Tải bản đầy đủ (.pdf) (30 trang)

Khảo sát thực trạng và các yếu tố liên quan đến thừa cân béo phì ở lứa tuổi mầm non tại tỉnh Trà Vinh năm 2018

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (556.95 KB, 30 trang )

1

ĐẶT VẤN ĐỀ
Thừa cân béo phì là một bệnh thường gặp ở mọi lứa tuổi và đang gia  
tăng nhanh chóng trong những năm gần đây. Theo kết quả  điều tra năm 
2015
của Viện Dinh dưỡng, tỉ lệ trẻ em dưới 5 tuổi bị thừa cân béo phì là 5,3% 
và có sự khác biệt là 2,3% giữa thành thị và nông thôn. So với 10 năm trước  
thì tỉ lệ này tăng lên 6 lần. Trẻ em “ mũm mĩm” chưa hẳn là khỏe đẹp mà 
đôi khi còn ảnh hưởng đến sự phát triển của trẻ. Bởi vì một số nghiên cứu 
đã chỉ  ra rằng trẻ  béo phì không chỉ  vận động chậm chạp hơn so với trẻ 
bình thường mà còn cảm thấy thiếu tự tin di bị bạn bè trêu chọc về  ngoại 
hình của mình. Quan trọng hơn, trẻ  béo phì sẽ  gặp phải nhiều nguy cơ 
bệnh lý tim mạch, cao huyết áp, rối loạn khớp xương…
Từ trước đến nay, đã có nhiều nghiên cứu tìm hiểu về tỉ lệ thừa cân  
béo phì ở  trẻ em. Các cuộc điều tra đã ghi nhận tỉ lệ  thừa cân béo phì trên 
học sinh tiểu học vào năm 2010 tại Hà Nội là 10%, Thành phố  Hồ  Chí 
Minh là 12%. Nghiên cứu của Bùi Văn Bảo và cộng sự  đã cho thấy tỉ  lệ 
thừa cân béo phì  ở  trẻ  em tiểu học tại Thành phố  Nha Trang năm 2011 là  
5,9% tăng 3,2% so với năm 2007. Theo nghiên cứu mới đây, tỉ  lệ  trẻ  mẫu  
giáo 5 tuổi thừa cân béo phì trên địa bàn Thành phố  Hồ Chí Minh là 21,1%  
(Phùng Đức Nhật, 2016). Hầu hết các nghiên cứu nhận định rằng trẻ em bị 
thừa cân béo phì có liên quan đến chế  độ  dinh dưỡng và vận động. Thừa 
cân béo phì thực sự đang là vấn đề dinh dưỡng khẩn cấp. 
Tuy nhiên tại tỉnh Trà Vinh cũng chưa có nhiều nghiên cứu đề  cập  
đến tỉ lệ thừa cân béo phì, đặc biệt là các yếu tố liên quan nói chung và các  
yếu tố nguy cơ ở lứa tuổi mầm non nói riêng.  Vì vậy, chúng tôi tiến hành: 


2


“Khảo sát thực trạng và các yếu tố  liên quan đến thừa cân béo phì  ở  
lứa tuổi mầm non tại tỉnh Trà Vinh năm 2018”, nhằm mục tiêu:
1. Xác định tỷ  lệ  thừa cân béo phì  ở  lứa tuổi mầm non tại tỉnh Trà  
Vinh.
2. Xác định mối liên quan giữa thói quen ăn uống, sở  thích ăn uống,  
mức độ sử dụng thức ăn và hoạt động ngủ của trẻ với tình trạng thừa cân  
béo phì của đối tượng nghiên cứu.


3

Chương 1
 TỔNG QUAN
1.1. TÌNH HÌNH TRẺ EM THỪA CÂN BÉO PHÌ TRÊN THẾ GIỚI VÀ 
VIỆT NAM
1.1.1. Tình hình trẻ em thừa cân béo phì trên thế giới
 Theo tổ  chức Y tế  thế  giới (WHO) ít nhất 41 triệu trẻ  em dưới 5  
tuổi đang bị  béo phì hoặc thừa cân trên toàn thế  giới, với số  lượng tăng 
nhanh nhất  ở  các nước đang phát triển. Số  lượng trẻ  em bị  béo phì hoặc  
thừa cân tăng lên 10 triệu trẻ  em trên toàn thế  giới kể  từ  năm 1990. Hiện  
nay, trẻ em thừa cân và béo phì ở các nước thu nhập thấp và thu nhập trung  
bình nhiều hơn so với các nước có thu nhập cao.
Ở  các nước đang phát triển, số  lượng trẻ  em thừa cân tăng gấp đôi 
lên đến 15,5 triệu trẻ  em trong năm 2014, từ  mức 7,5 triệu trẻ  em năm 
1990, theo một báo cáo của  Ủy ban WHO về  chấm dứt béo phì  ở  trẻ  em 
(ECHO). Tình trạng thừa cân và béo phì ảnh hưởng nghiêm trọng đến chất 
lượng cuộc sống của một đứa trẻ, bởi chúng phải đối mặt với một loạt các 
rào cản, trong đó có nhiều tác động về thể chất, tâm lý và sức khỏe. Chúng 
tôi biết rằng, béo phì cũng có thể ảnh hưởng đến trình độ học vấn. Những  
trẻ  em này có nhiều khả  năng sẽ  tiếp tục béo phì ở  độ  tuổi trưởng thành,  

tác động lớn đến sức khỏe và kinh tế cho chính bản thân, cũng như cho gia 
đình và toàn xã hội.


4

Gần một nửa số trẻ em thừa cân và béo phì dưới 5 tuổi sống ở châu  
Á và 25% sống ở Châu Phi, nơi mà số lượng trẻ em thừa cân tăng gần như 
gấp đôi lên 10,3 triệu trẻ em trong năm 2014, từ mức 5,4 triệu năm 1990.
Báo cáo của cơ  quan y tế  Liên Hợp Quốc cũng cho thấy, Libya, Ai  
Cập, Morocco, Algeria, Tunisia và Botswana có tỷ  lệ  trẻ  em thừa cân cao 
nhất trong số các quốc gia châu Phi. Trẻ em không được tiếp cận với đầy  
đủ thức ăn dinh dưỡng trong thời thơ ấu có nguy cơ đặc biệt cao bị béo phì, 
khi lượng thức ăn và mức độ  hoạt động của chúng thay đổi. Bên cạnh đó, 
trẻ em di cư cũng có nguy cơ cao đối mặt với tình trạng béo phì do sự thay  
đổi văn hóa nhanh chóng và hạn chế trong việc tiếp cận các dịch vụ  chăm 
sóc sức khỏe. Báo cáo cho rằng, bệnh béo phì có khả năng ảnh hưởng đến  
nhiều lợi ích sức khỏe trên toàn cầu, đồng thời kêu gọi các Quốc gia tập 
trung giải quyết “thách thức lớn về  sức khỏe” này. Trong số  các khuyến  
nghị  của mình, WHO cho rằng các Quốc gia cần thúc đẩy việc tiêu thụ 
những thực phẩm lành mạnh, nâng cao hoạt động thể  chất và xây dựng  
môi trường học tập lành mạnh. [1111].
1.1.2. Thực trạng trẻ em thừa cân béo phì ở nước ta
Bảng 1.1. Tỷ trọng dân số 60 tuổi trở lên, 65 tuổi trở lên và chỉ số già 
hóa, thời kỳ 1989­2013 ( đơn vị: %)
Tỷ 
trọng 
dân số 
60 
tuổi 

trở lên
Tỷ 
trọng 
dân số 

1998

1999

2009

2010

2011

2012

2013

7.1

8.0

8.7

9.4

9.9

10.2


10.5

4.7

5.8

6.4

6.8

7.0

7.1

7.2


5

65 
tuổi 
trở lên
Chỉ số 
già 
hóa

18.2

24.3


35.5

37.9

41.1

42.7

43.5

( Nguồn: Điều tra biến động dân số và kế hoạch hóa gia đình, 2013)
         Từ bảng số liệu trên ta thấy rằng: Năm 1999 tỷ trọng dân số 65 tuổi  
trở  lên là 5.8% mười năm sau vào năm 2009 là 6.4%, con số  này vào năm 
2013 đạt 7.2%. Một trong những chỉ tiêu quan trọng biểu thị xu hướng già 
hóa của dân số là chỉ số già hóa. Chỉ số già hóa đã tăng từ 18.2% năm 1998 
lên 24.3% năm 1999 và đạt 43.5% nam 2013, cho thấy xu hướng già hóa 
dân số ở nước ta diễn ra khá nhanh trong hai thập kỷ qua. Tuổi thọ tăng và 
mức sinh giảm chính là yếu tố  dẫn đến sự  già đi của dân số. Già hóa  ở 
nước ta hiện nay tuy chưa  ở  mức độ  nghiêm trọng, song nó sẽ  tăng rất 
nhanh trong thời gian tới và sẽ  trở  thành một vấn đề  lớn nếu chúng ta 
không chuẩn bị trước một hệ thống an sinh xã hội thật tốt cho người già.
1.2. DINH DƯỠNG HỢP LÝ CHO NGƯỜI CAO TUỔI
Trong những năm gần đây, đời sống xã hội của chúng ta đã được 
nâng cao mọi mặt, đặc biệt đời sống vật chất và tinh thần, từ  đó đã tạo 
tiền đề  cho tuổi thọ  của con người ngày càng cao. Với ý nghĩa đó, để 
người cao tuổi có sức khỏe tốt, có cuộc sống ý nghĩa và hạnh phúc với gia 
đình, bạn bè, xã hội thì vấn đề  ăn uống hợp lý ở  người cao tuổi đóng vai 
trò hết sức quan trọng.
1.2.1.Cần giảm số lượng khi ăn

Trong sinh hoạt hàng ngày, người cao tuổi ít vận động hơn, cho nên  
nhu cầu về năng lượng cũng giảm theo, vì vậy việc giảm bớt số lượng ăn  


6

là việc làm cần thiết, trong đó cơm là nguồn cung cấp năng lượng chủ 
yếu. Nếu khi còn trẻ, ăn bình thường mỗi bữa 3­4 bát cơm thì nay cao tuổi  
ăn bớt xuống 2 bát rồi 1 bát. Cần theo dõi cân nặng để  điều chỉnh thể 
trọng cho hợp lý, phương pháp tính đơn giản và đừng để vượt quá mức số 
cân nặng thể  trọng tối đa, cách tính số  căn nặng tối đa bằng cách lấy 
chiều cao cơ thể (tính bằng cm) trừ đi 100, rồi nhân cho 9 và chia lại cho  
10 là kết quả số cân nặng tối đa về cơ thể cần duy trì.
Ví dụ:  người  có chiều cao là 1,65m thì  thể  trọng cần duy trì  là 
58,5kg. (165 ­ 100 = 65 x 9 = 585 : 10 = 58,5).
1.2.2.Cần đảm bảo chất lượng bữa ăn
Cần đảm bảo tốt về  chất đạm, chủ  yếu chất đạm từ  nguồn thực 
vật như: đậu phụ, sữa đậu nành, sữa chua, tương, các loại cá. Giảm ăn 
chất thịt­mỡ, vì thịt trong quá trình tiêu hóa dễ  sinh các độc chất, nếu táo  
bón, các độc chất này không được thoát ra ngoài mà hấp thu vào cơ  thể 
gây một nhiễm độc trường diễn có hại cho sức khỏe. Ăn dầu hoặc lạc, 
mè, giảm ăn mỡ.
Hạn chế  ăn mặn, giảm ăn đường, giảm nước giải khát ngọt, bánh 
kẹo ngọt. Tăng cường ăn nhiều rau đặc biệt là rau lá xanh, ăn nhiều rau 
gia vị, mỗi tuần nên có món ăn sử dụng các loại củ gia vị như: tỏi, giềng, 
nghệ, chú trọng đến giá đỗ.
1.2.3.Cách ăn uống
Tránh ăn quá no, đặc biệt ở người có bệnh tim, vì ăn quá no sẽ gây 
chèn ép tim. Làm thức ăn mềm, đặc biệt chú trọng đến tình trạng răng  
miệng, sức nhai. Món canh thật sự  cần thiết vì tuyến nước bọt, phản xạ 

nuốt và răng hàm người cao tuổi hoạt động kém. Phải theo dõi và kiểm tra 


7

vấn đề ăn uống của người cao tuổi vì nhiều cụ ăn rồi lại quên, nói là chưa  
ăn.
1.2.4.Cần chú trọng bổ sung nước, chất khoáng và vitamin
Vì người cao tuổi thường giảm nhạy cảm đối với cảm giác khát 
nước nên cần đề phòng thiếu nước. Buổi sáng ngủ dậy không uống nước 
sẽ  không có lợi cho sức khỏe, thậm chí có thể  dẫn đến một số  bệnh tật. 
Sáng ngủ  dậy bổ  sung lượng nước nhất định vừa đáp  ứng nhu cầu trao  
đổi chất của cơ  thể, vừa là một biện pháp hữu hiệu để  ngăn ngừa bệnh 
tật, vì qua một đêm ngủ  cơ  thể  bị  mất đi một lượng nước chủ  yếu qua  
đường hô hấp và qua da, cho nên lượng máu bị thiếu nước nên bị cô đặc, 
lưu lượng máu đến tế bào tổ chức sẽ bị giảm. Sáng dậy uống nước vừa là  
bổ  sung lượng nước cần thiết cho cơ  thể  và vừa là một cách làm sạch 
dịch thể trong cơ thể, hơn nữa  ở người cao tuổi chức năng nhu động ruột  
giảm, nhu động ruột trở  nên chậm, nếu không bổ  sung nước kịp thời sẽ 
gây táo bón. Sáng sớm ngủ  dậy uống nước là một biện pháp bảo vệ  sức  
khỏe rất khoa học.
Song song với nhu cầu sử dụng nước của cơ thể thì nhu cầu vitamin  
đối   với   cơ   thể   cũng   vô   cùng   quan   trọng   như   vitamin   E,   vitamin   C,  
betacaroten, vitamin PP, Vitamin nhóm B, các chất màu trong thảo mộc, 
trong rau quả, các chất khoáng như: kali, magie, kẽm, đồng, sắt và một số 
acid hữu cơ, chú trọng bổ  sung canxi, vì người cao tuổi dễ  có nguy cơ 
loãng xương.
1.3. KHÁI NIỆM VÀ MỘT SỐ  YẾU TỐ   ẢNH HƯỞ NG ĐẾ N TÌNH 
TRẠNG DINH DƯỠ NG CỦA NG ƯỜI CAO TU ỔI
1.3.1. Khái niệm người cao tuổi và một số khái niệm có liên quan

Khái niệm người cao tuổi:


8

Có rất nhiều quan niệm về người cao tuổi
Theo quan niệm của Hội người cao tuổi thì người cao tuổi là những  
người đủ 50 tuổi trở lên.
Theo Luật lao động: Người cao tuổi là những người từ 60 tuổi trở lên 
(với nam), từ 55 tuổi trở lên (với nữ).
Theo Luật người cao tuổi Việt Nam: Những người cao tuổi 60 tuổi  
trở lên là người cao tuổi ( Luật ban hành năm 2009).
Để đánh giá đúng thực trạng người cao tuổi và có cách nhìn đúng đắn 
nhất trong nghiên cứu về người cao tuổi thì chúng ta phải thống nhất: Thế 
nào là người cao tuổi? Xét ở góc độ  tâm lý, luật pháp, tuổi thọ  trung bình  
thì có thể thống nhất hiểu "Người cao tuổi là người có tuổi đời từ 60 tuổi  
trở lên (không phân biệt nam hay nữ) ". 
Tuy nhiên quan niệm này có thể thay đổi theo thời gian khi điều kiện  
về kinh tế và tuổi thọ trung bình thay đổi.
Khái niệm về sức khỏe:
Theo định nghĩa về  sức khoẻ  của Tổ  Chức Y tế  Thế  Giới (WHO­  
World Health Organization): "Sức khoẻ  là một trạng thái hoàn toàn thoải 
mái cả về thể chất, tâm thần và xã hội, chứ không phải là chỉ là không có  
bệnh tật hay tàn phế". 
Dựa vào định nghĩa trên thì sức khoẻ được cho là bao gồm tình trạng 
của cả  tinh thần lẫn thể  chất.  Để  hoàn thiện khái niệm về  sức khoẻ,  
chúng ta cần nhìn nhận rõ ràng mối tương quan giữa tinh thần và thể chất.  
Do đó chúng ta có thể bổ sung cho đầy đủ hơn cho định nghĩa về sức khoẻ 
như  sau: “ Sức khoẻ  của một người là kết quả  tổng hoà của tất cả  các 
yếu tố tạo nên tinh thần và thể chất của con người ấy”

Khái niệm về chăm sóc sức khỏe:


9

Chăm sóc sức khỏe là một ngành dịch vụ, trong đó người cung ứng và 
người sử dụng quan hệ với nhau thông qua giá dịch vụ. Tuy nhiên, không 
giống các loại dịch vụ khác, chăm sóc sức khỏe có một số đặc điểm riêng, 
đó là: 
Mỗi người đều có nguy cơ mắc bệnh và nhu cầu chăm sóc sức khỏe 
ở  mức độ  khác nhau. Chính vì vậy không dự  đoán được thời điểm mắc  
bệnh nên thường người ta gặp khó khăn trong chi trả  các chi phí y tế 
không lường trước được.
Dịch   vụ   y   tế   là   loại   hàng   hóa   mà   người   sử   dụng   (   người   bệnh) 
thường không thể hoàn toàn tự mình chủ động lựa chọn loại dịch vụ theo  
ý muốn mà phụ  thuộc rất nhiều vào bên cung  ứng ( cơ  sở  y tế). Cụ  thể 
khi người bệnh có nhu cầu khám chữa bệnh, việc điều trị  bằng phương  
pháp nào, thời gian bao lâu hoàn toàn do thầy thuốc quyết định. Như vậy, 
người bệnh chỉ  có thể  lựa chọn nơi điều trị,  ở  một chừng mực nào đó, 
người chữa cho mình chứ  không được chủ  động lựa chọn phương pháp 
điều trị. Mặt khác, do dịch vụ y tế là loại hàng hóa gắn liền với tính mạng 
con người nên mặc dù không có tiền nhưng vẫn phải khám chữa bệnh. 
Đặc điểm đặc biệt này không giống các loại hàng hóa khác, đó là đối với  
các loại hàng hóa không phải là sức khỏe, người mua có thể có nhiều giải  
pháp để lựa chọn, thậm chí tạm thời không mua nếu chưa có khả năng tài  
chính.

Khái niệm về thuật ngữ dinh dưỡng:



10

Định nghĩa suy dinh dưỡng: Suy dinh dưỡng (người gầy hoặc người  
dưới cân) là thuật ngữ  để  chỉ  những người không đủ  cân nặng hay không  
đủ sức khoẻ, không đủ cân tiêu chuẩn so với chiều cao.
 Khái niệm này liên quan đến việc sử  dụng chỉ  số  cân nặng của cơ 
thể (BMI) để xác định một người nào đó bị suy dinh dưỡng. Hầu hết người  
ta xác định một người bị suy dinh dưỡng khi chỉ số BMI, được thống nhất 
sử dụng thang phân loại của Tổ chức Y tế thế giới năm 2000, như sau:
Tình trạng dinh dưỡng

BMI

Gầy

< 18,5

Bình thường

18,5 ­24,9

Thừa cân

≥  25,0

Tiền béo phì

25,0 ­ 29,9

Béo phì


≥  30,0

Béo phì độ 1

30,0 ­ 34,9

Béo phì độ 2

35,0 – 39,9

Béo phì độ 3

≥  40

1.3.2. Đặc trưng về chăm sóc sức khỏe cho người cao tuổi
Già là quy luật tự  nhiên không thể  tránh khỏi  ở  tất cả  mọi người,  
nhưng quá trình già rất khác nhau, có người già sớm, có người già muộn,  
có người  ốm yếu, có người khỏe mạnh…Chăm sóc sức khỏe cho người  
cao tuổi không chỉ kéo dài tuổi thọ mà còn nâng cao chất lượng sống, giúp 
người cao tuổi tiếp tục sống khỏe, sống vui và sống có ích cho xã hội. 
Chăm sóc sức khỏe người cao tuổi vừa là trách nhiệm, vừa là nghĩa vụ,  
vừa là thể hiện sự văn minh tiến bộ của chế độ xã hội. Vì thế, người cao 
tuổi là đối tượng cần được chăm sóc đặc biệt về  dinh dưỡng vì cơ  thể 
người cao tuổi thường đã bị lão hóa. Chức năng của các cơ quan, bộ phận  


11

đều bị suy giảm và thường hay mắc các bệnh mạn tính. Do đó, chế độ ăn  

và cách ăn uống sao cho phù hợp với người cao tuổi là hết sức quan trọng. 
1.3.3. Xây dựng thực đơn trong bữa ăn cho hợp lý
Bữa ăn của người cao tuổi cũng như bữa ăn gia đình, nên có đầy đủ 
các món như sau: 
Món ăn cung cấp năng lượng: Chủ  yếu là chất bột, món chính là 
cơm. Cơm trắng hoặc cơm trộn ngô, trộn đậu xanh, đậu đen, trộn 
khoai có
vùng còn trộn cám. Cơm cám rất bổ, rất ngon và rất béo. Ngoài cơm, có 
thể ăn bánh mì (ở thành phố), ăn ngô, ở các vùng đồng bào thiểu số chuyên 
trồng ngô hoặc ăn khoai, đặc biệt là khoai sọ chấm muối mè, rất phù hợp 
với người nhiều tuổi. 
Món ăn chủ lực hỗn hợp giàu đạm béo chủ yếu cung cấp chất đạm  
và chất béo: Bao gồm thịt các loại, cá và thủy sản, đậu phụ  và đậu các  
loại. Các món ăn này có thể làm riêng từng loại như thịt kho, thịt gà luộc,  
cá rán, trứng tráng, đậu hủ  kho, rán, đậu hủ  nhồi thịt, trứng đúc thịt hoặc  
chế biến sẵn ăn dần như tương, muối, mè.
Các loại rau củ quả: Cung cấp vitamin, chất khoáng, chất xơ cho cơ 
thể. 
Món canh: Cung cấp nước và các chất dinh dưỡng bổ  sung cho cơ 
thể, bao gồm nước rau, canh suông, canh rau muống tương gừng đến canh 
cá, canh giò, canh thịt. 
Đồ  uống: Nhớ  là ăn cần đi đôi với uống. Đối với người cao tuổi,  
hạn chế  dùng rượu. Chỉ  cần nước trắng, nước chè và có món canh trong  
bữa ăn. 


12

Tóm lại, trong bữa ăn, ngoài cơm ra, cần chú ý món chủ  lực giàu 
đạm béo, món rau, món canh và nước uống. Nếu có điều kiện, thêm món 

quả chín tráng miệng. Chú ý đảm bảo vệ sinh trong quá trình nấu nướng. 
1.3.4. Một số yếu tố ảnh đến tình trạng dinh dưỡng ở NCT
1.3.4.1. Nguyên nhân tình trạng suy dinh dưỡng ở NCT
Nguyên nhân trực tiếp:
Trước tiên hay gặp nhất: Cơ  thể  gầy rạc, da xương, sức khỏe suy  
giảm. Tinh thần đờ  đẫn, lơ  là, ngu ngơ, hay quên trước quên sau, mắc  
chứng lãng quên tuổi già. Da khô, dễ  bị bầm tím, vết thương bị xây xát sẽ 
lâu lành, miệng khô, môi bị nhiệt lở loét, nhai nuốt khó khăn...
Ngoài ra do tinh thần không  ổn định: Cuộc sống khó khăn, hay bị 
trees, ăn uống không hợp lý...
Nguyên nhân tiềm tàng:
Thiếu thực phẩm hoặc do người trong gia đình có ít thời gian dành 
cho chế biến thức ăn ở người cao tuổi.
 Do dịch vụ y tế còn yếu, thiếu nước sạch, vệ sinh kém hoặc người  
cao tuổi không được chăm sóc đầy đủ... dẫn đến bệnh tật.
Những nguyên nhân này được xếp chung thành 3 nhóm: Thiếu an 
ninh thực phẩm hộ  gia đình, chăm sóc người cao tuổi chưa tốt, thiếu dịch  
vụ y tế và vệ sinh môi trường kém.
1.3.4.2. Do gia đình thiếu kiến thức
Bao gồm kiến thức và thực hành chăm sóc, nuôi dưỡng người cao 
tuổi,  ưu tiên chăm sóc người cao tuổi giai đoạn từ  60 tuổi trở  lên kết hợp 
thực hành nuôi dưỡng và phòng chống các bệnh ở người cao tuổi, chế biến  
thực phẩm tại địa phương, gia đình, thực hành tăng cường vệ  sinh, tăng 


13

thời gian chăm sóc người cao tuổi cùng với việc cải thiện tình trạng dinh 
dưỡng trong bữa cơm gia đình. 
1.3.4.3. Do tuổi tác

Tuổi càng cao các cơ quan trong cơ thể bị thoái hóa suy yếu dần, các  
hoạt động của các cơ quan trong đó có cả ruột và dạ dày bị suy giảm đáng  
kể, răng yếu hơn, giảm vị  giác và khứu giác khiến cho người già bị  giảm 
cảm giác thèm ăn uống, làm cho ăn uống kém.
1.3.4.4. Do hoàn cảnh gia đình cô đơn
Bất kể ai cũng vậy thôi, dù ăn ngon tới đâu nhưng không có ai chia sẻ 
nói chuyện cũng sẽ  có cảm giác cô đơn, buồn chán ăn, những người có 
cảm giác cô đơn sống một mình thường sẽ  không chú trọng tới việc ăn 
uống, người cao tuổi cho rằng ăn là một nghĩa vụ, họ  ăn ít ăn qua loa cho  
xong bữa, chế  độ  ăn không hợp lý, ăn cho no bụng mà lại không đủ  dinh  
dưỡng.
1.3.4.5. Do thiếu thốn vật chất, sống phụ thuộc
Nhiều người  cao tuổi hoàn cảnh khó  khăn không nơi nương  tựa, 
sống phụ thuộc vào người khác, NCT không có tiền để mua thực phẩm đồ 
ăn mình thích, NCT không có đủ  điều kiện để  mua đồ  ăn hợp lí đủ  dinh 
dưỡng, NCT phải mua những thực phẩm rẻ tiền, thức ăn không ngon khiến  
NCT ăn ít đi, ăn qua loa, làm cho cơ thể không đủ dinh dưỡng.
1.3.4.6. Do bệnh tật
Người cao tuổi là những người thường bị  các bệnh phổ  biến như 
huyết áp, đái tháo đường, các bệnh về  thần kinh, hô hấp và các bệnh về 
tim mạch. Có tới 42,75% người cao tuổi bị  bệnh nghề nghiệp hoặc bệnh  
mãn  tính.  Trong  đó   khu  vực   thành  thị   là  56,06%,  khu  vực  nông  thôn  là 
35,31%. Điều này  đòi hỏi  phải có  công tác chăm sóc sức  khoẻ  thường 


14

xuyên cho NCT nói chung và người cao tuổi  ở  nông thôn nói riêng. Cần  
phải có chế độ chăm sóc, điều trị kịp thời bệnh tật cho người cao tuổi nhất  
là các bệnh nghề nghiệp và mãn tính. 

1.4.  SƠ  LƯỢC VỀ  ĐẶC ĐIỂM ĐỊA LÝ DÂN SỐ, KINH TẾ... CỦA 
HUYỆN TRÀ CÚ TỈNH TRÀ VINH.
Trà Cú nằm cách Thành phố  Trà Vinh 33 km đường  lộ  trên tuyến 
quốc lộ  53 và 54. Phía Đông tiếp giáp huyện Cầu Ngang, phía Nam giáp 
huyện Duyên Hải, phía Bắc giáp huyện Tiểu Cần và Châu Thành, phía Tây 
giáp sông Hậu. Đây là tuyến vận tải hàng hóa quốc tế  qua cửa biển  Định 
An.
Huyện Trà Cú  từ  năm 2015, có  17  đơn vị  hành chính, gồm 2 thị 
trấn: Trà   Cú, Định   An và   15   xã: An   Quảng   Hữu, Đại   An, Định   An, Hàm 
Giang, Hàm   Tân, Kim   Sơn,  Long   Hiệp, Lưu   Nghiệp   Anh, Ngãi 
Xuyên, Ngọc Biên, Phước Hưng, Tân Hiệp, Tân Sơn, Tập Sơn, Thanh Sơn.
Trà Cú là một huyện duyên hải thuộc tỉnh Trà Vinh. Huyện có đông 
đồng bào Khmer nhất tỉnh khoảng 111.607 người, chiếm 60% dân số so với 
dân số toàn huyện.
Dân số  của huyện là khoảng 180.084 người, có mật độ  dân số  487 
người/km2 với 44.852 hộ. Người dân chủ yếu sống ở nông thôn với dân số 
khoảng 168,283 người chiếm tỷ lệ gần 93% dân số của huyện.
Người   dân   chủ   yếu   làm   nghề   trồng lúa,   trồng mía,   đánh   cá,   chăn 
nuôi.
Cửa Định An: Là một trong 9 cửa của hệ  thống  sông Mekong, nơi 
tiếp giáp cửa Sông Hậu với Biển Đông.
Trà Cú vẫn còn nhiều gia đình gặp khó khăn về kinh tế cũng như các  
hủ  tục lạc hậu đặc biệt là các xã có đông đồng bào dân tộc Khmer sinh 


15

sống. Tuy nhiên điều kiện tiếp cận với chăm sóc sức khỏe cho NCT còn 
nhiều hạn chế.
Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện Chỉ  thị 06 vẫn còn gặp một số 

khó khăn, hạn chế  cần sớm được khắc phục.  Ở  một số  địa phương, cấp 
ủy Ðảng, chính quyền còn chưa nhận thức đầy đủ  về  vai trò, tầm quan  
trọng của y tế  tuyến cơ  sở,   dẫn đến nhiều đơn vị  y tế  hoạt động trong 
tình trạng thiếu cán bộ, nguồn lực bị phân tán và kém hiệu quả. Cán bộ  y  
tế  tuyến cơ  sở  thiếu về  số  lượng, trình độ  chuyên môn còn hạn chế, chế 
độ   ưu đãi chưa thỏa đáng, chưa đủ  hấp dẫn cán bộ  về  làm việc  ở  tuyến  
này. Các nguồn đầu tư  mới chủ  yếu dành cho đầu tư  xây dựng cơ  bản,  
nguồn đầu tư  trang thiết bị  y tế  chưa được quan tâm đúng mức dẫn đến 
tình trạng nhiều trạm y tế xã còn thiếu các trang thiết bị thiết yếu và thiếu 
đồng bộ.


16

Chương 2
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

2.1. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
2.1.1. Đối tượng
Người cao tuổi Khmer từ 60 tuổi trở lên tại các xã, thị trấn của huyện 
Trà Cú, có năm sinh từ năm 1957 cho đến có mặt tại thời điểm khảo sát.
2.1.2. Tiêu chí loại trừ
Những đối tượng được chọn nhưng từ chối tham gia nghiên cứu.
Những đối tượng có sức khỏe yếu, tàn tật, liệt nữa người, không 
phải dân tộc Khmer... sẽ không tham gia nghiên cứu.
Những đối tượng đồng ý tham gia nhưng vắng mặt trong ngày điều  
tra. 
2.1.3 Địa điểm nghiên cứu



17

Chọn chủ đích 01 huyện Trà Cú.
Số liệu nghiên cứu được thực hiện tại Khoa Kiểm soát bệnh không 
lây nhiễm và Dinh dưỡng thuộc Trung tâm Y tế dự phòng Trà Vinh.
2.1.4. Thời gian nghiên cứu
Từ tháng 02/2017 đến 10/2017
2.2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU.
2.2.1. Thiết kế nghiên cứu. 
Nghiên cứu cắt ngang trên mẫu ngẫu nhiên.
2.2.2. Cỡ mẫu.
Chọn cỡ mẫu theo công thức:

n

Z (21

p (1

/ 2)

p)

d2

Trong đó: n: cỡ mẫu nhỏ nhất hợp lý.

Z 1­ /2: trị số tùy thuộc vào mức tin cậy mong muốn của  ước lượng, 
với mức tin cậy 95% thì Z= 1,96.
p: tỷ lệ tình trạng dinh dưỡng ở người cao tuổi theo kết quả nghiên 

cứu năm 2010 = 10%.
d: mức sai số  tuyệt đối, chấp nhận d = 0,03. (theo kết quả  nghiên 
cứu năm 2010).
Thay số vào công thức, tính được n = 384 người.
 Vậy ta làm tròn cỡ mẫu và dự phòng 5% mất mẫu là 400 người.
2.2.3 Cách chọn mẫu
Giai đoạn 1 (chọn huyện): Chọn chủ đích 01 huyện Trà Cú của tỉnh 
Trà Vinh.


18

Giai đoạn 2 (chọn xã): Trong 15 xã và 02 thị trấn của huyện Trà Cú,  
chúng tôi chọn 17 xã, mỗi xã chọn đối tượng bằng phương pháp ngẫu 
nhiên.
Giai đoạn 3 (chọn đối tượng nghiên cứu): Lập danh sách NCT từ 60 
tuổi trở  lên từ  sổ  khám sức khỏe cho NCT của 17 xã đã chọn, chọn ngẫu  
nhiên 24 người/xã.
2.2.4. Phương pháp điều tra
Thu thập thông tin bằng phiếu điều tra với sự hỗ trợ của cán bộ y tế.
Trong quá trình điều tra:
+ Trọng lượng cơ thể được đo bằng cân đồng hồ.
+ Chiều cao được đo bằng thước đo chiều cao đứng. Từ  đó tính ra  
chỉ số BMI.
2.2.5. Chỉ số và biến số nghiên cứu
Nhóm  thông  tin  chung:  thông  tin  chung  về   trình  độ   học  vấn  
của  NCT, người trực tiếp chăm sóc NCT, về đặc điểm kinh tế hộ gia đình.  
Thực trạng nuôi dưỡng NCT: Nuôi dưỡng trong điều kiện môi trường, cho  
NCT  ăn bổ sung, chăm sóc khi NCT bị bệnh.
Các chỉ  số  nhân trắc được thu thập trong nghiên cứu bằng cách cân  

đo 
NCT, đánh giá tình trạng dinh dưỡng  theo chỉ  số  cân nặng/ chiều cao theo 
tiêu chuẩn của WHO.
Phân loại tình trạng dinh dưỡng của NCT: Dựa vào cân nặng, chiều 
cao đo được với chỉ  số  trung bình của quần thể tham chiếu của WHO để 
tính toán các chỉ số:
+ Phân loại suy dinh dưỡng ( cân nặng/ chiều cao ).


19

+ Phân loại mức độ SDD: ta chỉ phân theo 2 mức (theo Tổ chức Y tế 
thế  giới khuyên dùng “chỉ  số  khối cơ  thể” (Body Mass Index –   BMI),  
(WHO  2000)  để  đánh  giá  tình  trạng  dinh  dưỡng  của  người  trưởng  
thành).
­ Suy dinh dưỡng thì BMI < 18,5.
­ Bình thường thì BMI: 18,5 ­24,9.  
2.2.6. Xử lý số liệu
Phân tích lý số  liệu bằng phần mềm Epi data và SPSS (Statistical  
Package for Social Sciences). 
Các tỷ lệ được coi là khác biệt có ý nghĩa thống kê khi p<0,05.
2.2.7. Đạo đức nghiên cứu
Thông tin về người tham dự ghi trong phiếu được giữ bí mật.
Mục tiêu nghiên cứu và cách thu thập thông tin, bằng bộ câu hỏi không 
gây ảnh hưởng bất lợi đến thể chất và tinh thần của đối tượng.
Thời gian làm ngắn không ảnh hưởng đến sinh hoạt và thu nhập của NCT.
Bảng câu hỏi phỏng vấn không có các câu nhạy cảm hoặc liên quan 
đến tính bảo mật.
2.2.8. Sữa chữa sai lệch trong nghiên cứu
Để tránh sai lệch trong nghiên cứu trước khi tiến hành giám sát điều tra 

cần tập huấn cho cán bộ tham gia điều tra về cách phỏng vấn, điền bộ câu  
hỏi đúng theo yêu cầu nghiên cứu.
Chương 3
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
3.1. THÔNG TIN CHUNG VỀ ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU


20

Tổng số  có 400 người cao tuổi thuộc 17 xã, thị  trấn của huyện Trà 
Cú tỉnh Trà Vinh đã được điều tra để thực hiện nghiên cứu. Do đó, cỡ mẫu 
nghiên cứu đạt yêu cầu.
3.1.1. Đặc điểm nghiên cứu
Bảng 1.1. Thông tin chung về đối tượng

TT

1

2

3

4

5

Đặc điểm của người nghiên cứu
60 ­ 69
Nhóm tuổi: 70 ­ 79

≥ 80
Giới tính

Trình độ
Nghề 
nghiệp
Kinh tế 
gia đình

Kết quả nghiên cứu
Tổng số

Tỷ lệ (%)

197
108
95

49.2
27.0
23.8

Nam

176

44.0

Nữ


224

56.0

Tiểu học
THCS
THPT
TC, ĐH
Làm ruộng
Nghỉ hưu, hội
Buôn bán
Nghèo

69
64
17
250
22
361
17

17.3
16.0
4.2
62.5
5.5
90.2
4.2

155


38.8

Khá

240

60.0

Giaù

5

1.2

Ta thấy nhóm tuổi 60 ­ 69 tuổi chiếm 49.2%,  giới tính Nữ (56%) cao 
hơn   Nam,   Người   cao   tuổi   có   trình   độ   cao   đẳng,   đại   học   chiếm   tỷ   lệ 
(62.5%), nghề  nghiệp Người  cao tuổi thì nghỉ  hưu và tham gia các hội 
chiếm tỷ lệ cao (90.2%), còn kinh tế gia đình khá chiếm tới (60%). 
3.1.2. Tình trạng dinh dưỡng ở NCT


21

Bảng 2.2. Tình trạng dinh dưỡng NCT phân theo 2 mức độ suy dinh dưỡng  
và bình thường
Tổng
BMI

(n = 400)


Tỷ lệ %

Suy dinh dưỡng
Bình thường

128
272

32
68

Biểu đồ 1. Biểu đồ tình trạng dinh dưỡng NCT
Tình trạng dinh dưỡng Người cao tuổi  ở  17 xã, thị  trấn huyện Trà 
Cú, tỷ lệ suy dinh dưỡng chiếm tỷ lệ (32%), còn bình thường chiếm tỷ lệ 
(68%).
3.1.3. Kiến thức về tình trạng dinh dưỡng ở NCT
Bảng 3.3. Người cao tuổi có kiến thức hiểu biết về suy dinh dưỡng


22

Có biết về suy dinh dưỡng ở NCT

Tổng
N = 400
204
196



Không

Tỷ lệ %
51.0
49.0

Tỷ lệ Người cao tuổi có kiến thức hiểu biết về suy dinh dưỡng 
(51%).
Bảng 4.4. Tỷ lệ Người cao tuổi có kiến thức hiểu biết về tập thể dục
Tập thể dục ở NCT

Tổng
n = 400


Thỉnh thoảng
Không

118
142
140

Tỷ lệ %
29.5
35.5
35.0

Tỷ lệ Người cao tuổi có kiến thức đúng về  luyện tập thể dục không 
thường xuyên chiếm (35.5%). Tuy nhiên, vẫn còn NCT không tập thể  dục  
tỷ lệ (35.0%), còn NCT tập thể dục chiếm tỷ lệ rất ít (29.5%).

Bảng 5.5. Tỷ lệ NCT có kiến thức hiểu biết về chế độ ăn, uống hợp lý
Chế độ ăn, uống hợp lý ở NCT

Tổng
n = 400
215
185

Có biết
Không biết

Tỷ lệ %
53.8
46.2

Tỷ lệ Người cao tuổi có biết ăn uống hợp lý chiếm tỷ lệ (53.8%), chỉ 
có  tỷ lệ (46.2%) là người cao tuổi không biết.

Bảng 6.6. Tỷ lệ NCT có kiến thức hiểu biết về bệnh tật
Bệnh tật ở NCT

Tổng
n = 400

Tỷ lệ %


23

Tăng huyết áp

Đái tháo đường
Cơ xương khớp

239
11
137

61.8%
2.8%
35.4%

Tỷ lệ Người cao tuổi có hiểu biết về bệnh Tăng huyết áp chiếm tỷ 
lệ (61.8%), bệnh cơ xương khớp (35.4%), tỷ lệ NCT biết về bệnh Đái tháo 
đường chiếm rất ít chỉ có (2.8%).
Bảng 7.7. Tỷ lệ NCT có kiến thức hiểu biết về tuyên truyền dinh 
dưỡng
Tuyên truyền dinh dưỡng ở NCT

Tổng
n = 400
190
150
119
10
68
73

Nhân viên y tế
Đài, tivi
Loa truyền thanh xã

Tờ rơi, sách, báo
Hội người cao tuổi
Không biết

Tỷ lệ %
31.1%
24.6%
19.5%
1.6%
11.1%
12.0%

Tỷ  lệ  người  cao tuổi có hiểu biết về  tuyên truyền kiến thức dinh 
dưỡng qua nhân viên y tế chiếm cao (31.1%), chỉ có rất ít là người cao tuổi  
không biết từ tờ rơi, sách, báo tỷ lệ (1.6%).
3.2.   MỘT   SỐ   YẾU   TỐ   LIÊN   QUAN   ĐẾN   TÌNH   TRẠNG   DINH  
DƯỠNG  Ở  NGƯỜI CAO TUỔI KHMER VỚI ĐẶC ĐIỂM NGHIÊN 
CỨU.

YẾU TỐ

TÌNH TRẠNG
 DINH DƯỠNG
SUY DINH 
BÌNH 
DƯỠNG
THƯỜNG
n (%)
n (%)



value


24

Nhóm tuổi
60­69
70­79
>=80
Giới tính
Nam 
Nữ
Trình độ
Tiểu học
THCS
THPT
TC, ĐH
Nghề nghiệp
Làm ruộng
Nghỉ hưu, hội
Buôn bán
Kinh tế
Nghèo
Khá 
Giàu
Hiểu biết về suy dinh dưỡng
Có 
Không
Chế độ tập thể dục

Có 
Thỉnh thoảng
Không
Chế độ ăn uống hợp lý
Có 
Không

59(46.1%)
43(33.6%)
26(20.3%)

138(50.7%)
65(23.9%)
69(25.4%)

0,144

53(41.4%)
75(58.6%)

123(45.2)
149(54.8)

0,473

29(22.1%)
26(20.3%)
03(2.3%)
150(55.3%)


40(16%)
38(14.0%)
14(5.1%)
100(64.9%)

0,106

4(3.1%)
121(94.5%)
3(2.3%)

18(6.6%)
240(88.3%)
14(5.1%)

0,231

78(60.9%)
47(36.7%)
3(2.3%)

162(59.6%)
108(39.7)
2(7%)

0,362

63(49.2%)
65(50.8%)


141(51.8%)
131(48.2%)

0,159

41(32.0%)
42(32.8%)
45(35.2%)

77(28.3%)
100(36.8%)
95(34.9%)

0,673

68(53.1%)
60(46.9%)

147(54.0%)
125(46.0%)

0,863

Qua kết quả này chưa thấy có mối liên quan giữa các yếu tố ở NCT  
như: Tuổi, giới tính, trình độ, nghề  nghiệp, kinh tế, hiểu biết về suy dinh  
dưỡng, chế  độ  tập thể  dục và  chế  độ  ăn uống hợp lý với tình trạng suy  
dinh dưỡng ở Người cao tuổi (p> 0,05) . 


25



×