mất của Đức Thánh Trần Hưng Đạo

Đại Vương (20/8 Âm lịch), của anh hùng dân tộc Nguyễn Trãi (16/8 Âm
lịch) và ngày viên tịch của thiền sư Huyền Quang (22 tháng giêng Âm lịch)
triều đình đều cử các quan đại thần, các quan phủ, trấn vùng lân cận về dự
lễ cầu đảo, cầu quốc thái dân an; nhân dân và phật tử về trẩy hội Côn Sơn
Kiếp Bạc, tưởng niệm các bậc vĩ nhân. Nhiều hình thái văn hóa phi vật
thể được bảo lưu, trình diễn đặc sắc và hấp dẫn như: Tế lễ, rước bộ, hội
quân, lễ mộc dục, lễ cầu an và các nhu cầu tâm linh như cầu duyên, cầu tự,
cầu sức khỏe, cầu danh, cầu tài được Thần, Phật chứng cho thỏa nguyện.
Đó là thuần phong mỹ tục độc đáo làm nên bản sắc văn hóa đa dạng tốt đẹp
của cư dân đồng bằng Bắc Bộ.
Trải qua trên 700 năm tồn tại và phát triển lễ hội Côn Sơn - Kiếp Bạc
trở thành nơi “quốc lễ” của đất nước, là lễ hội truyền thống không thể
thiếu trong đời sống tâm linh của dân tộc. Năm 2006 - 2007 thực hiện đề
án nâng cấp lễ hội truyền thống Côn Sơn - Kiếp Bạc giai đoạn 2006 - 2010,
nhiều nghi thức nghi lễ, diễn xướng dân gian, trò chơi dân gian được phục
dựng thành công với nội dung phong phú, chuẩn mực, giàu chất dân gian
được phục dựng thành công thu hút đông đảo các tầng lớp xã hội tham gia.
Đặc biệt là có sự quản lý sát sao của các cấp các ngành với lễ hội Côn Sơn Kiếp Bạc huyện Chí Linh tỉnh Hải Dương. Trong giai đoạn hiện nay công
tác quản lý lễ hội Côn Sơn - Kiếp Bạc càng trở nên cấp thiết hơn bao
giờ hết.
Bản thân tôi rất tự hào là một người con sinh ra và lớn lên ngay chính
vùng đất địa linh nhân kiệt, linh thiêng, một vùng văn hóa lịch sử lâu đời, một
khu danh thắng nổi tiếng của miền đất xứ Đông . Hơn nữa, là một người đang
theo học tập về chuyên ngành quản lý văn hóa nên tôi nhận thấy vấn đề

2


nghiên cứu, tìm hiểu về lễ hội truyền thống ở địa phương mình là một việc
làm cần thiết để góp phần nâng cao chất lượng tổ chức lễ hội cũng như bảo

tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc, bởi đây là một
hoạt động đặc biệt quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và phát triển nền văn
hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc. Muốn bảo tồn và phát huy di
sản văn hóa cần phải nhận diện, đánh giá mọi giá trị văn hóa truyền thống mà
lễ hội là một phương diện tiêu biểu tồn tại trong những tiểu vùng văn hóa cụ
thể.Với những lý do trên tôi quyết định chọn đề tài “Bảo tồn và phát huy giá
trị lễ hội Côn Sơn - Kiếp Bạc thị xã Chí Linh, tỉnh Hải Dương” làm đề tài
viết khóa luận tốt nghiệp của mình.
2. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
2.1 Đối tượng nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là bảo tồn và phát huy giá trị lễ hội
Côn Sơn - Kiếp Bạc Thị xã Chí Linh, tỉnh Hải Dương.
2.2 Phạm vi nghiên cứu:
Nghiên cứu công tác bảo tồn và phát huy giá trị lễ hội Côn Sơn - Kiếp
Bạc Thị xã Chí Linh, tỉnh Hải Dương trong thời gian hiện nay
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục tiêu nghiên cứu
Khẳng định những giá trị của lễ hội này, tìm ra biện pháp khả thi để
bảo tồn và phát huy giá trị của lễ hội Côn Sơn - Kiếp Bạc trong đời sống xã
hội hiện đại.
3.2. nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu lý luận chung về công tác bảo tồn & phát huy giá trị lễ
hội và khái quát về lễ hội Côn Sơn - Kiếp Bạc
- Nghiên cứu thực trạng công tác bảo tồn và phát huy giá trị lễ hội Côn
Sơn - Kiếp Bạc
- Đề xuất một số giải pháp để nâng cao hiệu quả công tác bảo tồn, phát
huy giá trị lễ hội Côn Sơn - Kiếp Bạc Thị xã Chí Linh, tỉnh Hải Dương.

3



4. Lịch sử nghiên cứu
Lễ hội Côn Sơn - Kiếp Bạc không chỉ bao gồm những nét đẹp văn hóa
đậm đà bản sắc dân tộc, sự đa dạng của cảnh quan thiên nhiên kỳ vỹ, hấp dẫn
mà nơi đây còn là chốn tâm linh, linh thiêng, một trong những trung tâm tôn
giáo tín ngưỡng nơi lưu trữ, bảo tồn di sản văn hóa vật thể và phi vật thể quý
giá bậc nhất của đất nước. Hàng năm nơi đây thu hút đông đảo du khách thập
phương tới tham dự lễ hội.Việc nghiên cứu, sưu tầm, bảo tồn và phát huy giá
trị của lễ hội về địa danh này được nhắc đến trong sử sách cận, hiện đại.
- Năm 1999 Sở Văn hóa Thông tin Hải Dương xuất bản cuốn Hải
Dương di tích và danh thắng có giới thiệu các di tích trong khu vực Côn Sơn Kiếp Bạc là: chùa Côn Sơn, đền Kiếp Bạc, đền Sinh, đền thờ nhà giáo Chu
Văn An.
- Năm 2006, Tăng Bá Hoành trong nghiên cứu Côn Sơn - Kiếp Bạc quá
trình hình thành và phát triển trên Tạp chí Di sản Văn hóa đã nghiên cứu, giới
thiệu lịch sử hình thành, địa văn hóa, quân sự khu di tích Côn Sơn - Kiếp Bạc.
- Năm 2006, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia xuất bản cuốn Di sản
Hán Nôm Côn Sơn - Kiếp Bạc - Phượng Sơn của Ban quản lý di tích Côn Sơn
- Kiếp Bạc, cuốn sách là tập hợp các tài liệu thư tịch Hán Nôm, tiến hành sưu
tầm dịch thuật các văn bản chữ Hán và viết về khu di tích Côn Sơn, Kiếp Bạc,
Phượng Hoàng như văn bia, hoành phi, câu đối, thần tích, thần sắc, ngọc phả,
bài châm gốc từ thời Trần, thời Lê ở chùa Côn Sơn, đền Kiếp Bạc.
- Năm 2008, Ủy Ban Nhân Dân thị xã Chí Linh và Liên hiệp các Hội
khoa học kĩ thuật Hải Dương tổ chức hội thảo Chí Linh bát cổ, hội thảo đã
nhận được các tham luận nghiên cứu về các di tích "Huyền Thiên cổ tự",
"Tiền ẩn cổ bích".
- Năm 2009, Viện nghiên cứu Văn hóa nghệ thuật, Sở Văn hóa Thể
thao và Du lịch Hải Dương, Giáo hội Phật giáo tỉnh Hải Dương đã phối hợp tổ
chức Hội thảo khoa học Bảo tồn và phát huy di sản Đệ tam tổ thiền phái Trúc
Lâm Huyền Quang và lễ hội chùa Côn Sơn. Hội thảo đã nhận được 21 bài tham
luận của các tác giả, trong đó có 4 bài nghiên cứu về lễ hội chùa Côn Sơn.


4


- Năm 2009, Nguyễn Khắc Minh trong bài viết Lễ hội Côn Sơn - Kiếp
Bạc những kết quả sau 4 năm thực hiện đề án đăng trên tạp chí Thế giới Di
sản, số 7 (34) đã đánh giá những kết quả tích cực của Đề án Lễ hội Côn Sơn Kiếp Bạc giai đoạn năm 2006 - 2010 và đề xuất phương án tổ chức cho những
năm tiếp theo.
- Năm 2009, Ban quản lý di tích Côn Sơn - Kiếp Bạc nghiên cứu đề tài
khoa học cấp tỉnh Điều tra, nghiên cứu thực trạng và đề xuất biện pháp bảo
tồn, phát huy các giá trị văn hóa của một số lễ hội tiêu biểu thuộc dòng thiền
Trúc Lâm ở tỉnh Hải Dương. Đề tài nghiên cứu, giới thiệu một số nghi lễ, trò
chơi dân gian diễn ra trong lễ hội chùa Côn Sơn hiện nay, đồng thời đề xuất
các biện pháp để bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa của lễ hội chùa Côn Sơn
trong tương lai.
- Ngày 18/06/2010, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 920/QĐ
- TTg phê duyệt "Quy hoạch tổng thể bảo tồn Khu di tích lịch sử văn hóa Côn
Sơn - Kiếp Bạc gắn với phát triển du lịch thị xã Chí Linh, tỉnh Hải Dương".
- Năm 2012, Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch Hải Dương đã lập Hồ sơ
khoa học Lễ hội chùa Côn Sơn đề nghị đưa vào danh mục Di sản văn hóa phi
vật thể quốc gia. Nội dung hồ sơ đã nêu khái quát nguồn gốc hình thành, diễn
trình lễ hội trước năm 1945 và hiện nay, giá tị tiêu biểu và đề xuất các biện
pháp bảo tồn lễ hội chùa Côn Sơn.
- Năm 2012, Nguyễn Thị Thùy Liên bảo vệ luận văn Thạc sỹ Văn hóa
học trường Đại học văn hóa Hà Nội Lễ hội đền Kiếp Bạc (xã Hưng Đạo, thị
xã Chí Linh) đã nghiên cứu về lịch sử hình thành, các nghi lễ diễn xướng và
giá trị tiêu biểu của lễ hội Kiếp Bạc.
Năm 2012 Thủ tướng Chính Phủ quyết định xếp hạng khu di tích Côn
Sơn - Kiếp Bạc và di tích quốc gia đặc biệt, lễ hội Côn Sơn, Kiếp Bạc được vinh
danh là di sản văn hóa phi vật thể quốc gia.

- Đặc biệt Bộ Xây dựng vừa có văn bản số 2093/BXD - KTQH, gửi
Văn phòng Chính phủ, về quy hoạch tổng thể bảo tồn và phát triển giá trị khu
di tích lịch sử, danh thắng Côn Sơn-Kiếp Bạc.

5


Ngoài ra trên một số website cũng có các bài viết về lễ hội Côn Sơn - Kiếp
Bạc : Lễ hội mùa thu Côn Sơn - Kiếp Bạc trên trang web consonkiepbac.org.vn...,
Lễ hội mùa xuân Côn Sơn - Kiếp Bạc trên trang web dulichvn.org.vn, Côn
Sơn - Kiếp Bạc những giá trị lịch sử văn hóa của tác giả Nguyễn Khắc Minh
trên báo thegioidisan.vn. Những bài viết này đã giới thiệu sức hút hấp dẫn,
thú vị, đặc sắc của lễ hội Côn Sơn - Kiếp Bạc cũng như đề cao ý nghĩa công
lao to lớn của vị Thánh thần, các vị tiên hiền, danh nhân văn hóa thế giới, anh
hùng dân tộc với đất nước.
Như vậy các công trình nghiên cứu trên đã tập trung nghiên cứu những
giá trị lịch sử văn hóa, nghệ thuật của di tích Côn Sơn - Kiếp Bạc. Đồng thời
các tác phẩm đã khẳng định vị trí của di tích và lễ hội Côn Sơn - Kiếp Bạc
trong sinh hoạt văn hóa, tinh thần của nhân dân trong vùng và cả nước. Tuy
nhiên các các tác giả mới chỉ nghiên cứu di tích dưới góc độ học thuật và còn
thiếu những công trình nghiên cứu mang tính ứng dụng.
Thực tế di tích và lễ hội Côn Sơn - Kiếp Bạc còn thu hút đông đảo du
khách trong nước và quốc tế tới trẩy hội và vãn cảnh. Đây thực sự là một
điểm du lịch tiềm năng của Hải Dương nói riêng và cả nước nói chung.
Những giá trị lịch sử, văn hóa, nghệ thuật, cảnh quan và tính thiêng của lễ hội
đã tạo nên sức hút với du khách. Làm thế nào để những giá trị này được phổ
biến rộng rãi hơn ? Tìm lời giải đáp cho câu hỏi trên là vấn đề có tính cấp
thiết. Chính vì vậy cần có những công trình nghiên cứu về di tích và lễ hội
Côn Sơn - Kiếp Bạc, nhất là công tác bảo tồn và phát huy giá trị lễ hội Côn
Sơn - Kiếp Bạc.

5. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài, tôi đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau:
- Phương pháp Quan sát Phỏng vấn
- Phương pháp Nghiên cứu tài liệu
- Phương pháp điều tra xã hội học, thống kê
-Phương pháp tổng hợp và phân tích tài liệu

6


6. Đóng góp của đề tài
- Đóng góp về tư liệu nghiên cứu: Đề tài là một nguồn tư liệu, dẫn
chứng để bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa dân tộc nói chung và văn hóa lễ
hội nói riêng. Đồng thời, làm phong phú và đa dạng thêm cho kho tàng tư liệu
văn hóa dân tộc về các lễ hội.
- Các giải pháp được đề xuất trong nghiên cứu có thể ứng dụng vào
thực tiễn góp phần nâng cao hiệu quả công tác bảo tồn và phát huy giá trị các
lễ hội.
7. Cấu trúc của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục đề tài có bố
cục gồm 3 chương:
Chương 1: Lý luận chung về công tác bảo tồn phát huy giá trị lễ
hội và khái quát về lễ hội Côn Sơn - Kiếp Bạc
Chương 2: Thực trạng công tác bảo tồn và phát huy giá trị lễ hội
Côn Sơn - Kiếp Bạc
Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả công tác bảo tồn và phát
huy giá trị lễ hội Côn Sơn - Kiếp Bạc

7



Chương 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ CÔNG TÁC BẢO TỒN PHÁT HUY GIÁ TRỊ
LỄ HỘI VÀ KHÁI QUÁT VỀ LỄ HỘI CÔN SƠN - KIẾP BẠC
1.1. Một số khái niệm cơ bản
1.1.1. Lễ hội
Việt Nam là một đất nước có nền văn hóa lâu đời, nhiều dân tộc cùng
sinh sống trên một lãnh thổ thống nhất, cùng đóng góp phong tục tập quán
mang bản sắc riêng của mỗi vùng miền, dân tộc, tôn giáo... cho nền văn hóa
dân tộc. Trong đó lễ hội là yếu tố vừa đặc trưng cho mỗi dân tộc, vừa làm cho
văn hóa đất nước đặc sắc hơn.
Cho đến thời điểm hiện nay, khái niệm lễ hội vẫn còn nhiều cách hiểu
và lý giải khác nhau trong giới nghiên cứu, tựu trung lại trên thực tế đã xuất
hiện một số ý kiến sau đây: có quan niệm chia tách lễ và hội thành hai thành
tố khác nhau trong cấu trúc lễ hội dựa trên thực tế có những sinh hoạt văn hóa
dân gian có lễ mà không có hội hoặc ngược lại.
Theo Bùi Thiết thì "Lễ là các hoạt động đạt tới trình độ nghi lễ, hội là
các hoạt nghi lễ đạt trình độ cao hơn, trong đó các hoạt động văn hóa truyền
thống" [20; Tr. 8].
Khác với quan điểm trên, nhà nghiên cứu Thu Linh cho rằng: “Lễ (cuộc
lễ) phản ánh những sự kiện đặc biệt, về mặt hình thức lệ trong các dịp này trở
thành hệ thống những nghi thức có tính chất phổ biến được quy định một cách
nghiêm ngặt nhiều khi đạt đến trình độ một "cải diễn hóa" cùng với không khí
trang nghiêm đóng vai trò chủ đạo. Đây chính là điểm giao thoa giữa lễ với
hội, và có lẽ cũng vì vậy người ta thường nhập hai từ lễ hội [10; Tr. 8].
Theo Nguyễn Quang Lê, thì bất kỳ một lễ hội nào cũng bao gồm "hai
hệ thống đan quện và giao thoa với nhau bao gồm có hệ thống lễ là các nghi
lễ của tín ngưỡng dân gian và tôn giáo cùng với các lễ vật được sử dụng làm
đồ lễ mang tính linh thiêng, được chuẩn bị rất chu đáo và nghiêm túc. Thông
qua các nghi lễ này con người được giao cảm với thế giới siêu nhiên là các

thần thánh (các nhiên thần và nhân thần). Do chính con người tưởng tượng ra

8


và họ cầu mong các thần thánh bảo trợ và có tác động tốt đẹp đến tương lai
cuộc sống tốt đẹp của mình. Và hệ thống hội là các trò vui trò diễn và các
kiểu diễn xướng dân gian, cụ thể là các trò vui chơi giải trí, các đám rước và
ca múa dân gian, chúng đều mang tính vui nhộn, hài hước song đôi khi chưa
thể tách ra khỏi việc thờ cúng" [9; Tr. 9]. Nghiên cứu "Lễ hội Việt Nam trong
sự phát triển du lịch", Dương Văn Sáu cho rằng: "Lễ hội là hình thức sinh
hoạt avăn hóa cộng đồng diễn ra trên một địa bàn dân cư trong thời gian và
không gian xác định, nhằm nhắc lại một số sự kiện, nhân vật lịch sử hay
huyền thoại, đồng thời là dịp biểu hiện cách ứng xử văn hóa của con người
với thiên nhiên - thần thánh và con người với xã hội" [19; Tr. 9].
Tác giả Phạm Quang Nghị cắt nghĩa "Lễ hội là một sinh hoạt văn hóa
cộng đồng, có tính phổ biến trong cộng đồng văn hóa xã hội, có sức lôi cuốn
đông đảo quần chúng nhân dân tham gia. Là sản phẩm sáng tạo của các thế hệ
tiền nhân để lại cho hôm nay, lễ hội chứa đựng những mong ước thiết tha vừa
thánh thiện, vừa đời thường, vừa thiêng liêng, vừa thế tục của bao thế hệ con
người" [13; Tr. 9].
Như vậy các nhà nghiên cứu đều thống nhất với nhau hai thành tố cấu
trúc nên lễ hội (phần lễ tức là nghi lễ, là mặt thứ nhất: tinh thần, tôn giáo, tín
ngưỡng, linh thiêng; phần hội tức là hội hè, là mặt thứ hai: vật chất, văn hóa
nghệ thuật, đời thường). Tác giả Trần Bình Minh cho rằng: "Lễ và hội hòa
quện, xoắn xít với nhau để cùng nhau biểu thị một giá trị nào đó của một cộng
đồng. Trong lễ cũng có hội và trong hội cũng có lễ" [12; Tr. 9].
Nguyễn Tri Nguyên khẳng định: "Lễ hội là sự thể hiện, là sự phát lộ
của ký ức văn hóa dân tộc. Giống như gien di truyền, ký ức văn hóa chứa
đựng hàm lượng thông tin các giá trị văn hóa của quá khứ qua các truyền

thống văn hóa dân tộc, tạo nên bản sắc và sự đa dạng văn hóa, cũng thiết yếu
đối với sự sống con người tựa như sự đa dạng sinh học trong thế giới tự
nhiên" [14; Tr. 9].
Từ những quan điểm trên, chúng tôi nhận thức như sau:
- Lễ là hệ thống các hành vi, động tác nhằm biểu hiện lòng tôn kính của

9


con người đối với thần linh, phản ánh những ước mơ chính đáng của con
người trước cuộc sống mà bản thân họ chưa có khả năng thực hiện.
- Hội là tập hợp các trò diễn có tính nghi thức, các cuộc vui chơi, giải
trí tại một thời điểm nhất định, thường trong khuôn viên các công trình tôn
giáo hay ở sát chúng, có đông người tham gia, là đời sống văn hoá hàng ngày
và một phần đời của cá nhân và cả cộng đồng, nhân kỷ niệm một sự kiện quan
trọng đối với một cộng đồng xã hội.
- Lễ hội là sản phẩm của xã hội quá khứ, được truyền lại tới ngày nay
và nó được người dân, cộng đồng tiếp nhận và thực hành trong đời sống sinh
hoạt văn hóa, tín ngưỡng.
1.1.2. Khái niệm bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa
Theo tác giả Hoàng Phê thì " Bảo tồn là bảo vệ và giữ gìn sự tồn tại của
sự vật hiện tượng theo dạng thức vốn có của nó. Bảo tồn là giữ lại, không để
mất đi, không để bị thay đổi, biến hóa hay biến thái.
Bảo tồn và phát huy di sản văn hóa luôn gắn kết chặt chẽ biện chứng. Đó
là hai lĩnh vực thống nhất, tương hỗ, chi phối ảnh hưởng qua lại trong hoạt
động giữ gìn tài sản văn hóa. Bảo tồn di sản văn hóa thành công thì mới phát
huy được các giá trị văn hóa. Phát huy cũng là một cách bảo tồn di sản văn hóa
tốt nhất (lưu giữ giá trị di sản trong ý thức cộng đồng xã hội)" [15; Tr. 10].
Đối tượng bảo tồn (tức là các giá trị di sản văn hóa vật thể và phi vật
thể) cần thỏa mãn hai điều kiện:

Một là, nó phải được coi là tinh hoa, là một giá trị đích thực được thừa
nhận minh bạch, không có gì phải hồ nghi hay bàn cãi.
Hai là, nó phải hàm chứa khả năng, chí ít là tiềm năng, đứng vững lâu
dài với thời gian, là cái giá trị của nhiều thời (tức là có giá trị lâu dài) trước
những biến đổi tất yếu về đời sống vật chất và tinh thần của con người, nhất là
trong bối cảnh nền kinh tế thị trường và quá trình toàn cầu hóa đang diễn ra
cực kỳ sôi động.
Bảo tồn nguyên vẹn (bảo tồn trong dạng tĩnh): Bảo tồn nguyên vẹn văn
hóa vật thể ở dạng tĩnh là vận dụng thành quả khoa học kỹ thuật công nghệ

10


cao, hiện đại đảm bảo giữ nguyên trạng hiện vật như vốn có về kích thước, vị
trí, chất liệu, đường nét, màu sắc, kiểu dáng. Khi cần phục nguyên, cần sử
dụng hiệu quả các phương tiện kỹ thuật như: đồ họa kỹ thuật vi tính công
nghệ 3D theo không gian ba chiều, chụp ảnh, băng hình video, xác định trọng
lượng, thành phần chất liệu của di sản văn hóa vật thể. Sau khi bảo tồn
nguyên vẹn, phải so sánh đối chiếu số liệu với nguyên mẫu đã được lưu giữ
chi tiết để không làm biến dạng.
Bảo tồn văn hóa phi vật thể ở dạng tĩnh là điều tra sưu tầm, thu thập các
dạng thức văn hóa phi vật thể như nó hiện có theo quy trình khoa học nghiêm
túc chặt chẽ, giữ chúng trong sách vở, các ghi chép, mô tả bằng băng hình
(video), băng tiếng (audio), ảnh... Tất cả các hiện tượng văn hóa phi vật thể
này có thể lưu giữ trong các kho lưu trữ, các viện bảo tàng.
Bảo tồn trên cơ sở kế thừa (bảo tồn trong dạng động): Bảo tồn động,
tức là bảo tồn các hiện tượng văn hóa trên cơ sở kế thừa. Các di sản văn hóa
vật thể sẽ được bảo tồn trên tinh thần giữ gìn những nét cơ bản của di tích, cố
gắng phục chế lại nguyên trạng bằng nhiều kỹ thuật công nghệ hiện đại.
Đối với các di sản văn hóa phi vật thể, bảo tồn động là bảo tồn các hiện

tượng văn hóa đó ngay chính trong đời sống cộng đồng. Bởi lẽ, cộng đồng
không những là môi trường sản sinh ra các hiện tượng văn hóa phi vật thể mà
còn là nơi tốt nhất để giữ gìn, bảo vệ, làm giàu và phát huy chúng trong đời
sống xã hội. Các hiện tượng văn hóa phi vật thể tồn tại trong ký ức cộng
đồng, nương náu trong tiếng nói, hình thức diễn xướng, nghi lễ, nghi thức,
quy ước dân gian. Văn hóa phi vật thể luôn tiềm ẩn trong tâm thức và trí nhớ
của những con người đặc biệt mà chúng ta thường mệnh danh là những nghệ
nhân hay là những báu vật nhân văn sống. Đó là việc xã hội thừa nhận các tài
năng dân gian, tôn vinh họ trong cộng đồng, tạo điều kiện tốt nhất để họ sống
lâu, khỏe mạnh, phát huy được khả năng trong quá trình bảo tồn và phát huy
các giá trị văn hóa truyền thống. Cần phải phục hồi các giá trị một cách khách
quan, sáng suốt, tin cậy, khoa học chứ không thể chủ quan, tùy tiện. Tất cả
những giá trị phải được kiểm chứng qua nhiều phương pháp nghiên cứu có

11


tính chất chuyên môn cao, có giá trị thực chứng thuyết phục thông qua các dự
án điều tra, sưu tầm, bảo quản, biên dịch và xuất bản các dấu tích di sản văn
hóa phi vật thể.
Bảo tồn theo quan điểm phục hồi nguyên dạng chính là phương thức lý
tưởng nhất. Nếu không thể bảo tồn nguyên dạng thì có thể bảo tồn theo hiện
dạng đang có. Bởi theo quy luật của thời gian thì các di sản văn hóa phi vật
thể ngày càng có xu hướng xa dần nguyên gốc. Nếu không thể khôi phục
được nguyên gốc thì bảo tồn hiện dạng là điều khả thi nhất. Tuy nhiên hiện
dạng phải có mối liên hệ chặt chẽ với nguyên dạng. Theo đó, cần xác định rõ
thời điểm bảo tồn để sau này khi có thêm tư liệu tin cậy thì sẽ tiếp tục phục
nguyên ở dạng gốc di sản văn hóa.
Đặc biệt trong bài nghiên cứu sẽ sử dụng khái niệm bảo tồn ở dạng
động bởi vì các hiện tượng văn hóa được diễn ra ngay trong chính đời sống

cộng đồng. Bởi lẽ, cộng đồng không những là môi trường sản sinh ra các hiện
tượng văn hóa phi vật thể mà còn là nơi tốt nhất để giữ gìn, bảo vệ, làm giàu
và phát huy chúng trong đời sống xã hội. Các hiện tượng văn hóa phi vật thể
tồn tại trong ký ức cộng đồng, hình thức diễn xướng, nghi lễ, nghi thức, quy
ước dân gian đã được thể hiện ở lễ hội Côn Sơn - Kiếp Bạc với các giá trị văn
hóa dân gian như Liên hoan diễn xướng hầu thánh, Lễ rước nước, mộc dục,
Lễ Mông Sơn thí thực, Hội thi gói bánh chưng bành dày, liên hoan Pháo đất
tỉnh Hải Dương lần thứ V, giải vật dân tộc, các hoạt động văn hóa văn nghệ,
trò chơi dân gian, chọi gà, hát quan họ, viết thư pháp...Đây là dịp để tuyên
truyền quảng bá các giá trị của lễ hội Côn Sơn - Kiếp Bạc, giữ gìn phát huy
giá trị văn hóa dân tộc, duy trì và phục vụ nhu cầu sinh hoạt tín ngưỡng của
nhân dân và du khách trong nước và quốc tế.
1.2 Đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước về công tác bảo
tồn và phát huy giá trị lễ hội
Trong thời kỳ đẩy mạnh Công Nghiệp Hóa, Hiện Đại Hóa đất nước và
giao lưu hội nhập quốc tế, Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều chủ trương

12


đường lối và chính sách bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa nhằm nâng
cao đời sống tinh thần của nhân dân, góp phần phát triển kinh tế xã hội của
đất nước.
Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII đã
xác định các quan điểm chỉ đạo cơ bản và những nhiệm vụ cụ thể để xây dựng
và phát triển nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Các quan điểm
này được bổ sung, phát triển, thể hiện trong Văn kiện Đại hội lần thứ IX và
Hội nghị lần thứ mười khoá IX của Đảng. Đây là những tư tưởng, lý luận
quan trọng của Đảng về lĩnh vực văn hóa trong thời kỳ đổi mới, cần được
triển khai sâu rộng trong toàn bộ đời sống xã hội.

Di sản văn hóa là tài sản, của cải quý báu kết tinh sự sáng tạo lâu dài
của dân tộc do lịch sử để lại, bao gồm các di sản văn hóa vật thể và di sản văn
hóa phi vật thể. Di sản văn hóa còn là cơ sở để liên kết cộng đồng, là nền tảng
để sáng tạo các giá trị văn hóa mới, là tiền đề để mở rộng giao lưu văn hóa
với các dân tộc khác trên thế giới. Di sản văn hóa không chỉ nhằm thoả mãn
nhu cầu tinh thần của nhân dân, góp phần khẳng định niềm tự hào dân tộc, mà
còn là nguồn lực để phát triển kinh tế - xã hội. Giáo dục truyền thống yêu
nước và cách mạng qua hệ thống di sản văn hóa có ý nghĩa đặc biệt quan
trọng đối với thế hệ trẻ hiện nay. Vì vậy, đầu tư cho việc bảo tồn, tôn tạo các
di tích lịch sử văn hóa, nâng cao trách nhiệm của nhân dân đối với việc bảo vệ
và phát huy vai trò của di sản văn hóa dân tộc là công việc vừa cơ bản, vừa
cấp bách, cần phải được tiến hành nghiêm túc, kiên trì và thận trọng.
Điều 30, Hiến pháp nước Cộng hòa Xã hội Chủ Nghĩa Việt Nam năm
1992 quy định: “Nhà nước và xã hội bảo tồn, phát triển nền vănhóa Việt Nam:
dân tộc, hiện đại, nhân văn; kế thừa và phát huy những giá trị của nền văn
hiến các dân tộc Việt Nam,… tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại; phát huy
mọi tài năng sáng tạo trong nhân dân" [16; Tr. 13]. Tháng 11-1993, Hội nghị
Trung ương IV khóa VII đã dành riêng một nghị quyết về một số nhiệm vụ
văn hóa văn nghệ trong những năm trước mắt. Trong sáu định hướng về công
tác tư tưởng, có một định hướng lớn về phát triển văn hóa với hai nội dung cơ

13


bản là phát huy bản sắc văn hóa dân tộc và tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân
loại.
Văn bản có ý nghĩa định hướng chiến lược phát triển văn hóa hiện nay
là ( Văn kiện Hội nghị lần thứ V) Nghị quyết Trung ương V khóa VIII đã nêu
rõ: “Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, làm cho văn hóa thấm sâu vào

toàn bộ đời sống và hành động xã hội, vào từng người, từng gia đình, từng tập
thể và cộng đồng, từng địa bàn dân cư, vào mỗi lĩnh vực sinh hoạt và quan hệ
con người”. “Di sản văn hóa là tài sản vô giá, gắn kết cộng đồng dân tộc, là
cốt lõi của bản sắc dân tộc, cơ sở để sáng tạo những giá trị mới và giao lưu
văn hóa. Hết sức coi trọng bảo tồn, kế thừa, phát huy những giá trị
văn hóa truyền thống (bác học và dân gian), văn hóa cách mạng, bao gồm cả
văn hóa vật thể và phi vật thể” [7; Tr. 14].
Trên tinh thần đó, hàng loạt giải pháp xây dựng và phát triển văn hóa,
nâng cao đời sống tinh thần cho nhân dân đã ra đời. Chỉ thị số 27 - CT/TW
ngày 12 - 1 -1998, của Bộ Chính trị về việc thực hiện nếp sống văn minh
trong việc cưới, việc tang, lễ hội; Chỉ thị số 14/1998/TC - TTg ngày 28 - 3 1998 của Thủ tướng Chính phủ về việc thực hiện nếp sống văn minh trong
việc cưới, việc tang, lễ hội đã dẫn đến việc ra đời Thông tư số 04/1998/TT BVHTT ngày 11 - 7 - 1998 của Bộ Văn hóa - Thông tin hướng dẫn thực hiện
nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang, lễ hội. Hệ thống pháp luật có
liên quan đến di sản văn hóa truyền thống được cụ thể hóa bằng Luật Di sản
văn hóa, bằng Quy chế tổ chức lễ hội. Chính phủ cũng đã tiến hành đầu tư qua
Chương trình mục tiêu quốc gia về văn hóa cho việc nghiên cứu, sưu tầm,
phục hồi các giá trị di sản, nhờ đó, huy động được sự quan tâm của cộng đồng
đối với các di sản văn hóa.
Ngày 19 - 1 - 1993, Thủ tướng Chính phủ ra Quyết định số 25/TTg Về
một số chính sách nhằm xây dựng và đổi mới sự nghiệp văn hóanghệ thuật,
xác định việc phát triển nền văn hóa nghệ thuật mang bản sắc dân tộc Việt
Nam là trách nhiệm, nghĩa vụ của toàn dân. Nhà nước tạo điều kiện, xây dựng

14


cơ sở hạ tầng và trang bị phương tiện cho việc phát triển văn hóa nghệ thuật
mang bản sắc dân tộc. Quyết định cũng chỉ ra những chính sách cụ thể như
đầu tư cho việc sưu tầm, chỉnh lý, biên soạn, bảo quản lâu dài, phổ biến văn
học dân gian, các điệu múa, các làn điện âm nhạc của các dân tộc, giữ gìn các

nghề thủ công truyền thống, các loại nhạc dân tộc, xây dựng các tiết mục dân
tộc như tuồng, chèo, dân ca, cải lương, múa rối, đồng thời khen thưởng những
người có công trong việc sưu tầm và bảo tồn giá trị văn hóa dân tộc.
Luật Di sản văn hóa được Quốc hội khóa 10, kỳ họp thứ 9 thông qua
ngày 14 - 6 - 2001, có hiệu lực từ ngày 1 - 1 - 2002 là cơ sở pháp lý cao nhất
nhằm bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa ở Việt Nam. Với các điều
khoản cụ thể, rõ ràng, phạm vi điều chỉnh của bộ luật bao gồm cả văn hóa phi
vật thể và văn hóa vật thể, quy định cụ thể việc kiểm kê, sưu tầm vốn
văn hóa truyền thống (bao gồm văn hóa bác học và văn hóa dân gian) của
người Việt và các tộc người thiểu số, bảo tồn các làng nghề truyền thống, các
tri thức về y, nghệ sĩ bậc thầy trong các ngành, nghề truyền thống về quản lý
bảo vệ và phát huy giá trị của các di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia cùng việc
xây dựng các bộ sưu tập và tổ chức các bảo tàng, việc mở hệ thống các cửa
hàng mua bán cổ vật, lập các bảo tàng và sưu tập tư nhân, thống nhất việc sử
dụng các nguồn thu và trách nhiệm của Nhà nước trong việc cung cấp ngân
sách cho hoạt động bảo vệ và phát huy di sản văn hóa, cho phép tổ chức trưng
bày cổ vật ở nước ngoài, việc người nước ngoài nghiên cứu, sưu tầm các di
sản văn hóa ở Việt Nam và đặc biệt là việc hợp tác quốc tế để bảo hộ những di
sản văn hóa Việt Nam ở nước ngoài.
Như vậy không chỉ có các chương trình, kế hoạch của ngành Văn hóa,
Thể thao và Du lịch, đề nghị cấp ủy Đảng, chính quyền các cấp cần chủ động
chỉ đạo, xây dựng kế hoạch, làm tốt công tác kiểm kê, lưu giữ tư liệu khoa
học di sản văn hóa phi vật thể nói chung trong đó có các di sản văn hóa phi
vật thể tại các di tích và trong cộng đồng liên quan tới thời Trần. Đặc biệt các
cơ quan quản lý nhà nước các cấp cần hướng dẫn, tuyên truyền cho cộng
đồng tham gia tích cực vào công tác bảo tồn và phát huy giá trị lễ hội Côn

15



Sơn – Kiếp Bạc.
Năm 2011, Văn kiện Đại hội XI của Đảng tiếp tục nhấn mạnh công
tác bảo tồn, phát huy giá trị các di sản văn hóa truyền thống, cách mạng:
Hoàn thiện và thực hiện nghiêm túc các quy định của pháp luật về sở hữu trí
tuệ, về bảo tồn, phát huy giá trị các di sản văn hoá vật thể và phi vật thể của
dân tộc. Gắn kết chặt chẽ nhiệm vụ phát triển văn hoá, văn nghệ, bảo tồn, phát
huy giá trị các di sản văn hoá với phát triển du lịch và hoạt động thông tin đối
ngoại nhằm truyền bá sâu rộng các giá trị văn hoá trong công chúng, đặc biệt
là thế hệ trẻ và người nước ngoài. Xây dựng và thực hiện các chính sách bảo
tồn, phát huy giá trị văn hoá, ngôn ngữ, chữ viết các dân tộc thiểu số.
Có thể thấy công tác bảo tồn và phát huy các giá trị di sản văn hóa được
quan tâm đặc biệt. Bằng chính sách xếp hạng của Nhà nước, nhiều di tích có
giá trị tiêu biểu về lịch sử, văn hóa và khoa học đã được đặt dưới sự bảo vệ
của pháp luật. Trên thực tế, quan điểm đường lối của Đảng, chính sách của
nhà nước trong thời gian qua đã có tác dụng bảo tồn và phát huy giá trị di sản
văn hóa, trong đó có lễ hội tác động mạnh mẽ đến sự nghiệp xây dựng nền
văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, tạo động lực phát triển
ngành du lịch, đóng góp tích cực vào sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội thời
kỳ đẩy mạnh Công Nghiệp Hóa, Hiện Đại Hóa đất nước và giao lưu hội nhập
quốc tế.
1.3 Khái quát về di tích và lễ hội Côn Sơn - Kiếp Bạc
1.3.1. Đặc điểm di tích
Tài liệu thuyết minh khu di tích Côn Sơn - Kiếp Bạc (tài liệu nội bộ)
viết: "Côn Sơn - Kiếp Bạc là hai di tích lịch sử đặc biệt quan trọng của quốc
gia; thời Trần thuộc huyện Phượng Sơn, lộ Lạng Giang, thời Lê đổi thành
huyện Phượng Nhỡn, thuộc thừa tuyên Bắc Giang, sau là trấn Kinh Bắc. Khu
di tích Côn Sơn - Kiếp Bạc nay thuộc thị xã Chí Linh, tỉnh Hải Dương. Sách
Cao Biền di cảo và Chí Linh phong vật chí chép rằng: Côn Sơn, Kiếp Bạc
mạch tự Huyền Đinh, thế ngăn Đông Bắc, bốn phương quy phục, núi sông kỳ
hình kỳ dạng, long bàn hổ cứ, như muôn quân nghìn tướng chầu về, ở đất này


16


sẽ được hưởng phúc muôn đời, khu di tích danh thắng Côn Sơn bao gồm cả
núi Kỳ lân liền kề, đền Kiếp Bạc tựa lưng vào núi Trán Rồng, trước mặt là
sông Lục Đầu. Côn Sơn - Kiếp Bạc lại tiếp giáp với dãy núi Phượng Hoàng
và núi Rùa (phía tây bắc), tạo thành một quần đất quần tụ đủ tứ linh, ngũ
nhạc, lục đầu giang. Đó là sự sắp đặt kỳ diệu của tạo hóa đối với khu di tích
danh thắng Côn Sơn - Kiếp Bạc - Phượng Hoàng với sông núi thị xã Chí
Linh" [6; Tr. 16].
Đây là vùng đất lịch sử còn mãi âm vang những chiến công lừng lẫy
trong ba lần quân dân nhà Trần chiến thắng quân xâm lược Nguyên Mông thế
kỷ XIII và trong cuộc kháng chiến 10 năm của nghĩa quân Lam Sơn chống
quân Minh ở thế kỷ XV, bên cạnh đó còn là vùng danh sơn huyền thoại, với
những thắng cảnh tuyệt vời, những di tích cổ kính, gắn liền với thân thế, sự
nghiệp của Trần Hưng Đạo và Nguyễn Trãi, hai vị anh hùng dân tộc kiệt xuất
đã làm rạng rỡ cho non sông đất nước, cùng với nhiều danh nhân văn hóa của
dân tộc: Trần Nhân Tông, Pháp Loa, Huyền Quang, Trần Nguyên Đán.
Nếu như khu di tích lịch sử Kiếp Bạc là một trung tâm nội đạo thờ Đức
thánh Trần thì khu di tích Côn Sơn là một trong những trung tâm Phật giáo
của dòng thiền phái Trúc Lâm Đại Việt mà Điều Ngự Giác Hoàng Trần Nhân
Tông sáng lập ở thế kỷ XIV. Côn Sơn còn là nơi thờ quan Đại tư đồ Trần
Nguyên Đán và Anh hùng dân tộc Nguyễn Trãi không chỉ là nhà tư tưởng, nhà
chính trị, quân sự, ngoại giao thiên tài, mà còn là nhà danh nhân văn hoá thế
giới. Ông đã để lại cho dân tộc nhiều thành tựu trên các lĩnh vực khoa học,
văn học, địa lý, lịch sử, quân sự... với những tác phẩm tiêu biểu như: Quân
trung từ mệnh tập, Bình Ngô đại cáo, Dư địa chí, Quốc âm thi tập, Văn bia
Vĩnh Lăng... Năm 1980, nhân kỷ niệm 600 năm ngày sinh Nguyễn Trãi,
UNESCO vinh danh ông là Danh nhân Văn hoá thế giới. Đặc biệt Côn Sơn Kiếp Bạc là một trong những khu di tích tiêu biểu kết tinh tư tưởng tam giáo

đồng nguyên: Phật giáo - Đạo giáo - Nho giáo cùng hòa đồng, mục đích là
quy tụ nhân tâm, lấy thần quyền phục vụ cho vương quyền, củng cố tư tưởng
độc lập tự chủ của dân tộc.

17


Di tích lịch sử và kiến trúc nghệ thuật Côn Sơn - Kiếp Bạc thuộc địa
bàn thị xã Chí Linh, tỉnh Hải Dương là một khu di tích lịch sử văn hóa, đồng
thời là một danh thắng nổi tiếng, điểm đến thường xuyên của đông đảo du
khách gần xa. Tổng thể khu di tích gồm 2 khu vực chính: chùa Côn Sơn và
đền Kiếp Bạc.
Khu vực chùa Côn Sơn
Chùa Côn Sơn (hay còn gọi là chùa Kỳ Lân, chùa Hun), tọa lạc ở chân
núi Kỳ Lân (núi Hun). Chùa có tên chữ là Thiên Tư Phúc tự. Đến thời Lê,
chùa tiếp tục được trùng tu, mở rộng lớn với 83 gian tòa ngang dãy dọc, gạch
đỏ, ngói để men màu và 385 pho tượng. Tuy nhiên, trải qua biến thiên của lịch
sử, chùa đã bị thu nhỏ lại với kiến trúc hiện nay hình chữ công (工), gồm 3 toà:
Tiền đường, Thiêu hương và Thượng điện. Thượng điện thờ Phật, trong đó có
những bức tượng Phật cao 3m, mang đậm phong cách nghệ thuật thời Lê,
đáng chú ý là bia "Thanh Hư Động" dựng từ thời Long Khánh (1373 - 1377)
còn lưu giữ bút tích của Vua Trần Duệ Tông và bia hình lục lăng "Côn Sơn
thiện tư bi phúc tự" đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc khi Người về thăm di
tích vào ngày 15/2/1965.
Các hạng mục kiến trúc chính của chùa hiện nay gồm: hồ bán nguyệt,
tam quan, sân trước, tiền đường (5 gian, 2 chái), thiêu hương (3 gian), thượng
điện (3 gian), nhà Tổ, điện Mẫu, vườn tháp, nhà bia, cùng một số hạng mục
phụ trợ khác…Tả, hữu hậu hành lang: hai dãy tả, hữu hậu hành lang dài
75,13m, rộng 3,86m, mỗi bên gồm 29 gian. Và Thanh Hư động nằm ở phía
Tây Bắc núi Côn Sơn. Đây là một thung lũng, được bao bọc bởi núi Côn Sơn

và núi Ngũ Nhạc, giữa là suối Côn Sơn. Đền thờ Nguyễn Trãi là công trình
trọng điểm nằm trong quần thể khu di tích Côn Sơn - Kiếp Bạc, kiến trúc theo
truyền thống và rất độc đáo; Tiếp theo đó là Đền thờ Trần Nguyên Đán được
dựng trên mặt bằng kiến trúc dạng chữ Đinh, gồm bái đường và hậu cung. Và
có Bàn cờ tiên, Núi Ngũ Nhạc là dãy núi xoải dài từ Bắc xuống Nam, Còn
Giếng Ngọc nằm ở sườn núi Kỳ Lân, dưới chân Ðăng Minh Bảo Tháp thường
được các sư trong chùa lấy nước giếng thiêng để cúng lễ. Đặc biệt là Hồ Côn

18


Sơn có diện tích 43 ha, với sức chứa hàng trăm ngàn mét khối nước, bao
quanh hồ là hệ thống đường dạo, cây cảnh và suối Côn Sơn bắt nguồn từ hai
dãy núi Côn Sơn và Ngũ Nhạc, dài khoảng 3km, uốn lượn tạo thành nhiều
ghềnh, thác kế tiếp nhau, rồi đổ vào hồ Côn Sơn. Ngoài hệ thống tượng Phật
đã có từ xa xưa, trong những năm qua, hệ thống tượng Phật trong chùa Côn
Sơn không ngừng được tu tạo từ nguồn kinh phí xã hội hóa do nhân dân, phật
tử cung tiến [A1; Tr. 67].
Khu vực đền Kiếp Bạc
Năm 2014, với sự đóng góp công đức của nhân dân, đền Kiếp Bạc
được đại trùng tu quy mô lớn. Theo văn bia, đây là đợt đại trùng tu lần thứ tư
trong lịch sử, thể hiện sự tri ân của thế hệ chúng ta với Đức Thánh Trần. Các
công trình kiến trúc trở nên hoàn chỉnh, bố cục cân đối, lấy núi Tráng Rồng
khởi điểm phát triển ra đê sông Lục Đầu, bố cục theo luật đối xứng tuân thủ
nguyên tắc âm dương ngũ hành, bát phương ngũ sắc, mang phong cách cung
đình gồm: Thần đạo, nghi môn, Tả hữu thành các, giếng mắt rồng, nhà Bạc, tả
hữu giải vũ, đền chính.
Đền Kiếp Bạc tức đền thờ Hưng Đạo đại vương Trần Quốc Tuấn (Trần
Hưng Đạo vương từ), còn được biết đến với các tên gọi khác, như đền Kiếp,
đền Vạn Kiếp, đền Trần Hưng Đạo. Đền được xây dựng ở trung tâm của

thung lũng Kiếp Bạc, trên một khu đất có diện tích khoảng 13.5km 2. Đền
quay về hướng Tây Nam, nhìn ra sông Lục Đầu, Các công trình kiến trúc trở
nên hoàn chỉnh, bố cục cân đối, lấy núi Tráng Rồng khởi điểm (dương) phát
triển ra đê sông Lục Đầu (âm), bố cục theo luật đối xứng tuân thủ nguyên tắc
âm dương ngũ hành, bát phương ngũ sắc, mang phong cách cung đình gồm:
Thần đạo, nghi môn, Tả hữu thành các, giếng mắt rồng,tắc môn, nhà Bạc, tả
hữu giải vũ, đền chính. Đền chính được dựng theo dạng “tiền nhất, hậu đinh”,
gồm tiền tế, trung từ và hậu cung.
Nghi môn là công trình kiến trúc đồ sộ hoành tráng, thiết kế kiểu cổng
thành dạng bức cuốn thư với ba cửa vòm và hai trụ biểu lớn. Đây là bức tranh
sinh động hội tụ đủ tứ linh, tứ quý, khái quát cả âm dương, trời đất, thiên

19


nhiên, con người nơi đất thánh. Qua nghi môn là tả hữu Thành các, trong sân
là giếng mắt Rồng giếng nằm ở trung tâm thung lũng dãy núi Rồng do mạch
nước ngầm từ núi chảy ra. Nước giếng thơm và trong mát tiếp thêm sức mạnh
cho quân sĩ khi ra trận. Giữa sân là Tắc môn (thường gọi là nhà Bạc). Công
trình nằm trên đường thần đạo, là cầu nối giữa nghi môn và đền chính, mang
ý nghĩa như một bình phong chắn tà khí cho Đền. Đây là nơi tổ chức các nghi
lễ trọng thể của Nhà nước dần hương tưởng niệm Đức Thánh Trần.
Tại gian tiền tế của đền Kiếp Bạc hiện còn trưng bày 2 đoạn xương ống
chân voi. tương truyền đây là con voi chiến của Hưng Đạo Đại Vương - Trần
Quốc Tuấn.Và Đền Nam Tào thờ quan Nam Tào, cách đền Kiếp Bạc 500m về
phía Tây Nam, thuộc thôn Dược Sơn. Kiến trúc này được xây dựng trên một
không gian thoáng, gồm các thành phần kiến trúc đó là trụ biểu, tam quan, gác
chuông, gác trống, tả hữu hành lang, đền chính và hậu đường. Phía song hành là
Đền Bắc Đẩu thờ quan Bắc Đẩu, được xây dựng trên đỉnh núi Bắc Đẩu, trong một
không gian thoáng rộng, gồm các hạng mục: nghi môn, gác chuông, gác trống, tả

hữu hành lang, đền chính, hậu đường và một số công trình phụ trợ khác…
Sông Lục Đầu - Cồn Kiếm là nơi đã diễn ra trận Vạn Kiếp lịch sử (năm
1285), chấm dứt cuộc chiến tranh xâm lược Đại Việt của quân Nguyên Mông
lần thứ 2. Sông Lục Đầu có vị trí chiến lược rất quan trọng. Tại đây, Thượng
hoàng Trần Thánh Tông, vua Trần Nhân Tông đã tổ chức Hội nghị Bình Than.
Trên sông Lục Đầu, trước cửa đền Kiếp Bạc có một cồn cát chạy dài, gọi là
Cồn Kiếm. Tương truyền, đây là nơi Trần Hưng Đạo thả kiếm xuống sông khi
đất nước thái bình. Bên cạnh đó Kiếp Bạc còn là nơi hội tụ của 6 con sông
(Lục Đầu giang), đó là sông Lục Nam, sông Thương, sông Cầu, sông Đuống,
sông Kinh Thầy và sông Thái Bình. Đây cũng là nơi Đức Thánh Trần hóa
thân vào sông núi.[A2; Tr. 67]
Các nhân vật được phụng thờ tại di tích
Đền Kiếp Bạc thờ anh hùng dân tộc Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc
Tuấn cùng toàn thể gia quyến. Đền tọa lạc giữa thung lũng núi Rồng, thuộc địa
phận 2 làng Vạn Yên (tên nôm là Kiếp) và làng Dược Sơn (tên nôm là Bạc) nên

20


có tên gọi là đền Kiếp Bạc. Ở đền Kiếp Bạc cách bài trí thờ tự như sau:
Tòa Hậu cung bao gồm cung cấm và cung ngoài, ở cung cấm thì bài trí
thờ tự chính cung là Ban thờ Gia tiên và ban thờ Đức Quốc mẫu (phu nhân
Đức Thánh Trần). Hai bên là ban thờ Đệ nhất Vương cô Khâm từ Hoàng Thái
Hậu Quyên Thanh Công chúa; và Ban thờ Đệ nhị nữ đại Hoàng Anh Nguyên
quận chúa giữ nguyên. Còn ở cung ngoài thì bài trí Ban thờ Đức Thánh Trần
Hưng Đạo. Phía trước là ban thờ Tứ vị Vương tử bằng ngai và bài vị gồm:
Hưng Vũ Vương, Hưng Hiến Vương, Hưng Nhượng Vương và Hưng Tri
Vương. Tiếp đến là Tòa Trung từ ở chính giữa là Ban thờ Phạm Điện Súy
Tiền tướng quân Phạm Ngũ Lão. Hai bên là hai ban thờ tướng quân Yết Kiêu
(bên trái) và tướng quân Dã Tượng (bên phải).

Cuối cùng là Tòa Tiền Tế có bài trí Ban thờ Công đồng Trần Triều ở
chính giữa, hai bên là Tả chiêng, hữu trống.
Tại di tích Kiếp Bạc, tượng thần Nam Tào và Bắc Đẩu được đặt ở hai
ngôi đền riêng chứng minh cho mối quan hệ chặt chẽ của di tích Nam Tào,
Bắc Đẩu với đền Kiếp Bạc. Đền Kiếp Bạc thờ anh hùng dân tộc Hưng Đạo
Đại Vương Trần Quốc Tuấn. Trong tâm thức nhân gian, sau khi mất ngài đã
hóa thành, được tôn làm Cửu Thiên Vũ Đế cai quản 3 cõi: Thiên đình, trần
gian, và âm phủ (tức Ngọc Hoàng). Vì vậy, cùng với việc dựng đền Kiếp Bạc,
nhân dân đã lập đền, chùa Nam Tào, Bắc Đẩu thờ quan Bắc Đẩu và quan Nam
Tào trên hai ngọn núi hai bên đền Kiếp Bạc, coi đó là những vị thần giúp việc
Đức Thánh Trần.
Còn ở chùa Côn Sơn thờ Nguyễn Trãi vị anh hùng dân tộc kiệt xuất đã
làm rạng rỡ cho non sông đất nước, cùng với nhiều danh nhân văn hóa của
dân tộc: Trần Nhân Tông, Pháp Loa, Huyền Quang, Trần Nguyên Đán..Đền
thờ Nguyễn Trãi cũng được khởi công xây dựng trên khuôn viên đất rộng, tại
chân núi Ngũ Nhạc, nằm trong khu vực Thanh Hư Động và gần nơi ngày xưa
từng có đền thờ bà Trần thị Thái, thân mẫu của Nguyễn Trãi. Đền thờ chính, hai
nhà Tả vu, Hữu vu, Nghi môn nội, Nghi môn Ngoại, Nhà Bia, Am hóa vàng.
Tiếp đó là đến đền thờ Trần Nguyên Hãn nằm trên đền thờ Nguyễn

21


×