Tải bản đầy đủ (.pdf) (18 trang)

Bảo đảm tiền vay bằng giấy tờ có giá tại các tổ chức tín dụng – Một số vấn đề lý luận và thực tiễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (365.02 KB, 18 trang )

Bảo đảm tiền vay bằng giấy tờ có giá tại các
tổ chức tín dụng – Một số vấn đề lý luận và
thực tiễn

Ngô Thị Hà

Khoa Luật
Luận văn Thạc sĩ ngành: Luật dân sự; Mã số: 60 38 30
Người hướng dẫn: PGS.TS Lê Thị Thu Thuỷ
Năm bảo vệ: 2011

Abstract: Làm rõ những vấn đề lý luận của pháp luật về bảo đảm tiền vay bằng giấy
tờ có giá (GTCG) tại tổ chức tín dụng như: khái niệm, đặc điểm, phân loại GTCG
với tư cách là một tài sản bảo đảm; khái niệm, đặc điểm, phân loại, vai trò của bảo
đảm tiền vay bằng GTCG; nội dung pháp luật về bảo đảm tiền vay bằng GTCG.
Nghiên cứu, phân tích và đánh giá thực trạng pháp luật về bảo đảm tiền vay bằng
GTCG tại tổ chức tín dụng (TCTD) ở Việt Nam qua việc đưa ra những nhận định
khái quát và cụ thể những mặt được, những mặt hạn chế, bất cập của pháp luật hiện
hành và thực tế áp dụng bảo đảm tiền vay bằng GTCG tại TCTD ở Việt Nam. Đưa
ra định hướng và những kiến nghị, đề xuất, giải pháp cơ bản nhằm hoàn thiện pháp
luật về bảo đảm tiền vay bằng GTCG tại TCTD ở Việt Nam.

Keywords: Bảo đảm tiền vay; Giấy tờ có giá; Tín dụng; Luật dân sự; Pháp luật Việt
Nam

Content
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Sau 11 năm đàm phán không mệt mỏi với rất nhiều cam kết song phương và đa phương
cùng các nước thành viên Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), tháng 11 năm 2006 Việt
Nam đã chính thức trở thành thành viên của tổ chức này. Đây là một dấu mốc vô cùng quan


trọng trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam.
Vấn đề hội nhập vào nền kinh tế thế giới đã mở ra nhiều cơ hội to lớn nhưng cũng đặt ra
vô vàn thách thức trong điều kiện mới. Khi nền kinh tế thế giới có nhiều sự thay đổi đến
"chóng mặt", "lúc nóng", "lúc lạnh" sẽ ảnh hưởng ngay đến nền kinh tế Việt Nam. Chính vì
vậy, việc điều tiết nền kinh tế thông qua các công cụ tài chính ngân hàng luôn được Đảng và
Nhà nước ta "quan tâm" đặt lên hàng đầu. Thông qua các công cụ tài chính ngân hàng,
nguồn tiền từ các tổ chức tín dụng (TCTD) được thúc đẩy "bơm" ra thị trường hoặc yêu cầu
"thắt chặt" lại. Để thực hiện được mục tiêu này thì tất yếu phải thông qua việc điều tiết hoạt
động tín dụng (cho vay) của các tổ chức tín dụng.
2
Hoạt động cho vay của tổ chức tín dụng đóng vai trò vô cùng quan trọng đối với đời
sống kinh tế xã hội. Việc đảm bảo an toàn trong hoạt động cho vay của TCTD ở Việt Nam
là rất cần thiết, vì chỉ cần một TCTD có dấu hiệu không tốt sẽ có khả năng ảnh hưởng "dây
chuyền" đến hoạt động của các TCTD khác, từ đó sẽ ảnh hưởng đến nền kinh tế xã hội.
Trong quan hệ cho vay, hợp đồng vay giữa TCTD và bên vay được thiết lập thông qua
quá trình thương thảo giữa hai bên và là kết quả của quá trình TCTD thực hiện thẩm định
bên vay. Khi TCTD đồng ý "cấp vốn" cho bên vay có nghĩa là TCTD đã tin tưởng và tín
nhiệm vào thiện chí cũng như khả năng trả nợ của bên vay. Tuy nhiên, nếu không có những
thiết chế, những công cụ đảm bảo việc thực hiện nghĩa vụ trả nợ của bên vay, dự liệu trường
hợp bên vay không thực hiện hoặc không có khả năng thực hiện nghĩa vụ trả nợ, thì TCTD
sẽ tự đặt mình trước những "nguy cơ" khó lường khi chính TCTD cũng đi vay (nhận tiền
gửi của khách hàng gửi tiền) để cho vay.
Một trong những công cụ để đảm bảo bên vay thực hiện nghĩa vụ trả nợ mà TCTD áp
dụng vào hoạt động cho vay đó là biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trả nợ tiền vay hay
còn gọi là bảo đảm tiền vay. Trong hợp đồng cho vay, ngoài việc thỏa thuận về áp dụng các
chế tài như thu hồi nợ trước hạn, lãi suất nợ quá hạn, lãi suất nợ lãi quá hạn…, TCTD còn
yêu cầu bên vay thực hiện các biện pháp bảo đảm tiền vay.
Bảo đảm tiền vay bằng giấy tờ có giá (GTCG) là một trong những biện pháp bảo đảm
được pháp luật công nhận, bảo hộ, được TCTD và bên vay lựa chọn áp dụng. Hiện nay, pháp
luật điều chỉnh về bảo đảm tiền vay bằng GTCG tại TCTD ở Việt Nam được quy định tại nhiều

văn bản pháp luật khác nhau nhưng mới chỉ là những quy định mang tính chất chung chung như
Bộ luật Dân sự (BLDS) năm 2005, Luật Ngân hàng Nhà nước (NHNN) Việt Nam, Luật Các tổ
chức tín dụng năm 2010, Luật Các công cụ chuyển nhượng (CCCCN) năm 2005, Luật Doanh
nghiệp năm 2005, Luật Chứng khoán năm 2006, Nghị định số 163/2006/NĐ-CP ngày 29
tháng 12 năm 2006 của Chính phủ về giao dịch bảo đảm (sau đây gọi tắt là Nghị định số
163), Nghị định số 83/2010/NĐ-CP ngày 23 tháng 7 năm 2010 của Chính phủ về đăng ký
giao dịch bảo đảm (sau đây gọi tắt là Nghị định số 83), Quy chế phát hành giấy tờ có giá
của các tổ chức tín dụng năm 2008 (sau đây gọi tắt Quy chế phát hành GTCG),… Pháp luật
về bảo đảm tiền vay bằng GTCG tại TCTD còn thiếu những quy định, hướng dẫn cụ thể,
thống nhất dẫn đến gặp rất nhiều khó khăn trong việc áp dụng pháp luật vào thực tiễn.
Vì vậy, với mong muốn tìm hiểu những vấn đề pháp lý và thực tiễn của bảo đảm tiền
vay bằng GTCG để góp phần hoàn thiện các quy định pháp luật về vấn đề này, tác giả
quyết định lựa chọn nghiên cứu về đề tài "Bảo đảm tiền vay bằng giấy tờ có giá tại các tổ
chức tín dụng - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn" làm luận văn thạc sĩ luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Dưới góc độ luật học, pháp luật về GTCG và bảo đảm bằng GTCG đã được đề cập đến
tại một số công trình nghiên cứu khoa học như:
- Luận văn thạc sĩ luật học của tác giả Nguyễn Thị Anh Thơ, bảo vệ thành công năm
2006 về: "Giấy tờ có giá - Một loại tài sản trong quan hệ pháp luật dân sự";
- Khóa luận tốt nghiệp của tác giả Nguyễn Thị Hoàng Điệp, bảo vệ thành công năm
2010 về: "Giấy tờ có giá - Một loại tài sản theo quy định pháp luật hiện hành";
- Đề tài nghiên cứu khoa học của nhóm nghiên cứu khoa học về: "Một số kiến nghị
nhằm triển khai và phát triển nghiệp vụ cầm cố chứng khoán trên thị trường chứng khoán
Việt Nam".
3
Bên cạnh đó, một số bài trao đổi, nghiên cứu liên quan đến giao dịch bảo đảm bằng
GTCG được đăng tải trên một số trang web và tạp chí chuyên ngành tài chính ngân hàng
như:
- Bài viết:"Hoàn thiện pháp luật về bảo đảm tiền vay trong bối cảnh hội nhập kinh tế
quốc tế" của tác giả Nguyễn Văn Phương đăng trên Tạp chí Ngân hàng số 11/2007;

- Bài viết: "Biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trong hoạt động tín dụng của các
ngân hàng thương mại: một số nhận định từ góc độ pháp lý đến thực tiễn" của ThS. Nguyễn
Thùy Trang đăng tải trên trang web của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
Ngoài ra, một số khía cạnh pháp lý liên quan đến nghiệp vụ cho vay trên cơ sở có bảo
đảm bằng cầm cố GTCG, cầm cố chứng khoán tại các TCTD cũng được nhiều bài báo viết,
báo điện tử đăng tải.
Nhưng, các công trình nghiên cứu, các bài trao đổi, bài viết trên đây chỉ mới dừng lại ở
việc phân tích GTCG là một loại tài sản trong quan hệ pháp luật dân sự, phân tích về biện
pháp bảo đảm bằng GTCG dưới góc độ của một loại GTCG cụ thể như chứng khoán, hay
chỉ mới dừng lại phân tích về một số nhầm lẫn liên quan đến nhận sổ tiết kiệm làm tài sản
bảo đảm như là một loại GTCG. Qua quá trình tra cứu tài liệu cho thấy, hiện chưa có một
công trình khoa học nào nghiên cứu một cách toàn diện, đầy đủ về biện pháp bảo đảm tiền
vay bằng GTCG. Xuất phát từ những nguyên nhân trên, tác giả đã lựa chọn đề tài nghiên
cứu để tìm hiểu một cách đầy đủ, toàn diện về lý luận và thực tiễn áp dụng bảo đảm tiền vay
bằng GTCG tại TCTD ở Việt Nam hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài
Mục đích của luận văn là nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn pháp luật về bảo
đảm tiền vay bằng GTCG tại TCTD, từ đó thấy được những kết quả cũng như những vấn đề
còn tồn tại, nguyên nhân của những hạn chế, tồn tại đó và đề xuất các giải pháp hoàn thiện
pháp luật về vấn đề này.
Với mục đích như trên, các nhiệm vụ phải giải quyết của luận văn là:
- Làm rõ những vấn đề lý luận của pháp luật về bảo đảm tiền vay bằng GTCG tại tổ
chức tín dụng như: khái niệm, đặc điểm, phân loại GTCG với tư cách là một tài sản bảo đảm;
khái niệm, đặc điểm, phân loại, vai trò của bảo đảm tiền vay bằng GTCG; nội dung pháp luật
về bảo đảm tiền vay bằng GTCG.
- Nghiên cứu, phân tích và đánh giá thực trạng pháp luật về bảo đảm tiền vay bằng
GTCG tại TCTD ở Việt Nam qua việc đưa ra những nhận định khái quát và cụ thể những
mặt được, những mặt hạn chế, bất cập của pháp luật hiện hành và thực tế áp dụng bảo đảm
tiền vay bằng GTCG tại TCTD ở Việt Nam.
- Đưa ra định hướng và những kiến nghị, đề xuất, giải pháp cơ bản nhằm hoàn thiện pháp

luật về bảo đảm tiền vay bằng GTCG tại TCTD ở Việt Nam.
4. Phạm vi của việc nghiên cứu đề tài
Luận văn tập trung nghiên cứu pháp luật hiện hành điều chỉnh về bảo đảm tiền vay bằng
GTCG tại TCTD ở Việt Nam đặt trong mối quan hệ với pháp luật về GTCG và các văn bản
pháp lý chuyên ngành tài chính ngân hàng điều chỉnh hoạt động cho vay của TCTD. Từ đó,
làm nổi bật các đặc trưng của bảo đảm tiền vay bằng GTCG tại TCTD so với các biện pháp
bảo đảm dân sự khác và so với các biện pháp bảo đảm tiền vay khác. Đồng thời nghiên cứu
thực tiễn áp dụng pháp luật về vấn đề này, để phát hiện các tồn tại, bất cập và kiến nghị
phương hướng khắc phục, hoàn thiện.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu đề tài
4
Với mục đích triển khai những nội dung cơ bản của luận văn, tác giả đã vận dụng tổng
hợp các phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử và các phương pháp cụ thể như
phân tích, tổng hợp, giải thích, so sánh … để lý giải những vấn đề đặt ra.
6. Những đóng góp mới của đề tài
Là công trình nghiên cứu pháp luật về bảo đảm tiền vay bằng GTCG tại TCTD ở Việt
Nam và thực tiễn áp dụng pháp luật một cách cụ thể, luận văn có những đóng góp mới là:
- Trình bày, phân tích một cách khoa học và có hệ thống các vấn đề lý luận cơ bản của
pháp luật về bảo đảm tiền vay bằng GTCG tại TCTD.
- Nêu và phân tích nguyên nhân, đánh giá thực trạng pháp luật và thực tiễn áp dụng
pháp luật về bảo đảm tiền vay bằng GTCG tại TCTD ở Việt Nam; tìm hiểu và phân tích các
tranh chấp về bảo đảm tiền vay bằng GTCG thường phát sinh trong hoạt động cho vay có
bảo đảm bằng GTCG tại TCTD ở Việt Nam.
- Luận văn kiến nghị, đề xuất các phương hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật về bảo
đảm tiền vay bằng GTCG tại TCTD ở Việt Nam nhằm góp phần xây dựng hệ thống pháp
luật hoàn chỉnh, mang tính khả thi.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài Phần mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn
gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận của pháp luật về bảo đảm tiền vay bằng giấy tờ có giá

tại tổ chức tín dụng.
Chương 2: Thực trạng pháp luật về bảo đảm tiền vay bằng giấy tờ có giá tại tổ chức tín
dụng ở Việt Nam.
Chương 3: Một số phương hướng và các giải pháp hoàn thiện pháp luật về bảo đảm tiền
vay bằng giấy tờ có giá tại tổ chức tín dụng ở Việt Nam.

Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CỦA PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM
TIỀN VAY BẰNG GIẤY TỜ CÓ GIÁ TẠI TỔ CHỨC TÍN DỤNG
1.1. Khái niệm, đặc điểm, phân loại giấy tờ có giá
1.1.1 Khái niệm giấy tờ có giá
Theo nghĩa chung nhất, GTCG nói chung được hiểu là chứng chỉ hoặc bút toán ghi sổ,
trong đó xác nhận quyền tài sản của một chủ thể nhất định (tổ chức, cá nhân) xét trong mối
quan hệ pháp lý với các chủ thể khác.
Trên phương diện kinh tế, GTCG là một loại hàng hóa được mua bán, trao đổi trên thị
trường tiền tệ.
Xét ở phương diện pháp lý, giấy tờ có giá được quy định tại nhiều văn bản pháp luật
khác nhau.
Trên thế giới, GTCG được quy định từ những năm 1603 tại Pháp lệnh Humburg. Đến
nay có rất nhiều văn bản pháp luật, hiệp ước và công ước quy định về GTCG liên tiếp được
ban hành.
5
Ở Việt Nam, khái niệm GTCG hiện đang được quy định tại nhiều văn bản pháp luật
theo nhiều cách tiếp cận khác nhau tùy thuộc vào mục đích, phạm vi điều chỉnh và đối
tượng áp dụng của văn bản pháp luật đó.
Tuy nhiên, hiện chưa có một khái niệm "chuẩn", thống nhất về GTCG. Giấy tờ có giá
chỉ được quy định dưới dạng liệt kê các loại giấy tờ được coi là GTCG. Giấy tờ có giá là tên
gọi chung của các loại giấy tờ thỏa mãn hai điều kiện: trị giá được thành tiền và được phép
giao dịch.
Nói chung, khái niệm về giấy tờ có giá phải thể hiện được những đặc điểm cơ bản của

nó. Theo tác giả, giấy tờ có giá là chứng chỉ hoặc bút toán ghi sổ xác nhận quyền tài sản của
một chủ thể nhất định xét trong mối quan hệ pháp lý với chủ thể khác, trị giá được bằng tiền
và có thể chuyển giao trong giao dịch dân sự.
1.1.2 Đặc điểm của giấy tờ có giá
Thứ nhất, giấy tờ có giá xác nhận quyền tài sản của một chủ thể xác định.
Giấy tờ có giá là tài sản và bản thân nó là bằng chứng xác nhận quyền tài sản của một
chủ thể xác định. Quyền tài sản của người sở hữu các loại GTCG khác nhau sẽ có đặc điểm,
nội dung và phạm vi khác nhau.
Thứ hai, giấy tờ có giá trị giá được bằng tiền. Nghĩa là có thể hoán đổi GTCG thành
tiền. Đặc điểm này của GTCG thể hiện rõ trong mối quan hệ pháp lý liên quan đến GTCG,
ví dụ quan hệ bảo đảm tiền vay bằng GTCG thì mức cho vay được xác định dựa trên giá trị
của GTCG, mức cho vay không vượt quá giá trị của GTCG. Ngoài ra, có nhiều loại GTCG
còn được coi như tiền, làm phương tiện thanh toán trong thị trường.
Thứ ba, người sở hữu giấy tờ có giá có thể chuyển giao quyền sở hữu giấy tờ có giá cho
chủ thể khác trong giao dịch dân sự.
Pháp luật dân sự coi GTCG là một loại tài sản vì vậy, người sở hữu GTCG được quyền
chuyển nhượng GTCG cho chủ thể khác theo cách phù hợp với quy định của pháp luật. Trừ
một số trường hợp pháp luật quy định một số loại GTCG cụ thể không được chuyển nhượng
hoặc hạn chế chuyển nhượng hoặc do tình trạng pháp lý của GTCG đó tại thời điểm xác lập
giao dịch, GTCG chưa thỏa mãn hết các điều kiện để được chuyển nhượng.
Như vậy, GTCG là một loại tài sản có ba đặc điểm cơ bản (để nhận biết GTCG và để
phân biệt GTCG với các loại giấy tờ khác, cũng như với loại tài sản khác) là xác nhận
quyền tài sản của một chủ thể xác định, trị giá được bằng tiền và có thể chuyển giao quyền
sở hữu cho chủ thể khác trong giao dịch dân sự.
1.1.3 Phân loại giấy tờ có giá và ý nghĩa của việc phân loại
Căn cứ vào các tiêu chí khác nhau, giấy tờ có giá được phân thành các loại khác nhau.
Thứ nhất, căn cứ vào thời hạn của GTCG, GTCG được phân thành GTCG dài hạn và
GTCG ngắn hạn.
Giấy tờ có giá ngắn hạn là GTCG có thời hạn dưới một năm (như kỳ phiếu, tín phiếu).
Giấy tờ có giá dài hạn là GTCG có thời hạn từ một năm trở lên (như trái phiếu).

Thứ hai, căn cứ vào chủ thể phát hành GTCG, các GTCG được chia thành GTCG do
TCTD phát hành và GTCG do các tổ chức khác phát hành.
Thứ ba, dựa vào hình thức của GTCG, GTCG được phân thành GTCG ghi danh (ghi
tên) và GTCG vô danh (không ghi tên).
6
Giấy tờ có giá ghi danh là GTCG phát hành theo hình thức chứng chỉ hoặc ghi sổ có ghi
tên người sở hữu. Giấy tờ có giá vô danh là GTCG phát hành theo hình thức chứng chỉ
không ghi tên người sở hữu.
Thứ tư, căn cứ vào loại công cụ trên thị trường vốn, GTCG được phân thành GTCG
thuộc công cụ nợ và GTCG thuộc công cụ vốn.
Giấy tờ có giá thuộc công cụ nợ là loại GTCG xác nhận nghĩa vụ trả nợ của tổ chức phát
hành đối với người sở hữu GTCG đó. Giấy tờ có giá thuộc công cụ vốn là loại GTCG xác nhận
vốn góp của người sở hữu GTCG tại tổ chức phát hành.
Thứ năm, căn cứ vào sự luân chuyển các nguồn vốn, GTCG được phân thành GTCG sơ
cấp và GTCG thứ cấp.
Giấy tờ có giá sơ cấp là GTCG được mua bán ở thị trường sơ cấp khi người mua mua
GTCG phát hành để bán lần đầu từ tổ chức phát hành, theo đó vốn từ nhà đầu tư sẽ được
chuyển sang tổ chức phát hành. Giấy tờ có giá thứ cấp là GTCG được mua bán ở thị trường
thứ cấp khi GTCG được phát hành ở thị trường sơ cấp đã được mua đi bán lại một hoặc
nhiều lần theo đó nguồn vốn từ nhà đầu tư này sẽ được chuyển sang nhà đầu tư kia.
Cuối cùng, căn cứ vào chức năng thanh toán trên thị trường, GTCG được phân thành
GTCG như tiền và GTCG khác.
Giấy tờ có giá như tiền là GTCG có thể làm phương tiện thanh toán trong các giao dịch
thanh toán. Ngoài GTCG như tiền còn có các giấy tờ có giá khác.
1.2 Khái niệm, đặc điểm, phân loại bảo đảm tiền vay bằng giấy tờ có giá tại tổ chức
tín dụng
1.2.1 Khái niệm bảo đảm tiền vay bằng giấy tờ có giá tại tổ chức tín dụng
Bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự: về mặt khách quan, về mặt chủ quan và theo
phương diện hợp đồng được hiểu theo các nghĩa khác nhau.
Bảo đảm tiền vay theo nghĩa chung nhất là việc TCTD áp dụng các biện pháp nhằm

phòng ngừa rủi ro, tạo cơ sở kinh tế và pháp lý để thu hồi được các khoản nợ đã cho bên
vay.
Bảo đảm tiền vay bằng tài sản là việc bên bảo đảm dùng tài sản thuộc quyền sở hữu của
mình để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ hoàn trả nợ vay của bên vay đối với TCTD.
Bảo đảm tiền vay bằng GTCG là biện pháp bảo đảm tiền vay mà bên bảo đảm dùng tài sản
là GTCG thuộc sở hữu của mình để bảo đảm cho nghĩa vụ trả nợ vay của bên vay với TCTD
thông qua việc ký kết hợp đồng bảo đảm bằng GTCG.
1.2.2. Đặc điểm của bảo đảm tiền vay bằng giấy tờ có giá tại tổ chức tín dụng
Bảo đảm tiền vay có 03 đặc điểm cơ bản.
1.2.2.1 Là biện pháp bảo đảm được thiết lập nhằm bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trả nợ
tiền vay của bên vay vốn đối với bên cho vay là tổ chức tín dụng.
Biện pháp bảo đảm tiền vay bằng GTCG không tồn tại độc lập mà luôn phụ thuộc và
gắn liền với một nghĩa vụ đó là nghĩa vụ trả nợ tiền vay của bên vay vốn đối với bên cho
vay là TCTD. Nghĩa vụ trả nợ tiền vay phát sinh từ hợp đồng chính là hợp đồng vay.
1.2.2.2 Tài sản dùng để bảo đảm tiền vay là giấy tờ có giá
Tài sản bảo đảm trong bảo đảm tiền vay bằng GTCG đã được xác định chính là GTCG.
7
Giấy tờ có giá dùng làm tài sản bảo đảm rất đa dạng như cổ phiếu, trái phiếu, hối phiếu,
kỳ phiếu, séc, giấy tờ có giá khác theo quy định của pháp luật, trị giá được thành tiền và
phải được phép giao dịch.
1.2.2.3 Một bên chủ thể trong giao dịch bảo đảm tiền vay bằng giấy tờ có giá là tổ chức
tín dụng
Trong giao dịch bảo đảm tiền vay bằng GTCG tại TCTD, bên nhận bảo đảm phải là
TCTD. Tổ chức tín dụng luôn được xác định rõ chính là TCTD cho vay.
TCTD là chủ thể đặc biệt do hoạt động của TCTD có độ rủi ro cao, phải tuân thủ các tỷ
lệ và giới hạn để đảm bảo an toàn trong hoạt động chung và hoạt động cho vay có bảo đảm
bằng GTCG.
Ba đặc điểm trên đây của bảo đảm tiền vay bằng GTCG là cơ sở để phân biệt bảo đảm tiền
vay bằng GTCG với bảo đảm tiền vay bằng tài sản khác tại TCTD, với các biện pháp bảo đảm
nghĩa vụ dân sự khác không có sự tham gia của TCTD.

1.2.3 Phân loại bảo đảm tiền vay bằng giấy tờ có giá tại tổ chức tín dụng
Dựa vào khái niệm, đặc điểm của các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự, bảo
đảm tiền vay bằng GTCG gồm có cầm cố GTCG, thế chấp GTCG và ký quỹ bằng GTCG.
Dựa theo quy định tại các văn bản pháp luật về giao dịch bảo đảm và GTCG, bảo đảm
tiền vay bằng GTCG chỉ là cầm cố GTCG.
1.3 Vai trò của bảo đảm tiền vay bằng giấy tờ có giá tại tổ chức tín dụng
Trước hết, bảo đảm tiền vay bằng GTCG góp phần thúc đẩy hoạt động cho vay của
TCTD phát triển vững chắc.
Thứ đến, bảo đảm tiền vay bằng GTCG là "cứu cánh" cho bên vay, là công cụ góp phần
nâng cao trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ trả nợ tiền vay của bên vay, làm động lực thúc
đẩy, tác động bên vay sử dụng vốn vay có hiệu quả.
Ngoài ra, bảo đảm tiền vay bằng GTCG tại TCTD góp phần thúc đẩy đời sống kinh tế
xã hội phát triển ổn định, hỗ trợ và bảo đảm cho quan hệ cho vay được thực hiện thuận lợi.
1.4. Nội dung của pháp luật về bảo đảm tiền vay bằng giấy tờ có giá tại tổ chức tín dụng
1.4.1. Khái quát pháp luật về bảo đảm tiền vay bằng giấy tờ có giá tại tổ chức tín
dụng
Trước những năm 1990, việc phát hành các giấy tờ này vẫn còn là vấn đề mới mẻ đối
với Việt Nam. Từ năm 1990 đến nay, rất nhiều văn bản liên quan đến bảo đảm tiền vay
bằng GTCG tại TCTD được ban hành. Tuy nhiên, pháp luật chưa thiết lập được quy chế
pháp lý chuẩn, đầy đủ và thống nhất cho bảo đảm tiền vay bằng GTCG tại TCTD.
1.4.2. Nội dung của pháp luật về bảo đảm tiền vay bằng giấy tờ có giá tại tổ chức tín
dụng
Nội dung của pháp luật về bảo đảm tiền vay bằng GTCG tại TCTD là tổng hợp các quy định
pháp luật điều chỉnh về bảo đảm tiền vay bằng GTCG tại TCTD.
1.4.2.1. Quy định của pháp luật về loại giấy tờ có giá được dùng làm tài sản bảo đảm
Loại GTCG được dùng làm tài sản bảo đảm được ghi nhận tại nhiều văn bản pháp luật
khác nhau. Nhưng, pháp luật hiện hành chỉ quy định theo hướng liệt kê các loại GTCG
được dùng làm tài sản bảo đảm, bên cạnh quy định về một số GTCG cụ thể không được
dùng làm tài sản bảo đảm tiền vay tại TCTD.
8

Các điều kiện của GTCG được dùng làm tài sản bảo đảm hiện được quy định rất chung,
phải là GTCG được phép giao dịch. Tuy nhiên, theo tác giả một GTCG được dùng làm tài
sản bảo đảm phải thỏa mãn hai điều kiện cơ bản: GTCG thuộc sở hữu hợp pháp của bên bảo
đảm và GTCG được phép tham gia giao dịch bảo đảm.
1.4.2.2. Quy định của pháp luật về trình tự, thủ tục nhận tài sản bảo đảm tiền vay là
giấy tờ có giá
Pháp luật hiện hành chưa có văn bản quy định riêng về trình tự, thủ tục nhận GTCG làm
tài sản bảo đảm tiền vay tại TCTD. Trình tự, thủ tục thực hiện bảo đảm tiền vay bằng
GTCG theo quy định chung của pháp luật về nhận tài sản bảo đảm. Thủ tục công chứng và
đăng ký giao dịch bảo đảm tiền vay bằng GTCG tại TCTD không phải là thủ tục bắt buộc.
Các thủ tục này được thực hiện theo thỏa thuận của các bên trong giao dịch nếu họ thấy cần
thiết.
1.4.2.3. Quy định của pháp luật về hợp đồng bảo đảm tiền vay bằng giấy tờ có giá
Theo BLDS năm 2005, biện pháp cầm cố hay thế chấp khác nhau ở việc bên bảo đảm
có thực hiện chuyển giao tài sản bảo đảm cho bên nhận bảo đảm hay không. Vì vậy, giấy tờ
có giá có thể dùng để cầm cố hoặc thế chấp.
Tuy nhiên, tại các văn bản pháp luật khác lại mặc nhiên xác định GTCG chỉ sử dụng để
cầm cố, phải xác lập hợp đồng cầm cố GTCG. Trên thực tế, các TCTD cũng chỉ xác lập hợp
đồng cầm cố GTCG. Hợp đồng cầm cố GTCG phải được lập thành văn bản, có thể lập thành
văn bản riêng hoặc ghi trong hợp đồng cho vay.
Đối tượng của hợp đồng cầm cố GTCG là loại GTCG cụ thể mà bên cầm cố dùng để
cầm cố, GTCG phải thỏa mãn điều kiện dùng làm tài sản bảo đảm tiền vay tại TCTD.
Theo quy định của pháp luật, các bên chủ thể của hợp đồng cầm cố GTCG tại TCTD
bao gồm bên cầm cố và bên nhận cầm cố. Bên cầm cố là bên vay hoặc là bên thứ ba dùng
GTCG thuộc sở hữu của họ cầm cố tại TCTD. Các bên trong hợp đồng có các quyền, nghĩa
vụ theo thỏa thuận và theo quy định của pháp luật.
1.4.2.4. Quy định của pháp luật về xử lý tài sản bảo đảm là giấy tờ có giá
Xử lý tài sản bảo đảm là GTCG phải thực hiện theo nguyên tắc, phương thức, thời hạn
và các nội dung khác liên quan đến xử lý tài sản bảo đảm phù hợp với quy định chung của
pháp luật. Bên cạnh các quy định chung, việc xử lý GTCG còn được thực hiện theo quy

định riêng về thủ tục thông báo xử lý GTCG và về cách thức xử lý GTCG. Việc xử lý loại
GTCG cụ thể được thực hiện theo quy định của pháp luật về GTCG đó.
1.4.2.5. Quy định của pháp luật về giải quyết tranh chấp liên quan đến bảo đảm tiền
vay bằng giấy tờ có giá
Pháp luật hiện hành không có quy định riêng trong giải quyết tranh chấp về bảo đảm
tiền vay bằng GTCT tại TCTD. Các tranh chấp về bảo đảm tiền vay bằng GTCG tại TCTD
phải tuân theo quy định chung của pháp luật (Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004, Luật Trọng
tài thương mại năm 2010) về thẩm quyền, trình tự, thủ tục tố tụng và pháp luật điều chỉnh
nội dung giao dịch.
Việc làm rõ, "giải quyết" thấu đáo các vấn đề lý luận của pháp luật về bảo đảm tiền vay
bằng GTCG tại TCTD như trên có ý nghĩa là tiền đề, là cơ sở vững chắc cho "công cuộc"
xây dựng, hoàn thiện pháp luật và áp dụng pháp luật về vấn đề này vào thực tiễn.

Chương 2
9
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM TIỀN VAY
BẰNG GIẤY TỜ CÓ GIÁ TẠI TỔ CHỨC TÍN DỤNG Ở VIỆT NAM
Pháp luật và thực trạng áp dụng pháp luật về bảo đảm tiền vay bằng GTCG tại TCTD ở
Việt Nam bên cạnh việc đạt được các kết quả sẽ không tránh khỏi những khó khăn, vướng
mắc. Một số vấn đề thực tiễn của pháp luật và áp dụng pháp luật về bảo đảm tiền vay bằng
GTCG tại TCTD ở Việt Nam sẽ được làm rõ trong chương này.
2.1 Điều kiện, trình tự thủ tục nhận tài sản bảo đảm tiền vay bằng giấy tờ có giá tại tổ
chức tín dụng
2.1.1 Các điều kiện khi tổ chức tín dụng nhận giấy tờ có giá làm tài sản bảo đảm tiền
vay
2.1.1.1 Điều kiện về chủ thể - bên bảo đảm
Thứ nhất, bên bảo đảm phải có đầy đủ năng lực pháp luật, năng lực hành vi dân sự.
Thứ hai, bên bảo đảm phải là tổ chức/cá nhân đó không thuộc trường hợp mà pháp luật
(như Luật Các TCTD) cấm hoặc hạn chế làm bên bảo đảm cho bên vay tại TCTD.
Thứ ba, bên bảo đảm phải là chủ sở hữu hợp pháp GTCG hoặc là ngƣời được ủy

quyền theo quy định của pháp luật thay mặt chủ sở hữu định đoạt GTCG.
Trên thực tế, các TCTD cũng thường đặt ra các điều kiện đối với bên bảo đảm như
được nêu trên đây. Việc xác định bên bảo đảm thỏa mãn điều kiện là chủ sở hữu hợp pháp
GTCG dùng làm tài sản bảo đảm đang gặp khó khăn, vướng mắc, có nhiều quan điểm trái
ngược nhau xuất phát từ việc pháp luật về GTCG và pháp luật về hôn nhân gia đình chưa rõ
ràng, chưa thống nhất trong việc xác định quyền sở hữu GTCG. Tình trạng này chỉ được
"giải quyết" khi các nhà làm luật "tháo gỡ" được nút thắt giữa hai hệ thống pháp luật này.
2.1.1.2. Điều kiện về giấy tờ có giá làm tài sản bảo đảm
Thứ nhất, khi nhận tài sản bảo đảm, các TCTD luôn phải xác định chính xác tài sản
nhận bảo đảm là GTCG.
Các TCTD đều đang xác định GTCG nhận cầm cố theo hướng liệt kê kể tên GTCG
gồm những loại nào, do tổ chức nào phát hành. Do pháp luật hiện hành về GTCG và bảo
đảm tiền vay bằng GTCG chưa có quy định thống nhất về khái niệm, đặc điểm của GTCG
nên rất khó xác định chính xác loại GTCG nhận bảo đảm. Hầu hết các TCTD đều nhầm lẫn
khi cho rằng chứng chỉ tiền gửi, sổ tiết kiệm là một loại GTCG nên xác lập giao dịch cầm
cố chính sổ tiết kiệm, chứng chỉ tiền gửi như nhận cầm cố GTCG.
Thứ hai, tổ chức tín dụng chỉ nhận những GTCG thỏa mãn các điều kiện theo quy định
của pháp luật và theo quy định của TCTD đã đặt ra làm tài sản bảo đảm. Các điều kiện về
giấy tờ có giá nhận cầm cố tựu trung lại bao gồm: điều kiện về chủ thể phát hành GTCG, về
tình trạng sở hữu GTCG và các điều kiện khác về tính nguyên vẹn của GTCG.
Xuất phát từ thực trạng quy định không đầy đủ và thiếu rõ ràng của pháp luật hiện hành về
điều kiện của GTCG dùng làm tài sản bảo đảm. Nên nhằm chắc chắn GTCG nhận bảo đảm
thỏa mãn các điều kiện đã đặt ra, các TCTD áp dụng cách thức khác nhau để thẩm định, kiểm
tra GTCG. Vì vậy, cần có văn bản pháp luật quy định cụ thể về điều kiện của GTCG, cách thức
kiểm tra, thẩm định GTCG dùng làm tài sản bảo đảm, tạo cơ sở pháp lý thống nhất cho
TCTD thực hiện trên thực tế.
2.1.2. Trình tự, thủ tục nhận tài sản bảo đảm là giấy tờ có giá tại tổ chức tín dụng
Trình tự, thủ tục nhận tài sản bảo đảm là GTCG chưa được quy định riêng tại bất kỳ
văn bản pháp luật nào. Trên thực tế, căn cứ vào những quy định của pháp luật về nhận tài
10

sản bảo đảm như BLDS năm 2005, Nghị định số 163, Nghị định số 83, các TCTD đều tự
xây dựng các quy định, hướng dẫn về trình tự, thủ tục nhận tài sản bảo đảm là GTCG. Do
đó, trình tự, thủ tục nhận GTCG làm tài sản bảo đảm của các TCTD thường khác nhau, mỗi
TCTD thực hiện theo "một phách" riêng, gồm nhiều bước khác nhau, kèm theo đó yêu cầu
bên vay, bên bảo đảm cung cấp các loại hồ sơ, tài liệu khác nhau.
2.2. Phạm vi bảo đảm tiền vay bằng giấy tờ có giá
Trong bảo đảm tiền vay bằng GTCG tại TCTD, phạm vi nghĩa vụ được bảo đảm được
xác định thông qua việc định giá GTCG nhận làm tài sản bảo đảm.
Việc định giá GTCG là cơ sở để xác định phạm vi nghĩa vụ mà GTCG "có khả năng"
đảm bảo tức là xác định mức cho vay hợp lý.
Tùy thuộc vào việc đánh giá, nhận định mức độ rủi ro về biến động giá trị của GTCG,
các TCTD đưa ra cách thức xác định và áp dụng các mức cho vay khác nhau so với giá trị
GTCG.
Pháp luật hiện hành không có quy định phương thức, căn cứ định giá GTCG, nên mỗi
TCTD đã tự thực hiện định giá GTCG theo cách của riêng mình. Trên thực tế, cách thức
định giá GTCG mà các TCTD đang áp dụng còn tiềm ẩn nhiều rủi ro, bất cập. Vì vậy, để
tháo gỡ khó khăn cho các TCTD trong việc định giá GTCG, làm cơ sở xác định mức cho
vay hợp lý, pháp luật cần có quy định hướng dẫn cụ thể về vấn đề này.
2.3. Hợp đồng bảo đảm tiền vay bằng giấy tờ có giá tại tổ chức tín dụng
2.3.1. Loại hợp đồng bảo đảm được ký kết
Luật thực định quy định không đồng nhất về loại hợp đồng bảo đảm được ký kết khi
nhận GTCG làm tài sản bảo đảm tiền vay tại TCTD. Nên dẫn đến thực tế, khi nhận GTCG
làm tài sản bảo đảm, các bên chủ thể chỉ xác lập hợp đồng cầm cố chứ không xác lập hợp
đồng thế chấp GTCG. Hợp đồng cầm cố thường được xác lập theo mẫu của TCTD dưới
dạng hợp đồng cầm cố riêng biệt hoặc lập chung với hợp đồng vay.
2.3.2. Đối tượng của hợp đồng bảo đảm
Đối tượng của hợp đồng bảo đảm tiền vay bằng GTCG chính là GTCG mà bên bảo đảm
dùng để bảo đảm tiền vay của bên vay. Khi TCTD xác lập hợp đồng bảo đảm bằng GTCG với
bên bảo đảm, giấy tờ có giá được mô tả rất chi tiết và rõ ràng trong hợp đồng về loại GTCG, số
seri, ký hiệu, mệnh giá, loại tiền, lãi suất, kỳ hạn,... Ngoài ra, TCTD còn yêu cầu bên bảo đảm

cam kết về quyền sở hữu hợp pháp của bên bảo đảm đối với GTCG, về điều kiện được phép
giao dịch của GTCG.
2.3.3. Các bên chủ thể của hợp đồng bảo đảm
Hợp đồng bảo đảm tiền vay bằng GTCG tại TCTD được xác lập dưới dạng hợp đồng
cầm cố, nên các bên chủ thể trong hợp đồng gồm bên cầm cố và bên nhận cầm cố. Nếu bên
bảo đảm là bên thứ ba thì các TCTD thường ký hợp đồng ba bên gồm: bên vay, bên cầm cố
và bên nhận cầm cố.
Bên nhận cầm cố trong hợp đồng cầm cố chính là TCTD cho vay. Bên cầm cố trong
hợp đồng cầm cố là chủ sở hữu hợp pháp GTCG, có thể là cá nhân hoặc tổ chức, thường
chính là bên vay hoặc là bên thứ ba có GTCG đem cầm cố.
Thực tế trong trường hợp bên cầm cố là cá nhân trong thời kỳ hôn nhân mà GTCG chỉ
đứng tên vợ hoặc chồng, TCTD gặp khó khăn trong việc xác định thẩm quyền ký kết hợp
đồng cầm cố GTCG với tư cách của bên cầm cố.
2.3.4. Quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng bảo đảm
11
Quyền, nghĩa vụ của bên cầm cố, bên nhận cầm cố GTCG được xác lập theo thỏa thuận
hợp pháp của các bên và theo quy định của pháp luật.
2.3.4.1 Quyền và nghĩa vụ của bên cầm cố
Hợp đồng cầm cố GTCG tại TCTD thường được xác lập theo mẫu của TCTD. Vì vậy,
trong hợp đồng cầm cố GTCG, nghĩa vụ của bên cầm cố được ghi nhận rất cụ thể. Trong
khi quyền của bên cầm cố lại được quy định "sơ sài", thường chỉ gồm các quyền như được
nhận lại GTCG cầm cố và các giấy tờ liên quan khi đã hoàn thành nghĩa vụ trả nợ, nhận lại
số tiền thừa thu được từ việc xử lý GTCG để thu hồi nợ vay.
2.3.4.2 Quyền và nghĩa vụ của bên nhận cầm cố
Ngược lại với các quyền và nghĩa vụ của bên cầm cố là nghĩa vụ và quyền của bên nhận
cầm cố. Bên nhận cầm cố có các quyền và nghĩa vụ liên quan đến quản lý GTCG, xử lý
GTCG hoặc quyền thu hồi nợ vay khi bên cầm cố thực hiện không đúng, không đầy đủ
nghĩa vụ trả nợ tiền vay. Nghị định số 163 có một số quy định cụ thể về quyền của bên nhận
cầm cố trong việc yêu cầu người phát hành GTCG hoặc Trung tâm Lưu ký chứng khoán
đảm bảo quyền giám sát của bên nhận cầm cố đối với giá trị tài sản ghi trên giấy tờ đó.

2.3.5. Hiệu lực của hợp đồng bảo đảm
Theo quy định của pháp luật hiện hành và trên thực tế áp dụng, việc TCTD nhận bảo
đảm bằng GTCG chỉ được thực hiện theo biện pháp cầm cố, các bên chỉ giao kết hợp đồng
cầm cố GTCG. Chính vì vậy, việc cầm cố GTCG có hiệu lực kể từ thời điểm bên cầm cố
chuyển giao GTCG cho bên nhận cầm cố. Hợp đồng cầm cố GTCG sẽ chấm dứt hiệu lực
theo quy định của pháp luật hiện hành và theo thỏa thuận của các bên.
2.3.6. Công chứng và đăng ký giao dịch bảo đảm
Giao dịch bảo đảm tiền vay bằng GTCG không thuộc trường hợp phải công chứng, đăng ký
giao dịch; các thủ tục này chỉ được thực hiện nếu các bên bảo đảm có thỏa thuận lựa chọn áp
dụng. Các TCTD hầu như không thực hiện thủ tục công chứng, đăng ký giao dịch bảo đảm
GTCG vì pháp luật hiện hành không yêu cầu, ngoài ra, các TCTD cũng luôn hướng tới việc đơn
giản hóa thủ tục thực hiện biện pháp này.
2.4. Chuyển giao và quản lý tài sản bảo đảm là giấy tờ có giá
Bảo đảm tiền vay bằng GTCG theo quy định của pháp luật hiện hành được thực hiện
theo hình thức cầm cố, GTCG cầm cố được chuyển giao cho bên nhận cầm cố là TCTD.
Việc chuyển giao và quản lý tài sản cầm cố là GTCG thực hiện theo quy định chung của
pháp luật về quản lý tài sản cầm cố và quy định riêng đặc thù áp dụng cho tài sản là GTCG.
Pháp luật quy định các quyền và nghĩa vụ chung của bên cầm cố, bên nhận cầm cố và
có một số quy định riêng trong việc chuyển giao và quản lý tài sản bảo đảm là GTCG.
Trên thực tế, khi nhận cầm cố GTCG, TCTD thường yêu cầu bên cầm cố thực hiện các
trình tự, thủ tục và ký kết các giấy tờ pháp lý về chuyển giao và quản lý GTCG hết sức chặt
chẽ. Tùy thuộc vào loại GTCG nhận cầm cố, TCTD thực hiện tiếp nhận và quản lý GTCG
theo phương thức khác nhau.
Pháp luật hiện hành chưa có hướng dẫn quy trình thực và cơ chế phối hợp của các bên
liên quan trong việc chuyển giao và quản lý GTCG cầm cố, điều này dẫn đến TCTD gặp
nhiều khó khăn trong việc quản lý GTCG, ảnh hưởng đến quyền xử lý GTCG để thu hồi nợ
vay. TCTD sẽ thực hiện quản lý, giám sát GTCG cầm cố được thuận lợi, chặt chẽ hơn nếu
như có văn bản pháp luật quy định rõ những vấn đề này.
2.5. Xử lý tài sản bảo đảm là giấy tờ có giá
12

Pháp luật hiện hành quy định rõ các căn cứ để bên bảo đảm thực hiện quyền xử lý tài
sản bảo đảm, các nguyên tắc, phương thức, trình tự thủ tục thu giữ và xử lý tài sản bảo đảm.
Việc xử lý GTCG cụ thể thực hiện theo quy định của pháp luật về GTCG đó.
Thực tế, các bên thường dự liệu các trường hợp xử lý GTCG khi giá trị của GTCG
xuống thấp hơn mức giá trị nhất định do TCTD đã quy định và xử lý GTCG theo yêu cầu
của chính bên bảo đảm để thanh toán nợ vay cho bên vay.
Phương thức xử lý tài sản bảo đảm là GTCG được các TCTD áp dụng khác nhau phù
hợp với từng loại GTCG. Việc TCTD xử lý GTCG bằng cách "bán tháo" GTCG khi giá trị của
GTCG đang trong tình trạng giảm, càng làm cho giá trị của GTCG đi xuống, ảnh hưởng đến
tính thanh khoản của thị trường chứng khoán.
2.6. Tranh chấp và giải quyết tranh chấp về bảo đảm tiền vay bằng giấy tờ có giá
tại tổ chức tín dụng
Tranh chấp về bảo đảm tiền vay bằng GTCG trong thực tế thường phát sinh từ nguyên nhân
do bên bảo đảm có tranh chấp về giao dịch mua bán GTCG với bên bán hay tổ chức phát hành
GTCG; do các TCTD "bán tháo" GTCG để thu hồi nợ;... Một số vụ việc tranh chấp xảy ra trong
thực tế được nêu tại luận văn nhằm làm rõ nguyên nhân và thực trạng tranh chấp về bảo đảm
tiền vay bằng GTCG tại TCTD.
Theo pháp luật hiện hành, thẩm quyền, trình tự, thủ tục tranh chấp về bảo đảm tiền vay
thực hiện theo quy định chung của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004, Luật Trọng tài thương
mại năm 2010.
Mặc dù trên thực tế, tranh chấp về bảo đảm tiền vay bằng GTCG tại các TCTD ở Việt Nam
diễn ra khá nhiều, nhưng hầu như đều được giải quyết thông qua thương lượng, hòa giải, hầu như
không có tranh chấp nào được giải quyết tại Tòa án hay Trọng tài thương mại do cơ chế giải quyết
tranh chấp tại các cơ quan này theo thủ tục chung không phù hợp với quan hệ bảo đảm tiền vay
bằng GTCG và do khả năng thi hành của pháp luật về bảo đảm tiền vay bằng GTCG còn có những
khiếm khuyết, chưa thống nhất.
Bảo đảm tiền vay bằng GTCG nếu được thực hiện theo điều kiện, trình tự thủ tục quá chặt
chẽ hay quá lỏng lẻo đều có những vướng mắc và không cân bằng được lợi ích của các bên chủ
thể. Vì vậy, pháp luật về bảo đảm tiền vay bằng GTCG tại TCTD ở Việt Nam phải có
những quy định phù hợp với thực tiễn, "điều hòa" được lợi ích của các bên trong bảo đảm

tiền vay bằng GTCG tại TCTD.
Chương 3
MỘT SỐ PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN
PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM TIỀN VAY BẰNG GIẤY TỜ CÓ GIÁ
TẠI TỔ CHỨC TÍN DỤNG Ở VIỆT NAM
Pháp luật về bảo đảm tiền vay bằng GTCG tại TCTD ở Việt Nam hiện chỉ là những quy
định chung chung, rải rác, tủn mủn tại nhiều văn bản pháp luật khác nhau nên đã đặt ra các
yêu cầu hoàn thiện pháp luật.
3.1. Các yêu cầu của việc hoàn thiện pháp luật về bảo đảm tiền vay bằng giấy tờ có
giá tại tổ chức tín dụng ở Việt Nam
Các yêu cầu của việc hoàn thiện pháp luật về bảo đảm tiền vay bằng GTCG tại TCTD ở
Việt Nam, tựu trung lại chính là:
- Việc hoàn thiện pháp luật phải dựa trên đặc điểm hình thành, phát triển nền kinh tế thị
trường ở Việt Nam;
13
- Việc hoàn thiện pháp luật phải xuất phát từ chính yêu cầu nội tại của quan hệ bảo đảm
tiền vay bằng GTCG tại TCTD ở Việt Nam;
- Việc hoàn thiện pháp luật phải căn cứ vào yêu cầu về hội nhập kinh tế quốc tế trong
lĩnh vực tài chính ngân hàng của Việt Nam.
Trước hết, về đặc điểm hình thành và phát triển nền kinh tế thị trường Việt Nam
Sự hình thành và phát triển nền kinh tế thị trường ở Việt Nam có những đặc điểm riêng
đòi hỏi sự phù hợp của pháp luật. Vì vậy, việc nắm rõ đặc điểm hình thành và phát triển của
nền kinh tế thị trường Việt Nam có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định phương hướng
hoàn thiện pháp luật.
Hai là, về yêu cầu nội tại của quan hệ bảo đảm tiền vay bằng giấy tờ có giá tại tổ chức
tín dụng ở Việt Nam.
Việc xây dựng, sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện pháp luật về bảo đảm tiền vay bằng
GTCG tại các TCTD ở Việt Nam phải xuất phát từ chính thực tiễn của quan hệ bảo đảm
tiền vay bằng GTCG tại TCTD ở Việt Nam, xuất phát từ yêu cầu bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của các bên chủ thể trong các quan hệ này.

Cuối cùng, về yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế trong lĩnh vực tài chính ngân hàng của
Việt Nam.
Pháp luật phải phải có nhiều quy định được xây dựng trên cơ sở các chuẩn mực pháp lý
quốc tế để phù hợp, tương thích với pháp luật của các nước trong khu vực và trên thế giới
trước yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế trong lĩnh vực tài chính ngân hàng của Việt Nam.
3.2. Phƣơng hƣớng hoàn thiện pháp luật về bảo đảm tiền vay bằng giấy tờ có giá
tại tổ chức tín dụng ở Việt Nam
Dựa trên các yêu cầu hoàn thiện pháp luật, các phương hướng nhằm hoàn thiện pháp
luật về bảo đảm tiền vay bằng GTCG tại các TCTD ở Việt nam là:
Thứ nhất, hoàn thiện pháp luật về bảo đảm tiền vay bằng GTCG tại TCTD ở Việt Nam
nhằm tạo cơ sở pháp lý đầy đủ, đồng bộ, thống nhất cho biện pháp bảo đảm tiền vay bằng
GTCG tại TCTD ở Việt Nam vận hành một cách thuận lợi, an toàn và phù hợp với thực tế.
Thứ hai, hoàn thiện pháp luật về bảo đảm tiền vay bằng GTCG nhằm tạo cơ sở pháp lý
đảm bảo an toàn hoạt động của các TCTD, bảo vệ quyền lợi của bên vay và bên bảo đảm,
nâng cao ý thức của các bên chủ thể trong việc tôn trọng quyền và lợi ích hợp pháp của
nhau.
Thứ ba, hoàn thiện hệ thống pháp luật về bảo đảm tiền vay bằng GTCG tại TCTD cùng
với pháp luật về hình sự, tố tụng dân sự, hành chính và đi đôi với việc thiết lập các cơ chế
hướng dẫn, phối hợp, giám sát, đảm bảo thực thi các quy định về bảo đảm tiền vay bằng
GTCG trên thực tế.
3.3 Một số kiến nghị giải pháp hoàn thiện pháp luật về bảo đảm tiền vay bằng giấy tờ có
giá tại tổ chức tín dụng ở Việt Nam
Các giải pháp được kiến nghị nhằm góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật về bảo đảm
tiền vay bằng GTCG tại các TCTD ở Việt Nam là:
3.3.1. Sửa đổi, bổ sung, ban hành mới các văn bản pháp luật về bảo đảm tiền vay
bằng giấy tờ có giá tại tổ chức tín dụng ở Việt Nam
Thứ nhất, cần xây dựng khái niệm GTCG với tư cách là một loại tài sản trong hệ thống
pháp luật dân sự cũng như các thuộc tính của nó.
14
Cần phải thống nhất pháp luật điều chỉnh về GTCG. Khái niệm và các thuộc tính của

GTCG cần được quy định rõ ràng tại Bộ luật Dân sự trên cơ sở đó các văn bản pháp luật chuyên
ngành khác có cơ sở, căn cứ để viện dẫn khi có quy định liên quan đến GTCG. Khái niệm
GTCG có thể được xây dựng theo hướng: GTCG trong quan hệ pháp luật dân sự được hiểu
là chứng chỉ hoặc bút toán ghi sổ xác nhận quyền tài sản của một chủ thể nhất định xét
trong mối quan hệ pháp lý với chủ thể khác, trị giá được bằng tiền và có thể chuyển giao
trong giao dịch dân sự.
Thứ hai, xác định rõ loại biện pháp bảo đảm mà các bên chủ thể phải áp dụng khi dùng
GTCG làm tài sản bảo đảm.
Phải hoàn thiện pháp luật theo hướng ghi nhận thống nhất loại biện pháp bảo đảm áp
dụng đối với tài sản là GTCG. Giấy tờ có giá sẽ chỉ được dùng làm tài sản thế chấp hay chỉ
dùng để cầm cố hoặc có thể áp dụng một trong hai biện pháp này tùy thuộc lựa chọn của các
bên chủ thể.
Thứ ba, cần có quy định thống nhất giữa pháp luật về hôn nhân gia đình với pháp luật về
GTCG và bảo đảm tiền vay bằng GTCG đối với việc phân định quyền sở hữu GTCG của vợ
chồng trong thời kỳ hôn nhân. Hoặc ít nhất phải có văn bản pháp luật hướng dẫn cách thức xác
định chủ sở hữu GTCG dùng bảo đảm tiền vay.
Thứ tư, cần có quy định cụ thể, rõ ràng về cơ chế và quy trình thực hiện nhận tài sản
bảo đảm là GTCG đặc biệt là loại GTCG đã niêm yết, trong đó xác định rõ các trình tự, thủ
tục nhận GTCG làm tài sản bảo đảm, cách thức định giá GTCG, dự liệu xử lý các trường
hợp GTCG tăng, giảm giá trị,...
Cuối cùng, hoàn thiện các quy định về giải quyết tranh chấp về bảo đảm tiền vay bằng
GTCG tại TCTD ở Việt Nam. Pháp luật phải xây dựng được các chế tài xử lý nghiêm minh
những hành vi vi phạm; xây dựng cơ chế giải quyết tranh chấp về đảm tiền vay bằng GTCG
một cách nhanh chóng, theo trình tự rút gọn.
3.3.2. Xây dựng cơ chế đồng bộ nhằm hỗ trợ, hướng dẫn, quản lý giám sát và bảo
đảm thực hiện trên thực tế bảo đảm tiền vay bằng giấy tờ có giá tại tổ chức tín dụng ở
Việt Nam
Hệ thống pháp luật điều chỉnh liên quan đến biện pháp này phải được thiết lập theo một
thể thống nhất, đồng bộ, tạo nên sức mạnh tổng hợp. Các giải pháp đề xuất cụ thể cho vấn
đề này là:

- Pháp luật nên quy định ràng buộc về cơ chế, trách nhiệm phối hợp thực hiện các vấn
đề liên quan đến bảo đảm tiền vay bằng GTCG tại TCTD ở Việt Nam giữa các chủ thể có
liên quan.
- Tăng cường phối hợp giữa các cơ quan quản lý Nhà nước, cơ quan chức năng như Ủy ban
Chứng khoán Nhà nước, NHNN, … trong việc ban hành văn bản liên ngành hướng dẫn quy
trình phối hợp thực hiện bảo đảm tiền vay bằng GTCG.
- Đưa ra các biện pháp và công cụ tài chính để đảm bảo tính ổn định của thị trường
chứng khoán, tránh tình trạng các TCTD đứng trước thách thức phải "giải chấp" GTCG để
thu hồi nợ.
- Phải có các biện pháp hỗ trợ để TCTD có lộ trình "giải chấp" hoặc ngưng "giải chấp"
GTCG hợp lý khi thị trường chứng khoán bất thường mà vẫn đảm bảo TCTD không gặp
khó khăn trong thanh khoản, không bị NHNN áp dụng kiểm soát đặc biệt.
15
- Ngoài ra, các biện pháp hỗ trợ các bên chủ thể lựa chọn biện pháp thích hợp để xử lý,
"giải chấp" GTCG nhằm thu được giá trị cao nhất từ việc xử lý GTCG.
Pháp luật về bảo đảm tiền vay bằng GTCG tại TCTD ở Việt Nam cần phải được hoàn
thiện và cần có sự "quan tâm" đúng mực. Việc hoàn thiện pháp luật phải xuất phát từ các
yêu cầu cụ thể, phải được thực hiện theo phương hướng thống nhất và trên cơ sở các giải
pháp hoàn thiện rõ ràng, đồng bộ.

KẾT LUẬN
Qua quá trình nghiên cứu các vấn đề lý luận cũng như thực tiễn áp dụng biện pháp bảo
đảm tiền vay bằng GTCG tại các TCTD có thể nhận thấy vai trò rất lớn của biện pháp này
trong hoạt động cho vay của TCTD cũng như trong đời sống xã hội. Đối với TCTD, biện
pháp bảo đảm tiền vay bằng GTCG là một trong những công cụ hỗ trợ cho TCTD bảo toàn
nguồn vốn cho vay, tránh xảy ra các khoản nợ xấu gây ảnh hưởng đến an toàn hoạt động
của TCTD. Còn trong đời sống xã hội, nhờ có biện pháp này nên những người dân, doanh
nghiệp hay tổ chức khác đang cần vốn để đầu tư, phát triển sản xuất kinh doanh hay để cải
thiện, nâng cao đời sống có cơ hội rất lớn để vay vốn từ các TCTD.
Mặc dù vậy, pháp luật hiện hành quy định về bảo đảm tiền vay bằng GTCG tại TCTD

vẫn còn rất nhiều hạn chế. Pháp luật quy định còn chung chung, chưa rõ ràng, nhiều vấn đề
còn bỏ ngỏ tạo ra nhiều cách hiểu và cách áp dụng pháp luật trên thực tế không thống nhất,
nhiều khi không đúng. Chính vì vậy, biện pháp bảo đảm tiền vay bằng GTCG vẫn còn nhiều
hạn chế khi áp dụng vào thực tiễn, dẫn đến việc biện pháp này đã không còn được coi là
biện pháp hữu hiệu, an toàn để các TCTD áp dụng vào hoạt động cho vay của mình. Bảo
đảm tiền vay bằng GTCG ngày càng mất đi vị trí ưu thế so với hàng loạt các biện pháp bảo
đảm bằng các loại tài sản khác như biện pháp thế chấp bất động sản, thế chấp quyền tài
sản… Do đó, hoàn thiện các quy định của pháp luật về bảo đảm tiền vay bằng GTCG là một
đòi hỏi tất yếu và cấp thiết. Tuy nhiên, việc hoàn thiện cả hệ thống pháp luật cồng kềnh
không phải là việc dễ dàng, hay có thể hoàn thành trong ngày một, ngày hai. Việc hoàn
thiện pháp luật đòi hỏi cả một quá trình dài, phải được thực hiện theo những bước, lộ trình
cụ thể kèm theo việc hoàn thiện các thiết chế khác trong đời sống kinh tế - xã hội.
Nhận thức được tầm quan trọng của biện pháp bảo đảm tiền vay bằng GTCG đối với
hoạt động của TCTD và đối với các tổ chức, cá nhân vay vốn trong xã hội, luận văn đã đi
sâu nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực trạng về bảo đảm tiền vay bằng GTCG tại các
TCTD ở Việt Nam. Qua nghiên cứu luận văn có thể khái quát các vấn đề lý luận cơ bản liên
quan đến bảo đảm tiền vay bằng GTCG, cũng như nắm bắt được hệ thống văn bản pháp luật
hiện hành điều chỉnh về bảo đảm tiền vay bằng GTCG, từ đó thấy được những thuận lợi
cũng như các khó khăn, vướng mắc, bất cập khi áp dụng các quy định pháp luật này vào
thực tiễn hoạt động tại các TCTD ở Việt Nam.
Các nội dung trình bày trong luận văn xoáy vào các khía cạnh pháp lý khác nhau của
biện pháp bảo đảm tiền vay bằng GTCG tại các TCTD. Tuy nhiên, trong phạm vi luận văn
này chưa có điều kiện phân tích sâu các khía cạnh pháp lý đã đặt ra, cũng như chưa thể đi
sâu nghiên cứu một cách đầy đủ, chi tiết mọi nội dung liên quan đến đảm bảo tiền vay bằng
GTCG tại TCTD. Luận văn mới chỉ dừng lại ở việc gợi mở một số khía cạnh pháp lý cơ bản
liên quan đến bảo đảm tiền vay bằng GTCG tại các TCTD.
Để lý giải cặn kẽ, thấu đáo các khía cạnh pháp lý về bảo đảm tiền vay bằng GTCG tại
TCTD mà luận văn đã đặt ra cũng như các vấn đề pháp lý khác có liên quan thì cần có sự
16
tham gia nghiên cứu và giải quyết của các chuyên gia tài chính ngân hàng, của các luật gia,

luật sư, của các nhà nghiên cứu khoa học pháp lý... ở các công trình khoa học tiếp theo.

References
1. Bình luận khoa học Bộ luật dân sự Nhật Bản (1995), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
2. Chính phủ (2006), Nghị định số 52/2006/NĐ-CP ngày 19/5 về phát hành trái phiếu
doanh nghiệp, Hà Nội.
3. Chính phủ (2006), Nghị định số 163/2006/NĐ-CP ngày 29/12 về giao dịch bảo đảm,
Hà Nội.
4. Chính phủ (2010), Nghị định số 83/2010/NĐ-CP ngày 23/7 về đăng ký giao dịch bảo
đảm, Hà Nội.
5. Chính phủ (2011), Nghị định số 01/2011/NĐ-CP ngày 05/01 về phát hành trái phiếu
Chính phủ, trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh và trái phiếu chính quyền địa phương,
Hà Nội.
6. "Cho vay cầm cố bằng giấy tờ có giá" (2011), www.agribank.com.vn.
7. "Cho vay cầm cố bằng giấy tờ có giá do tổ chức khác phát hành" (2011),
www.oceanbank.vn.
8. "Cổ đông lớn của Vietabank mang cổ phần đi cầm cố" (2008), www.phapluatvn.vn.
9. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (2001), Quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với
khách hàng (Ban hành kèm theo Quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN ngày 31 tháng
12 năm 2001 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam), Hà Nội.
10. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (2004), Quy chế tiền gửi tiết kiệm (Ban hành kèm theo
Quyết định số 1160/2004/QĐ-NHNN ngày 13 tháng 9 năm 2004 của Thống đốc Ngân
hàng Nhà nước Việt Nam), Hà Nội.
11. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (2004), Quy chế chiết khấu, tái chiết khấu giấy tờ có
giá của tổ chức tín dụng đối với khách hàng (Ban hành kèm theo Quyết định số
1325/2004/QĐ-NHNN ngày 15 tháng 10 năm 2004 của Thống đốc Ngân hàng Nhà
nước Việt Nam), Hà Nội.
12. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (2008), Quy chế phát hành giấy tờ có giá trong nước
của tổ chức tín dụng (Ban hành kèm theo Quyết định số 07/2008/QĐ-NHNN ngày 24
tháng 3 năm 2008 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam), Hà Nội.

17
13. Ngân hàng Thương mại cổ phần Quân đội (MB Bank) (2007), Quy định nghiệp vụ cho
vay bằng cầm cố giấy tờ có giá của MB Bank, Hà Nội.
14. Ngân hàng Thương mại cổ phần Xăng dầu Petrolimex (PG Bank) (2008), Quy định về
sản phẩm cho vay cầm cố giấy tờ có giá của PG Bank, Hà Nội.
15. Ngân hàng Thương mại cổ phần Xăng dầu Petrolimex (PG Bank) (2010), Báo cáo tình
hình cho vay có bảo đảm bằng giấy tờ có giá trong toàn hệ thống ngân hàng, Hà Nội.
16. Ngân hàng Thương mại cổ phần Xăng dầu Petrolimex (PG Bank) (2011), Báo cáo
thống kê tình hình nhận tài sản bảo đảm trong toàn hệ thống ngân hàng, Hà Nội.
17. Nguyễn Văn Phương (2008), "Hoàn thiện pháp luật về bảo đảm tiền vay trong bối cảnh
hội nhập kinh tế quốc tế", Ngân hàng, (11).
18. Quốc hội (2004), Bộ luật Tố tụng dân sự, Hà Nội.
19. Quốc hội (2005), Bộ luật Dân sự, Hà Nội.
20. Quốc hội (2005), Luật Doanh nghiệp, Hà Nội.
21. Quốc hội (2005), Luật Các công cụ chuyển nhượng, Hà Nội.
22. Quốc hội (2006), Luật Chứng khoán, Hà Nội.
23. Quốc hội (2008), Luật Thi hành án dân sự, Hà Nội.
24. Quốc hội (2010), Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Hà Nội.
25. Quốc hội (2010), Luật Các tổ chức tín dụng, Hà Nội.
26. Quốc hội (2010), Luật Chứng khoán (sửa đổi, bổ sung), Hà Nội.
27. Quốc hội (2011), Bộ luật Tố tụng dân sự (sửa đổi, bổ sung), Hà Nội.
28. Lê Văn Tề (2007), Thị trường chứng khoán tại Việt Nam, Nxb Thống kê, Hà Nội.
29. Tòa án nhân dân tối cao (2006), Sổ tay Thẩm phán, Hà Nội.
30. Tòa án nhân dân tối cao (2011), Công văn số 141/TANDTC-KHXX ngày 21/9 về thẩm
quyền giải quyết các yêu cầu trả lại giấy chứng nhận quyền sở hữu tài sản, Hà Nội.
31. Trường Đại học Luật Hà Nội (2005), Giáo trình Luật dân sự Việt Nam, tập 2, Nxb
Công an nhân dân, Hà Nội.
18
32. Nguyễn Văn Tuyến (2008), "Bàn về giao dịch phát hành giấy tờ có giá của tổ chức tín
dụng", Ngân hàng, (9).


×