LỜI MỞ ĐẦU
Đẩy mạnh xuất khẩu là chủ trương kinh tế lớn của Đảng và Nhà nước
Việt Nam . Chủ trương này đã được khẳng định trong văn kiện Đại hội Đảng
toàn quốc lần thứ VIII và trong Nghị quyết 01 NQ/TW của Bộ Chính Trị, với
mục tiêu chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa , hiện đại hóa
hướng về xuất khẩu . Để thực hiện được chủ trương của Đảng, cùng với việc đẩy
mạnh tiến trình công nghiệp hóa , hiện đại hóa, chúng ta cần phải tăng cường
mở rộng thị trường xuất khẩu . Đây là việc làm cần thiết và cấp bách hiện nay.
Liên Minh Châu Âu ( EU ) là một tổ chức khu vực lớn nhất thế giới hiện nay ,
có sự liên kết tương đối chặt chẽ và thống nhất , được coi là một trong ba siêu
cường có vị thế chính trị ngày càng tăng (đó là Mỹ ,EU ,Nhật Bản). Ra đời
năm 1951 với sáu nước thành viên (Pháp , Đức, Italia, Bỉ, Hà Lan và Luc xăm
bua ), ngày nay EU đã trở thành một tổ chức liên kết khu vực tiêu biểu nhất của
khối các nước tư bản chủ nghĩa. Sau hơn 50 năm phát triển và mở rộng , con số
thành viên của EU là 25 nước . Trong số những nước công nghiệp phát triển ,
EU gồm nhiều nước có tiềm lực kinh tế hùng mạnh vào loại hàng đầu thế giới
như Đức , Pháp, Italia ,Anh… Hiện nay, EU được coi là một tổ chức có tiềm
năng to lớn để hợp tác về mọi mặt, đặc biệt là trong lĩnh vực thương mại và đầu
tư .
Việt Nam đã chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao với Cộng đồng Châu
Âu (EC) vào ngày 22/10/1990, ký Hiệp định hợp tác với EU vào ngày 17/7/1995
. Các sự kiện quan trọng này chính là nhân tố thúc đẩy quan hệ hợp tác kinh tế
Việt Nam –EU phát triển mạnh trên cả ba lĩnh vực ( thương mại ,đầu tư , viện
trợ ) , đặc biệt là thương mại . Do vậy, từ năm1995 hoạt động thương mại song
phương diễn ra sôi động hơn, kim ngạch xuất nhập khẩu tăng nhanh
(37,4%/năm), trong đó mặt hàng giày dép chiếm một tỷ trọng lớn trong kim
ngạch xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam vào EU . Thế nhưng cho đến nay,
thương mại nói chung và xuất khẩu giày dép Việt Nam sang EU nói riêng vẫn
chưa tương xứng với tiềm lực kinh tế của hai bên.
EU là thị trường lớn có vai trò quan trọng trong thương mại thế giới . Một
số mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam là những mặt hàng mà thị trường
này có nhu cầu nhập khẩu hàng năm rất lớn như : giày dép , dệt may, thủy hải
sản… trong đó kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang tăng 37,62% thời kỳ
1995-2005 ( số liệu thống kê của Trung tâm Tin học và Thống kê- Tổng cục Hải
quan ). Mặc dù kim ngạch tăng trưởng với tốc độ nhanh, nhưng mặt hàng giày
dép xuất khẩu của Việt Nam đang gặp trở ngại trên thị trường này do các quy
định về quản lý nhập khẩu của EU gây nên. Nếu EU không quản lý chất lượng
và áp dụng hạn ngạch quá chặt chẽ và khắt khe đối với một số mặt hàng xuất
khẩu của ta thì tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu giày dép của Việt Nam vào thị
trường EU trong tổng kim ngạch nhập khẩu giày dép của EU không chỉ dừng lại
ở con số 1,3% như hiện nay.
Do vậy ,vấn đề đặt ra là chúng ta cần tìm kiếm giải pháp căn bản để mở
rộng khả năng xuất khẩu , đồng thời khắc phục những khó khăn trở ngại trong
quan hệ thương mại giữa hai bên.
EU là một trong ba trụ cột kinh tế của quan trọng của thế giới , có tốc độ tăng
trưởng cao, tương đối ổn định, có đồng tiền riêng, khá vững chắc. Đẩy mạnh
hoạt động xuất khẩu hàng hóa mà trong đó có giày dép sang EU , Việt Nam sẽ
phần nào có được sự tăng trưởng ổn định về ngoại thương , và phát triển nhanh
chóng ngành da giầy Việt Nam .
Vì vậy, đẩy mạnh xuất khẩu giày dép sang thị trường EU là vấn đề vừa
lâu dai đồng thời cũng là vấn đề cấp bách trước mắt đối với sự phát triển kinh tế
của Việt Nam . EU là thị trường xuất khẩu giày dép quan trọng nhất , mang lại
hiệu quả kinh tế lớn nhất cho ngành da giầy Việt Nam . Tuy nhiên để làm được
điều này chúng ta cần tập trung giải quyết các vấn đề , vướng mắc cản trở hoạt
động xuất khẩu sang EU và tìm ra các giải pháp căn bản để đẩy mạnh hoạt động
xuất khẩu giày dép Việt Nam vào thị trường EU .
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là: hoạt động xuất khẩu giày dép Việt
Nam sang thị trường EU giai đoạn 1995 đến 2010
Phạm vi nghiên cứu của đề tài: phân tích thực trạng xuất khẩu giày dép
Việt Nam sang EU những năm vừa qua và đề xuất các giải pháp đẩy mạnh hoạt
động xuất khẩu giày dép Việt Nam sang thị trường này giai đoạn 2006-2010;
vấn đề nhập khẩu của EU cũng được đề cập ở mức khái quát trong những khía
cạnh có liên quan.
Chương một:Một số vấn đề lý luận về xuất khẩu
Chương hai: Tình hình xuất khẩu giày dép Việt Nam sang thị trường EU hiện
nay
Chương ba: Triển vọng về xuất khẩu giày dép Việt Nam sang EU trong thời
gian tới
Chương bốn: Các giải pháp thúc đẩy xuất khẩu giày dép Việt Nam vào EU giai
đoạn 2006 đến 2010.
Em xin chân thành cảm ơn thầy Trưởng khoa –PGS.TS:Đỗ Đức Bình , trưởng
ban chiến lược –viện nghiên cứu thương mại TS: Trần Công Sách đã giúp đỡ em
hoàn thành đề tài này.
CHƯƠNG MỘT:
MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ LÝ LUẬN VỀ XUẤT KHẨU
I.KHÁI NIỆM VÀ CÁC HÌNH THỨC XUẤT KHẨU
1.Khái niệm:
Xuất khẩu là hoạt động đưa các hàng hoá và dịch vụ từ quốc gia này sang
quốc gia khác. Xuất khẩu được coi là hình thức thâm nhập thị trường nước ngoài
ít rủi ro nhất và chi phí thấp.
2.Các hình thức xuất khẩu
2.1. Xuất khẩu trực tiếp
Xuất khẩu trực tiếp là hoạt động bán hàng trực tiếp của một quốc gia cho
các khách hàng của mình ở thị trường nước ngoài.
Việc các quốc gia bán hàng sang thị trường quốc gia khác là hoạt động tham gia
thị trường quốc tế của quốc gia đó. Các công ty có kinh nghiệm thường trực tiếp
bán các sản phẩm của mình ra thị trường nước ngoài. Khách hàng của công ty
không chỉ đơn thuần là người tiêu dùng. Những ai có nhu cầu mua và tiêu dùng
sản phẩm của quốc gia đều là khách hàng của quốc gia.
2.2.Xuất khẩu gián tiếp
Xuất khẩu gián tiếp là hình thức bán hàng hoá và dịch vụ của quốc gia
sang quốc gia khác thông qua trung gian(thông qua quốc gia thứ ba)
II.SỰ CẦN THIẾT ĐẾN XUẤT KHẨU GIÀY DÉP VIỆT NAM SANG
THỊ TRƯỜNG EU
1.Thị trường EU là một thị trường lớn của thế giới
EU là một trung tâm kinh tế hùng mạnh của thế giới có tốc độ tăng trưởng
kinh tế khá ổn định, GDP năm 1999 là 2,0%, năm 1998 , trong khi cơn bão tài
chính tiền tệ làm nghiêng ngả nền kinh tế thế giới thì Liên Minh Châu Âu –khu
vực ít bị ảnh hưởng của khủng hoảng vẫn tiếp tục quá trình phát triển kinh tế của
mình . Sự ổn định kinh tế của EU được xem là một trong những nhân tố chính
giúp cho nền kinh tế thế giới tránh được nguy cơ suy thoái toàn cầu. Năm 2003
tuy tốc độ tăng trưởng nền kinh tế có chiều hướng giảm , nguyên nhân chính là
do sự giảm giá của đồng Euro và sản xuất công nghiệp giảm sút , nhưng đến nay
tình hình đã được cải thiện. Theo Uỷ Ban Châu Âu (EC), kinh tế EU đang phát
triển khả quan. Năm 2005 , GDP của EU cao hơn năm 2004 là 1,1%. Các nhà
phân tích kinh tế lạc quan nói rằng xu hướng đi lên của nền kinh tế Châu Âu vẫn
tiếp tục . Tăng trưởng GDP của 25 quốc gia thuộc khu vực đồng Euro là 3%
trong năm 2005. Tốc độ tăng trưởng của các quốc gia công nghiệp chủ chốt
trong EU là khác nhau, tốc độ tăng trưởng cao nhất thuộc về Ai Len 8,5%. Năm
2006, theo dự tính của EC thì GDP của hầu hết các nước thành viên EU sẽ cao
hơn năm trước là 0,4%-1,5%. Hơn nữa lạm phát ở EU vẫn ở mức 1,1%-mức
thấp chưa từng có trong lịch sử . Tỷ lệ thất nghiệp giảm từ hơn 10% xuống còn
8,6% năm 2005. Thâm hụt ngân sách của các nước thành viên ở mức thấp 0,5%-
1,7% GDP.
Sự lớn mạnh về kinh tế qua quá trình nhất thể hóa và những bước đi xa
hơn đã và đang đem lại cho Liên Minh Châu Âu một sức mạnh kinh tế chính trị
to lớn trên thế giới . EU ngày càng đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy
sự phát triển kinh tế toàn cầu. Hiển nhiên , thị trường EU ngày càng rộng lớn và
đầy sức hấp dẫn đối với các doanh nghiệp , trong đó có các doanh nghiệp xuất
khẩu giày dép của Việt Nam .
2. Vai trò kinh tế của EU trên thị trường thế giới
2.1. Vai trò của EU trong thương mại quốc tế
Thương mại tự do là một trong những mục tiêu chủ yếu của Liên Minh
Châu Âu ( EU ). Với hơn 600 triệu người, EU đã tạo ra một thị trường quan
trọng của thế giới , đẩy mạnh thương mại giữa 25 nước thành viên và phụ thuộc
nhiều vào thương mại quốc tế , nhiều hơn so với Mỹ.
Qua các việc làm thiết thực , EU đã có những đóng góp không nhỏ đối với
việc phát triển thương mại thế giới . Khối lượng thương mại ngày nay đã tăng
lên đáng kể so với 50 năm qua nhờ vào việc tiếp tục loại bỏ các hàng rào thuế
quan và phi thuế quan. Từ năm 1985-2005 , tỷ trọng thương mại chiếm trong
GDP thế giới đã tăng bốn lần so với thập kỷ trước và tăng gần ba lần so với
những năm 60.
Kim ngạch xuất khẩu của EU tăng lên hàng năm (1995: 1.463,13 tỷ USD,
1996: 1.532,37 tỷ USD , 1997: 1.572,51 tỷ USD , 1998: 1.632,42 tỷ USD ,
1999: 1.698,45 tỷ USD , 2000: 1.756,98 tỷ USD , 2001: 1.798,45 tỷ USD ,
2002: 1.843,65 tỷ USD , 2003: 1.876,94 tỷ USD , 2004: 1.883,59 tỷ USD ,
2005: 1.936,78 tỷ USD ), chiếm 24,47% kim ngạch thương mại toàn cầu giai
đoạn 1995-2005, trong khi đó của Mỹ và Nhật Bản là 19,89% và 11,4%.
Kim ngạch xuất khẩu của EU ngày càng tăng lên, chiếm khoảng 21,49%
kim ngạch xuất khẩu thế giới (1995-2005), con số này của Mỹ và Nhật Bản là
17,34% và 10,97%. Bên cạnh đó , kim ngạch nhập khẩu của EU cũng không
ngừng gia tăng , chiếm 20,13% thế giới còn con số của Mỹ và Nhật Bản là
21,34% và 9,96%(1995-2005).
Năm 2005 kim ngạch thương mại thế giới đạt 5.948,39 tỷ USD , trong đó
kim ngạch xuất nhập khẩu của Mỹ là 1.974,55 tỷ USD , chiếm 21,54% kim
ngạch thương mại thế giới , kim ngạch xuất nhập khẩu của EU và Nhật Bản là
1.737,56 tỷ USD và 1.272,85 tỷ USD chiếm 20,36% và 11,67%. Như vậy , trong
năm 2005 Mỹ là nước có kim ngạch ngoại thương lớn nhất thế giới , tiếp theo là
EU và Nhật Bản .
Chiếm tỷ trọng lớn trong thương mại toàn cầu và với vai trò nổi bật trong
tổ chức thương mại thế giới (WTO) , EU là một nhân tố quan trọng trong việc
phát triển thương mại thế giới .
2.2.Vai trò của EU trong đầu tư quốc tế
EU không những là trung tâm thương mại lớn thứ hai thế giới sau Mỹ
mà còn là nơi đầu tư trực tiếp ra nước ngoài lớn nhất thế giới . Nguồn vốn FDI
của EU chiếm 45,7% tổng vốn FDI toàn cầu, trong khi đó của Mỹ và Nhật Bản
là 27,1% và 6,7 %.
Các nước Châu Âu như Anh , Pháp, Đức… tiến hành công nghiệp hóa,
hiện đại hóa nền kinh tế sớm nhất thế giới (từ thế kỷ thứ XVIII). Vì vậy, khi các
ngành công nghiệp phát triển mạnh và nền kinh tế đạt tới trình độ phát triển
cao , nguồn nguyên liệu đầu vào trở nên khan hiếm và giá nhân công tăng , để
hạ giá thành sản phẩm và tăng lợi nhuận họ đã tiến hành di chuyển các ngành
công nghiệp cạnh tranh kém (các ngành công nghiệp sử dụng nhiều nguyên vật
liệu và lao động ) sang những nơi gần nguồn nguyên liệu ,cụ thể là Mỹ ,Nhật
Bản … Chính vì thế , đầu tư nước ngoài đã ra đời . Chúng ta có thể khẳng định
rằng các nước Châu Âu là những người đi tiên phong trong lĩnh vực đầu tư quốc
tế và cho đến tận bây giờ vẫn dẫn đầu trong lĩnh vực này.
Năm 1991, FDI toàn thế giới là 198.143 triệu USD ; FDI của EU là
106.113 triệu USD , chiếm 53,55% FDI thế giới , trong khi đó FDI của Mỹ và
Nhật Bản là 31.380 triệu USD và 31.620 triệu USD , chiếm 15,83% và 15,95%
FDI thế giới .
Năm 1995, FDI toàn cầu là 352.514 triệu USD ; FDI của EU là 159.124
triệu USD , chiếm 45,13% FDI toàn cầu ; FDI của Mỹ và Nhật Bản là 96.650
triệu USD và 22.510 triệu USD , chiếm 27,41% và 6,38% FDI toàn cầu.
Năm 1997, FDI toàn cầu là 423.666 triệu USD ; FDI của EU là 203.237
triệu USD , chiếm 47,97% FDI toàn cầu ; còn FDI của Mỹ và Nhật Bản là
121.840 triệu USD và 26.060 triệu USD , chiếm 28,75% và 6,15% FDI toàn cầu.
Năm 2000, FDI toàn cầu là 787.396 triệu USD ; FDI của EU là 395.560
triệu USD ,chiếm 47,65% FDI toàn cầu ; FDI của Mỹ và Nhật Bản là 238.521
triệu USD và 46.980 triệu USD chiếm 46,73% và 6,64% FDI toàn cầu.
Năm 2004, FDI toàn cầu là 1.346.280 triệu USD ; FDI của EU là 621.908
triệu USD ,chiếm 45,76% FDI toàn cầu ; FDI của Mỹ và Nhật Bản là 401.632
triệu USD và 89.095 triệu USD , chiếm 29,91% và 7,36% FDI toàn cầu.
Ngày nay, các nước thành viên EU đều là các nước công nghiệp có nền
kinh tế phát triển mạnh đang tập trung phát triển các ngành công nghiệp có hàm
lượng công nghệ cao , như điện tử tin học, viễn thông, công nghệ sinh học…
Do vậy, FDI của EU chủ yếu tập trung ở các nước phát triển , cụ thể : Mỹ chiếm
39,7% , Nhật Bản chiếm 32,1%, ASEAN chiếm 12,6% FDI của EU và 15,6%
FDI còn lại của EU đầu tư vào các nước Trung Cận Đông và Châu Phi.
3.Sự phù hợp của hàng hóa cần xuất khẩu của Việt Nam đối với nhu cầu
của thị trường EU .
Thị trường EU có nhu cầu lớn , rất đa dạng và phong phú về hàng hóa
nhất là mặt hàng giày dép ( kiểu dáng, mẫu mã, tính năng, tác dụng… ). Mặt
khác giày dép xuất khẩu của Việt Nam đã đáp ứng được nhu cầu và thị hiếu của
người tiêu dùng EU , đáp ứng được các tiêu chuẩn về kỹ thuật , vệ sinh môi
trường và các chỉ số khác của EU . Hơn nữa , thị trường EU có nhu cầu nhập
khẩu rất lớn và ổn định đối với mặt hàng giày dép , trong khi đó Việt Nam rất có
khả năng đáp ứng được các đơn hàng nhập khẩu lớn của EU ,đồng thời vẫn đáp
ứng được đúng thời điểm và chất lượng giày dép , đa dạng về chủng loại, đẹp về
mẫu mã. Do vậy, tăng cường xuất khẩu giày dép sang EU các doanh nghiệp
Việt Nam không những đảm bảo ổn định được sản xuất mà còn nâng cao được
trình độ và tay nghề của người lao động , mặt khác còn góp phần thay đổi cơ cấu
kinh tế của Việt Nam .
EU là thị trường có nhu cầu nhập khẩu lớn và khá ổn định những mặt
hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam nhất là mặt hàng giày dép , đến hơn 80%
khối lượng giày dép xuất khẩu là xuất khẩu sang thị trường EU . EU là một thị
trường lớn có chính sách thương mại chung cho 25 nước thành viên và đồng tiền
thanh toán cho 11 nước thuộc EU -11. Khi xuất khẩu giày dép sang bất cứ thành
viên nào trong khối chỉ cần tuân theo chính sách thương mại chung và thanh
toán bằng tiền Euro( EU -11) ; không phức tạp như trước đây là phải tính giá
theo 11 đồng tiền bản địa và biểu thuế nhập khẩu , quy chế nhập khẩu rất khác
nhau. Tuy nhiên, hiện nay cũng có những khác biệt nhỏ trong quy chế nhập
khẩu trong 25 nước thành viên . Thị trường EU thống nhất , mở ra cơ hội lớn và
thuận lợi cho các nhà xuất khẩu giày dép Việt Nam .
CHƯƠNG HAI:
TÌNH HÌNH XUẤT KHẨU GIÀY DÉP VIỆT NAM VÀO EU
HIỆN NAY
I.KHÁI QUÁT VỀ THỊ TRƯỜNG EU
1.Tập quán ,thị hiếu tiêu dùng và kênh phân phối
1.1.Tập quán và thị hiếu tiêu dùng:
EU là một thị trường rộng lớn, với 375,5 triệu người tiêu dùng. Thị trường
EU thống nhất cho phép tự do lưu chuyển sức lao động, hàng hóa,dịch vụ và
vốn giữa các nước thành viên. EU gồm 25 thị trường quốc gia, mỗi thị trường lại
có đặc điểm tiêu dùng riêng. Do vậy, có thể thấy rằng thị trường EU có nhu cầu
rất cao, đa dạng và phong phú về hàng hóa. Có những loại hàng hóa rất được ưa
chuộng ở thị trường Pháp,Ý,Bỉ, nhưng lại không được ưa chuộng ở Ai len, Đức,
Đan Mạch, Anh. Nhưng nhìn chung, các nước EU có những điểm chung về thói
quen và sở thích tiêu dùng, đối với giày dép: người dân Áo, Đức, và Hà Lan chỉ
mua hàng giày dép không chứa chất nhuộm có nguồn gốc hữu cơ. Khách hàng
EU đặc biệt quan tâm tới chất lượng và thời trang của giày dép. Nhiều khi yếu tố
thời trang lại có tính quyết định cao hơn nhiều so với giá cả. Hện nay, người tiêu
dùng EU đang có xu hướng đi giày vải. Xu hướng này ngày càng tăng lên tỷ lệ
thuận với nhu cầu tiêu dùng giày dép tăng hàng năm ở EU. Đối với mặt hàng
này nhu cầu thay đổi nhanh chóng, đặc biệt về mặt mẫu mốt.
Người tiêu dùng EU có sở thích và thói quen sử dụng các sản phẩm có
nhãn hiệu nổi tiếng trên thế giới. Họ cho rằng, những nhãn hiệu này gắn liền
với chất lượng sản phẩm và có uy tín lâu đời, cho nên dùng những sản phẩm
mang nhãn hiệu nổi tiếng sẽ rất an tâm về chất lượng và an toàn cho người sử
dụng. Nhiều trường hợp, những sản phẩm này giá rất đắt, nhưng họ vẫn mua và
không thích thay đổi sang những sản phẩm không nổi tiếng khác cho dù giá rẻ
hơn nhiều. Đặc biệt đối với những sản phẩm của các nhà sản xuất không nổi
tiếng hay nói cách khác những sản phẩm có nhãn hiệu ít người biết đến thì rất
khó tiêu thụ trên thị trường này. Người tiêu dùng EU rất sợ mua những sản
phẩm như vậy, vì họ cho rằng sản phẩm của các nhà sản xuất không danh tiếng
sẽ không đảm bảo về chất lượng ,và an toàn cho người sử dụng, do đó không an
toàn đối với sức khỏe và cuộc sống của họ.
Thị trường EU về cơ bản cũng giống như thị trường một quốc gia. Do vậy
có 3 nhóm người tiêu dùng khác nhau: (1) nhóm có khả năng thanh toán ở mức
cao, chiếm gần 20% dân số của EU, dùng hàng có chất lượng tốt nhất và giá cả
cũng đắt nhất hoặc những mặt hàng hiếm và độc đáo; (2) nhóm có khả năng
thanh toán ở mức trung bình, chiếm 68% dân số, sử dụng chủng loại hàng hóa
kém hơn một chút so với nhóm một và giá cả cũng rẻ hơn; (3) nhóm có khả
năng thanh toán ở mức thấp, chiếm hơn 10% dân số, tiêu dùng những loại hàng
hóa có chất lượng và giá cả đều thấp hơn so với hàng của nhóm 2. Hàng hóa đáp
ứng nhu cầu tiêu dùng trên thị trường này gồm cả hàng cao cấp lẫn hàng bình
dân phục vụ cho mọi đối tượng. Đối tượng tiêu dùng hàng Việt Nam là nhóm 2
và nhóm 3. Các đối thủ cạnh tranh chính của hàng Việt Nam là hàng Trung
Quốc và hàng của các nước ASEAN khác(Thái Lan, Indonexia, Malaixia,…)
Sở thích và thói quen tiêu dùng của người dân EU đang thay đổi rất nhanh cùng
với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học và công nghệ. Ngày nay, người tiêu
dùng EU cần nhiều chủng loại hàng hóa có số lượng lớn và những hàng hóa có
vòng đời ngắn. Không như trước kia họ chỉ thích sử dụng những sản phẩm đắt
tiền, chất lượng cao, vòng đời sản phẩm dài, hiện nay sở thích tiêu dùng lại là
những sản phẩm có chu trình ngắn hơn, giá rẻ hơn,và phương thức dịch vụ tốt
hơn. Tuy có sự thay đổi về sở thích và thói quen tiêu dùng như vậy nhưng chất
lượng hàng hóa vẫn là yếu tố quyết định đối với phần lớn các hàng hóa được
tiêu thụ trên thị trường này. Để xuất được hàng hóa vào thị trường EU, các
doanh nghiệp Việt Nam không những phải nắm vững nhu cầu thị trường ,thị
hiếu tiêu dùng và đảm bảo sản phẩm có sức cạnh tranh về chất lượng cũng như
giá cả ,mà còn phải thông thạo kênh phân phối và hệ thống pháp luật của EU,
nắm được hệ thống quản lý xuất nhập khẩu.
1.2.Kênh phân phối
Hệ thống phân phối EU về cơ bản cũng giống như hệ thống phân phối của
một quốc gia ,gồm mạng lưới bán buốn và mạng lưới bán lẻ. Tham gia vào hệ
thống phân phối này là các công ty xuyên quốc gia ,hệ thống các cửa hàng, siêu
thị, các công ty bán lẻ độc lập,…
Các công ty xuyên quốc gia EU thường phát triển theo mô hình, gồm: ngân hàng
hoặc công ty tài chính, nhà máy, công ty thương mại, siêu thị, cửa hàng… các
công ty xuyên quốc gia tổ chức mạng lưới tiêu thụ của mình rất chặt chẽ, họ chú
trọng từ khâu đầu tư sản xuất hoặc mua hàng đến khâu phân phối hàng cho
mạng lưới bán lẻ. Do vậy, họ có quan hệ rất chặt chẽ với các nhà thầu nước
ngoài (các nhà xuất khẩu ở các nước) để đảm bảo nguồn cung cấp hàng ổn định
và giữ uy tín với mạng lưới bán lẻ.
Hình thức phổ biến nhất của các kênh phân phối trên thị trường EU là
theo tập đoàn và không theo tập đoàn. Kênh phân phối theo tập đoàn có nghĩa là
các nhà sản xuất và nhà nhập khẩu của một tập đoàn chỉ cung cấp hàng hóa cho
hệ thống các cửa hàng và siêu thị của tập đoàn này mà không cung cấp hàng cho
hệ thống bán lẻ của tập đoàn khác. Còn kênh phân phối không theo tập đoàn thì
ngược lai, các nhà sản xuất và nhập khẩu của tập đoàn ngoài việc cung cấp hàng
hóa cho hệ thống bán lẻ của tập đoàn mình còn cung cấp hàng hóa cho hệ thống
bán lẻ của tập đoàn khác và các công ty bán lẻ độc lập.
Hệ thống phân phối của EU đã hình thành lên một tổ hợp rất chặt chẽ và có
nguồn gốc lâu đời. Tiếp cận hệ thống phân phối này không phải là dễ đối với các
nhà sản xuất xuất khẩu của Việt Nam hiện nay. Theo nhóm nghiên cứu,các nhà
xuất khẩu của ta muốn tiếp cận các kênh phân phối chủ đạo trên thị trường EU
thì phải tiếp cận được với các nhà nhập khẩu EU. Có thể tiếp cận với các nhà
nhập khẩu EU bằng hai cách: thứ nhất, tìm các nhà nhập khẩu của EU để xuất
khẩu trực tiếp (tìm các nhà nhập khẩu này qua các thương vụ của Việt Nam tại
EU ,phái đoàn EC tại Hà Nội, các đại sứ quán của các nước EU tại Việt Nam );
thứ hai, những doanh nghiệp Việt Nam có tiềm lực kinh tế nên thành lập liên
doanh với các công ty xuyên quốc gia EU để trở thành các công ty con.
2.Các biện pháp bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng của EU
Để đảm bảo quyền lợi của người tiêu dùng ,EU tiến hành kiểm tra các sản
phẩm ngay từ nơi sản xuất và có hệ thống báo động giữa các nước thành viên
,đồng thời bãi bỏ việc kiểm tra các sản phẩm ở biên giới. EU đã thông qua
những quy định bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng về độ an toàn chung của
các sản phẩm được bán ra, các hợp đồng quảng cáo, bán hàng tận nhà, nhãn
hiệu… Các tổ chức chuyên nghiên cứu đại diện cho giớ tiêu dùng sẽ đưa ra các
quy chế định chuẩn quốc gia hoặc Châu Âu. Hiện nay, ở EU có 3 tổ chức định
chuẩn: Ủy ban Châu Âu về định chuẩn, Ủy ban Châu Âu về định chuẩn điện tử,
Viện định chuẩn viễn thông Châu Âu . Tất cả các sản phẩm chỉ có thể bán được
trên thị trường này với điều kiện phải bảo đảm tiêu chuẩn an toàn chung của EU,
các luật và các định chuẩn quốc gia được sử dụng chủ yếu để cấm buôn bán sản
phẩm được sản xuất ra từ những nước có những điều kiện sản xuất chưa ngang
bằng với tiêu chuẩn của EU.
Để bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng ,EU tích cực tham gia chống nạn
hàng giả bằng cách không cho nhập khẩu những sản phẩm đánh cắp bản quyền.
Ngoài việc ban hành và thực hiện quy chế trên, EU đưa ra các Chỉ thị kiểm soát
từng nhóm hàng cụ thể về chất lượng và an toàn đối với người tiêu dùng .
3. Chính sách thương mại chung của EU
3.1. Chính sách thương mại nội khối
Chính sách thương mại nội khối tập trung vào việc xây dựng và vận hành
thị trường chung Châu Âu nhằm xóa bỏ việc kiểm soát biên giới lãnh thổ quốc
gia ,biên giới hải quan ( xóa bỏ các hàng rào thuế quan và phi thuế quan ) để tự
do lưu thông hàng hóa ,sức lao động ,dịch vụ và vốn; và điều hòa các chính
sách kinh tế và xã hội của các nước thành viên.
Thị trường chung Châu Âu dựa trên nền tảng của việc tự do di chuyển 4
yếu tố cơ bản của sản xuất hàng hóa ,sức lao động ,dịch vụ và vốn.
+Lưu chuyển tự do hàng hóa : Để hàng hóa được tự do lưu thông trong thị
trường chung các nước thành viên EU đều nhất trí áp dụng những biện pháp sau
đây: (1) Xóa bỏ hoàn toàn mọi loại thuế quan đánh vào hàng hóa xuất nhập khẩu
giữa các nước thành viên ;(2) Xóa bỏ hạn ngạch (quota) áp dụng trong thương
mại nội khối; (3) Xóa bỏ tất cả các biện pháp tương tự hạn chế về số lượng ( các
biện pháp hạn chế dưới hình thức là các quy chế và quy định về cấu thành sản
phẩm ,đóng gói, tiêu chuẩn công nghiệp và an toàn kỹ thuật); và (4) Xóa bỏ tất
cả các rào cản về thuế giữa các nước thành viên ( Điều khoản 9-37, Hiệp ước về
Liên Minh Châu Âu ).
+ Tự do đi lại cư trú trên toàn lãnh thổ Liên Minh: Để đảm bảo việc tự do
đi lại và cư trú của công dân trong lãnh thổ EU, các nước thành viên đều nhất trí
đảm bảo các quyền sau cho công dân của họ: (1) Tự do đi lại về mặt địa lý; (2)tự
do di chuyển vì nghề nghiệp; (3)Nhất thể hóa về xã hội; và (4) Tự do cư trú
(Điều 48-58, Hiệp ước Liên Minh Châu Âu )
+Lưu chuyển tự do vốn: Trong một thời gian dài, thương mại tự do về
hàng hóa và dịch vụ sẽ không thể duy trì được nếu vốn không được lưu chuyển
tự do và được chuyển tới nơi nó được sử dụng một cách có hiệu quả kinh tế
nhất.
3.2. Chính sách ngoại thương
Chính sách ngoại thương của EU gồm: chính sách thương mại tự trị và
chính sách dựa trên cơ sở hiệp định, được xây dựng dựa trên các nguyên tắc sau:
không phân biệt đối xử ,minh bạch ,có đi có lại và cạnh tranh công bằng. Các
biện pháp được áp dụng phổ biến trong chính sách này là thuế quan, hạn chế về
số lượng ,hàng rào kỹ thuật, chống bán phá giá và trợ cấp xuất khẩu.
EU đang thực hiện chương trình mở rộng hàng hóa :đẩy mạnh tự do hóa thương
mại ( giảm dần thuế quan đánh vào hàng hóa xuất nhập khẩu và tiến tới xóa bỏ
hạn ngạch, GSP). Hiện nay, 25 nước thành viên của EU cùng áp dụng một biểu
thuế quan chung đối với hàng hóa xuất nhập khẩu . Đối với hàng nhập khẩu vào
khối ,mức thuế trung bình đánh vào hàng công nghiệp là 2%.
Các chính sách chủ yếu của EU gồm:chính sách khuyến khích xuất
khẩu ,chính sách thay thế nhập khẩu ,chính sách tự do hóa thương mại và chính
sách hạn chế xuất khẩu tự nguyện. Việc ban hành và thực hiện các chính sách
này có liên quan chặt chẽ tình hình phát triển kinh tế ,tiến trình nhất thể hóa
Châu Âu và khả năng cạnh tranh trong từng thời kỳ của các sản phẩm của Liên
Minh Châu Âu trên thị trường thế giới.
Để đảm bảo cạnh tranh công bằng trong thương mại ,EU đã thực hiện các
biện pháp :chống bán phá giá, chống trợ cấp xuất khẩu và chống hàng giả.
Không chỉ dừng lại ở việc áp dụng các biện pháp chông cạnh tranh không lành
mạnh trong thương mại ,EU còn sử dụng các biện pháp để đẩy mạnh thương mại
với các nước đang phát triển và các nước chậm phát triển. Đó là hệ thống ưu đãi
thuế quan phổ cập (GSP)-một công cụ quan trọng của EU để hỗ trợ các nước nói
trên. Bằng cách này ,EU có thể làm cho nhóm các nước chậm phát triển dễ dàng
thâm nhập vào thị trường của mình. Nhóm các nước chậm phát triển có thể được
hưởng ưu đãi cao hơn các nước đang phát triển .
4. Tình hình nhập khẩu giày dép của EU trong những năm gần đây
Liên Minh Châu Âu có nền ngoại thương lớn thứ hai thế giới sau Mỹ, là
thị trường xuất khẩu lớn nhất và thị trường nhập khẩu lớn thứ hai thế giới. Hàng
năm EU nhập khẩu một khối lượng lớn hàng hóa từ các nước trên thế giới. Kim
ngạch nhập khẩu không ngừng gia tăng, từ 698,65 tỷ USD năm 1995 lên tới
987,45 tỷ USD năm 2005. Kim ngạch nhập khẩu của EU chiếm tỷ trọng 48,76%
trong tổng số kim ngạch xuất nhập khẩu của EU hàng năm.
Các thị trường nhập khẩu chủ yếu của EU: Mỹ chiếm 19,65% tổng kim
ngạch nhập khẩu , Nhật Bản chiếm 9,75%, Trung Quốc chiếm 5,02%, khối
NAFTA chiếm 22,15%, khối ASEAN chiếm 6,5%, khối OPEC chiếm 7,75%...
Các số liệu cho thấy nhập khẩu hàng hóa từ các nước đang phát triển vào EU
đang gia tăng và có chiều hướng nhập nhiều hàng chế tạo. Trung Quốc ,các thị
trường mới nổi ở Châu Á và Mỹ La Tinh đóng góp khá lớn vào sự phát triển của
thị trường này. EU nhập khẩu các mặt hàng nông sản ,khoáng sản ,giày dép
,thủy hải sản và hàng dệt may chủ yếu từ các nước đang phát triển ;còn nhập
khẩu máy móc và thiết bị từ các nước phát triển. EU là thị trường nhập khẩu lớn
thứ hai thế giới sau Mỹ, nhu cầu nhập khẩu hàng năm của EU là rất lớn. EU
nhập khẩu rất nhiều các mặt hàng nông sản, khoáng sản, thủy hải sản và dệt
may. Đây là những mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam . Hàng giày dép
,dệt may đang được ưa chuộng ở thị trường Châu Âu và triển vọng xuất khẩu
những mặt hàng này là rất khả quan. Vì vậy, có thể nói rằng EU là thị trường
xuất khẩu tiềm năng của Việt Nam .
EU là một trong những thị trường sản xuất và tiêu thụ đồ da nói chung và
giày dép nói riêng lớn nhất thế giới, giày dép chiếm tới gần 30% mức tiêu thụ
toàn cầu. Hàng giày dép Việt Nam xuất khẩu vào thị trường này chỉ đứng sau
Trung Quốc ( xếp thứ nhất trong số các mặt hàng mà Việt Nam xuất khẩu sang
EU) và chiếm tới gần 75% tổng kim ngạch xuất khẩu giày dép Việt Nam ra
nước ngoài. Theo các nhà nghiên cứu về đồ dự án của Châu Âu ,những năm gần
đây sự tiêu thụ đồ dự án của thị trường các nước EU lên tới khoảng 8 tỷ USD
mỗi năm. Bốn quốc gia nỗi bật nhất là CHLB Đức tới 20% tổng doanh số toàn
khối, Pháp và Ý mỗi nước 16%, Anh 10%. Tuy là một trung tâm lớn về sản xuất
đồ da thế giới, nhưng EU vẫn có nhu cầu nhập khẩu rất nhiều ,trung bình tới hơn
25% trong tổng kim ngạch nhập khẩu đồ da của toàn cầu( khoảng trên 6 tỷ USD
hàng năm).Các nước hiện xuất khẩu nhiều vào EU là:Trung Quốc ,Ấn Độ, Mỹ,
Đài Loan, Pakixtan, Việt Nam , Thái Lan, Indonexia, Maroc… đã tạo ra sực ép
cạnh tranh rất lớn.
II.THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU MẶT HÀNG GIÀY DÉP SANG THỊ
TRƯỜNG EU
1. Giai đoạn từ 1995-2000
Giày dép Việt Nam trước kia xuất khẩu vào EU phải chịu sự giám sát ( phải
xin phép trước khi nhập khẩu ), nhưng sau khi ký Hiệp định Hợp tác(17/7/1995)
nhóm hàng này được nhập khẩu tự do vào EU .Chính vì vậy,kim ngạch xuất
khẩu tăng nhanh, năm 1995 đạt 481,3 triệu USD ,năm 1996 đạt 664,6 triệu USD
,năm 1997 đạt 1.032,3 triệu USD , năm 19981.043,1 triệu USD, năm 1999 lên
tới 1.310,5 triệu USD, vượt xa mặt hàng dệt may đã từng giữ vị trí thống soái
trong thời kỳ 1992-1995.
Cho tới nay, có nhiều số liệu khác nhau về tỷ trọng của EU trong tổng kim
ngạch xuất khẩu giày dép và sản phẩm da dày của Việt Nam . Nếu căn cứ vào số
liệu của EU thì gần như 100% sản phẩm da dày của ta được xuất vào EU. Theo
số liệu của hải quan Việt Nam thì chỉ xấp xỉ 50% (do Hải quan thống kê thị
trường theo khách hàng, không thống kê theo điểm đến cuối cùng). Còn theo
Tổng công ty Da Giày Việt Nam thì tỷ trọng của EU trên 80%.
Dù tính theo cách nào thì tỷ trọng xuất khẩu vào EU cũng vẫn vượt 50%. Việt
Nam là một trong năm nước có số lượng giày dép tiêu thụ nhiều nhất ở thị
trường EU do giá rẻ,chất lượng và mẫu mã chấp nhận được với loại sản phẩm
chủ yếu là giày thể thao. Nếu căn cứ theo số liệu của Tổng công ty Da Giày thì
năm 1998 Việt Nam đã xuất khẩu sang EU khoảng 180 triệu đôi, chiếm 21,5%
tổng khối lượng giày dép nhập khẩu vào EU. Theo quy định của EU, khi sản
phẩm của một nước đạt 25% tổng mức nhập khẩu hàng năm của họ thì sản phẩm
đó của nước đó sẽ không được hưởng các ưu đãi về thuế nhập khẩu nữa.
Lượng giày dép của Việt Nam xuất khẩu vào EU trong hai năm 1995-1996 tăng
rất nhanh, vượt cả hàng dệt may. Năm 1997 Ủy Ban Châu Âu đã tiến hành xem
xét khả năng hạn chế nhập khẩu (bằng định ngạch hoặc đánh thuế chống bán
phá mặt hàng này theo kiến nghị của nhiều nhà sản xuất giày dép của EU). Sở dĩ
như vậy là vì EU có nghi ngờ trong giày dép xuất khẩu sang đó có một số lượng
lớn xuất xứ từ các nước khác. Điều này có tác động bất lợi nhất định đối với
việc sản xuất mặt hàng giày dép trong nước. Đến năm 1998, lượng giày dép
mang xuất xứ Việt Nam nhập khẩu vào EU đã tăng tới mức báo động và EU đã
chính thức đề nghị ta phối hợp kiểm soát tình hình này. Dù lý do nào đi chăng
nữa thì việc Việt Nam không thẩm tra được lượng hàng mang xuất xứ từ Việt
Nam nhập khẩu vào EU đã gây ra những rắc rối cho hoạt động xuất khẩu của ta.
Nếu EU áp dụng hạn ngạch đối với mặt hàng giày dép thì sẽ rất bất lợi cho
ngành da giày Việt Nam và sẽ trở thành một tiền lệ xấu cho các mặt hàng khác.
Sau khi phái đoàn kiểm tra của phía EU sang làm việc tại Việt Nam đã xác minh
được phần lớn những trường hợp mà họ nghi ngờ là không đúng, chỉ có rất ít
trường hợp trong đó doanh nghiệp Việt Nam chưa đáp ứng đầy đủ yêu cầu về
xuất xứ của EU. Thực chất vấn đề là ở chỗ: để được hưởng chế độ GSP và
không bị hạn ngạch giày dép , một số thương nhân nước ngoài đã làm giả giấy
tờ là hàng có xuất xứ từ Việt Nam ( mà thực chất là hàng đó không có xuất xứ từ
Việt Nam ). Để tránh hiện tượng đó, Việt Nam và EU đã ký tắt biên bản ghi nhớ
về chống gian lận trong buôn bán giày dép có xuất xứ từ Việt Nam ,áp dụng từ
1/1/2000. Thực hiện biện pháp này bằng cách cơ quan có thẩm quyền của Việt
Nam (Bộ Thương Mại) cấp luôn cả giấy chứng nhận xuất khẩu và giấy chứng
nhận xuất xứ(C/O form A). Các cơ quan có thẩm quyền của EU sẽ cấp tự động
giấy chứng nhận nhập khẩu để thông quan hàng hóa ngay khi xuất trình bản gốc
giấy chứng nhận xuất khẩu do Bộ Thương Mại Việt Nam cấp. Giấy chứng nhận
nhập khẩu này được cấp trong vòng 5 ngày làm việc kể từ ngày nộp đơn.
Các sản phẩm giày dép của Việt Nam xuất khẩu sang EU chủ yếu là giày thể
thao,chiếm trên 40% kim ngạch xuất khẩu giày dép của Việt Nam sang thị
trường này, giày vải gần 20%, giày nữ xấp xỉ 15%, dép khoảng 17% và giày da
hơn 1,5%.
Thị trường xuất khẩu giày dép lớn nhất của Việt Nam trong Liên Minh Châu Âu
là Đức (25,3%), tiếp đến là Anh (21,0%), Pháp(14,3%) ,Bỉ(12,3%) ,Ý(8,1%),
Hà Lan(7,9%), Tây Ban Nha(4,6%), Thụy Điển(2,2%),Đan Mạch(1,3%),Hy
Lạp(0,8%),Phần Lan(0,8%),Áo(0,8%), AiLen(0,6%)
Tuy kim ngạch xuất khẩu giày dép của Việt Nam vào EU tăng
nhanh,nhưng chúng ta chủ yếu xuất khẩu theo hình thức gia công( chiếm trên
70% kim ngạch ) nên hiệu quả thực tế rất nhỏ (25%-30% tổng doanh thu xuất
khẩu ). Nguyên nhân dẫn tới tình trạng này là do:(1) ngành giày không nhận
được sự hỗ trợ của ngành da và các ngành sản xuất nguyên phụ liệu;(2) các
doanh nghiệp không nắm bắt được nhu cầu mẫu mã giày dép là do khâu tiếp cận
thị trường yếu không quan hệ trực tiếp được với các nhà nhập khẩu EU vì phụ
thuộc vào người trung gian; (3) thời gian qua các doanh nghiệp chủ yếu làm gia
công cho nước ngoài, nên không có cơ sở nào quan tâm đến việc đa dạng hóa,
nâng cao, chất lượng và cải tiến mẫu mã sản phẩm xuất khẩu, do đó mà chất
lượng sản phẩm giày dép chưa cao và mẫu mã còn đơn điệu. Nếu cứ kéo dài tình
trạng này thì giày dép Việt Nam sẽ ở vào vị trí hoàn toàn bất lợi trong cạnh tranh
trên thị trường EU khi họ xóa bỏ chế độ GSP và lúc đó các sản phẩm giày dép
Việt Nam sẽ không thể giành phần thắng trong cạnh tranh với các sản phẩm
cùng loại của Trung Quốc và các nước ASEAN khác.
Bảng 1:xuất khẩu giày dép Việt Nam sang EU giai đoạn 1995-2000
Chỉ tiêu 1995 1996 1997 1998 1999 2000
Tốc độ tăng
bình quân /
Năm
Số lượng(triệu
đôi)
Giá trị(triệuECU)
Tỷ trọng trong
tổng KNXK giày
dép (%)
14,3
26
59,8
35,2
119
81,4
65,8
271
80,69
74
380
80,5
92,8
520
76,6
120
851
73,3
52%
26,9%
Nguồn:niên giám thống kê của EUROSTAT
Ngoại thương /số 10 ngày 4-10/4/2001
2. Giai đoạn từ năm 2001 đến nay
Da giày Việt Nam là một trong những ngành phát triển rất nhanh. Chỉ trong 7
năm (1992-1999), từ chỗ chỉ có một vài nhà máy sản xuất giầy cho thị trường
nội địa tiêu thụ, Việt Nam đã có trên 250 nhà máy lớn nhỏ . những đôi giày
“made in Việt Nam” đã tỏa đi khắp thế giới, với rất nhiều thương hiệu khác
nhau. Hiện ngành da giày Việt Nam có thể sản xuất được 460 triệu đôi giày/năm
, 34 triệu square feet da( đơn vị quy chuẩn quốc tế về số lượng da) và hơn 50
triệu sản phẩm da khác. Kèm theo đó ,kim ngạch xuất khẩu của ngành giày cũng
tăng nhanh chóng từ 118 triệu USD( năm 1993) lên 1,4 tỷ (năm 2000). Sở dĩ có
được những bước tăng trưởng đáng kể trong ngành da giày là do Việt Nam có
một thị trường lao động giá rẻ, công nhân có tay nghề cao, tiếp nhận nhan kỹ
thuật tiên tiến… song sự phát triển trên không ổn định, bị thụt lùi khi thị trường
thế giới gặp biến động hoặc có sự cạnh tranh quyết liệt của một số nước khác
( chủ yếu là Trung Quốc ). Năm 2000,kim ngạch xuất khẩu chỉ tăng 7,7% trong
khi năm 1999, mức tăng lên đến 35%.
Năm 2001, ngành da giày Việt Nam lại tiếp tục đương đầu với những khó
khăn do sự biến động của thị trường giày dép EU và những khó khăn nảy sinh
do sức ép từ phía nội tại các doanh nghiệp trong nước. Mười tháng đầu năm
2001, kim ngạch xuất khẩu các sản phẩm giày dép vào thị trường EU đạt khoảng
1204 triệu USD ,báo hiệu trước khả năng khó có thể đạt kim ngạch xuất khẩu
1,7 tỷ USD trong năm 2001 như dự báo. Theo dõi tình hình hoạt động của các
doanh nghiệp sản xuất giày dép Việt Nam thời gian gần đây cho thấy, xuất khẩu
giày dép liên tục gặp nhiều khó khăn dẫn đến kim ngạch ngày càng giảm so với
cùng kỳ năm ngoái cả về giá trị và khối lượng.
Thị trường của sản phẩm giày dép Việt Nam có nguy cơ bị thu hẹp, do đơn
đặt hàng từ các nước trong Liên Minh Châu Âu ít dần. Trong xu thế cạnh tranh
mạnh mẽ hiện nay, da giày Việt Nam gần như bó tay bất lực khi không còn giữ
được hợp đồng của các bạn hàng. Các doanh nghiệp thiếu thông tin về thị trường
quốc tế nhất là thị trường EU, trong khi thị trường xuất khẩu có những đòi hỏi
rất cao, đặc biệt là tiêu chuẩn về lao động và người lao động . Có một số đối tác
nước ngoài từ chối đơn hàng do các doanh nghiệp sử dụng công nhân dưới tuổi
lao động . Lượng đơn hàng bị chuyển dịch đã lên tới 40% và con số này sẽ tăng
lên, nếu các doanh nghiệp không có những điều chỉnh và chọn lựa hợp lý về mặt
tiêu chuẩn. Lợi thế về giá nhân công rẻ cũng mất dần. Từ đầu năm đến nay,
lượng đơn hàng của loại giày vải đã giảm sút rất mạnh và đến nay thì các doanh
nghiệp giày vải đã không còn đơn hàng. Các doanh nghiệp không tìm được
khách hàng EU, lại bị lệ thuộc vào các đối tác nước ngoài trong việc bao tiêu
sản phẩm . Nhiều doanh nghiệp đầu tư phát triển manh mún , không có quy
hoạch cạnh tranh thiếu lành mạnh. Các doanh nghiệp hầu như không theo kịp sự
phát triển của thị trường .
Ngành giày Việt Nam phải trực tiếp cạnh tranh với một đối thủ có nhiều tiềm
năng và lợi thế về sản xuất giày dép là Trung Quốc ;trong khi đó, nguồn vốn để
đầu tư đổi mới công nghệ thiết bị sản xuất của hầu hết các doanh nghiệp thiếu.
Trong ngành da cũng tiềm ẩn nhiều khó khăn về tổ chức quản lý, cơ chế hoạt
động vốn đầu tư và vốn sản xuất kinh doanh…
Mọi người đều đồng ý là cơ chế kiểm soát mới mà EU đề nghị gây thêm trở
ngại cho doanh nghiệp.Không thể áp dụng ,hay là cần phải chấp nhận điều “ít
xấu hơn” do phát triển quá nhanh và bị gian lận.
EU vẫn là thị trường giày dép lớn nhất của Việt Nam chiếm hơn 80% tổng kim
ngạch xuất khẩu giày dép của nước ta ra thị trường thế giới.
Bảng hai: kim ngạch xuất khẩu giày dép của Việt Nam sang thị trường EU giai
đoạn 2001-2005 (đơn vị tính:1.000USD)
Năm 2001 2002 2003 2004 2005
Anh 254.211 312.353 388.822 494.238 676.994
Đức 214.002 249.682 316.317 338.098 463.244
Hà lan 157.364 184.843 215.377 237.992 387.521
Pháp 166.344 178.791 193.989 183.044 301.642
Bỉ 158.368 148.875 169.693 199.620 243.860
Italia 101.645 119.140 145.758 133.287 196.063
Tây Ban Nha 44.652 53.824 73.145 77.896 132.426
Thụy Điển 21.901 26.890 38.619 40.806 91.382
Đan Mạch 11.095 14.761 18.189 17.021 67.910
Hy lạp 9.610 16.819 16.541 15.426 59.018
Áo 5.838 6.422 11.651 15.365 47.105
Nga 15.968 12.182 8.803 8.156 24.810
Thổ Nhĩ Kỳ 3.060 5.726 7.322 9.900 18.740
Nauy 4.498 6.011 6.186 6.965 13.905
Phần lan 6.916 5.987 5.671 5.306 10.873
Ba lan 5.453 5.572 5.581 3.389 7.132
Bồ Đào Nha 1.195 779 1.109 1.862 5.802
Séc 3.815 2.952 4.934
Hungary 1.939 1.985 2.201
Nguồn Niên giám thống kê của EUROSTAT
Ngoại thương /số 6 ngày 21-28/2/2006
Theo thống kê của tổng cục Hải quan, xuất khẩu giày dép Việt Nam năm
2004 đạt 2,640 tỷ USD tăng 18% so với năm 2003 ,trong đó, kim ngạch xuất
khẩu vào EU chiếm hơn 80%. Tổng vốn đầu tư trong 5 năm (2000-2005) của
toàn ngành da giày là 5.100 tỷ đồng, giá trị sản xuất công nghiệp tăng từ 7.600
tỷ đồng lên 13.778 tỷ đồng, tăng bình quân trên 16,26%, kim ngạch xuất khẩu
tăng từ 1.000,82 triệu USD lên 2.267,38 triệu USD , tăng bình quân 25,3%/năm,
tỷ lệ nội địa hóa 40%.
Việc giày Việt Nam không bị định ngạch và được hưởng thuế suất ưu đãi
giảm 30% so với thuế tối huệ quốc khi xuất khẩu sang EU đã hút nhiều nhà đầu
tư sang Việt Nam .Điều này khiến gần đây xuất khẩu giày dép sang EU tăng với
tốc độ quá nhanh. Năm 1994 EU nêu vấn đề định ngạch giày nhập khẩu từ Việt
Nam ở mức 1,3 triệu đôi một năm. Lúc đó Pháp và Đức là hai nước có tiếng nói
quan trọng trong EU đã ủng hộ Việt Nam nên việc định ngạch không được
thông qua. Sau năm 2000,rất nhiều nước EU lại đặt vấn đề giới hạn số lượng
nhập khẩu từ Việt Nam với hai lý do chính: hàng Việt Nam tăng quá nhanh và
có gian lận thương mại .
Thách thức lớn và đã bắt đầu là cam kết CEPT/AFTA từ năm 2002-2006
sản phẩm giày dép nước ta phải đem vào danh mục giảm thuế chắc chắn sẽ ảnh
hưởng lớn đến ngành giày dép Việt Nam . Thách thức thứ hai là ,các doanh
nghiệp giày dép đang phải từng bước đối mặt với những yêu cầu ngày càng khắt
khe hơn của thị trường EU về các tiêu chuẩn kỹ thuật, an toàn môi trường và sự
thay đổi thị hiếu tiêu dùng .
Nói tóm lại EU là một thị trường đầy tiềm năng, kim ngạch xuất khẩu
giày dép của Việt Nam vào EU cũng như các đồ da khác luôn luôn có chiều
hướng gia tăng. Tuy vậy, hiện nay nước ta mới chỉ khai thác được khoảng 63%
khả năng công suất xuất khẩu đồ da vào thị trường này. Chủ yếu sản phẩm giày
dép của Việt Nam xuất sang thị trường EU vẫn phải thực hiện qua các công ty
của Đài Loan, Hồng Kông, Singapo, Hàn Quốc. Phấn đấu tăng tỷ trọng xuất
nhập khẩu trực tiếp, nâng cao khả năng cạnh tranh về chất lượng sản phẩm ,đáp
ứng nhu cầu thị hiếu mẫu mốt cũng như giá cả hấp dẫn để phát triển xuất khẩu
được nhiều mặt hàng da giày vào thị trường EU là một thực tế đầy thách thức
đối với các doanh nghiệp ngành da giày Việt Nam . Nhất là khi EU đã rút quy
chế ưu đãi GSP lại càng khó khăn hơn.
Trên thực tế quy mô sản xuất của ta còn nhỏ, trình độ quản lý thấp, lệ
thuộc nhiều vào mẫu mốt của nước ngoài và tới 70% sản phẩm của ta vẫn là gia
công xuất khẩu . Theo nhận định của Tổng công ty Da giày Việt Nam trong năm
qua, công tác đầu tư phát triển của toàn Tổng công ty cũng như của từng doanh
nghiệp chưa mạnh. Nhìn chung việc đầu tư còn tản mạn, chắp vá ,mới chú trọng
đến đầu tư trước mắt chưa có chương trình lâu dài cho tương lai. Nhiều doanh
nghiệp chưa chú trọng đúng mức đến đầu tư kỹ thuật. Việc triển khai ứng dụng
hệ thống quản lý sản phẩm theo tiêu chuẩn ISO 9002 làm chưa tốt. Chưa có
chiến lược rõ ràng về phát triển thị trường và xúc tiến thương mại …
Sản xuất da thuộc trong nước phát triển còn thấp hơn so với hàng ngoại
nhập. Hàng năm các doanh nghiệp da giày phải nhập da thuộc của nước ngoài
tới trị giá vài trăm triệu USD . Theo thống kê của bộ công nghiệp ,cả nước hiện
nay có hơn 800 đơn vị thuộc da, nhưng mới chỉ có gần 100 đơn vị được trang bị
dây chuyền và thiết bị hiện đại để có thể có khả năng cạnh tranh về chất lượng
với da thuộc nước ngoài .
Trong năm 2005 kim ngạch xuất khẩu giày dép của Việt Nam vào EU đạt
2.479 triệu USD tăng 14,56% so với năm 2004. Trong năm 2005 Việt Nam xuất
khẩu được 419 triệu đôi giầy sang thị trường EU. Các sản phẩm chính xuất sang
EU vẫn là giày thể thao, giày da nam nữ, dép đi trong nhà, dép đi biển. Bên cạnh
đó thị trường Mỹ, thị trường Nhật Bản, Đông Nam Á, Nga, Đông Âu, Châu Phi
cũng là những thị trường mà ngành giày dép Việt Nam đang tập trung mở rộng
quy mô xuất khẩu.
Số liệu do phía EC cung cấp cho thấy tổng lượng tiêu thụ sản phẩm giày
mũ da của Việt Nam vào khoảng 13 tỷ Euro trong đó tổng lượng xuất khẩu là 5
tỷ Euro. Năm 2002 Việt Nam xuất khẩu sang EU 78,1 triệu đôi, chỉ riêng quý I/
2005 con số trên đã lên đến 34,9 triệu đôi và dự kiến khoảng 139,6 triệu đôi
trong năm 2005; kim ngạch xuất khẩu mặt hàng giày mũ da từ Việt Nam vào EU
năm 2004 khoảng 1.163,5 triệu Euro, riêng quý I/2005 là 282,551 triệu Euro.
Thị phần của Việt Nam trên thị trường EU đã tăng từ 11% năm 2002 lên tới
15% tính tới quý I/2005 vừa qua.
III. ĐÁNH GIÁ CHUNG THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU GIÀY DÉP VIỆT
NAM VÀO EU TỪ NĂM 1995 ĐẾN NAY
1.Những kết quả đạt được
Kim ngạch xuất khẩu giày dép Việt Nam –EU tăng với tốc độ bình quân
khá cao 37,2%/năm thời kỳ 1995-2005, với kết quả này chứng tỏ EU là đối tác
hỗ trợ rất lớn cho những nỗ lực của Việt Nam trong việc cải thiện thâm hụt cán
cân thương mại . Xuất khẩu giày dép Việt Nam sang EU chiếm tỷ trong trung
bình là 78,84% trong tổng kim ngạch xuất khẩu giày dép của Việt Nam giai
đoạn 1995-2005. Điều này cho thấy thị trường EU là đối tác chính của sản phẩm
giày dép Việt Nam đi xuất khẩu .
-Việt Nam đã phát huy được lợi thế so sánh của mình trong việc tập trung
xuất khẩu một số mặt hàng có thế mạnh vào thị trường các nước EU, trong đó
đặc biệt là giày dép .Việt Nam hiện đã và đang đặt trọng tâm tiêu thụ mặt hàng
giày dép vào thị trường rộng lớn này . Đồng thời Việt Nam từng bước tự làm
tăng nhanh chất lượng sản phẩm để tạo ra những sản phẩm hàng hóa có khả
năng cạnh tranh trên thị trường EU.
- Việc khai thông thị trường EU đã đòi hỏi chúng ta phải phát triển cơ sở
vật chất và năng lực của ngành giày dép nói riêng và những ngành công
nghiệp ,nông nghiệp nói chung . Vai trò của ngành giày dép đã góp phần không
nhỏ trong việc tạo công ăn việc làm cho người lao động . Đồng thời ngành giày
dép –dệt may đã tạo cho sự chuyển đổi nhanh chóng về chất lượng sản phẩm
,mẫu mã và sự đổi mới không ngừng về sản phẩm làm ra. Nói chung ,cũng nhờ
đẩy mạnh xuất khẩu hàng công nghiệp mà tiến trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế
ngày càng nhanh, đặc biệt là sự thay đổi lớn trong cơ cấu công nghiệp –nông
nghiệp –dịch vụ .
1.1.Nguyên nhân của những kết quả đạt được
Ngành giày dép nước ta có những yếu tố được coi là lợi thế cạnh tranh so
với các nước trong khu vực như: nguồn lao động giá rẻ, thích ứng nhanh với
công việc và tiếp thu nhanh khoa học kỹ thuật vào sản xuất …Vì vậy, vào những
năm đầu của thập kỷ 90, cùng với sự phát triển của ngành công nghiệp da giày
thế giới và khu vực , ngành công nghiệp da giầy Việt Nam đã tiếp nhận sự
chuyển dịch sản xuất từ các nước công nghiệp mới như Hàn Quốc, Đài Loan
,Hồng Kông…
Nhiều doanh nghiệp nhanh chóng nắm bắt thời cơ, tận dụng cải tạo cơ sở vật
chất sẵn có , đầu tư thêm máy móc, thiết bị thu hút các đối tác nước ngoài với
hình thức đa dạng như hợp tác sản xuất , gia công , mua bán thành phẩm. Và chỉ
sau vài năm ngành da giầy đã có sự phát triển lớn cả về quy mô cũng như sản
lượng, trình độ công nghệ cũng như khả năng thâm nhập thị trường quốc tế , trở
thành một ngành kinh tế -kỹ thuật quan trọng , giải quyết công ăn việc làm cho
hàng chục vạn lao động , tạo kim ngạch xuất khẩu đứng thứ ba trong cả nước ,
sau dầu thô và hàng may mặc.
2.Những mặt còn tồn tại
-Hàng xuất khẩu Việt Nam nói chung và mặt hàng giày dép nói riêng còn
nghèo nàn về chủng loại và chất lượng chưa đạt độ đồng đều. Hàng của ta xuất
sang EU nghèo về chủng loại, thường tập trung cao độ ở một số mặt hàng,
chiếm ¾ kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam vào EU.
Sự tập trung cao độ này dễ gây ra hai nguy cơ tiềm tàng cho xuất khẩu hàng hóa
của Việt Nam ,thứ nhất là khả năng dễ bị tổn thương đáng kể do những thay đổi
không dự tính được trong điều kiện cung cấp cho khách hàng EU (chính sách
thương mại của EU thay đổi đột ngột, gây bất lợi cho xuất khẩu hàng giày dép
của Việt Nam ), thứ hai là dễ vấp phải lời kháng nghị từ phía người tiêu dùng
Châu Âu tăng lên và những áp lực “ổn định hóa” trong việc thâm nhập thị
trường này. Mặt khác, chất lượng hàng giày dép Việt Nam không ổn định nên
chưa đáp ứng được nhu cầu khắt khe của thị trường EU. Nguyên nhân dẫn tới
tình trạng này là do công nghệ chế biến lạc hậu, nguồn nguyên liệu không bảo
đảm và các doanh nghiệp Việt Nam hoạt động trong điều kiện thiếu thông tin thị
trường và giá cả , cũng như thông tin về thị hiếu và mặt hàng được ưa chuộng tại
các thời điểm trong năm. Trong khi đó, hầu hết các công ty nhập khẩu lớn của
EU hay Nhật Bản…đều có văn phòng đại diện tại Việt Nam nên họ nắm bắt rất
lịp thời tình hình nguyên liệu của ta và đòi giảm giá khi chúng ta bước vào vụ
thu hoạch. Điều này gây ra rất nhiều thiệt thòi từ phía Việt Nam .
Sản xuất của ngành giày dép vẫn dưới hình thức gia công là chủ yếu (70%) nên
hiệu quả và sự năng động của các doanh nghiệp chưa cao. Giá trị gia tăng( nội
địa) trên sản phẩm giày dép , cặp túi xuất khẩu được cải thiện nhưng còn thấp
(40%).