Tải bản đầy đủ (.doc) (69 trang)

Quyền liên quan đến quyền tác giả một số vấn đề lý luận và thực tiễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (296.93 KB, 69 trang )

1

Mở đầu
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài:
Thưởng thức các giá trị nghệ thuật và làm phong phú đời sống văn hóa, tinh thần
là nhu cầu cơ bản của con người và đó cũng là một yếu tố xuyên suốt lịch sử loài người.
Tuy nhiên, việc ghi nhận và bảo hộ quyền của những người đóng góp sáng tạo trí tuệ
của mình cho sự thỏa mãn nhu cầu cơ bản ấy dường như vẫn là một vấn đề mới mẻ. Nếu
như quyền tác giả mới lần đầu tiên được bảo hộ trên phạm vi thế giới kể từ cuối thế kỷ
19 (với sự ra đời Công ước Berne năm 1886) thì đối với quyền liên quan dành cho
những người thể hiện, chuyển tải các tác phẩm nghệ thuật đến công chúng, sự bảo hộ
quốc tế chỉ được thiết lập sau đó gần một thế kỷ, và cho đến nay vẫn đang là vấn đề gây
nhiều tranh luận.
Với một nước đang phát triển và mới hội nhập như Việt Nam, sở hữu trí tuệ nói
chung mà đặc biệt là quyền liên quan càng không thể là những khái niệm quen thuộc.
Song, hội nhập vào một thế giới đang toàn cầu hoá mạnh mẽ đòi hỏi pháp luật quốc gia
phải tương thích với những quy tắc của luật quốc tế, điều đó có nghĩa là chúng ta cần
bảo hộ quyền liên quan với mức độ và những nguyên tắc mang tính chất toàn cầu như
nhiều quốc gia khác. Mặt khác, quy định quyền liên quan trong pháp luật sở hữu trí tuệ
nước ta cũng là đòi hỏi tất yếu nhằm bảo vệ có hiệu quả quyền lợi chính đáng của những
nghệ sĩ biểu diễn, những nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình, các tổ chức phát sóng…
trong nước, từ đó khuyến khích hoạt động nghệ thuật của họ, phục vụ đời sống tinh thần
của xã hội. Đó cũng là điều kiện để nền văn hóa phong phú, đặc sắc và lâu đời của dân
tộc được giữ gìn, phát huy và giới thiệu đến thế giới.
Pháp luật sở hữu trí tuệ Việt Nam, do vậy, ngay từ khi mới hình thành đã dành sự
quan tâm đáng kể tới các quyền liên quan bên cạnh các quy định về quyền tác giả,
quyền sở hữu công nghiệp và quyền đối với giống cây trồng. Tuy nhiên, với một hệ
thống các quy định được cho là còn đang trong quá trình hoàn thiện, lại đứng trước thực
tế phát triển nhanh chóng của ngành công nghiệp giải trí trong thời đại số hóa, pháp luật
về quyền liên quan đã bộc lộ những hạn chế nhất định, xuất hiện những vấn đề thực tiễn
cần được xem xét và giải quyết, đòi hỏi không ngừng đổi mới và hoàn thiện các quy


định của lĩnh vực pháp luật này. Với sự quan tâm đến vấn đề này, người viết đã chọn đề
tài khóa luận cho mình là: “Quyền liên quan đến quyền tác giả - một số vấn đề lý luận
và thực tiễn”.


2

2. Tình hình nghiên cứu đề tài:
Trên thế giới, vấn đề quyền liên quan đã thu hút sự quan tâm từ khá sớm của các
nhà nghiên cứu cũng như các nhà lập pháp, khi ngành công nghiệp giải trí, đặc biệt là
ngành công nghiệp ghi âm, có những bước phát triển mạnh mẽ. Những nghiên cứu về sở
hữu trí tuệ nói chung đều dành dung lượng đáng kể cho việc phân tích quyền liên quan,
bên cạnh đó là những công trình chuyên sâu về mảng quyền riêng biệt này. Đặc biệt,
cùng với sự bùng nổ của công nghệ thông tin, sự phổ biến của Internet trên quy mô toàn
cầu và khả năng tiếp cận dễ dàng các sản phẩm nghệ thuật bằng các phương tiện kĩ thuật
số, quyền liên quan có thể được coi là một đề tài “nóng” của sở hữu trí tuệ hiện nay.
Tại Việt Nam, quyền liên quan được quy định trong pháp luật sở hữu trí tuệ
không muộn hơn so với những nội dung khác như quyền tác giả hay quyền sở hữu công
nghiệp, nhưng những nghiên cứu về vấn đề này chưa nhiều và đa phần mới xuất hiện
trong thời gian gần đây. Hầu hết những công trình nghiên cứu chung về sở hữu trí tuệ
đều chỉ đề cập tới quyền liên quan ở mức độ nhất định. Những nghiên cứu chuyên về
vấn đề này thường là những bài phân tích trên các báo, tạp chí, website…với dung
lượng còn khá khiêm tốn.
3. Phạm vi, đối tượng nghiên cứu:
Quyền liên quan là một loại quan hệ cơ bản thuộc đối tượng điều chỉnh của Luật
Sở hữu trí tuệ, do vậy đây là một nội dung nghiên cứu tương đối rộng, bao hàm nhiều
vấn đề. Tuy nhiên, một số vấn đề ở khía cạnh nào đó lại mang nhiều tính chất hành
chính, như thủ tục đăng ký các quyền liên quan, hoặc có thể được nghiên cứu từ góc độ
của một chế định khác trong Luật Dân sự, như Hợp đồng chuyển giao quyền liên quan
cũng là một bộ phận của chế định Hợp đồng dân sự… Do đó, trong khuôn khổ khóa

luận, người viết tập trung vào các vấn đề lý luận về quyền liên quan; các quy định pháp
luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam về chủ thể, đối tượng, nội dung, giới hạn quyền liên quan
và xem xét tình hình thực thi trên thực tế các quy định này.
Với phạm vi nghiên cứu như trên, người viết xác định đối tượng nghiên cứu chủ
yếu của khóa luận bao gồm:
- Các quy định pháp luật sở hữu trí tuệ Việt Nam hiện hành về quyền liên quan;
- Các quy định về quyền liên quan tại các điều ước quốc tế phổ biến và pháp luật
một số quốc gia;
- Tình hình thực thi các quy định pháp luật về quyền liên quan tại Việt Nam hiện
nay.


3

4. Mục đích nghiên cứu:
Khoá luận hướng tới việc làm rõ cơ sở lý luận của quyền liên quan, phân tích các
quy định pháp luật hiện hành điều chỉnh quyền liên quan cũng như phản ánh thực tiễn
áp dụng các quy định này. Trên cơ sở đó, người viết đưa ra một số kiến nghị nhằm góp
phần hoàn thiện pháp luật về quyền liên quan, nâng cao khả năng thực thi của chúng,
bảo hộ có hiệu quả các quyền liên quan.
5. Phương pháp nghiên cứu:
Dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật
lịch sử theo quan điểm chủ nghĩa Mác-Lênin, khóa luận sử dụng các phương pháp
nghiên cứu cụ thể của khoa học xã hội nói chung, khoa học pháp lý nói riêng, đó là các
phương pháp lịch sử, hệ thống, phân tích, tổng hợp, so sánh. Các phương pháp này được
kết hợp nhằm làm rõ các quy định của pháp luật thực định, nhìn nhận, đánh giá chúng
trong mối liên hệ với pháp luật quốc tế cũng như trong thực tiễn áp dụng.
6. Kết cấu khóa luận:
Khóa luận bao gồm các phần: mở đầu, nội dung và kết luận; trong đó phần nội
dung gồm có 3 chương:

• Chương 1: Những vấn đề lý luận về quyền liên quan
• Chương 2: Pháp luật Việt Nam hiện hành về quyền liên quan
• Chương 3: Thực tiễn áp dụng pháp luật về quyền liên quan và một số kiến
nghị


4

Chương I.

Những vấn đề lý luận về quyền liên quan
1.1. Khái niệm quyền liên quan:
1.1.1. Khái niệm chung về quyền liên quan:
Quyền liên quan đến quyền tác giả thường được đề cập tới bằng hai thuật ngữ
khác nhau. Pháp luật Châu Âu lục địa sử dụng thuật ngữ “quyền liên quan” (related
rights) và xác định các quyền này rất gần với quyền tác giả nhưng không hướng tới tác
giả đích thực sáng tạo ra tác phẩm và độc lập với lĩnh vực quyền tác giả. Trong khi đó,
các nước theo hệ thống pháp luật Anh-Mĩ sử dụng thuật ngữ “quyền kề cận”
(neighbouring rights) và điều chỉnh nó cùng với các quyền tác giả bằng Luật Bản quyền
(Copyrights).
Vấn đề sẽ đơn giản nếu sự khác biệt chỉ là vấn đề thuật ngữ chứ không phải
những gì chứa đựng trong đó mà ta gọi là “khái niệm”. Quyền liên quan đến quyền tác
giả là một lĩnh vực tương đối mới của sở hữu trí tuệ mà cho đến nay việc đưa ra một
khái niệm chính xác và thống nhất về nó vẫn là một vấn đề đang được đặt ra cho các nhà
nghiên cứu. Xây dựng được một khái niệm khoa học hoàn chỉnh là rất khó khăn và cũng
cần rất nhiều thời gian. Quyền liên quan lại là một vấn đề mang tính quốc tế cao, là đối
tượng của nhiều nghiên cứu với những góc nhìn khác nhau, và chứa đựng những mối
quan hệ phức tạp với nhiều vấn đề như quyền tác giả, sự phát triển của lĩnh vực thông
tin - văn hóa - giải trí… Bởi vậy, chưa có khái niệm chuẩn xác trong khoa học pháp lý
về quyền liên quan là điều có thể hiểu được, đó cũng là một thực tế phải chấp nhận.

Một cách chung nhất, quyền liên quan thường được hiểu bao gồm ba loại quyền:
quyền của nghệ sĩ biểu diễn đối với chương trình biểu diễn của họ; quyền của nhà sản
xuất bản ghi âm đối với chương trình ghi âm của họ; và quyền của tổ chức phát sóng đối
với các chương trình phát thanh và truyền hình của họ. Đây là ba loại quyền liên quan
được bảo hộ trên phạm vi quốc tế bởi Công ước Rome về bảo hộ người biểu diễn, nhà
sản xuất bản ghi âm và tổ chức phát sóng kí kết năm 1961 (gọi tắt là Công ước Rome
1961).


5

Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO) cũng có những nỗ lực trong việc đưa ra
một cách hiểu dễ chấp nhận nhất về quyền liên quan. WIPO xác định 1, quyền liên quan
là những quyền mà ngày càng nhiều quốc gia quy định nhằm bảo hộ lợi ích của người
biểu diễn, nhà sản xuất các chương trình ghi âm và tổ chức phát thanh truyền hình đối
với các hoạt động của họ liên quan tới việc sử dụng trước công chúng các tác phẩm của
các tác giả, tất cả các hình thức trình diễn của các nghệ sĩ hoặc việc truyền đạt tới công
chúng bất kỳ sự kiện, thông tin hay hình ảnh, âm thanh nào. Những phạm trù quan trọng
nhất là: quyền của người biểu diễn ngăn cấm việc thu, ghi, định hình, phát sóng trực tiếp
hay truyền tới công chúng buổi biểu diễn của họ mà không được họ cho phép, quyền của
các nhà sản xuất chương trình ghi âm cho phép hoặc không cho phép sao chép các
chương trình của họ và nhập khẩu, phân phối các phiên bản chương trình được phép sao
chép bất hợp pháp, quyền của các tổ chức phát thanh truyền hình cho phép hoặc không
cho phép phát lại, định hình và làm bản sao chương trình phát thanh truyền hình của họ.
Ngày càng nhiều quốc gia bảo hộ những quyền này bằng những nguyên tắc thích hợp,
pháp điển hoá chủ yếu trong khuôn khổ luật bản quyền. Nhiều quốc gia cũng dành cho
người biểu diễn các quyền nhân thân để chống lại việc bóp méo các buổi biểu diễn của
họ và dành cho họ quyền được nêu tên đối với các buổi biểu diễn. Một số quốc gia cũng
bảo vệ lợi ích của các tổ chức phát thanh truyền hình bằng cách ngăn chặn việc truyền
phát trên hoặc từ lãnh thổ của họ bất kỳ tín hiệu mang chương trình nào được phát đi

hoặc truyền qua vệ tinh bởi các nhà truyền phát tới những người nhận mà thực ra tín
hiệu không được dự định tới họ. Tuy nhiên, không thể có bất kỳ một sự bảo hộ quyền
liên quan nào được diễn giải theo cách hạn chế hay gây thiệt hại tới việc bảo hộ dành
cho các tác giả hoặc những người được hưởng quyền liên quan khác theo quy định của
pháp luật quốc gia hay công ước quốc tế.
Một số quyền khác cũng có thể được bảo hộ với tư cách quyền liên quan, nhưng
sự bảo hộ trong trường hợp này không mang tính toàn cầu. Theo quan điểm của Liên
minh Châu Âu (EU), quyền của nhà sản xuất phim (khác với đạo diễn), và người tạo ra
dữ liệu máy tính cũng được bảo vệ như quyền liên quan, thậm chí phạm vi này đôi khi
còn mở rộng tới một số đối tượng thuộc về kiểu dáng công nghiệp2.
Trong khi chưa có sự thống nhất về khái niệm quyền liên quan và nội hàm của nó
thì việc nắm bắt được một cách cơ bản những nguyên nhân và sự hình thành các loại
quyền liên quan có thể cung cấp những nhận thức rõ nét hơn về vấn đề này.
1

trong Cẩm nang Sở hữu trí tuệ WIPO: Chính sách, Pháp luật và Áp dụng.
Quy định 2001/29/EC của Nghị viện Châu Âu về hài hòa các lĩnh vực cơ bản của bản quyền và quyền liên quan
trong xã hội thông tin ngày 21/5/2001.
2


6

Các sáng tạo trí tuệ trong lĩnh vực văn hóa - nghệ thuật luôn hướng tới việc thỏa
mãn nhu cầu tinh thần của con người. Để thực hiện chức năng đó, các sản phẩm tinh
thần này phải được phổ biến tới công chúng càng rộng rãi càng tốt. Việc chuyển tải các
tác phẩm tới công chúng, đặc biệt đối với các tác phẩm nghệ thuật, lại thường không
phải do tác giả thực hiện mà thông qua một đội ngũ những người trung gian khác, và
trong nhiều trường hợp, sự tham gia của lực lượng này là không thể thiếu. Ví dụ, một vở
kịch cần phải được trình diễn trên sân khấu bởi một dàn diễn viên cùng với những người

phụ trách ánh sáng, âm nhạc… mà rõ ràng tác giả nếu có tham gia cũng chỉ có thể đóng
góp một phần nhất định. Hoặc một bài hát muốn đến được với khán giả một cách hiệu
quả thì không có cách nào hơn là nó phải được thể hiện bởi người ca sĩ chứ không thể
chỉ là những câu chữ và nốt nhạc trên giấy, và người nhạc sĩ sáng tác nên bài hát lại ít
khi là người thể hiện tác phẩm của mình thành công nhất. Rõ ràng đội ngũ những người
biểu diễn chuyên nghiệp đóng vai trò là cầu nối đưa tác phẩm đến với công chúng một
cách hiệu quả nhất. Bên cạnh đó, sự tham gia của các nhà sản xuất băng đĩa, các tổ chức
phát sóng là hết sức quan trọng trong việc mở rộng khả năng tiếp cận công chúng của
tác phẩm: thay vì chỉ giới hạn trong phạm vi những khán giả trực tiếp tới sân khấu để
thưởng thức, vở kịch được truyền qua sóng phát thanh, truyền hình hay bài hát được ghi
lại trên đĩa có thể tiếp cận với một khối lượng khán giả đông đảo hơn gấp nhiều lần.
Vai trò của đội ngũ trung gian, hỗ trợ tác giả đưa tác phẩm đến với công chúng
cần phải được đánh giá đúng mức, và một sự bảo vệ dành riêng cho bộ phận này nhằm
chống lại việc sử dụng bất hợp pháp những đóng góp sáng tạo của họ là cần thiết. Xem
nhẹ và không bảo hộ những người “liên quan” này không chỉ tác động trực tiếp đến
quyền lợi của họ, mà còn làm suy giảm chất lượng truyền tải các tác phẩm nghệ thuật,
tất yếu ảnh hưởng đến tác giả - do tác phẩm đã không được thể hiện đúng giá trị của nó,
đồng thời tác động tiêu cực đến khả năng tiếp cận tác phẩm của công chúng. Những
hiện tượng này không nên xuất hiện nếu một xã hội muốn hài hòa lợi ích các bộ phận
thành viên trong nó và phát triển toàn diện, bền vững.
Việc tính đến lợi ích của nhóm người trung gian đưa tác phẩm tới công chúng
ngày càng được chú ý cùng với sự phát triển nhanh chóng của công nghệ và đã trở thành
một yêu cầu bức thiết. Nếu như trước kia, người ta chỉ có một cách duy nhất để tận
hưởng nghệ thuật trình diễn, là phải trực tiếp đến rạp hát, sân khấu… thì sự xuất hiện
của công nghệ ghi âm, phát sóng đã tạo điều kiện cho sự tiếp cận rộng rãi của công
chúng đối với những đóng góp sáng tạo nghệ thuật của các nghệ sĩ trình diễn. Đặc biệt,
mạng thông tin toàn cầu với công nghệ số đã cho phép mở rộng phạm vi cũng như nâng


7


cao tốc độ truyền dẫn một cách đáng kinh ngạc, khiến việc tiếp cận càng trở nên chưa
bao giờ dễ dàng đến thế. Và không khó để nhận ra rằng, thay vì hoàn toàn chấm dứt
cùng với buổi biểu diễn như trước đây, sự trình diễn của người nghệ sĩ ngày nay có thể
được tái hiện lặp đi lặp lại với số lần không hạn chế, trước những đối tượng khán giả
gần như không giới hạn, và trong những thời điểm hoàn toàn tùy thuộc vào quyết định
của những người thưởng thức này. Chính những buổi phát sóng, bản ghi âm đó lại có
khả năng cạnh tranh trực tiếp với sự trình diễn trực tiếp của những diễn viên, bởi khán
giả không nhất thiết phải đến chứng kiến buổi diễn trên sân khấu nữa. Điều đó đe dọa
gây nên tình trạng thất nghiệp, hoặc ít nhất cũng làm giảm đáng kể thu nhập từ biểu diễn
trực tiếp đối với các nghệ sĩ chuyên nghiệp. Không dừng lại ở sự phổ biến dễ dàng đến
công chúng, mà phần trình diễn của họ còn có thể bị cắt xén, sửa đổi, sử dụng vào
những mục đích mà họ không thể kiểm soát được - hiện tượng đó tiềm ẩn nguy cơ làm
phương hại tới hình tượng, danh tiếng, sự nghiệp của người biểu diễn. Bởi vậy, cần phải
xem xét bảo hộ quyền lợi của những người biểu diễn.
Cũng chính sự phát triển của công nghệ đã thúc đẩy nhu cầu bảo hộ đối với
những nhà sản xuất bản ghi âm và các tổ chức phát sóng. Sao chép băng đĩa một cách
trái phép đang gia tăng chóng mặt và đã trở thành một vấn nạn toàn cầu. Không chỉ
những tổ chức quy mô mới có khả năng làm băng đĩa lậu, mà sự tiện dụng ngày càng
cao của các phương tiện ghi thu, lưu trữ cá nhân còn cho phép những người sử dụng
riêng lẻ cũng có khả năng xâm phạm nhất định tới quyền lợi chính đáng của bộ phận sản
xuất các bản ghi. Những nhà sản xuất này ngày càng ý thức rõ nhu cầu cấp thiết của việc
được bảo hộ chống lại việc sao chép trái phép các chương trình ghi âm của họ cũng như
việc trả tiền thù lao để sử dụng các chương trình này vào mục đích phát thanh, truyền
hình hay các hình thức truyền tải khác tới công chúng. Và những nỗ lực vận động của
họ không ngoài mục đích đạt được sự bảo vệ chính thức và hiệu quả được nhà nước ghi
nhận bằng pháp luật và bảo đảm thực hiện. Về phía các tổ chức phát sóng, lợi ích của họ
cũng có nguy cơ bị ảnh hưởng nghiêm trọng khi các chương trình do họ biên tập, đầu tư
làm ra bị phát lại bởi các tổ chức đồng nghiệp khác mà không có sự thỏa thuận và đền
bù thỏa đáng. Do đó, cũng cần phải thiết lập một sự bảo hộ thích đáng dành riêng cho

họ.
Nhu cầu bảo vệ quyền của những người biểu diễn, nhà sản xuất bản ghi âm và
các tổ chức phát sóng như trên bắt đầu xuất hiện từ thế kỷ 20, và trở nên ngày càng gay
gắt kể từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai khi Cách mạng khoa học - công nghệ đã trở
thành một đặc điểm nổi bật của tình hình thế giới. Và khi yêu cầu của thực tế xã hội đã


8

hình thành thì việc phản ánh và đáp ứng yêu cầu ấy bằng các quy định pháp luật là điều
tất yếu. Cho đến nay, quyền lợi của đội ngũ những người trung gian kể trên đã được bảo
hộ trên phạm vi quốc tế cũng như được ghi nhận trong rất nhiều các hệ thống pháp luật
quốc gia, với tư cách các quyền liên quan đến quyền tác giả.
Khái quát lại thì khái niệm quyền liên quan đến quyền tác giả trong khoa học
pháp lý thường được hiểu theo hai phương diện:
Thứ nhất, đó là các quyền nhân thân và quyền tài sản của các cá nhân, tổ chức
thực hiện việc chuyển tải, truyền đạt tác phẩm tới công chúng thông qua việc biểu diễn
tác phẩm, sản xuất bản ghi âm, ghi hình và phát sóng tác phẩm.
Thứ hai, từ phương diện khách quan, đó là tổng hợp các quy định pháp luật nhằm
xác định và bảo vệ các quyền nhân thân và quyền tài sản của cá nhân, tổ chức đối với
cuộc biểu diễn tác phẩm; cá nhân, tổ chức sản xuất bản ghi âm, bản ghi hình; tổ chức
phát sóng cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, phát sóng tác phẩm.
1.1.2. Khái niệm quyền liên quan trong pháp luật Việt Nam:
Khái niệm quyền liên quan đến quyền tác giả được pháp luật Việt Nam đề cập
đến một cách gián tiếp bằng phương pháp liệt kê. Cụ thể, khái niệm này được đưa ra tại
khoản 3 Điều 4 Luật Sở hữu trí tuệ 2005: “Quyền liên quan đến quyền tác giả là quyền
của tổ chức, cá nhân đối với cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát
sóng, tín hiệu vệ tinh mang chương trình được mã hóa”.
Nghị định số 100/2006/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi
hành một số điều của Bộ luật Dân sự và Luật Sở hữu trí tuệ về quyền tác giả và quyền

liên quan cũng đã giải thích theo hướng liệt kê tương tự tại khoản 2 Điều 3 về bảo hộ
quyền tác giả, quyền liên quan, theo đó, quyền liên quan được hiểu là “các quyền của
người biểu diễn đối với cuộc biểu diễn; các quyền của nhà sản xuất bản ghi âm, ghi
hình; các quyền của tổ chức phát sóng đối với chương trình phát sóng, tín hiệu vệ tinh
mang chương trình được mã hóa được quy định tại Điều 745, 746, 747 và Điều 748 của
Bộ luật Dân sự và Điều 29, 30 và 31 của Luật Sở hữu trí tuệ”.
Như vậy, so với những quyền liên quan được bảo hộ ở cấp độ toàn cầu theo các
điều ước quốc tế như Công ước Rome hay Hiệp ước của WIPO về biểu diễn và bản ghi
âm năm 1996 (WPPT), khái niệm quyền liên quan được quy định trong pháp luật Việt
Nam có phạm vi rộng hơn, bao gồm cả quyền của nhà sản xuất bản ghi hình và quyền
của tổ chức phát sóng đối với tín hiệu vệ tinh mang chương trình được mã hóa. Điều này
không trực tiếp phản ánh năng lực bảo hộ của pháp luật sở hữu trí tuệ quốc gia trong


9

mối tương quan với điều ước quốc tế mà là vấn đề quan điểm lập pháp cũng như đặc
điểm của hệ thống pháp luật mỗi nước và sẽ được đề cập cụ thể hơn trong phần xem xét
các quy định pháp luật Việt Nam hiện hành về quyền liên quan tại Chương II.
1.2. Đặc điểm của quyền liên quan:
Tên gọi quyền liên quan đến quyền tác giả đã phần nào cho thấy rằng, quyền liên
quan và quyền tác giả có sự gần gũi nhất định, thể hiện ở một số đặc điểm chung phân
biệt chúng với nhóm quyền sở hữu công nghiệp. Đó là tính chất sáng tạo, tính nguyên
gốc của đối tượng được bảo hộ, tính tự động của cơ chế xác lập sự bảo hộ… Tuy nhiên,
là một lĩnh vực cơ bản của quyền sở hữu trí tuệ, quyền liên quan có các đặc trưng riêng
của nó như sau:
1.2.1. Hoạt động của các chủ thể quyền liên quan chính là hành vi sử dụng tác phẩm đã

Đúng như tên gọi của nó, quyền liên quan có mối liên hệ mật thiết với quyền tác
giả mà biểu hiện dễ thấy nhất là việc tác phẩm đã được tác giả sáng tạo chính là cơ sở để

các chủ thể quyền liên quan tiến hành các hoạt động nghề nghiệp của mình mà từ đó
phát sinh các quyền này. Hành vi sáng tạo nghệ thuật làm phát sinh các quyền mà pháp
luật sở hữu trí tuệ bảo hộ cho người ca sĩ chính là việc trình bày các ca khúc đã được
sáng tác, với người nhạc công đó là sự thể hiện những bản nhạc đã được viết bởi các nhà
soạn nhạc. Với diễn viên cũng vậy, dù là trong một vở kịch, một bài múa hay trước máy
quay, diễn xuất của họ không thể không dựa trên một kịch bản có sẵn từ trước, mặc dù
kịch bản ấy có thể chi tiết đến từng lời thoại, động tác hay dành rất nhiều “đất trống”
cho người diễn viên tự do ứng biến bằng khả năng diễn xuất của mình. Các nhà sản xuất
băng đĩa càng không có gì để ghi thu lại một khi không có tác phẩm nào để người biểu
diễn có thể trình bày…
Đặc điểm này đôi khi còn được pháp luật quy định một cách cụ thể chứ không
chỉ là nhận định của các nhà khoa học pháp lý. Ví dụ, Đạo luật về bản quyền, thiết kế và
sáng chế năm 1988 của Anh nêu rõ: quyền của người biểu diễn được bảo vệ với tư cách
quyền liên quan khi tác phẩm được trình diễn đã được định hình trước khi cuộc biểu
diễn được thực hiện3. Hệ quả là, những bài nói mang tính tùy hứng hay bài trả lời phỏng
vấn không được coi là cuộc biểu diễn thuộc phạm vi bảo hộ của quyền liên quan 4. Pháp
luật sở hữu trí tuệ Việt Nam cũng như một số nước không có những quy định tương tự
3
4

Copyright, Designs and Patents Acts 1988 (CDPA) s 180.
L. Bently and B. Sherman, Intellectual Property Law, 292.


10

như vậy, nhưng rõ ràng hoạt động của những người biểu diễn, nhà sản xuất bản ghi hay
tổ chức phát sóng không thể tách rời những tác phẩm đã có.
Hoạt động sử dụng những tác phẩm đã có của các chủ thể quyền liên quan là một
dạng hoạt động sử dụng đặc thù, không thể tìm thấy ở các chủ thể khác cũng sử dụng tác

phẩm. Tính đặc thù thể hiện ở mục đích, tính chất, kết quả… của hành vi sử dụng. Công
chúng sử dụng các tác phẩm chủ yếu nhằm các mục đích tinh thần mang tính chất cá
nhân, ví dụ như đọc sách để giải trí, để nâng cao hiểu biết của mình, xem tranh để
thưởng thức nghệ thuật hội họa, hát một bài hát để tự thư giãn, giải tỏa những căng
thẳng… Trong khi đó, các nghệ sĩ biểu diễn, nhà sản xuất bản ghi và tổ chức phát thanh,
truyền hình đều hướng tới thỏa mãn nhu cầu tinh thần của công chúng, và những mục
tiêu của họ thông thường mang tính chất lợi nhuận và nghề nghiệp. Hành vi sử dụng của
họ do đó cũng mang tính chuyên nghiệp và đòi hỏi những kĩ năng đặc biệt như chất
giọng, khả năng diễn xuất, kĩ thuật ghi âm, phát sóng… Kết quả việc sử dụng tác phẩm
của các chủ thể quyền liên quan cũng là một điểm rất đặc biệt, đó là việc tạo ra những
sản phẩm sáng tạo nghệ thuật mới nhưng không thuộc phạm vi bảo hộ của quyền tác
giả, mà bản chất của nó là bước trung gian giữa tác phẩm nghệ thuật của tác giả với
công chúng. Điểm này cho phép phân biệt hoạt động sử dụng tác phẩm trong phạm vi
quyền liên quan với hoạt động sử dụng của tác giả các tác phẩm phái sinh trong lĩnh vực
quyền tác giả. Để tạo ra những tác phẩm phái sinh, tác giả cũng tiến hành các hoạt động
nghệ thuật dựa trên việc sử dụng tác phẩm đã có, và hành vi sử dụng này cũng thường
mang tính nghề nghiệp, và mục đích lợi nhuận, đồng thời cũng đòi hỏi những kĩ năng
nhất định. Ví dụ, việc dịch một tác phẩm văn học sang ngôn ngữ khác thường được tiến
hành bởi những người dịch thuật chuyên nghiệp với trình độ ngoại ngữ và khả năng diễn
đạt tốt, và đa phần họ đều kí kết hợp đồng với các nhà xuất bản để nhận thù lao từ hoạt
động này. Nhưng những nhà dịch thuật không phải là chủ thể quyền liên quan vì kết quả
hoạt động sáng tạo của họ ở đây là một tác phẩm nghệ thuật mới (bản dịch một tác
phẩm) - đây là đối tượng bảo hộ của quyền tác giả. Trong khi đó, cuộc biểu diễn của
nghệ sĩ hay một bản ghi âm bài hát lại không phải là một tác phẩm với tư cách đối tượng
bảo hộ của quyền tác giả, mà là sự trình bày, thể hiện tác phẩm hoặc sự lưu định lại trên
bản ghi âm phần trình bày, thể hiện ấy.
Như vậy, hoạt động của chủ thể quyền liên quan là hành vi sử dụng tác phẩm đã
có, đó là một sự sử dụng đặc biệt, mang tính sáng tạo nghệ thuật nhất định, là cầu nối
đưa tác phẩm đến với công chúng. Do đặc điểm này, chủ thể quyền liên quan được pháp
luật sở hữu trí tuệ bảo hộ quyền lợi bằng một nhóm những quy định riêng biệt. Tuy



11

nhiên, trong quá trình sử dụng tác phẩm, các chủ thể này vẫn phải tuân thủ đầy đủ các
nghĩa vụ đối với tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả của tác phẩm mà họ sử dụng theo quy
định pháp luật như mọi chủ thể có hành vi sử dụng tác phẩm khác.
1.2.2. Đối tượng quyền liên quan được bảo hộ khi có tính nguyên gốc
Tính chất này của đối tượng quyền liên quan được xem xét trên hai phương diện
chủ yếu sau:
Thứ nhất, tính nguyên gốc được xác định trên cơ sở lao động sáng tạo mang dấu
ấn cá nhân của chủ thể.
Việc quyền liên quan phát sinh trên cơ sở hành vi sử dụng tác phẩm đã có từ
trước không ảnh hưởng tới tính nguyên gốc của các đối tượng mà nó bảo hộ. Không khó
để nhận ra rằng, sự trình diễn của người nghệ sĩ là kết quả của những cống hiến nghệ
thuật mang tính chất sáng tạo của họ. Cùng là một tác phẩm, nhưng mỗi người biểu diễn
sẽ thể hiện theo cách của riêng mình, thậm chí cũng chính người nghệ sĩ ấy nhưng mỗi
lần biểu diễn lại đem đến những cảm nhận riêng cho khán giả. Chính sự sử dụng tác
phẩm một cách sáng tạo và mang đậm dấu ấn cá nhân của chủ thể quyền liên quan đòi
hỏi việc sử dụng ấy cũng phải được pháp luật bảo vệ.
Thứ hai, tính nguyên gốc của quyền liên quan còn được thể hiện ở việc quyền
liên quan chỉ được xác định theo các đối tượng của quyền liên quan được tạo ra lần đầu
tiên.
Việc xác định tính nguyên gốc từ góc độ này thường được áp dụng đối với các
bản ghi, chương trình phát thanh truyền hình. Cụ thể, quyền liên quan đối với bản ghi
âm, ghi hình chỉ được xác định cho người tạo ra bản ghi âm, ghi hình lần đầu âm thanh,
hình ảnh của cuộc biểu diễn hoặc các âm thanh, hình ảnh khác; quyền liên quan đối với
tổ chức phát sóng chỉ được xác định cho tổ chức khởi xướng và thực hiện việc phát
sóng. Theo đó, trong trường hợp: một công ty ghi âm ký hợp đồng thu âm phần biểu
diễn của ca sĩ dưới dạng đĩa CD (compact disc), sau đó một công ty khác sao chép lại

đĩa CD đó và cũng đưa ra thị trường, thì ta sẽ có hai dạng bản ghi âm cho cùng một
phần trình diễn gốc, tuy nhiên, chỉ dạng bản ghi thứ nhất được coi là có tính nguyên gốc
(là sự định hình lần đầu) và là đối tượng bảo hộ của quyền liên quan, dạng bản ghi thứ
hai không đảm bảo tính nguyên gốc và không những không được bảo hộ mà còn bị coi
là hành vi xâm phạm quyền liên quan và tuỳ theo tính chất, mức độ của sự xâm phạm
mà sẽ bị xử lý theo quy định pháp luật. Tương tự, một tổ chức phát sóng đã đầu tư tài
chính và các điều kiện cần thiết để làm một chương trình truyền hình, hoặc đã mua bản


12

quyền phát sóng trực tiếp một sự kiện văn hoá nào đó... thì việc phát sóng các chương
trình đó của họ được xác định là thoả mãn điều kiện về tính nguyên gốc của đối tượng
quyền liên quan, và nếu tổ chức phát sóng nào khác tiến hành tiếp sóng, phát sóng đồng
thời, hoặc phát lại các chương trình này thì việc phát sóng của tổ chức thứ hai này là
không có tính nguyên gốc và cũng như trường hợp trên,có thể bị xác định là hành vi
xâm phạm quyền liên quan theo pháp luật sở hữu trí tuệ.
Nếu như đặc trưng thứ nhất của quyền liên quan (tính chất sử dụng các tác phẩm
đã có) là điểm quan trọng phân biệt nó với các loại quyền sở hữu trí tuệ khác, thì tính
nguyên gốc của quyền liên quan cho phép xác định đâu là quyền liên quan được pháp
luật bảo hộ, và khi nào xảy ra sự xâm phạm quyền liên quan. Khi tính nguyên gốc được
thoả mãn, ta có thể xác định được đối tượng được bảo hộ bởi quyền liên quan, chủ thể
của quyền liên quan, và ngược lại, việc không đảm bảo tính nguyên gốc đó là căn cứ để
nhận định đã có hành vi xâm phạm đến quyền liên quan.
1.2.3. Quyền liên quan chỉ được bảo hộ trong thời hạn nhất định, kể cả các quyền nhân
thân
Đây là một đặc điểm riêng biệt của quyền liên quan trong sự so sánh với quyền
tác giả và cả quyền sở hữu công nghiệp. Đối với quyền tác giả, các quyền tài sản và các
quyền nhân thân có thể chuyển dịch (quyền công bố tác phẩm) được bảo hộ với thời hạn
thông thường là suốt cuộc đời tác giả và 50 năm sau khi tác giả chết; các quyền nhân

thân gắn liền với tác giả không thể chuyển dịch được bảo hộ vô thời hạn. Đối với quyền
sở hữu công nghiệp, thời hạn bảo hộ phần lớn là xác định (có thể gia hạn hoặc không),
tuy nhiên, đối với tên thương mại, chỉ dẫn địa lý, bí mật kinh doanh, thời hạn bảo hộ là
không xác định và sẽ kéo dài đến khi nào các đối tượng này còn đáp ứng được điều kiện
bảo hộ. Như vậy, thông thường thì luôn có một số đối tượng của quyền tác giả và quyền
sở hữu công nghiệp được bảo hộ với thời hạn không xác định. Tuy nhiên, đối với quyền
liên quan, sự bảo hộ trên phạm vi quốc tế cũng như pháp luật sở hữu trí tuệ hầu hết các
quốc gia đều giới hạn thời hạn bảo hộ ở mức độ nhất định, thường là 50 năm kể từ khi
các đối tượng (cuộc biểu diễn, bản ghi âm, chương trình phát sóng) được định hình hoặc
công bố.
Thời hạn bảo hộ như trên được xác định ngay cả đối với các quyền nhân thân của
người biểu diễn - khác với quyền nhân thân của tác giả được bảo hộ vô thời hạn. Điều
này không có nghĩa là tồn tại một sự bất bình đẳng nào đó giữa quyền liên quan với
quyền tác giả, mà được giải thích bằng việc, các quyền nhân thân của người biểu diễn


13

chỉ có thể được thực hiện và bảo đảm khi bản định hình cuộc biểu diễn còn tồn tại, trong
khi đó, do đặc tính kỹ thuật, các bản định hình cuộc biểu diễn chỉ có thể được bảo quản
trong thời hạn nhất định, điều đó khiến việc quy định bảo hộ các quyền nhân thân trong
quyền liên quan một cách vô thời hạn được xem như trở nên không cần thiết và không
khả thi.
1.2.4. Quyền liên quan được bảo hộ trên nguyên tắc không làm phương hại đến quyền
tác giả
Hình thành sau khi quyền tác giả đã được bảo hộ một cách phổ biến và rộng rãi,
lại mang bản chất gắn bó mật thiết với quyền tác giả, do vậy việc bảo hộ quyền liên
quan bao giờ cũng được xem xét trong mối quan hệ với quyền tác giả và thể hiện
nguyên tắc không gây bất kỳ sự phương hại nào có thể đối với quyền này.
Đặc trưng này được thể hiện rõ ràng trong nhiều điều ước quốc tế về quyền liên

quan. Công ước Rome ngay tại Điều 1 đã quy định: “Sự bảo hộ theo Công ước này là
thống nhất và không ảnh hưởng theo bất kỳ cách nào đến sự bảo hộ quyền tác giả đối
với các tác phẩm văn học nghệ thuật. Do vậy, không một quy định nào của Công ước
này có thể được giải thích làm phương hại tới sự bảo hộ đó”. Mối quan hệ giữa quyền
liên quan được bảo hộ theo Hiệp ước của WIPO về biểu diễn và bản ghi âm (1996) với
quyền tác giả cũng được giải quyết theo nguyên tắc như trên: “Việc bảo hộ được cấp
theo Hiệp ước này sẽ vẫn đầy đủ và không ảnh hưởng tới bảo hộ bản quyền tác giả các
tác phẩm văn học và nghệ thuật. Vì vậy, không một quy đinh nào của Hiệp ước có thể
bị cho là phương hại đến việc bảo hộ đó”5.
Pháp luật sở hữu trí tuệ Việt Nam cũng tuân thủ nguyên tắc trên trong việc bảo hộ
quyền liên quan, thể hiện qua một số quy định như: “Cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi
hình, chương trình phát sóng, tín hiệu vệ tinh mang chương trình được mã hoá chỉ được
bảo hộ… với điều kiện không gây phương hại đến quyền tác giả” (Khoản 4 Điều 17
Luật Sở hữu trí tuệ 2005), hay: “Quyền liên quan phát sinh kể từ khi cuộc biểu diễn,
bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng, tín hiệu vệ tinh mang chương trình được
mã hoá được định hình hoặc thực hiện mà không gây phương hại đến quyền tác giả”
(Khoản 2 Điều 6 Luật sở hữu trí tuệ 2005).
Đặc trưng này một lần nữa khẳng định bản chất của quyền liên quan: phát sinh
trên cơ sở hành vi sử dụng tác phẩm đã có. Quyền liên quan có mối quan hệ mật thiết
với quyền tác giả. Hành vi của chủ thể quyền liên quan trong việc sử dụng tác phẩm,
5

Điều 1: “Mối quan hệ với các công ước khác”, Hiệp ước của WIPO về biểu diễn và bản ghi âm (WPPT).


14

chuyển tải tác phẩm tới công chúng đòi hỏi cần có sự cho phép của tác giả, mặt khác nó
đáp ứng mong muốn của tác giả trong việc phổ biến tác phẩm của mình đến khán giả
một cách rộng rãi, cũng như đem lại một khoản thù lao xứng đáng với công sức sáng tạo

của tác giả. Nếu việc sử dụng tác phẩm không đảm bảo tôn trọng quyền tác giả (như
không có sự cho phép của tác giả của tác phẩm được sử dụng) thì đó được coi là hành vi
xâm phạm quyền tác giả và hành vi này không làm phát sinh quyền liên quan được bảo
hộ theo quy định pháp luật.
Tuy nhiên, quyền liên quan là một loại quyền sở hữu trí tuệ độc lập và không thể
bị xem là thứ yếu so với quyền tác giả. Chỉ xem xét việc bảo hộ các quyền liên quan sau
khi tiến hành những bảo hộ cần thiết đối với quyền tác giả là không thể chấp nhận được
- các loại quyền này đều phải được bảo hộ đồng thời theo đúng những quy định của
pháp luật. Ví dụ, nếu một bản ghi âm trên đĩa CD của một bài hát được thực hiện (một
cách hợp pháp) thì xung quanh nó tồn tại đồng thời các loại quyền tác giả và quyền liên
quan sau:
1. Quyền tác giả của người viết nhạc cho bài hát;
2. Quyền tác giả của người viết lời cho bài hát;
3. Quyền của người biểu diễn dành cho ca sĩ thể hiện bài hát trong bản ghi đó;

4. Quyền của nhà sản xuất dành cho cá nhân hoặc tổ chức tiến hành việc định
hình bản ghi.
Các quyền trên tồn tại một cách đồng thời, độc lập với nhau và đều được bảo hộ
theo quy định của pháp luật sở hữu trí tuệ.
1.3. Một số điều ước quốc tế về quyền liên quan:
Trên phạm vi toàn cầu, quyền liên quan đã sớm được quan tâm với tư cách một
lĩnh vực quyền sở hữu trí tuệ độc lập chứ không phải một “bộ phận” đi liền với quyền
tác giả. Đến nay, đã có nhiều điều ước quốc tế riêng biệt về quyền liên quan mà đáng
chú ý nhất là Công ước quốc tế về bảo hộ người biểu diễn, nhà sản xuất bản ghi âm và
tổ chức phát sóng (Công ước Rome 1961), Công ước về bảo hộ nhà sản xuất bản ghi âm
chống lại việc sao chép trái phép bản ghi âm của họ (Công ước về bản ghi âm, ký tại
Geneva năm 1971), Công ước liên quan đến việc phân phối các tín hiệu mang chương
trình truyền qua vệ tinh (Công ước vệ tinh, ký tại Brussels năm 1974), Hiệp ước của
WIPO về biểu diễn và bản ghi âm (Hiệp ước WPPT, thông qua năm 1996). Bên cạnh đó,
không thể không kể đến Hiệp định về những khía cạnh liên quan tới thương mại của



15

quyền sở hữu trí tuệ (Hiệp định TRIPS) có giá trị ràng buộc đối với tất cả các thành viên
WTO.
Những điều ước quốc tế cơ bản nói trên đều là những điều ước mà Việt Nam đã
tham gia. Việc xem xét những nội dung chủ yếu nhất của chúng không chỉ cung cấp
những nhận thức về vấn đề bảo hộ quyền liên quan trên phạm vi toàn cầu mà còn tạo cơ
sở để so sánh, đánh giá mức độ tương thích của pháp luật Việt Nam về quyền liên quan
so với sự bảo hộ các quyền này trên thế giới hiện nay.
1.3.1. Công ước Rome 1961:
Về tính chất, Công ước Rome được coi là một công ước “đóng” do sự ràng buộc
với các công ước về quyền tác giả: để trở thành thành viên công ước, một quốc gia
không những phải là thành viên Liên hiệp quốc, mà còn phải là thành viên của Liên hiệp
Berne hoặc là thành viên của Công ước toàn cầu về quyền tác giả (Điều 24).
Công ước Rome quy định nguyên tắc đối xử quốc gia (Điều 2), đồng thời xác
định cụ thể những tiêu chuẩn để được hưởng sự bảo hộ của công ước cho từng loại chủ
thể quyền liên quan mà chủ yếu là tiêu chuẩn quốc tịch và tiêu chuẩn lãnh thổ, nơi thu
ghi, lưu định hoặc nơi công bố…
Nội dung quan trọng của công ước là đặt ra những tiêu chuẩn bảo hộ tối thiểu cho
các chủ thể quyền liên quan. Sự bảo hộ tối thiểu mà Công ước đảm bảo cho người biểu
diễn được quy định bằng “khả năng ngăn cấm những hành vi nhất định” được thực hiện
mà không có sự đồng ý của người biểu diễn, bao gồm: phát sóng hoặc truyền tới công
chúng một buổi biểu diễn “trực tiếp”; ghi lại buổi biểu diễn chưa được ghi thu, lưu định;
tái tạo, nhân bản một bản ghi thu, lưu định của buổi biểu diễn, trừ khi bản gốc được thực
hiện mà không có sự đồng ý của người biểu diễn hoặc việc tái tạo, nhân bản được thực
hiện vì những mục đích mà Công ước hoặc người biểu diễn không cho phép (Điều 7).
Đối với nhà sản xuất bản ghi âm, Công ước bảo đảm cho họ quyền cho phép hoặc ngăn
cấm việc tái tạo, nhân bản trực tiếp hoặc gián tiếp các bản ghi âm của họ (Điều 10);

Công ước không quy định về quyền cho phép biểu diễn các bản ghi âm và không dứt
khoát ngăn cấm việc phân phối hoặc nhập khẩu những bản sao ghi âm trái phép. Với tổ
chức phát sóng, Công ước quy định họ có quyền cho phép hoặc ngăn cấm: phát sóng lại
đồng thời các buổi phát sóng của họ; thu ghi, lưu định các buổi phát sóng của họ; tái tạo,
nhân bản những bản ghi các buổi phát sóng mà chưa được cho phép hoặc tái tạo, nhân
bản những bản thu ghi, lưu định hợp pháp cho những mục đích bất hợp pháp, và truyền
tới công chúng các buổi phát sóng truyền hình thông qua những trạm thu mà công chúng


16

không phải trả tiền khi tiếp nhận; tuy nhiên, quyền truyền đạt trên không mở rộng cho
các buổi phát sóng thu âm, và Công ước không bảo hộ chống lại việc phân phối các buổi
phát sóng bằng cáp.
Bên cạnh những yêu cầu tối thiểu cho việc bảo hộ, Công ước Rome cũng quy
định cho phép luật pháp quốc gia điều chỉnh một số khía cạnh bảo hộ theo sự lựa chọn
của họ. Công ước Rome cho phép một số hạn chế nhất định về các quyền được cấp. Bất
kỳ quốc gia thành viên nào cũng có thể quy định những ngoại lệ đối với việc sử dụng cá
nhân, sử dụng những trích dẫn ngắn nhằm ghi lại sự kiện thời sự, bản thu ghi, luu định
tạm thời của một tổ chức phát sóng được thực hiện bằng các phương tiện của họ và phục
vụ cho các buổi phát sóng của họ, và cho tất cả các hình thức sử dụng chỉ nhằm mục
đích giảng dạy hoặc nghiên cứu khoa học (Điều 15).
Một điểm quan trọng của Công ước là quy định về thời hạn bảo hộ tối thiểu, đó là
một giai đoạn 20 năm tính từ khi kết thúc năm mà bản ghi thu, lưu định được thực hiện,
đối với cả bản ghi âm và đối với buổi biểu diễn được thu ghi trong đó, hay, tính từ năm
kết thúc năm mà buổi biểu diễn diễn ra, đối với những buổi biểu diễn không được thu
ghi trong các bản ghi âm, hay tính từ khi kết thúc năm mà buổi phát sóng diễn ra, đối
với các buổi phát sóng (Điều 14).
1.3.2. Công ước về bản ghi âm:
Công ước về bản ghi âm mang tính chất một công ước “mở”, do sự đấu tranh

chống lại nạn chiếm đoạt trong phạm vi rộng nhất có thể là quyền lợi mà Công ước mở
ra cho tất cả các quốc gia thành viên Liên hiệp quốc hay của bất kỳ tổ chức chuyên môn
nào có quan hệ với Liên hiệp quốc, hoặc các bên của Tổ chức Tòa án công lý quốc tế,
mà trên thực tế là tất cả các quốc gia trên thế giới. Công ước cũng không đề cập tới hệ
thống “đối xử quốc gia” như tại Công ước Rome, mà định nghĩa rõ các hành vi bất hợp
pháp mà các quốc gia phải quy định biện pháp bảo hộ hữu hiệu chống lại những hành vi
đó.
Về nội dung, khác với Công ước Rome, Công ước về bản ghi âm chỉ yêu cầu tiêu
chuẩn về quốc tịch như một điều kiện để trao bảo hộ. Phạm vi bảo hộ cũng mở rộng tới
việc chống lại sự phân phối các bản sao bất hợp pháp và việc nhập khẩu các bản sao như
vậy để phân phối; mặt khác phạm vi này không bao gồm việc đòi tiền thù lao đối với sử
dụng thứ phát bản ghi âm. Công ước về bản ghi âm cũng quy định một thời hạn bảo hộ
tối thiểu là 20 năm kể từ khi kết thúc năm mà phần âm thanh thể hiện trong bản ghi âm


17

được thu ghi, lưu định lần đầu tiên hoặc từ khi kết thúc năm mà bản ghi âm lần đầu tiên
được công bố.
1.3.3. Công ước vệ tinh:
Đây cũng là một công ước “mở”, và không giống Công ước Rome, vấn đề đối xử
quốc gia không được đề cập trong Công ước vệ tinh. Công ước này đặt các quốc gia
thành viên dưới nghĩa vụ phải tiến hành các bước cần thiết để ngăn chặn dù chỉ một
dạng thức hoạt động, đó là việc nhà phân phối bất kỳ phân phối các tín hiệu mang
chương trình tới những người mà các tín hiệu được truyền tới hoặc được truyền thông
qua vệ tinh không nhằm truyền tới họ.
Công ước vệ tinh mở rộng phạm vi bảo hộ các tổ chức phát sóng bằng cách
không giới hạn phạm vi phát sóng theo định nghĩa khái niệm này trong Công ước Rome
và cung cấp sự bảo hộ đối với cả tín hiệu nguồn được phân phối bằng dây cáp. Một
điểm cần lưu ý là, Công ước vệ tinh không bảo hộ chương trình đã được truyền phát, mà

đối tượng bảo hộ là các tín hiệu được truyền bởi trạm nguồn. Vấn đề thời hạn được
Công ước trao cho luật pháp quốc gia ấn định.
1.3.4. Hiệp ước WPPT:
Hiệp ước WPPT ra đời trong bối cảnh mà sự phát triển công nghệ đã khiến việc
hướng dẫn dưới hình thức các khuyến nghị, các nguyên tắc hướng dẫn và các quy định
mẫu là không đủ, và các quy tắc mới mang tính ràng buộc là không thể thiếu.
WPPT dành nhiều quy định về những vấn đề “nóng” chưa được đề cập thích
đáng trong các điều ước quốc tế trước như “chương trình kỹ thuật số” (digital agenda),
các biện pháp bảo hộ công nghệ và quyền quản lý thông tin. Bên cạnh đó, các vấn đề cơ
bản như tiêu chuẩn đủ tư cách hưởng quyền, nguyên tắc đối xử, quyền cơ bản của các
chủ thể, các hạn chế và ngoại lệ… được quy định trên cơ sở nền tảng của Công ước
Rome. Tuy nhiên, điểm khác nổi bật là thời hạn bảo hộ theo quy định của WPPT được
mở rộng, cụ thể là “thời hạn bảo hộ dành cho người biểu diễn sẽ kéo dài, ít nhất cho tới
khi kết thúc thời hạn 50 năm tính từ khi kết thúc năm mà buổi biểu diễn đã được ghi thu,
lưu định trong bản ghi âm” (Điều 17).
1.3.5. Hiệp định TRIPS:
Là một bộ phận của thỏa thuận WTO thành lập nên tổ chức thương mại lớn nhất
thế giới, Hiệp định TRIPS có những đặc thù riêng so với những điều ước quốc tế về sở
hữu trí tuệ khác. Hiệu lực của nó bao trùm tất cả các quốc gia thành viên WTO. Bên


18

cạnh đó, các vấn đề sở hữu trí tuệ, trong đó có quyền liên quan đến quyền tác giả, cũng
được xem xét từ góc độ của thương mại quốc tế.
Bên cạnh nguyên tắc đối xử quốc gia, Hiệp định đưa ra nguyên tắc đối xử tối huệ
quốc (MFN) mà từ trước đến nay không được quy định trong phạm vi quyền sở hữu trí
tuệ ở cấp độ đa phương. Thời hạn bảo hộ quyền liên quan được Hiệp định TRIPS quy
định “đối với các nhà sản xuất bản ghi âm và người biểu diễn tối thiểu là 50 năm tính từ
khi kết thúc năm mà việc ghi thu, lưu định hoặc buổi biểu diễn được tiến hành, và đối

với những tổ chức phát sóng là ít nhất 20 năm tính từ khi kết thúc năm mà chương trình
phát sóng được thực hiện” (Điều 14). Hiệp định cũng dành phần đáng kể quy định về
thực thi quyền sở hữu trí tuệ (Phần III), đây là ưu điểm nổi bật của TRIPS trong việc
đảm bảo hiệu quả thực thi các quy định của nó trên thực tế.
Trên đây là những nội dung mang tính chất lý luận chung nhất về quyền liên
quan như vấn đề khái niệm quyền liên quan; một số đặc điểm cơ bản cho phép nhìn
nhận rõ hơn về loại quyền này trong hoàn cảnh chưa có một khái niệm thống nhất về
quyền liên quan, cũng như cho phép phân biệt nó với quyền tác giả khi mà ranh giới
giữa hai loại quyền này không phải lúc nào cũng được nhận thức một cách rõ ràng. Các
vấn đề này cũng được làm rõ hơn ở mức độ nhất định thông qua việc tìm hiểu nội dung
cơ bản của một số điều ước quốc tế tương đối phổ biến về quyền liên quan cho đến nay.
Nắm bắt được những vấn đề khái quát nói trên sẽ tạo điều kiện cho việc hiểu rõ hơn các
quy định hiện hành của pháp luật Việt Nam về quyền liên quan.


19

Chương II.

Pháp luật Việt Nam hiện hành
về quyền liên quan
Những quy định pháp luật hiện hành tại Việt Nam về quyền liên quan không tập
trung trong một văn bản pháp luật duy nhất mà có thể tìm thấy tại nhiều văn bản khác
nhau. Nhưng các quy định cơ bản nhất vẫn là các quy định tại Luật sở hữu trí tuệ năm
2005 và Nghị định 100/NĐ-CP ngày 21/9/2006 của Chính Phủ quy định chi tiết và
hướng dẫn thi hành một số điều của Bộ luật dân sự, Luật sở hữu trí tuệ về quyền tác giả
và quyền liên quan. Chương II tập trung vào các quy định của pháp luật Việt Nam hiện
hành về quyền liên quan chủ yếu trên cơ sở hai văn bản nói trên và với các nội dung cơ
bản như sau:
2.1. Đối tượng quyền liên quan:

Quyền liên quan không đương nhiên dành cho mọi cuộc biểu diễn, bản ghi hay
chương trình phát sóng, mà chỉ những đối tượng nào thoả mãn những điều kiện nhất
định mới được pháp luật bảo vệ bằng các quy định về quyền liên quan. Cụ thể, theo
Điều 6 khoản 2 thì các đối tượng này phải được “định hình hoặc thực hiện”, mà không
buộc phải được biểu hiện bằng một dạng vật chất. Đây là một điểm phân biệt với đối
tượng quyền tác giả: tác phẩm phải thỏa mãn yêu cầu “được thể hiện dưới một hình
thức vật chất nhất định”.
Các đối tượng quyền liên quan được quy định tại Điều 17 Luật sở hữu trí tuệ và
có thể được chia thành ba nhóm cơ bản như sau:
2.1.1. Cuộc biểu diễn:
Khoản 1 Điều 17 quy định: “Cuộc biểu diễn được bảo hộ nếu thuộc một trong
các trường hợp sau:
a) Cuộc biểu diễn do công dân Việt Nam thực hiện tại Việt Nam hoặc nước
ngoài;
b) Cuộc biểu diễn do người nước ngoài thực hiện tại Việt Nam;


20

c) Cuộc biểu diễn được định hình trên bản ghi âm, ghi hình được bảo hộ theo
quy định tại Điều 30 của Luật này6;
d) Cuộc biểu diễn chưa được định hình trên bản ghi âm, ghi hình mà đã phát
sóng được bảo hộ theo quy định tại Điều 31 của Luật này7;
đ) Cuộc biểu diễn được bảo hộ theo điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam là thành viên.”
Nghị định 100/2006/NĐ-CP cũng không giải thích thế nào là cuộc biểu diễn. Như
vậy pháp luật Việt Nam không quy định theo hướng định nghĩa “cuộc biểu diễn” mà chỉ
liệt kê các loại cuộc biểu diễn thuộc phạm vi bảo hộ của pháp luật về quyền liên quan.
Theo quy định tại Điều 16 Luật sở hữu trí tuệ thì biểu diễn có thể được hiểu ngắn gọn là
sự “trình bày tác phẩm văn học nghệ thuật”8. Tuy nhiên, cung cấp một cách hiểu như

vậy dường như là chưa đầy đủ.
Công ước Rome không định nghĩa “cuộc biểu diễn”, nhưng cũng cho phép những
người quan tâm hiểu khái niệm này thông qua định nghĩa về người biểu diễn tại Điều 3,
theo đó ta có thể hiểu biểu diễn là sự “nhập vai, hát, đọc, ngâm, trình bày, hoặc các
hình thức biểu diễn khác các tác phẩm văn học và nghệ thuật”. Hiệp ước WPPT và
Hiệp định TRIPS cũng cung cấp những cách hiểu tương tự nhưng bổ sung thêm “thể
hiện các tác phẩm dân gian”.
Nhìn chung, cuộc biểu diễn được bảo hộ với tư cách đối tượng quyền liên quan
thường được hiểu bao gồm: biểu diễn kịch (kể cả vũ kịch hay kịch câm); biểu diễn âm
nhạc; đọc, ngâm, trình bày một cách biểu cảm tác phẩm văn học; và những hành vi biểu
diễn tương tự. Như vậy, quyền liên quan được xem là đã phát sinh khi có sự trình diễn
kịch, có thể là trực tiếp trước khán giả hoặc trước máy quay, hay một màn biểu diễn
balê; quyền liên quan cũng phát sinh đối với những màn biểu diễn được xác định là
mang tính âm nhạc, như việc trình bày một bản nhạc cổ điển, hay phần biểu diễn một
bản nhạc pop của một ban nhạc9…
Cũng có thể định nghĩa cuộc biểu diễn không theo cách thức liệt kê như trên, mà
bằng cách chỉ ra những đặc điểm của nó. Owen Morgan, trong cuốn “Bảo hộ quốc tế
quyền của người biểu diễn”, đã đưa ra một định nghĩa cơ bản với phương thức như trên.
Theo đó, cuộc biểu diễn là tập hợp những hành vi nhất định của cá nhân, có thể được
6

Điều 30 Luật sở hữu trí tuệ 2005 quy định về “Quyền của nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình”.
Điều 31 Luật sở hữu trí tuệ 2005 quy định về “Quyền của tổ chức phát sóng”.
8
Điều 16 Luật sở hữu trí tuệ 2005 về “Tổ chức, cá nhân được bảo hộ quyền liên quan” quy định tại khoản 1 như
sau: “Diễn viên, ca sĩ, nhạc công, vũ công và những người khác trình bày tác phẩm văn học nghệ thuật (sau đây
gọi chung là người biểu diễn)”.
9
L. Bently and B. Sherman, Intellectual Property Law (second edition), 291.
7



21

cảm nhận mà không cần sự hỗ trợ của công nghệ, và mang tính chất một hình thức giao
tiếp hướng tới những người chứng kiến, nhằm mục đích giải trí, giáo dục hay thực hiện
nghi thức.
Đặc trưng của “cuộc biểu diễn” là luôn có sự tham gia của ít nhất một cá nhân
với tư cách người biểu diễn. Do vậy, có thể khẳng định chắc chắn các bức điêu khắc, các
công trình nghệ thuật sắp đặt nằm ngoài phạm vi của khái niệm cuộc biểu diễn, mặc dù
ở đây có sự trình diễn mang tính sáng tạo nghệ thuật hướng tới sự thưởng thức của khán
giả, do không hiện diện bất kỳ cá nhân nào trong những màn trình diễn này. Tuy nhiên,
sự tham gia của (những) cá nhân này ở mức độ nào và tính chất sáng tạo của họ tới đâu
để có thể coi là đã hình thành một cuộc biểu diễn - đây vẫn là điều chưa được làm rõ
trong các nghiên cứu về quyền liên quan. Có thể đưa ra một ví dụ về trường hợp này:
màn trình diễn của một DJ (disc-jockey) với việc thực hiện các kỹ thuật đặc biệt của anh
ta khi chơi một hoặc nhiều bản ghi âm đồng thời có được coi là một cuộc biểu diễn (vì
đây là sự thể hiện tác phẩm âm nhạc (đã được ghi thu) với sự sáng tạo của cá nhân DJ
đó) hay được coi như một tác phẩm âm nhạc mới được bảo hộ bởi quyền tác giả (do kỹ
thuật, sự phối hợp các bản nhạc của người DJ có thể tạo ra những “bản nhạc” rất khác
mà người nghe thậm chí không thể nhận ra bản nhạc gốc đã được sử dụng nữa)?
Xây dựng được một khái niệm chuẩn xác về cuộc biểu diễn rõ ràng không hề đơn
giản. Việc pháp luật Việt Nam không đưa ra khái niệm cuộc biểu diễn trong các văn bản
pháp lý cho phép suy đoán rằng vấn đề này có thể được hiểu theo các quan điểm phổ
biến trong các nghiên cứu quốc tế hiện nay. Các quy định pháp luật sở hữu trí tuệ Việt
Nam hướng vào việc xác định cuộc biểu diễn như thế nào sẽ trở thành đối tượng bảo hộ
của quyền liên quan (phân biệt với những gì cũng có thể được cho là cuộc biểu diễn
nhưng sẽ không được pháp luật về quyền liên quan bảo vệ). Theo khoản 1 Điều 17 nói
trên thì cuộc biểu diễn là đối tượng quyền liên quan bao gồm:
- Cuộc biểu diễn được diễn ra trên lãnh thổ Việt Nam, bất kể người thực hiện là

công dân Việt Nam hay người nước ngoài; cuộc biểu diễn được thực hiện bởi công dân
Việt Nam, bất kể diễn ra trên lãnh thổ Việt Nam hay tại nước ngoài. Ở đây có một điểm
chưa rõ ràng: “thực hiện” cuộc biểu diễn được hiểu như thế nào - là sự trình diễn của
người biểu diễn, hay là sự đầu tư tiến hành của chủ sở hữu? Làm rõ điều này là cần thiết
để xác định có phải là cuộc biểu diễn do công dân Việt Nam thực hiện hay không khi
cuộc biểu diễn diễn ra tại nước ngoài, chủ sở hữu là người nước ngoài, nhưng người
biểu diễn là công dân Việt Nam; hoặc cuộc biểu diễn tại nước ngoài, người biểu diễn là
người nước ngoài, nhưng chủ sở hữu cuộc biểu diễn là công dân Việt Nam.


22

- Cuộc biểu diễn cũng được bảo hộ bởi pháp luật Việt Nam nếu được định hình
trên bản ghi bởi nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình có quốc tịch Việt Nam hoặc được bảo
hộ theo điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia. Như vậy, một cuộc biểu diễn được diễn
ra trên lãnh thổ một nước khác, người biểu diễn là người nước ngoài, và cũng do người
nước ngoài làm chủ sở hữu, nếu được định hình trên bản ghi âm, ghi hình bởi một nhà
sản xuất bản ghi mang quốc tịch Việt Nam, thì cũng được xác định là cuộc biểu diễn
thuộc đối tượng bảo hộ của pháp luật quyền liên quan Việt Nam (chứ không chỉ bản ghi
âm, ghi hình của cuộc biểu diễn đó được pháp luật Việt Nam bảo hộ).
- Đối với cuộc biểu diễn chưa được định hình trên bản ghi (tức không thuộc
nhóm được bảo hộ như trên) nhưng nếu đã được phát trong các chương trình phát sóng
bởi tổ chức phát sóng có quốc tịch Việt Nam hoặc được bảo hộ theo điều ước quốc tế mà
Việt Nam tham gia thì bản thân cuộc biểu diễn đó cũng được pháp luật Việt Nam bảo hộ
một cách độc lập với sự bảo hộ dành cho chương trình phát thanh truyền hình đã lấy
cuộc biểu diễn đó làm nội dung phát sóng.
- Cuối cùng là các cuộc biểu diễn được bảo hộ theo điều ước quốc tế mà Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên. Số lượng cuộc biểu diễn loại này là không
nhỏ bởi ngay từ đầu, việc bảo hộ quyền liên quan đã mang tính quốc tế rộng rãi và xu
hướng hình thành các điều ước song phương cũng như đa phương về lĩnh vực này đang

ngày càng trở nên phổ biến.
Quy định tại khoản 1 Điều 17 như trên cho thấy phạm vi các cuộc biểu diễn được
bảo hộ bởi pháp luật về quyền liên quan của Việt Nam là tương đối rộng, và xác định
trên ba tiêu chí cơ bản: quốc tịch của chủ thể; nơi thực hiện hành vi; và theo điều ước
quốc tế. Nội dung của điều khoản này cũng mang tính tương đồng với các quy định về
cùng vấn đề của nhiều nước cũng như thể hiện tinh thần tôn trọng các điều ước quốc tế
mà chúng ta tham gia.
2.1.2. Bản ghi âm, ghi hình:
Khoản 2 Điều 17 Luật sở hữu trí tuệ 2005 quy định bản ghi âm, ghi hình là đối
tượng bảo hộ của quyền liên quan nếu thuộc một trong các trường hợp sau:
a)

Bản ghi âm, ghi hình của nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình có quốc tịch
Việt Nam.

b)

Bản ghi âm, ghi hình của nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình được bảo hộ
theo điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành
viên.


23

Khái niệm bản ghi âm, ghi hình trong pháp luật Việt Nam được đề cập đến trong
Nghị định 100/2006/NĐ-CP tại khoản 6 Điều 4: “Bản ghi âm, ghi hình là bản định hình
các âm thanh, hình ảnh của cuộc biểu diễn hoặc các âm thanh, hình ảnh khác hoặc việc
định hình sự tái hiện lại các âm thanh, hình ảnh không phải dưới hình thức định hình
gắn với tác phẩm điện ảnh hoặc tác phẩm nghe nhìn khác”. Thuật ngữ “định hình” cũng
được giải thích tại Nghị định này là “sự thể hiện bằng chữ viết, các ký tự khác, đường

nét, hình khối, bố cục, màu sắc, âm thanh, hình ảnh hoặc sự tái hiện âm thanh, hình ảnh
dưới dạng vật chất nhất định để từ đó có thể nhận biết, sao chép hoặc truyền đạt”
(Khoản 5 Điều 4). Cách giải thích như vậy dường như khá là khó hiểu, do thuật ngữ
“định hình” còn được sử dụng với các quy định thuộc lĩnh vực quyền tác giả nên các
nhà làm luật không đưa ra cách hiểu về “định hình” riêng cho lĩnh vực quyền liên quan,
cụ thể là đối với các bản ghi.
WIPO đã đưa ra một số giải thích tương đối dễ hiểu có liên quan đến nhóm đối
tượng thứ hai này trong cuốn “Cẩm nang sở hữu trí tuệ - Chính sách, Pháp luật và Áp
dụng”. Theo đó, một chương trình được ghi âm là bản ghi âm bất kỳ một tiết mục biểu
diễn hoặc các âm thanh khác (phân biệt với bản sao của chương trình được ghi âm - là
vật phẩm bất kỳ mang chứa âm thanh thu trực tiếp hoặc gián tiếp từ một chương trình
được ghi âm và thể hiện tất cả hay một phần cơ bản các âm thanh được ghi trong
chương trình đó). Bản ghi âm có thể được hiểu là sự hiện thân dưới dạng vật chất âm
thanh của một buổi biểu diễn trực tiếp hay bất kỳ âm thanh nào khác, có thể là lấy lại từ
một bản ghi âm đã có trước, dưới hình thức là những chất liệu bền vững như băng, đĩa
hay bất kỳ phương tiện phù hợp nào khác cho phép ta có thể được thưởng thức, sao chép
hay truyền tải lặp đi lặp lại.
Có một điểm khác biệt dễ nhận thấy trong quy định pháp luật Việt Nam so với
các điều ước quốc tế cũng như pháp luật nhiều quốc gia khác về bảo hộ quyền liên quan
đối với nhóm đối tượng này. Đó là tại Việt Nam, phạm vi bảo hộ của quyền liên quan
bao hàm cả bản ghi âm cũng như bản ghi hình, trong khi đó, trên thế giới, sự bảo hộ với
tư cách đối tượng quyền liên quan không dành cho bản ghi hình mà chỉ có bản ghi âm.
Tại nhiều nước, đặc biệt là các nước phát triển, ngành công nghiệp điện ảnh đã trở thành
một ngành kinh doanh mang lại lợi nhuận khổng lồ nhưng đồng thời cũng là một lĩnh
vực đặc biệt phức tạp, bởi vậy các nước này đã ban hành các đạo luật riêng điều chỉnh
các quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực điện ảnh mà trong đó tất yếu đã bao hàm cả
vấn đề bản ghi hình các tác phẩm nghệ thuật thứ bảy này. Những đạo luật này đã được
ban hành trước khi vấn đề quyền liên quan được đưa vào chương trình lập pháp. Sự tồn



24

tại của đạo luật chuyên biệt cho bản ghi hình khiến việc bảo hộ nó cùng chung với bản
ghi âm trở nên không còn cần thiết và nếu có cũng không thể hiệu quả bằng. Do đó, bản
ghi hình được đặt ngoài phạm vi đối tượng bảo hộ quyền liên quan theo các công ước
quốc tế cũng như nhiều hệ thống pháp luật quốc gia hiện nay.
Tại Việt Nam, mặc dù đã có Luật Điện ảnh (thông qua ngày 29/6/2006, có hiệu
lực từ ngày 01/01/2007), nhưng đây là một đạo luật mới, ra đời sau Luật sở hữu trí tuệ
2005 - luật này không cung cấp sự bảo hộ cho bản ghi hình tác phẩm điện ảnh dưới góc
độ một đối tượng quyền sở hữu trí tuệ mà cụ thể là đối tượng quyền liên quan. Do vậy,
việc bảo hộ bản ghi hình cùng với bản ghi âm bằng các quy định của pháp luật quyền
liên quan là cần thiết trong hoàn cảnh hiện nay của nước ta. Tuy nhiên, vấn đề là nếu
duy trì tình trạng này thì sẽ tồn tại sự không phù hợp giữa pháp luật Việt Nam với các
quan niệm phổ biến trên thế giới, điều này rõ ràng không đem lại tác động tích cực cho
quá trình hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng của nước ta hiện nay.
Một lưu ý khác đó là, xem xét các điều kiện bảo hộ bản ghi âm, ghi hình (khoản
2 Điều 17) trong sự so sánh với điều kiện bảo hộ đối với cuộc biểu diễn (khoản 1 Điều
17), ta thấy nhà làm luật chỉ quy định hai tiêu chí là theo quốc tịch chủ thể và theo điều
ước quốc tế, mà không quy định tiêu chí nơi thực hiện hành vi (định hình) như một tiêu
chí xác định điều kiện bảo hộ cho đối tượng này. Trên thực tế có thể tồn tại trường hợp
bản ghi âm, ghi hình được thực hiện bởi nhà sản xuất mang quốc tịch nước ngoài và
không thuộc phạm vi được bảo hộ theo điều ước quốc tế Việt Nam tham gia, song việc
định hình chúng được thực hiện tại Việt Nam - những bản ghi này cũng nên được xem
xét bảo hộ bởi pháp luật quyền liên quan Việt Nam.
2.1.3. Chương trình phát sóng, tín hiệu vệ tinh mang chương trình được mã hóa:
Đây là loại đối tượng thứ ba của quyền liên quan, và được liệt kê tại khoản 3
Điều 17 như sau: “Chương trình phát sóng, tín hiệu vệ tinh mang chương trình được mã
hóa được bảo hộ nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây:
a)


Chương trình phát sóng, tín hiệu vệ tinh mang chương trình được mã
hóa của tổ chức phát sóng có quốc tịch Việt Nam;

b)

Chương trình phát sóng, tín hiệu vệ tinh mang chương trình được mã
hóa của tổ chức phát sóng được bảo hộ theo điều ước quốc tế mà Cộng
hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên.”

Pháp luật Việt Nam cũng làm rõ loại đối tượng quyền liên quan này qua một số
sự giải thích. Theo quy định tại khoản 11 Điều 4 Luật sở hữu trí tuệ, “phát sóng là việc


25

truyền âm thanh hoặc hình ảnh của tác phẩm, cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình,
chương trình phát sóng đến công chúng bằng phương tiện vô tuyến hoặc hữu tuyến, bao
gồm cả việc truyền qua vệ tinh để công chúng có thể tiếp nhận được tại địa điểm và thời
gian do chính họ lựa chọn”. Khoản 10 Điều 4 Nghị định 100/2006/NĐ-CP giải thích về
tín hiệu vệ tinh mang chương trình mã hóa, đó là “tín hiệu mang chương trình được
truyền qua vệ tinh dưới dạng mà trong đó các đặc tính âm thanh hoặc các đặc tính hình
ảnh hoặc cả hai đặc tính đó đã được thay đổi nhằm mục đích ngăn cản việc thu trái
phép chương trình”.
Những giải thích được đưa ra là khá rõ ràng, cho phép nắm bắt được thế nào là
chương trình phát sóng, tín hiệu vệ tinh mang chương trình được mã hóa thuộc đối
tượng quyền liên quan mà pháp luật Việt Nam bảo hộ. Xem xét trong mối liên hệ với
các điều ước quốc tế liên quan và quan điểm của WIPO, ta thấy có một số khác biệt cần
lưu ý:
- Thứ nhất, việc phát sóng theo quy định của pháp luật Việt Nam có thể được
thực hiện bằng cả phương tiện vô tuyến hoặc hữu tuyến 10. Trong khi đó, nhìn chung các

quan điểm trên thế giới đều chỉ xét tới việc phát sóng bằng phương tiện vô tuyến. WIPO
giải thích, “phát sóng thường được hiểu là hình thức truyền âm thanh và/hoặc hình ảnh
bằng sóng radio tới công chúng. Một chương trình phát sóng là bất kỳ chương trình nào
được truyền bằng hình thức phát sóng, hay nói cách khác truyền qua các phương tiện
vô tuyến (kể cả truyền tín hiệu vệ tinh…) để công chúng thu nhận âm thanh và hình
ảnh”11. Công ước Rome cũng quy định tại Điều 3: "Phát sóng được hiểu là việc truyền
bằng phương tiện vô tuyến các âm thanh hoặc các hình ảnh và âm thanh để công chúng
thu”. Các hình thức phát sóng bằng phương tiện hữu tuyến (thường được hiểu là thông
qua mạng lưới cáp) không được đề cập tới như một đối tượng bảo hộ của quyền liên
quan. Tuy nhiên, sự bảo hộ quốc tế đối với phát sóng thực hiện bằng các phương tiện
hữu tuyến đã được đề cập đến trong Công ước liên quan đến việc phân phối các tín hiệu
chương trình truyền qua vệ tinh (ký tại Brussels năm 1974), thông qua việc mở rộng
phạm vi bảo hộ cho tổ chức phát sóng bằng cách ngăn chặn việc phân phối bất hợp pháp
các tín hiệu nguồn được truyền bằng dây cáp. Mặc dù vậy, Công ước Brussels không
chính thức trao quyền mới cho các tổ chức phát sóng, mà đưa ra yêu cầu đối với các
quốc gia thành viên về việc thực hiện các biện pháp thỏa đáng nhằm ngăn chặn sự phân
phối bất hợp pháp này. Như vậy, mặc dù đã được bảo hộ trên phạm vi quốc tế nhưng các
10
11

Theo định nghĩa “phát sóng” tại khoản 11 Điều 4 Luật sở hữu trí tuệ.
Cẩm nang sở hữu trí tuệ WIPO: Chính sách, Pháp luật và Áp dụng, trang 49.


×