Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

CHƯƠNG 2 PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH XUẤT KHẨU cà PHÊ VIỆT NAM SANG THỊ TRƯỜNG HOA kỳ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (497.26 KB, 15 trang )

CHƯƠNG 2 - PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH XUẤT KHẨU CÀ PHÊ VIỆT NAM
SANG THỊ TRƯỜNG HOA KỲ
2.1 Sản lượng xuất khẩu
Hoa Kỳ luôn là nước nhập khẩu cà phê cao đối với nước ta. Nhu cầu cà phê của
người dân Hoa Kỳ rất cao, bình quân hàng năm Hoa Kỳ nhập khẩu trên 1 triệu tấn. Việt
Nam chủ yếu xuất khẩu cà phê robusta dưới dạng thô sang Hoa Kỳ.
Bảng 2: Sản lượng xuất khẩu cà phê Việt Nam ra thị trường thế giới và Hoa
Kỳ trong ba năm 2007 – 2009
Năm

so với 2007

so với 2008

Năm

Năm

2007

2008

2009

Tuyệt

( tấn)

đối

(tấn)



Tương
đối

(tấn)

Hoa Kỳ
Thế Giới

Mức tăng 2009

Năm
(tấn)

Thị Trường

Mức tăng 2008

134.966

106.393

128.050 -28.573

1.229.23

1.059.50

1.183.52


-

3

6

3

169727

21,17
%

Tuyệt
đối
(tấn)
21.657

-13,8% 124.017

Tương
đối
20,36
%
11,71
%

(Nguồn:Giá trị xuất khẩu -Tổng cục thống kê Việt Nam 2007, 2008,2009)

Tấn


Năm
Hình 2.1 Biểu đồ sản lượng cà phê xuất khẩu của Việt Nam sang Hoa Kỳ và thế giới
từ năm 2007 – 2009
(Nguồn:Giá trị xuất khẩu -Tổng cục thống kê Việt Nam 2007, 2008,2009)


Vào năm 2008 thì sản lượng xuất khẩu cà phê của Viêt Nam đã giảm khoảng
13,8% tương đương khoảng 169.727 tấn. Nguyên nhân chính là do thời tiết thay đổi làm
cho nhiều diện tích cà phê mất mùa, tình trạng cà phê mất mùa không chỉ diễn ra ở nước
ta mà nhiều nước khác trên thế giới Brazil nước đứng đầu thế giới về xuất khẩu cà phê
cũng đã giảm sản lượng xuất khẩu khoảng 10 ngàn bao ( loại 60 kg ) do thời tiết sương
giá kéo dài. Bên cạnh đó, khủng hoảng kinh tế làm người nông dân gặp nhiều khó khăn
về vốn và lãi vay, nên chăm sóc cây cà phê kém hơn vụ trước, điều này cũng đã tác động
khá lớn đến sản lượng cà phê năm 2008... Nhìn chung, sản lượng xuất khẩu cà phê của
Việt Nam xuất khẩu năm 2009 tăng khá so với 2008, tăng khoảng 11,71% tương đương
khoảng 124.017 tấn, nguyên nhân là do cà phê năm 2009 không gặp hạn hán, tình hình
thời tiết diễn biến thuận lợi cho cây cà phê phát triển nên tỷ lệ đậu cao. Bên cạnh đó, theo
phân tích của Vicofa, những tín hiệu mừng trong việc xuất khẩu cà phê năm 2009 còn do
người dân đã nhanh nhạy trong việc nắm bắt thị trường, khá am hiểu quy luật cung cầu
của thị trường thế giới để chủ động lượng cà phê bán ra nhằm hạn chế rủi ro. Đối với thị
trường Hoa Kỳ, đặc biệt là vào năm 2008 sản lượng giảm khoảng 21,17% tương đương
khoảng 28.573 ngàn tấn nguyên nhân là do Hoa Kỳ đã có những nỗ lực nhằm thi hành
các biện pháp an ninh nhập khẩu để làm tăng thêm sức ép đối với những người trồng và
xuất khẩu cà phê châu Á, trong đó có Việt Nam ngoài đòi hỏi nhà xuất khẩu phải có giấy
chứng nhận về quá trình chấp hành qui định hải quan và tờ khai về các nơi cung cấp cà
phê, nhà xuất khẩu còn phải cung cấp thông tin nhằm bảo đảm có thể dễ dàng tìm ra xuất
xứ của từng lô cà phê, làm gia tăng chi phí xuất khẩu. Bên cạnh đó, mặc dù đã có nhiều
cải thiện nhưng chất lượng cà phê Việt Nam vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu nhập khẩu
của Hoa Kỳ nên sản lượng cà phê xuất khẩu sang Hoa Kỳ ngày càng giảm. Đồng thời

nguyên nhân là do chi phí xuất khẩu cà phê sang thị trường Hoa Kỳ tăng cao nên các
doanh nghiệp xuất khẩu cà phê Việt Nam chủ động chuyển sang một số thị trường khác
như: Bỉ, Italia, Trung Quốc, Việt Nam còn mở rộng thị trường xuất khẩu cà phê sang một
số thị trường khác như vùng Trung Cận Đông, châu Phi, một số nước ASEAN và vùng
Trung Mỹ…Đặc biệt, Việt Nam vẫn chưa đáp ứng được những yêu cầu của Hoa Kỳ về
chất lượng cà phê, nhưng nguyên nhân chính vẫn là do nền kinh tế Hoa Kỳ vẫn còn trong


giai đoạn khủng hoảng nên sản lượng xuất sang Hoa Kỳ giảm mạnh…. Đến năm 2009
hàng cà phê xuất khẩu của Việt Nam có tín hiệu khả quan hơn tăng khoảng 20,36% so với
năm 2008 với lý do cầu cà phê tại Mỹ trong năm 2009 tăng cao, thêm vào việc các nhà
nhập khẩu Hoa Kỳ lỏng tay hơn trong việc áp đăt các quy định nhập khẩu.
Bảng 3 : Sản lượng hàng quý trong ba năm 2007 đến năm 2009
Đơn vị: tấn

Năm
2007
2008
2009

Quý 1
22.436
39.827
42.914

Sản lượng xuất khẩu hàng quý
Quý 2
Quý 3
34.967
48.962

19.349
14.929
35.018
13.121

Quý 4
28.601
32.288
36.997

(Nguồn: Tổng hợp giá trị xuất khẩu - Tổng cục thống kê Việt Nam qua các tháng của năm 2007,
2008,2009)

Dựa vào kết quả hoạt động xuất khẩu cà phê hàng quý sang Hoa kì từ năm 2007
đến năm 2009, chúng ta sẽ đưa ra sản lượng dự báo sang Hoa Kỳ trong năm 2010 này
như sau:
 Tính toán các chỉ số mùa vụ
Năm
2007
2008
2009
Tổng
Trung bình

Quý 1
22.436
39.827
42.914
105.177
35.059


Quý 2
34.967
19.349
35.018
89.334
29.877

Quý 3
48.962
14.929
13.121
77.012
25.671

Quý 4
28.601
32.288
36.997
97.886
32629

Cả năm
134.966
106.393
128.050
369.409
30.809

quý

Chỉ số mùa

1,138

0,970

0,833

1,06

-

vụ
 Hoá giải tính chất mùa vụ bằng cách chia giá trị của từng quý cho chỉ số mùa vụ
tương ứng. Chẳng hạn: 22.436/1,138 = 19.715; 34.967/0,970 = 36.048…

 Ta được số liệu sau:


Năm
2007
2008
2009
 Phân tích hồi quy:

Sản lượng xuất khẩu hàng quý (tấn)
Quý 1
Quý 2
Quý 3
19.715

36048
58.777
35.037
19947
17.921
37.710
35.018
15.751

Quý
Q2007-1
Q2007-2
Q2007-3
Q2007-4
Q2008-1
Q2008-2
Q2008-3
Q2008-4
Q2009-1
Q2009-2
Q2009-3
Q2009-4
Tổng

x
1
2
3
4
5

6
7
8
9
10
11
12
78


y
19.715
36.048
58.777
26.982
35.037
19.947
17.921
30.460
37.710
35.018
15.751
34.903
368.269

x2
1
4
9
16

25
36
49
64
81
100
121
144
650

Quý 4
26.982
30.460
34.903
Xy
19.715
72.096
176.331
107.928
175.185
119.682
125.447
243.680
339.390
350.180
173.261
418.836
2321.731

Phương trình có dạng: Y = ax + b


 Xác định hệ số: a = (n∑xy-∑x∑y)/(n∑x2 – (∑x)2)
=(12x2321731 – 78x368269)/(12x650 – 782)
= -504
b = (∑x2∑y - ∑x∑xy)/( n∑x2 – (∑x)2)
= (650x368269 – 78x2321731)/( 12x650 – 782)
= 33963
 Phương trình cần tìm: Y = -504x + 33963. (*)
 Thay thế giá trị x cho 4 Quý của năm 2010 bằng 13, 14, 15, 16 vào phương trình (*).
Và đây là dự báo phi mùa vụ cho 4 quý tới.
Y2010-1 = (-504x13) + 33963 = 27411
Y2010-2 = (-504x14) + 33963 = 26907
Y2010-3 = (-504x15) + 33963 = 26403


Y2010-4 = (-504x16) + 33963 = 25899
 Cuối cùng là xác định sản lương dự báo trong năm 2010 :
Dự báo phi mùa

Dự báo sản lượng

vụ

năm 2010
31.194
26.100
21.994
27.453
106.741


Quý

Chỉ số mùa vụ

1
2
3
4

1,138
0,970
0,833
1,06
Sản lượng dự báo năm 2010

27.411
26.907
26.403
25.899

Theo dự báo trên thì với 106741 tấn (khoảng 0.11 triệu tấn) thì có thể chấp nhận
được trong hoàn cảnh hiện nay, bởi vì hiện nay Hoa Kỳ đang đẩy mạnh nhập khẩu cà phê
từ nhiều nước trên thế giới nhằm cung ứng thị trường trong nước vốn đa dạng chủng loại.
Tuy nhiên diện tích trồng cà phê hiện nay ở Việt Nam với khoảng 500.000 ha chủ yếu là
Tây Nguyên, cùng với tiêu chí của chính phủ là hạn chế việc phá rừng trồng cà phê của
một số hộ dân. Do đó, sản lượng xuất khẩu ra thế giới cũng như Hoa Kỳ sẽ ít biến đổi so
với năm 2009.
2.2 Giá cà phê
Trong những năm vừa qua, mặc dù cà phê Việt Nam đã có những cải tiến đáng kể
về chất lượng nhưng giá cà phê xuất khẩu của Việt Nam vẫn chưa cân xứng vị thế là nước

xuất khẩu cà phê lớn thứ hai trên thế giới.
Năm 2007, có lẽ là một năm mà các doanh nghiệp xuất khẩu cà phê và nông dân
trồng cà phê đều trúng lớn. Cà phê không những được mùa mà còn được giá. Trong năm
này, làm ủy thác cũng thắng mà làm trực tiếp cũng thắng. Năm 2007, Việt Nam xuất khẩu
hơn 1 triệu tấn cà phê, giá xuất khẩu luôn duy trì ở mức cao, khoảng 1.430 USD/tấn theo
giá FOB. Giá cà phê xuất sang thị trường Hoa Kỳ cũng luôn ở mức cao khoảng 1420
USD/tấn.
Trái lại, năm 2008 lại khác, cà phê được báo cáo là mất mùa. Đây cũng là năm
biến động về giá cà phê trong nước cũng như xuất khẩu không thể lường trước, giá cà phê
trong nước phụ thuộc vào quan hệ cung cầu trên thị trường cà phê thế giới. Tháng 2/2008
giá cà phê trong nước giao động từ 40.000 – 42.000 đồng/kg, giá cà phê nhân (loại


Robusta ) xuất khẩu (FOB) tại Tp.HCM đạt tới 2.520 USD/tấn, trong khi giá xuất khẩu cà
phê của Brazil luôn cao hơn Việt Nam khoản 2.580 USD/tấn, giá xuất khẩu cà phê Việt
Nam sang Hoa Kỳ khoảng 2.510 USD/tấn thấp hơn 10 USD/tấn so với giá chào bán theo
FOB. Đến tháng 8/2008 giá cà phê trong nước giảm khoảng 34.000 - 35.000 đồng/kg thì
giá cà phê nhân (loại Robusta ) xuất khẩu đạt khoảng trên 2.000 USD/tấn, đợt rớt giá cao
nhất vào trong tuần tháng 10/2008 giá cà phê rớt xuống khoảng còn 26.000 - 27.000
đồng/kg, giá xuất khẩu khoảng 1710 USD/tấn giảm 23,5% so với tháng 9/2008 và giảm
2,4% so với cùng kỳ năm ngoái. Trong những ngày đầu tháng 12/2008, giá cà phê xuất
khẩu của nước ta giảm xuống còn 1.545-1.560 USD/T, giảm trung bình 65 USD/tấn so
với cuối tuần trước, nhưng vẫn tăng 4,2% so với đầu tháng 11/2008. Giá thu mua cà phê
nhân loại 1 trong nước giảm 300 đ/kg xuống 26.400 đ/kg, tăng 2,6% so với đầu tháng
trước. Giá cà phê của Việt Nam lúc nào cũng thấp hơn Brazil trung bình mỗi tấn khoản
50-65 USD. Giá cà phê nhân xuất khẩu sang Hoa Kỳ luôn thấp hơn giá chào bán của
FOB từ 5-10 USD/tấn, tại thị trường này cà phê của Việt Nam không chỉ cạnh tranh gay
gắt với Brazil mà còn cạnh tranh với nước Colombia, Ấn Độ.
Năm 2009, giá cà phê thế giới giảm mạnh, dẫn đến thị trường trong nước cũng rớt
giá theo.Trong sáu tháng đầu năm này, giá cà phê biến động phức tạp. Cà phê Robusta

giao dịch tại thị trường London ngày đứng ở mức khoảng 1.457 USD mỗi. Giá cà phê của
Việt Nam xuất khẩu sang Hoa Kỳ theo đó cũng giảm mạnh, biến động phức tạp giá binh
năm này khoảng 1.490 USD/tấn.

ĐVT:USD/tấn


(Nguồn:Tổng hợp từ viện chính sách và chiến lược PT - NNNT)

Hình 2.2: Biểu diển giá cà phê Quốc tế, trong nước và giá xuất khẩu sang Hoa
Kỳ năm 2008.
Nhìn chung, trong những năm vừa qua khi đem cà phê xuất khẩu sang Hoa Kỳ nhà
sản xuất sẽ thu được nhiều lợi nhuận hơn bán trong nước. Tuy nhiên, giá cà phê Việt Nam
khi chào bán sang thị trường Hoa Kỳ bao giờ cũng thấp hơn so với các nước khác.
Nguyên nhân chủ yếu do chất lượng cà phê Việt Nam còn thấp, chưa đáp ứng được các
yêu cầu của thị trường Hoa Kỳ. Đây là một hạn chế lớn mà ta cần khắc phục để cà phê
Việt Nam có thể cạnh tranh với các quốc gia khác.


2.3 Kim ngạch xuất khẩu
Hoa Kỳ luôn được đánh giá là thị trường xuất khẩu chủ lực của Việt Nam, chiếm
tới 21,3% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước năm 2008.
Bảng 4: Kim ngạch xuất khẩu cà phê của Việt Nam năm 2007, 2008, 2009
Đơn vị:: Tỷ USD

Năm

Mức tăng 2008
Năm


Năm

Năm

2007

2008

2009

so với 2007
Kim
Tương
ngạch

Thị trường

Mức tăng 2009
so với 2008
Kim
Tương

đối(%) ngạch

đối(%)

Hoa Kỳ

0.21


0.21

0.20

0,00

0%

-0.01

4,76%

Thế Giới

1.91

2.11

1.73

0,20

10,5%

-0.38

-18,01%

Tỷ USD


Năm

Hình 2.3: Biểu đồ kim ngạch xuất khẩu cà phê Việt Nam sang Hoa Kỳ và thế giới từ
2007-2009
(Nguồn: Tổng cục thống kê Việt Nam)

Nhìn chung, tổng kim ngạch xuất khẩu cà phê của Việt Nam ra thế giới có giao
động với biên độ không cao và kim ngạch xuất khẩu sang Hoa Kỳ biến động cũng không
nhiều. Vào năm 2009 kim ngạch giảm 18,01% tương đương khoảng 0,38 tỷ USD, đây là
năm ngành cà phê Việt Nam trúng mùa nhưng lại là năm giá cà phê thế giới rớt giá dẫn


đến kim ngạch giảm so với năm 2008, đối với Hoa Kỳ trong năm 2009 sản lượng xuất
vào thị trường này có giảm đôi chút khoảng 4,76% tương đương 200 triệu tấn, không có
biến động nhiều. Vào năm 2008, theo Tổ chức Cà phê Thế giới (ICO), sản lượng xuất
khẩu cà phê toàn cầu tăng, đạt gần 96,62 triệu bao năm 2008 (60kg/bao). Tuy nhiên,
ngoại trừ Brazil, nước xuất khẩu cà phê hàng đầu thế giới, các quốc gia xuất khẩu cà phê
lớn còn lại như Việt Nam, Ấn Độ, Colombia và Mexico đều giảm sản lượng xuất khẩu so
với năm 2007. Một điều đáng chú ý trong năm 2008 là sản lượng xuất khẩu cà phê của
Việt Nam đã giảm gần 13,8% khoảng 170 ngàn tấn, nhưng kim ngạch xuất khẩu lại tăng
hơn so với năm 2007 khoảng 10,5% ước đạt khoảng 200 triệu USD, là do giá cà phê xuất
khẩu tăng cao. Riêng xuất khẩu sang thị trường Hoa Kỳ, không những giảm về lượng mà
còn giảm về giá trị hơn 1,9 triệu USD, nguyên nhân là do trong thời kỳ này nền kinh tế
Hoa Kỳ vẫn còn trong thời kỳ khủng hoảng, chất lượng cà phê của Việt Nam còn hạn chế
chưa đáp ứng đầy đủ các yêu cầu của nhà nhập khẩu Hoa Kỳ nên sản lượng còn thấp.
Nhìn chung, từ năm 2007 đến nay kim ngạch xuất khẩu cà phê của Việt Nam sang
thị trường Hoa Kỳ có xu hướng giảm nhưng không đáng kể.
Theo đánh giá của nhiều chuyên gia, nhu cầu cà phê của Hoa Kỳ năm 2009
khoảng 1 triệu tấn nhưng Việt Nam chỉ mới xuất khẩu khoảng 130 ngàn tấn tương đương
khoảng 250 triệu đô la, con số này còn khá khiêm tốn so với vị thế của một nước xuất

khẩu cà phê lớn thứ 2 thế giới, đây là vấn đề chúng ta nên quan tâm để tìm ra những biện
pháp hữu hiệu để thúc đẩy xuất khẩu.
2.4 Các loại sản phẩm cà phê xuất khẩu
Việt Nam là nước xuất khẩu cà phê lớn thứ 2 thế giới với nhiều loại sản phẩm
khác nhau ra thế giới cũng như Hoa Kỳ. Dưới đây là một số loại sản phẩm xuất khẩu
chính:
2.4.1 Cà phê thô (nguyên liệu)
Người tiêu dùng trên thế giới vẫn chưa biết nhiều đến sản phẩm cà phê đã qua chế
biến của Việt Nam. Hiện nay, Cà phê Việt Nam đang có mặt ở tất cả các châu lục. Việt
Nam còn là thành viên quan trọng của Tổ chức Cà phê thế giới (ICO), nhưng lượng cà
phê xuất khẩu của Việt Nam chủ yếu là ở dạng nguyên liệu, chưa qua chế biến nguyên


nhân chính là do các doanh nghiệp Việt Nam chưa có đủ nguồn vốn để đầu tư trang thiết
bị, nếu có chỉ là những chiếc máy đã qua sử dụng, cộng thêm vào đó nguồn nhân lực
trong lĩnh vực sản xuất chế biến còn thiếu, ở Việt Nam những doanh nghiệp xuất khẩu cà
phê đã qua chế biến chỉ chiếm một lượng nhỏ, chưa tương xứng với hiện tại. Việt Nam
trở thành nhà sản xuất cà phê thô lớn nhất thế giới vào năm 2007 với tổng sản lượng thu
hoạch tăng 38% so với cùng kỳ năm trước. Một báo cáo đăng trên website của Bộ Nông
nghiệp Hoa Kỳ cho biết, hiện Việt Nam đang tiếp tục trồng và thử nghiệm nhiều hạt
giống cà phê mới, thơm ngon hơn, năng xuất cao hơn. Bộ Nông nghiệp Hoa Kỳ đánh giá
rất cao về thị trường cà phê xuất khẩu của Việt Nam trong thời gian tới trong bối cảnh,
giá cà phê thô ở thị trường Mỹ và nhiều nước châu Âu đang đội lên rất cao do nhu cầu
tiêu thụ tăng nhưng sản lượng nhập khẩu chưa đáp ứng đủ việc sản xuất và tinh chế cũng
như tạo ra nhiều sản phẩm mới cho cà phê tan.
Bảng 5: Sản lượng xuất khẩu cà phê thô của Việt Nam sang Hoa Kỳ từ năm
2007 đến năm 2009
Đơn vị: tấn

Năm


Năm

Năm

2007

2008

2009

Sản lượng năm 2008 so

Sản lượng năm 2009 so

với năm 2007
với năm 2008
Tuyệt đối Tương đối Tuyệt đối Tương đối
121.469 96.818 115.245 -24.651
20,29%
18.427
19.03%
(Nguồn: kinhtenongthon.com.vn)

Tấn

(Nguồn: kinhtenongthon.com.vn)


Do chủ yếu mặt hàng xuất khẩu sang Hoa Kỳ là dạng thô cho nên tổng sản lượng

cà phê xuất khẩu sang Hoa Kỳ có biến động thì biến động đó có thể nói là do biến động
trong việc xuất khẩu cà phê thô. Như đã phân tích ở trên, sản lượng xuất khẩu sang Hoa
Kỳ vào năm 2008 giảm đáng kể so với năm 2007 cụ thể là giảm 20,29% ước giảm 24.651
tấn là do thời tiết bất ổn khiến sản lượng giảm đáng kể, Hoa Kỳ khắc khe hơn trong việc
nhập khẩu hàng hóa từ Châu Á và khủng hoảng kinh tế lên cao trào vào năm 2008. Sang
năm 2009 nền kinh tế Hoa Kỳ khởi sắc hơn, rào cản thương mại hạn chế hơn, do vậy mà
nước này tăng cường nhập khẩu hơn so với năm trước tăng 19,03% ước tăng 18.427 tấn.
Về chế biến, với thực trạng 90% sản lượng cà phê xuất khẩu dưới dạng thô nên
hầu hết các doanh nghiệp đều áp dụng tiêu chuẩn cũ trong thu mua, chế biến, thậm chí
mua, bán xô mà không theo một tiêu chuẩn nào. Tỉ lệ doanh nghiệp áp dụng TCVN
4193.2005 trong mua bán chiếm chưa đến 1%. Do việc áp dụng tiêu chuẩn là tự nguyện
nên nhiều doanh nghiệp vẫn duy trì phân hạng càphê theo 3 tiêu chí: % thủy phần, đen
vỡ, tạp chất. Cung cách “không giống ai” đó khiến cà phê xuất khẩu Việt Nam luôn thăng
trầm. Thêm vào đó, mối liên kết giữa các doanh nghiệp chế biến, xuất khẩu với người
trồng càphê còn lỏng lẻo, dẫn đến tình trạng tranh mua, tranh bán ngay trên sân nhà.
(Kinhtenongthon.com.vn, 2009)
2.4.2 Cà phê bột (cà phê pha phin) và cà phê hoà tan
Mỗi năm Braxin sản xuất 2,5 triệu tấn càphê, trong đó 50% dùng chế biến cà phê
hòa trong nước. Một phần sản lượng cà phê này được xuất khẩu. Với hơn 100 triệu dân,
bình quân mỗi người dân tiêu dùng 4-5kg cà phê thì lượng tiêu thụ trong nước của Braxin
đã khoảng 450.000 tấn nên họ không bị ảnh hưởng bởi giá quốc tế. Còn ở nước ta, hiện
mới chế biến được khoảng 10.000 tấn (bằng 5% tổng sản lượng) nên chẳng thấm tháp
vào đâu so với 1 triệu tấn cà phê sản xuất mỗi năm. Thêm vào đó, tiêu dùng nội địa cũng
rất thấp, chưa được 0,5kg/người/năm, vì thế ngành cà phê nước ta phụ thuộc hoàn toàn
vào thị trường xuất khẩu. (kinhtenongthon.com.vn)
 Cà phê bột (cà phê pha phin)
Cà phê bột là sản phẩm đã qua chế biến và xuất khẩu. Trị giá xuất khẩu của loại cà
phê là tương đối cao,có thể được kết hợp và chế biến từ nhiều loại cây cà phê khác nhau



như Arabica, Robusta, Cherry với nhiều mùi vị khác nhau nhằm thoả mãn mọi yêu cầu từ
người thưởng thức. Tại Việt Nam có nhiều công ty chế biến và xuất khẩu loại cà phê này
như Trung Nguyên, Trần Quang, Nam Sương, Nesle…. Và Trung Nguyên được biết đến
như đầu tàu trong lĩnh vực kinh doanh các loại sản phẩm cà phê trong đó có cà phê bột.
Cà phê hoà tan
Nếu như trước những năm 2000 thị trường cà phê hoà tan tại Việt Nam còn khá
nghèo nàn về chủng loại sản phẩm và ít được nhà đầu tư quan tâm thì đến nay thị trường
này đã tăng nhanh một cách đáng khâm phục.
Thị trường cà phê hoà tan đang có xu hướng “nở nồi” vì có các ưu thế như giúp
người dùng tiết kiệm thời gian, sản phẩm có tính năng động, trẻ trung phù hợp với xu
hướng tiêu dùng của giới trẻ (lớp người tiêu dùng mới) hiện nay. Đây cũng là nguyên
nhân thúc đẩy thị trường này đạt mức tăng trưởng khá cao trong năm 2007: từ 20-25%.
Để tham gia vào thị trường này này nhiều thương hiệu đã quyết định đầu tư lớn
như VinaCafe với một nhà máy cà phê hoà tan 20 triệu USD, với công suất 3.000
tấn/năm, Trung Nguyên thì có một dây chuyền sản xuất cà phê hoà tan G7 lên tới 10 triệu
USD, công suất 2.00 tấn/năm... Ngoài những tên tuổi kinh doanh cà phê hoà tan quen
thuộc như NesCafe (Nestle), VinaCafe, G7Coffee (Trung Nguyên)... còn có các nhãn
hiệu như Café Moment (Công ty CP Sữa VN - Vinamilk), Max Coffee (Singapore).
2.5 Các nhân tố ảnh hưởng đến xuất khẩu cà phê của Việt Nam sang thị trường
Hoa Kỳ.
2.5.1 Yếu tố vĩ mô
 Kinh tê
Khi nền kinh tế tăng trưởng nhanh, tỷ lệ thất nghiệp thấp và tiêu dùng tăng cao
dẫn đến nhu cầu về tiêu thụ cà phê cũng tăng cao. Khi nền kinh tế tăng trưởng chậm,
thậm chí là không tăng trưởng, người dân thắt chặt chi tiêu khi đó sẽ gây khó khăn rất lớn
cho những nhà sản xuất và cũng đồng nghĩa với việc sẽ gây khó khăn cho các doanh
nghiệp xuất khẩu cà phê của Việt Nam.
Theo nghiên cứu của các chuyên gia kinh tế, kinh tế Hoa Kỳ bắt đầu khủng hoảng
tháng 12 năm 2007 nguyên nhân cuộc khủng hoảng này bắt nguồn từ cuộc khủng hoảng



tín dụng nhà ỏ thứ cấp (Theo vi.wikipedia.org). Kể từ đó hàng loạt những ngân hàng
công ty lớn của Mỹ rơi vào tình trạng phá sản, tỷ lệ thất nghiệp tăng kỷ lục cao nhất
khoảng 10% khiến cho nhiều người thắt chặt chi tiêu và kéo theo hàng loạt công ty lớn
nhỏ lâm vào bờ vực phá sản. Cuộc khủng hoảng kinh tế này được xem là lớn nhất trong
lịch sử và tại Hoa Kỳ chấm dứt vào tháng 7 năm 2009(Theo baodoanhnhan.vn)
 Khoa học – kĩ thuật
Trong lĩnh vực sản xuất và xuất khẩu cà phê thì hiện tại cũng có một số dây
chuyền sản xuất khá hiện đại của các doanh nghiệp như Trung Nguyên, Vinamilk, có thể
giúp cho các giai đoạn sản xuất nhanh hơn, tiết kiệm thời gian lao động, công sức công
nhân gia tăng năng suất. Ngoài ra, chúng ta cũng không thể nào bỏ qua một trong những
phát minh khoa học có ảnh hưởng quan trọng nhất đối với thế giới đó chính là Internet.
Chính sự ra đời của Internet mà việc buôn bán đặt hàng qua mạng hay còn gọi là Thương
mại điện tử cũng đã ra đời và có những thành của nhiều doanh nghiệp trên thế giới.
Thương mại trong lĩnh cà phê cũng có thể đó là việc trao đổi thông tin sản phẩm giữa các
sản phẩm mới và người mua hoặc là việc thanh toán trưc tuyến thay cho phương thức
giao dịch truyền thống. Hơn nữa, Internet cũng giúp ích cho doanh nghiệp trong việc
quảng bá hình ảnh giúp cho thương mại vượt qua biên giới không gian và thời gian.
 Toàn cầu hóa
Tỉ giá hối đoái
Đối với xuất khẩu cà phê của Việt Nam nhiều doanh nghiệp trong nước hy vọng tỷ
giá sẽ ngày một tăng nhằm giúp cho doanh nghiệp có được lợi nhuận cao hơn, thuận lợi
hơn trong việc xuất khẩu ra thế giới nói chung và Hoa Kỳ nói riêng. Tuy nhiên cũng đôi
khi tỷ giá giảm xuống khiến cho nhiều doanh nghiệp xuất khẩu không kip phản ứng khiến
cho giá trị xuất khẩu giảm thậm chí là bị lỗ. Chính vì vậy các doanh nghiệp xuất, nhập
khẩu của Việt Nam nên theo dõi xít sao sự chuyển biến của tỷ giá để khi đó có thể ứng
phó một cách kịp thời và chủ động nhất.
Hội nhập
Việt Nam là thành viên của nhiều tổ chức kinh tế, thương mại trên thế giới như
ASEAN, APEC hay mới đây nhất là WTO khiến hàng rào thương mại giữa các nước



thành viên được mở rộng. Việc gia nhập WTO sẽ khiến nhiều doanh nghiệp nước ngoài
vào Việt Nam làm ăn hơn, cũng đồng nghĩa với việc áp lực cạnh tranh trên thị trường
cũng lớn.
 Văn hóa – xã hôi
Trên phương diện quản trị ta có thể xem văn hóa chính là những đặc trưng về ngôn
ngữ, tôn giáo, nghệ thuật, hệ thống quan niệm sống, thái độ đối với tự nhiên, môi trường,
di sản văn hóa cũng như các giá trị vật chất tinh thần nhằm phân biệt các thành viên của
cộng đồng này với thạnh viên của cộng đồng khác. Giá trị văn hóa chứa đựng những
niềm tin căn bản về một trạng thái được coi là đáng tin cậy và có ý nghĩa đối với mỗi cá
nhân và có ý nghĩa tương đối bền vững theo thời gian. Chẳng hạn như những giá trị của
một cộng đồng như lòng yêu quý và bảo vệ thiên nhiên, những điều nên làm và không
nên làm hoặc các phong tục, tập quán.
Với Hoa Kỳ, văn hóa dùng cà phê mỗi buổi sáng hay những lúc thư giãn là điều
mà mỗi người dân ở đây ít khi tách khỏi cuộc sống của họ, họ xem uống cà phê như là
một thú vui, thưởng thức cà phê cần phải có nghệ thuật, uống cà phê không chỉ đơn thuần
là uống một thức uống đơn giản mà là tận hưởng hương và mùi vị của nó.
2.5.2 Yếu tố vi mô
 Nhà cung ứng
Đối với xuất khẩu cà phê Việt Nam thì nhà cung ứng ở đây chính là nguồn nguyên
liệu. Với khoảng 500.000ha đất trồng cà phê mà chủ yếu là ở Tây Nguyên thì Việt Nam
đang có lợi thế cạnh tranh rất lớn, đó là nguồn nguyên liệu dồi dào. Tuy nhiên, điều mà
khiến các quan chức lo ngại là sự thiếu kinh nghiệm của người trồng cà phê đó là thu
hoạch quá sớm hay khâu chăm sóc không được chú ý khiến năng xuất chưa cao làm cho
nguồn nguyên liệu giảm đi đáng kể.
 Khách hàng-Thị trường Hoa Kỳ
Hoa Kỳ vốn là thị trườn khó tính, yêu cầu xát xao về chất lượng điều này khiến
cho nhiều doanh nghiệp tại Việt Nam gặp khó khó do công nghệ, máy móc còn lạc hậu,
chưa có nguồn vốn để đầu tư, và cũng một phần Việt Nam xuất khẩu sang Hoa Kỳ chủ



yếu là sản phẩm thô nên các doanh nghiệp chưa thực sự quan tâm về nâng cao chất
lượng.
Hiện nay chính phủ đang khuyến khích các doanh nghiệp hạn chế xuất khẩu cà
phê thô bởi vì giá trị kinh tế mang lại không cao mà chuyển sang loại sản phẩm tinh có
giá trị cao hơn. Để làm được điều này việc đầu tiên của các doanh nghiệp là đổi mới công
nghệ sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao không
chỉ thị trường Hoa Kỳ mà còn nhiều thị trường khác trên thế giới nữa.
 Đối thủ cạnh tranh
Trên thị trường Hoa Kỳ Việt Nam đang thất thế so với các đối thủ cạnh tranh trực
tiếp như : Brasil. Colombia. Những đối thủ này hơn chúng ta rất nhiều điểm như : về
loại sản phẩm, chất lượng sản phẩm...Việt Nam chỉ có thế mạnh duy nhất nhất đó là
về giá xuất khẩu. Mặc dù vậy chung ta không nên quá tự hào về yếu tố này vì chúng
ta xuất khẩu giá thấp thì giá trị lợi nhuận sẽ không được cao, ngươc lại các đổi thủ tuy
có giá cao hơn chúng ta nhưng sản phẩm của họ có chất lượng hơn, giá trị cao hơn thì
hiển nhiên họ sẽ có lợi thế hơn.



×