Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

GIÁ TRỊ lí LUẬN và THỰC TIỄN TRONG tác PHẨM ĐƯỜNG KÁCH MỆNH copy

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (111.1 KB, 12 trang )

GIÁ TRỊ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN TRONG TÁC PHẨM
ĐƯỜNG KÁCH MỆNH – KIM CHỈ NAM CHO THẮNG
LỢI CỦA CÁCH MẠNG VIỆT NAM
Tóm tắt: Đường Kách mệnh tập hợp những bài giảng của Nguyễn Ái
Quốc đã giảng tại lớp Huấn luyện chính trị trong những năm 1925-1927. Trong
bối cảnh Việt Nam đang khủng hoảng trầm trọng về đường lối cách mạng, về
phương pháp cách mạng và đặc biệt hơn là sự khủng hoảng về tổ chức cách
mạng thì những nội dung quan trọng của Đường Kách mệnh đã góp phần trang
bị cho nhân dân tư tưởng mới của thời đại, đưa cách mạng Việt Nam hoà nhập
cùng dòng chảy chung của cách mạng thế giới. Ở giai đoạn hiện nay, việc
nghiên cứu và vận dụng những giá trị của tác phẩm “Đường Cách mệnh” vào
sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, tiến hành công cuộc đổi mới đất nước
vẫn còn nguyên giá trị và có ý nghĩa hết sức quan trọng.
1. Những giá trị lí luận của tác phẩm Đường Kách mệnh:
Đường Kách mệnh là sự kết tinh có chọn lọc của Nguyễn Ái Quốc đối với
những gì tiếp thu được trong quá trình tìm đường cứu nước. Người đã tìm hiểu
và nghiên cứu các cuộc cách mạng trên thế giới, đặc biệt Người đã tiếp thu và
vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin một cách sáng tạo vào tình hình cách mạng
Việt Nam để tạo ra những giá trị lí luận sâu sắc cho tác phẩm.
1.1. Vấn đề tư cách người cách mạng:
Với một quan niệm mới, Nguyễn Ái Quốc đã đánh giá cao vai trò, vị trí
của đạo đức, coi đạo đức là cái gốc của người cán bộ - yếu tố quyết định thành
bại của cách mạng. Nội dung đạo đức cách mạng không chỉ bao hàm những
phẩm chất cá nhân mà cả những vấn đề cơ bản về nhân sinh quan, thế giới quan
cách mạng, về ý thức và phương pháp tư tưởng của giai cấp công nhân. Người
đã coi việc giáo dục đạo đức cách mạng là một trong những nguyên tắc cơ bản,
nhằm xây dựng những con người cách mạng chân chính, để tiến tới xây dựng
1


một đảng cách mạng chân chính của giai cấp công nhân Việt Nam. Đây cũng là


một bài học quan trọng hàng đầu đối với tổ chức tiền thân của Đảng - Hội Việt
Nam Cách mạng Thanh niên. Có thể nói, việc lấy tiêu chuẩn đạo đức làm một
trong hai tiêu chuẩn (đức và tài) của người cán bộ cách mạng, người đảng viên
cộng sản, ngay từ khi chuẩn bị về chính trị, tư tưởng và tổ chức cho sự ra đời
của Đảng Cộng sản Việt Nam là một sáng tạo độc đáo, mang đậm dấu ấn Hồ
Chí Minh. Ngày nay, tiêu chuẩn này vẫn còn nguyên giá trị trong việc lựa chọn
cán bộ cho công cuộc đổi mới đất nước.
1.2. Xác định con đường cách mạng Việt Nam:
Trong Đường Kách mệnh, Nguyễn Ái Quốc đã giới thiệu, phân tích
những cuộc cách mạng điển hình trên thế giới: Từ cách mạng tư sản Mỹ 1776;
cách mạng tư sản Pháp 1789; đến cách mạng tháng 10 Nga 1917. Sau khi so
sánh cách mạng tư sản với cách mạng vô sản, Người khẳng định: “Cách mệnh
Pháp cũng như cách mệnh Mỹ, nghĩa là cách mệnh tư bản, cách mệnh không
đến nơi, tiếng là cộng hòa và dân chủ, kỳ thực trong thì nó tước lục công nông,
ngoài thì nó áp bức thuộc địa. Cách mệnh đã 4 lần rồi, mà nay công nông Pháp
hẵng còn phải mưu cách mệnh lần nữa mới hòng thoát khỏi vòng áp bức”1.
Người chỉ ra: “Trong thế giới bây giờ chỉ có cách mệnh Nga là đã thành
công, và thành công đến nơi, nghĩa là dân chúng được hưởng cái hạnh phúc tự
do, bình đẳng thật, không phải tự do và bình đẳng giả dối như đế quốc chủ
nghĩa Pháp khoe khoang bên An Nam”2. Vì vậy, Nguyễn Ái Quốc khẳng định
rằng: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc, không có con đường nào khác
con đường cách mạng vô sản”3. Theo Người, cách mạng Việt Nam phải đi theo
con đường cách mạng vô sản, chỉ có cách mạng vô sản mới là cách mạng triệt
để nhất và cũng chỉ có nó mới vì lợi ích của đại đa số nhân dân lao động

1

Hồ Chí Minh, Toàn tập , t 2, tr. 274

2


Hồ Chí Minh, Sđd, t 2, tr. 280.

3

Hồ Chí Minh, Sđd, t 9, tr. 314.

2


Đây là điểm xuất phát, đồng thời là điểm khác nhau cơ bản giữa con đường
cứu nước của Nguyễn Ái Quốc với các con đường cứu nước trước đó.
1.3. Tính chất và mục tiêu của cách mạng Việt Nam
“Đường Kách mệnh” đưa ra một cách khái quát những quan điểm cốt lõi
của chủ nghĩa Mác - Lênin về con đường cách mạng Việt Nam: độc lập dân tộc
gắn liền với chủ nghĩa xã hội và chia thành hai giai đoạn trên một nền tảng
chung, đó là “dân tộc cách mệnh” và “thế giới cách mệnh”. “Cách mạng thuộc
địa trước hết là một cuộc cách mạng dân tộc đánh đổ đế quốc giành độc lập tự
do”. Muốn xóa bỏ chế độ bóc lột, muốn có tự do, hạnh phúc, bình đẳng thật sự
thì phải trải đánh đuổi đế quốc giành được độc lập.
Tư tưởng về đường lối chiến lược cách mạng ở thuộc địa là tiến hành giải
phóng dân tộc tiến lên cách mạng xã hội chủ nghĩa. Song, trước hết phải giải
phóng dân tộc, đánh đuổi bọn đế quốc, giành lấy độc lập tự do, Nguyễn Ái
Quốc đã sớm xác định một cách đúng đắn tính chất của cách mạng ở các nước
thuộc địa là “dân tộc cách mạng”: “Nước đã mất thì dân cũng mất cả quyền lợi
về kinh tế - chính trị, mất cả tự do độc lập. Ách áp bức dân tộc của đế quốc đã
làm cho các dân tộc bị nô lệ không chịu nổi mãi đã tỉnh ngộ lên, đoàn kết lại,
biết rằng thà chết được tự do hơn sống làm nô lệ, đồng tâm hiệp lực đánh đuổi
tụi áp bức mình đi, ấy là dân tộc cách mạng”4 . Nhận thức và xác định đúng các
vấn đề về kẻ thù, về nhiệm vụ cách mạng, về các lực lượng sáng tạo nên dân

tộc, ... ở các nước thuộc địa, bọn đế quốc và phong kiến phản động thường cấu
kết với nhau, áp bức bóc lột nhân dân lao động và dân bản xứ. Vì vậy, nhiệm vụ
chủ yếu của cách mạng ở thuộc địa là phải tập trung lực lượng chống chủ nghĩa
đế quốc xâm lược và thống trị, giương cao ngọn cờ chống đế quốc, giành độc
lập tự do và sau khi thắng lợi sẽ phát triển di lên chủ nghĩa xã hội.
1.4. Xác định lực lượng cách mạng:

4

Hồ Chí Minh, Sđd, t 2, tr. 349-350

3


Xuất phát từ mục tiêu, nhiệm vụ trước mắt của cách mạng giải phóng dân
tộc là đánh đổ đế quốc và bọn phong kiến tay sai, giành độc lập dân tộc, nên
Nguyễn Ái Quốc đánh giá cao sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước và tinh thần
dân tộc, chủ trương sự tập hợp rộng rãi đó, Người nhấn mạnh: “Công nông là
người chủ cách mệnh, là gốc cách mệnh”; “còn học trò, nhà buôn nhỏ, điền
chủ nhỏ cũng bị tư bản áp bức, song không cực khổ bằng công nông; ba hạng
ấy chỉ là bầu bạn cách mệnh của công nông thôi”5. Rõ ràng đó là một nhận thức
sáng suốt, một chủ trương đúng đắn không phải người mácxít nào thời đó cũng
có quan điểm rõ ràng như vậy. “Trong thời đại hiện nay, giai cấp công nhân là
giai cấp độc nhất và duy nhất có sứ mệnh lịch sử là lãnh đạo cách mạng đến
thắng lợi cuối cùng”6. Nông dân là lực lượng đông đảo nhất ở thuộc địa, bị đế
quốc và phong kiến bóc lột nặng nề, phải đi với giai cấp công nhân, thì mới có
thể giải phóng được. Ngược lại, giai cấp công nhân muốn giành được quyền
lãnh đạo thì phải liên minh với nông dân.
1.5. Xác định phương pháp cách mạng:
Xuất phát từ nhận thức việc giải phóng gông cùm nô lệ cho đồng bào, cho

nhân loại là công việc “to tát”, cho nên phải “dùng hết sức”, phải “quyết tâm
làm thì chắc được”, “thà chết tự do còn hơn sống làm nô lệ”. Nhưng phải “biết
cách làm thì mới chóng”; và “cách mệnh trước hết phải làm cho dân giác
ngộ”. Tiếp theo tư tưởng khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền đề ra 1924
trong báo cáo về “Bắc kỳ, Trung kỳ, Nam kỳ”. Ở tác phẩm Đường Kách mệnh,
Nguyễn Ái Quốc đã phát triển thêm: Dân khí mạnh thì quân lính nào, súng ống
nào cũng không chống lại nổi. Quan điểm của Nguyễn Ái Quốc về phương
pháp cách mạng thể hiện rõ quan điểm cách mạng bạo lực. Người chỉ ra những
thiếu sót của những người đi trước như “xúi dân bạo động mà không bày cách
tổ chức” hoặc “làm cho dân quen tính ỷ lại mà quyên tính tự cường”, phê phán
5

Hồ Chí Minh, Sđd, t 2, tr. 266

6

Hồ Chí Minh, Sđd, t1, tr. 449

4


các phương pháp ám sát, cải lương,… Tóm lại phải có sách lược, mưu chước,
kế hoạch, lúc nào nên làm, lúc nào chưa nên làm, như vậy cách mạng mới đi
đến thắng lợi. Như vậy, phương pháp cách mạng mà Đường Kách mệnh nói tóm
lại nó là gì? Chính là con đường sử dụng bạo lực cách mạng.
1.6. Vấn đề đoàn kết quốc tế:
Đi đôi với đại đoàn kết dân tộc, Đường Kách mệnh đã chỉ ra tầm quan
trọng của đoàn kết quốc tế: Cách mạng An Nam cũng là một bộ phận của cánh
mạng thế giới. Ai làm cách mệnh trong thế giới đều là đồng chí của dân An
Nam cả… “dân An Nam đương lúc tranh đấu với đế quốc chủ nghĩa Pháp…

phải cần anh em trên thế giới giúp giùm”. Nguyễn Ái Quốc đã không nhìn nhận
cách mạng Việt Nam một cách biệt lập mà đặt nó trong thể thống nhất biện
chứng với cách mạng thế giới. Người cho rằng: “An Nam dân tộc cách mệnh
thành công thì tư bản Pháp yếu, tư bản Pháp yếu thì công nông Pháp làm giai
cấp cách mệnh cũng dễ. Và nếu công nông Pháp cách mệnh thành công, thì dân
tộc An Nam sẽ được tự do”7. Nhận định trên của Người không hề võ đoán mà có
căn cứ khoa học, thể hiện sự hiểu biết sâu sắc đất nước, con người, lịch sử của
nhân dân các nước thuộc địa. Thông qua việc trình bày lịch sử, phân tích sự
giống nhau và khác nhau giữa Đệ nhất quốc tế, Đệ nhị quốc tế với Đệ tam quốc
tế thực hiện khẩu hiệu “Vô sản giai cấp và các dân tộc bị áp bức trên thế giới
liên hợp lại!”, Đường Kách mệnh chỉ rõ mối quan hệ mật thiết giữa cách mạng
Việt Nam và cách mạng thế giới, vấn đề đoàn kết dân tộc và đoàn kết quốc tế
trong cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam. Nguyễn Ái Quốc nâng tầm
cuộc cách mạng giải phóng dân tộc bằng quan điểm chủ nghĩa yêu nước chân
chính không thể tách rời chủ nghĩa quốc tế vô sản và khẳng định: “Chúng ta
cách mệnh thì cũng phải liên lạc tất cả những đảng cách mệnh trong thế giới để
chống lại tư bản và đế quốc chủ nghĩa”. Tuy nhiên, Nguyễn Ái Quốc cũng xác
định, muốn người ta giúp cho thì trước hết mình phải tự giúp lấy mình, dựa vào
sức mạnh bên trong của dân tộc chứ không trông chờ vào bên ngoài.
7

Hồ Chí Minh, Sđd, t2, tr. 267

5


1.7. Vai trò hạt nhân lãnh đạo của Đảng:
“Đường Kách mệnh” nhấn mạnh vai trò là hạt nhân lãnh đạo của Đảng nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam và việc lựa chọn mô
hình Nhà nước trong tương la
Nghiên cứu kinh nghiệm của phong trào yêu nước Việt Nam, phong trào

của các dân tộc và giai cấp vô sản trên thế giới, Nguyễn Ái Quốc kết luận, cách
mạng cần phải có tổ chức vững bền mới giành được thắng lợi và sức cách mạng
phải tập trung, muốn tập trung phải có đảng cách mạng. Người chỉ rõ “Trước
hết phải có đảng cách mệnh, để trong thì vận động tổ chức dân chúng, ngoài thì
liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi. Đảng có vững cách
mệnh mới thành công, cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy” 8.
Nguyễn Ái Quốc cũng chỉ rõ, “cách mệnh trước phải làm cho dân giác ngộ…
cách mệnh phải giảng lý luận và chủ nghĩa cho dân hiểu… cách mệnh phải hiểu
phong trào thế giới, phải bày sách lược cho dân… vậy nên sức cách mệnh phải
tập trung, muốn tập trung phải có đảng cách mệnh” 9. Đảng có vai trò to lớn và
quyết định đối với sự nghiệp cách mạng. Đảng có vững thì cách mệnh mới
thành công, cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy. Vai trò lãnh đạo,
tiên phong của Đảng đòi hỏi Đảng phải có chủ nghĩa làm cốt, chủ nghĩa ấy phải
được thấm nhuần trong từng đảng viên. Chủ nghĩa tức là ý thức hệ, là tư tưởng
và tinh thần, là tình cảm, niềm tin cách mạng, bảo đảm cho Đảng có sự thống
nhất về nhận thức và hành động. Không có chủ nghĩa, Đảng không thể có
phương hướng hành động, không thành tổ chức tự giác và kỷ luật, giống như
người không có trí khôn, tàu không có bàn chỉ nam. Ở Việt Nam, cuối thế kỷ
XIX, đầu thế kỷ XX, bên cạnh luồng tư tưởng mác-xít mới được truyền bá còn
nhiều trào lưu tư tưởng phức tạp khác, đủ mọi màu sắc của chủ nghĩa dân tộc tư
sản và tiểu tư sản... Nhờ có đầu óc phê phán cùng với sự phân tích thực tiễn,
Nguyễn Ái Quốc đã nghiên cứu các chủ nghĩa, học thuyết, kiểm nghiệm nó qua
8
9

Hồ Chí Minh, Sđd, t2, tr. 267 – 268.
Hồ Chí Minh, Sđd, t2, tr. 267 – 268.

6



thực tiễn cách mạng, Người khẳng định; “bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa
nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là
chủ nghĩa Lênin”10. Đó là vấn đề cốt yếu của lý luận cách mạng và cũng là nội
dung lý luận cốt yếu của tác phẩm.
Như vậy, sáu nội dung trên thể hiện tinh thần độc lập tự chủ sáng tạo trong
việc vận dụng chủ nghĩa Mác- Lênin phù hợp với thực tiễn đặc điểm cách mạng
Việt Nam. Đồng thời, sáu nội dung cũng đã thể hiện rõ con đường mà Hồ Chí
Minh đã vạch ra cho cách mạng Việt Nam. Đường Kách mệnh đã xác định được
con đường của cách mạng Việt Nam ta. Không còn con đường nào khác ngoài
con đường cách mạng vô sản.
2. Giá trị thực tiễn của tác phẩm đối với cách mạng Việt Nam:
2.1. Huấn luyện và đào tạo cán bộ nòng cốt cho quá trình thành lập Đảng:
Đường Kách mệnh từ khi ra đời trở thành sách giáo khoa gối đầu giường,
là tài liệu huấn luyện cho hội viên của Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí
hội. Trong giai đoạn 1927-1929, với vai trò là một cuốn sách giáo khoa, là tài
liệu chính thống để các học viên có thể tự rèn luyện trau dồi vốn kiến thức về
con đường cách mạng chung cũng như thực tiễn cách mạng Việt Nam ta. Đây
chính là quá trình xây dựng đào tạo về chính trị, tư tưởng đối với mỗi một người
cán bộ trước khi tự mình tiến về sống cùng và giác ngộ quần chúng.
Các học viên sau khi đã được trang bị cho mình những kiến thức cơ bản
về cách mạng, về con đường cách mạng Việt Nam, về chủ nghĩa Mác – Lênin sẽ
về nước hoạt động nhằm giác ngộ lý luận cho giai cấp công nhân, đồng thời
những người cộng sản này từng bước trau đồi cho mình về phương pháp cách
mạng, cũng như hoạt động thực tiễn cách mạng. Đặc biệt, những người cộng
sản này đã đi vào các nhà máy, công trường… để cùng ăn, cũng làm với giai cấp
công nhân, để từ đó làm nên các phong trào “Vô sản hóa” năm 1928. Và có thể
thấy rằng hoạt động của những con người cách mạng này đã làm cho phong trào
10


Hồ Chí Minh, Sđd, t2, tr. 227 – 268.

7


công nhân phát triển mạnh mẽ. Góp phần thức tỉnh một bộ phận không nhỏ
trong xã hội Việt Nam.
Cũng chính từ những hoạt động sơ khai này thì những người cộng sản đã
có cơ hội thực tập thực tế, không ngừng nâng cao hơn về mặt lý luận chính trị.
Thành quả học tập cùng quá trình bồi dưỡng của Nguyễn Ái Quốc đã đến ngày
hái quả. Khi phong trào công nhân phát triển đến đỉnh cao, lúc này đòi hỏi phải
có một tổ chức đứng ra lãnh đạo, chèo lái con thuyền cách mạng. Những người
cộng sản như: Ngô Gia Tự, Nguyễn Đức Cảnh, Trịnh Đình Cửu,… đã nhận thấy
được yêu cầu bức thiết đó và tự mình lập ra các tổ chức cộng sản để lãnh đạo
cách mạng, đó là: Đông Dương Cộng sản Đảng, An Nam Cộng sản Đảng,…
Từ Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên với cuốn sách giáo khoa gối đầu
giường “Đường Kách mệnh” của mình đã trở thành “lò luyện” cán bộ thành
những con người ưu tú nhất đã tô điểm thêm cho phong trào cách mạng, trở
thành nhân tố có ảnh hưởng trực tiếp tới việc thành bại của cách mạng. Những
người cán bộ vừa thấm nhuần chủ nghĩa Mác - Lê-nin vừa là những người có
đạo đức cách mạng sẵn sàng hy sinh vì sự nghiệp cách mạng, vì quyền lợi ích
hợp pháp của đại bộ phận nhân dân.
2.2. Cơ sở lí luận cho những thắng lợi vẻ vang của cách mạng Việt Nam:
Những tư tưởng về đoàn kết dân tộc, lực lượng cách mạng, phương pháp
cách mạng,... trong Đường Kách mệnh đã được áp dụng hiệu quả trong những
thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân
Pháp và đế quốc Mỹ, Hồ Chí Minh lấy nhân dân làm nguồn sức mạnh. Quan
điểm “lấy dân làm gốc” xuyên suốt quá trình chỉ đạo chiến tranh của Người.
Người đặt niềm tin ở truyền thống yêu nước nồng nàn của nhân dân Việt Nam.
Người khẳng định: “Địch chiếm trời, địch chiếm đất, nhưng chúng không làm

sao chiếm được lòng nồng nàn yêu nước của nhân dân ta”.
Khi phát động cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp (tháng
12-1946), Người kêu gọi toàn dân đánh giặc và đánh giặc bằng mọi vũ khí có
8


trong tay: “Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không chia tôn
giáo, đảng phái, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân
Pháp để cứu Tổ quốc. Ai có súng dùng súng. Ai có gươm dùng gươm, không có
gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy gộc. Ai cũng phải ra sức chống thực dân Pháp
cứu nước”.
Trong chiến tranh, “quân sự là việc chủ chốt”, nhưng đồng thời phải kết
hợp chặt chẽ với đấu tranh chính trị. Theo Người, thắng lợi quân sự đem lại
thắng lợi chính trị, thắng lợi chính trị sẽ làm cho thắng lợi quân sự to lớn hơn.
Đấu tranh ngoại giao cũng là một mặt trận có ý nghĩa chiến lược, có tác dụng
thêm bạn bớt thù, phân hóa và cô lập kẻ thù, phát huy yếu tố chính nghĩa của
cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc, tranh thủ sự đồng tình ủng
hộ quốc tế.
2.3. Vận dụng lí luận vào quá trình làm trong sạch, vững mạnh tổ chức
Đảng:
Tác phẩm không chỉ đem đến cho những chiến sĩ cách mạng Việt Nam
trong thập niên 20 - 30 thế kỷ XX những vấn đề cốt lõi của học thuyết Mác Lênin, ánh sáng tư tưởng của thời đại mà còn trở thành cơ sở lí luận cho việc
xây dựng một chính Đảng trong sạch, vững mạnh về cả chính trị, tư tưởng, tổ
chức, làm cho hệ thống lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh thực sự trở thành nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi hành động của
toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta.
Trong thời kì hiện nay, thực hiện đường lối Đại hội XII của Đảng, đất
nước ta đang đứng trước những thời cơ và những thách thức đan xen, thì những
lý luận trong tác phẩm Đường Kách mệnh vẫn còn nguyên giá trị thời đại. Việc
vận dụng tư tưởng trong tác phẩm phù hợp với tình hình hiện nay là một trong

những biện pháp đúng đắn nhất trong việc xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam
thật sự trong sạch vững mạnh đủ sức lãnh đạo cách mạng giành thắng lợi trong

9


sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đáị hóa đất nước, hoàn thành mục tiêu “sớm
đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại”.
3. Kết luận:
Đường Kách mệnh là một trong những tác phẩm tập trung lý luận chủ
nghĩa Mác – Lênin đầu tiên ở Việt Nam. Trong tác phẩm này, Nguyễn Ái Quốc
đã trình bày một cách rất đơn giản, dễ hiểu và cô đọng những vấn đề cơ bản
nhất thuộc về cương lĩnh, chiến lược, sách lược, về phương pháp tổ chức và vận
động quần chúng, về xây dựng chính đảng của giai cấp công nhân để tiến hành
cuộc cách mạng dân tộc dân chủ, tiến lên làm “giai cấp cách mạng” tức là cách
mạng xã hội chủ nghĩa. Tác phẩm có giá trị lý luận và thực tiễn sâu sắc. Lý luận
của tác phẩm không sách vở mà vạch ra lý luận cách mạng Việt Nam một cách
thiết thực, cụ thể. Tri thức lý luận cách mạng Việt Nam đã được hiện diện trong
tác phẩm rất mácxít nhưng cũng rất Việt Nam, dễ hiểu, dễ tiếp thu, kết hợp rất
tài tình phương pháp lịch sử và lôgích. Dùng lịch sử để nói lý luận, từ Cách
mạng Pháp đến Cách mạng Nga và kết luận ở Cách mạng Nga, rồi lấy lý luận
soi sáng thực tiễn Việt Nam, và kết luận: Chỉ có cách mạng vô sản mới giải
phóng được dân tộc. Đúng như Người đã viết: “Văn chương và hy vọng sách
này chỉ ở trong hai chữ: Cách mệnh? Cách mệnh?! Cách mệnh !!!”.11
Tác phẩm cũng là một hình mẫu của sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác
- Lênin vào Việt Nam của tác giả. Ví dụ: Lênin cho rằng, cách mạng thuộc địa
chỉ có thể giành được thắng lợi khi có sự giúp đỡ của cách mạng chính quốc,
khi cách mạng vô sản chính quốc đã giành thắng lợi, nhưng tác phẩm phát hiện
thêm rằng, cách mạng thuộc địa có thể thành công trước cách mạng vô sản ở
chính quốc và tác động tích cực đối với cách mạng chính quốc. Chủ nghĩa Mác

- Lê nin bàn nhiều về vấn đề giải phóng dân tộc. Tác phẩm chỉ rõ dân tộc và giai
cấp kết hợp với nhau, giải phóng dân tộc bằng con đường cách mạng vô sản...

11

Hồ Chí Minh, Sđd, t.2, tr. 262

10


Tác phẩm Đường Kách mệnh ra đời đã chấm dứt cuộc khủng hoảng về
đường lối của cách mạng Việt Nam; thúc đẩy phong trào yêu nước, phong trào
công nhân phát triển mạnh mẽ. Tác phẩm Đường Kách mệnh đã giáo dục cho
cán bộ và đông đảo quần chúng nhân dân về chủ nghĩa Mác - Lênin, nhằm xây
dựng sự thống nhất trong nhận thức tư tưởng, chuẩn bị thành lập Đảng. Tác
phẩm cũng khắc phục tư tưởng sai lầm, ám sát cá nhân, chủ nghĩa cải lương,
xác lập hệ tư tưởng mới - tư tưởng của giai cấp công nhân. Đường Kách mệnh
đã xây dựng lập trường, quan điểm của giai cấp công nhân cho cán bộ và quần
chúng công nông. Vạch ra được đường hướng cơ bản của cách mạng Việt Nam,
làm cơ sở cho việc xây dựng Cương lĩnh chính trị của Đảng.
Tác phẩm Đường Kách mệnh đã thể hiện thiên tài lý luận cách mạng của
Nguyễn Ái Quốc, tác phẩm có giá trị thực tiễn lớn lao, tạo ra sự chuyển biến
căn bản, nhanh chóng trong nhận thức và hành động cách mạng của cán bộ và
đông đảo quần chúng, chuẩn bị tiền đề cho việc thành lập Đảng.
90 năm đã trôi qua, những nội dung cơ bản mà Đường Kách mệnh đề cập
đến như: cách mạng, con đường cách mạng, lực lượng cách mạng, Đảng Cộng
sản, và các tổ chức quần chúng của Quốc tế cộng sản, của Đảng Cộng sản, về
phương pháp cách mạng, về đoàn kết,... vẫn luôn là chiếc cẩm nang, là bó đuốc
soi đường cho cách mạng Việt Nam đi tới thắng lợi qua những năm đấu tranh
giành chính quyền, qua hai cuộc kháng chiến trường chinh chống thực dân Pháp

và đế quốc Mỹ xâm lược, trong những năm cả nước cùng đi lên CNXH và bảo
vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN, đặc biệt là trong thời kì chúng ta tiến
hành công cuộc đổi mới đất nước, vì một nước Việt Nam: Dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Không thể phủ nhận rằng, để có một nước
Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh đang ngày một
phát triển, hội nhập cùng bạn bè quốc tế như hôm nay, cách mạng Việt Nam đã
phải trải qua nhiều khúc ngoặt, nhưng vẫn giành được thắng lợi, vẫn kiên định

11


con đường đã lựa chọn: Độc lập dân tộc và CNXH, ấy là vì, chúng ta có Đường
Kách mệnh của Chủ tịch Hồ Chí Minh soi đường, chỉ lối.
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1. E.Cô-bê-lép (1985), Đồng chí Hồ Chí Minh, Nxb. Tiến bộ, Mat-xcơva
2. Viện Hồ Chí Minh và các lãnh tụ của Đảng (2002), Chủ tịch Hồ Chí
Minh với Công tác tư tưởng, lý luận (Kỷ yếu hội thảo khoa học), Nxb
Chính trị Quốc gia.
3. Nguyễn Đình Đài (2006), Nguyễn Ái Quốc sự sáng tạo trong thành lập
Đảng Cộng sản Việt Nam, giá trị lịch sử và hiện thực, Nxb Chính trị
Quốc gia, Hà Nội.
4. ThS. Văn Thị Thanh Mai (2007), Góp phần tìm hiểu tư tưởng và đạo đức
Hồ Chí Minh (sách tham khảo), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
5. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, Tập 2, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
6. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, Tập 10, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
7. Phạm Quốc Thành (2014), Vai trò của Nguyễn Ái Quốc trong sự sáng lập
Đảng cộng sản Việt Nam, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
8. Trần Dân Tiên (1986), Những mẫu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ
tịch, Nxb. Văn học, Hà Nội.


12



×