Tải bản đầy đủ (.doc) (55 trang)

Phạm vi áp dụng thuế thu nhập cá nhân và thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao so sánh dưới góc độ pháp lý

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (264.98 KB, 55 trang )

Khóa luận tốt nghiệp

0

MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU.....................................................................................................1
CHƯƠNG I. KHÁI QUÁT VỀ PHẠM VI ÁP DỤNG CỦA PHÁP LUẬT
THUẾ THU NHẬP ĐỐI VỚI CÁ NHÂN.........................................................3
1. Sự hình thành và phát triển của thuế thu nhập đối với cá nhân trên thế giới
và ở Việt Nam.....................................................................................................3
2. Những vấn đề chung về phạm vi áp dụng trong thuế thu nhập đối với cá
nhân....................................................................................................................6
2.1 Đối tượng nộp thuế...................................................................................6
2.2 Đối tượng chịu thuế..................................................................................7
2.3 Đối tượng miễn thuế và đối tượng không thuộc diện chịu thuế...............9
3. Phạm vi áp dụng trong pháp luật thuế thu nhập đối với cá nhân ở
Việt Nam...........................................................................................................11
CHƯƠNG II. NỘI DUNG CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ PHẠM
VI ÁP DỤNG TRONG LUẬT THUẾ THU NHẬP CÁ NHÂN VÀ PHÁP
LỆNH THUẾ THU NHẬP ĐỐI VỚI NGƯỜI CÓ THU NHẬP CAO DƯỚI
GÓC ĐỘ SO SÁNH..........................................................................................17
1. Đối tượng nộp thuế......................................................................................17
1.1 Điểm tương đồng giữa Luật thuế thu nhập cá nhân và Pháp lệnh thuế thu
nhập đối với người có thu nhập cao về đối tượng nộp thuế ........................18
1.2 Điểm khác biệt giữa Luật thuế thu nhập cá nhân và Pháp lệnh thuế thu
nhập đối với người có thu nhập cao về đối tượng nộp thuế.........................20
2. Đối tượng chịu thuế......................................................................................25
2.1 Điểm tương đồng giữa Luật thuế thu nhập cá nhân và Pháp lệnh thuế thu
nhập đối với người có thu nhập cao về đối tượng chịu thuế........................28
2.2 Điểm khác biệt giữa Luật thuế thu nhập cá nhân và Pháp lệnh thuế thu
nhập đối với người có thu nhập cao về đối tượng chịu thuế........................30


3. Đối tượng được miễn thuế, đối tượng không thuộc diện chịu thuế.............43
3.1 Điểm tương đồng giữa Luật thuế thu nhập cá nhân và Pháp lệnh thuế thu
nhập đối với người có thu nhập cao về đối tượng miễn thuế và đối tượng
không thuộc diện chịu thuế...........................................................................43
3.2 Điểm khác biệt giữa Luật thuế thu nhập cá nhân và Pháp lệnh thuế thu
nhập đối với người có thu nhập cao về đối tượng miễn thuế và đối tượng
không thuộc diện chịu thuế...........................................................................45
KẾT LUẬN........................................................................................................52
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.........................................................53


Khóa luận tốt nghiệp

1

LỜI NÓI ĐẦU
Một nền tài chính quốc gia vững mạnh không phải dựa vào các nguồn thu
bên ngoài, mà phải dựa vào nguồn thu trong nước. Bởi vì, nguồn thu trong nước,
trong đó có thuế mang tính vững chắc, ổn định lâu dài. Nhìn vào đó, người ta có
thể thấy được quốc gia có phát triển vững chắc hay không. Chính vì thế mà vai
trò của thuế ngày càng thể hiện rõ nét trong nguồn thu ngân sách nhà nước,
trong quá trình Nhà nước tổ chức thực hiện “chi ngân sách”, cũng như quá trình
xây dựng, hoàn thiện và phát triển hệ thống pháp luật thuế của Nhà nước. Thuế
đối với thu nhập của cá nhân cũng vậy. Tồn tại được khoảng 18 năm, nó đã và
đang chứng minh được vai trò của mình trong hệ thống thuế Việt Nam. Nhà
nước đã chú ý hơn trong việc hoàn thiện chính sách thuế đối với thu nhập cá
nhân. Từ chỗ là văn bản dưới luật - Pháp lệnh thuế thu nhập đối với người có
thu nhập cao (Pháp lệnh thuế thu nhập cao), đến nay Luật thuế thu nhập cá nhân
đã ra đời (năm 2007). Đây là văn bản luật gây nhiều tranh luận nhất bởi trong
quá trình soạn thảo luôn có các ý kiến, quan điểm khác nhau. Đây cũng là một

công trình có quá trình nghiên cứu xây dựng lâu dài, với nhiều lần giải trình,
chất vấn trước các cơ quan có thẩm quyền. Cuối cùng, nó đã được thông qua vào
tháng 11/2007 từ những cống hiến về công sức, trí tuệ…của các chuyên gia
tham gia xây dựng luật.
Luật thuế thu nhập cá nhân có nhiều điểm mới so với Pháp lệnh thuế thu
nhập cao, đồng thời nó cũng đã khắc phục được những hạn chế của Pháp lệnh
thuế thu nhập cao. Mặc dù Luật thuế thu nhập cá nhân mới chỉ được áp dụng
trong thời gian ngắn, lại đang trong quá trình giãn nộp thuế nhưng nó đã thể hiện
được những ưu điểm của mình so với Pháp lệnh thuế thu nhập cao, đặc biệt là về
phạm vi áp dụng thuế.
Để làm rõ vấn đề trên, em đã chọn đề tài “Phạm vi áp dụng thuế thu
nhập cá nhân và thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao: so sánh dưới
góc độ pháp lý” để làm đề tài khoá luận của mình. Từ đó, làm rõ hơn nội dung


Khóa luận tốt nghiệp

2

phạm vi áp dụng của hai văn bản pháp luật này. Trong quá trình nghiên cứu đề
tài, em đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu như: tư duy biện chứng, duy vật
lịch sử của Chủ nghĩa Mac – Lênin, đặc biệt là phương pháp so sánh cùng với
các phương pháp phân tích, đánh giá, tổng hợp,… để làm rõ các vấn đề trong đề
tài.
Khoá luận được trình bày với kết cấu gồm hai chương ngoài lời nói đầu,
kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, cụ thể là:
Chương I: Khái quát về phạm vi áp dụng của pháp luật thuế thu nhập đối
với cá nhân.
Chương II: Nội dung các quy định của pháp luật về phạm vi áp dụng
trong Luật thuế thu nhập cá nhân và Pháp lệnh thuế thu nhập đối với người có

thu nhập cao dưới góc độ so sánh.


Khóa luận tốt nghiệp

3

CHƯƠNG I. KHÁI QUÁT VỀ PHẠM VI ÁP DỤNG CỦA PHÁP
LUẬT THUẾ THU NHẬP ĐỐI VỚI CÁ NHÂN
1. Sự hình thành và phát triển của thuế thu nhập đối với cá nhân trên thế
giới và ở Việt Nam
Thuế thu nhập cá nhân ra đời đã lâu trong lịch sử thuế khoá và được áp
dụng từ rất sớm ở các nước phát triển. Thuế thu nhập cá nhân được áp dụng đầu
tiên ở Hà Lan vào năm 1797, còn ở Anh vào năm 1799 thuế thu nhập cá nhân
được đưa vào thực hiện như một hình thức thu tạm thời nhằm mục đích trang
trải cho cuộc chiến tranh chống Pháp và được chính thức áp dụng vào năm 1842,
sau đó lan truyền sang các nước khác: Nhật Bản năm 1887, Đức năm 1899, Mỹ
năm 1913, Pháp năm 1914, Liên Xô năm 1922, Trung Quốc năm 1936, Thái Lan
năm 1939, Philipin năm 1945, Hàn quốc năm 1948…Các nước ở Châu Âu đã
gọi thuế thu nhập cá nhân là “Nữ hoàng”, còn các nước ở Châu Á như Nhật Bản
gọi thuế thu nhập cá nhân là “Vua” của các loại thuế [19]. Ngày nay, thuế thu
nhập cá nhân đã được áp dụng ở hơn 180 quốc gia trên thế giới1. Sự ra đời của
thuế thu nhập cá nhân một mặt do nhu cầu tài chính ngày càng tăng của nhà
nước nhằm thực hiện các nhiệm vụ quyền hạn của mình, duy trì hoạt động của
bộ máy nhà nước. Ở các nước phát triển, thuế thu nhập cá nhân chiếm tỷ lệ lớn,
khoảng 30 - 40% tổng thu ngân sách nhà nước, một số nước ASEAN tỷ lệ này
là 12 - 16% [12,tr.13]. Ở Việt Nam trong những năm gần đây cũng đã có kết quả
tăng trưởng thu khá lớn: năm 1991 thu theo chính sách thuế thu nhập đối với
người có thu nhập cao là 62 tỷ đồng, thì đến năm 2002 thu được 2.338 tỷ, năm
2004 thu được 3.521 tỷ, năm 2005 thu được 4.234 tỷ và đến năm 2006 số thu đã

đạt 5.179 tỷ, nhưng tỷ trọng thu cũng mới chỉ đạt khoảng 1,85% tổng thu ngân
sách nhà nước, khoảng 3,6% tổng thu trong nước (không kể thu từ dầu thô)[15].
Tỷ lệ này có xu hướng ngày càng tăng bởi lẽ kinh tế xã hội ngày càng phát triển,
quá trình toàn cầu hoá kinh tế diễn ra nhanh chóng thì nhu cầu trên của Nhà
1

Công ty Luật hợp danh Việt Nam (Vinalaw firm), Ths.Ls Phan Thông Anh chủ biên, Sự cần thiết phải ban hành
luật thuế thu nhập cá nhân, Nxb GTVT 2009


Khóa luận tốt nghiệp

4

nước cho lợi ích chung của xã hội cũng tỷ lệ thuận theo quá trình đó. Thuế thu
nhập cá nhân cũng góp phần bù đắp những khoản chi tiêu này.
Mặt khác, thuế thu nhập cá nhân ra đời cũng nhằm thực hiện chức năng
tái phân phối thu nhập, bảo đảm công bằng xã hội. Nếu như thuế nói chung xuất
hiện trong xã hội loài người khi thoả mãn hai điều kiện cần và đủ là sự ra đời
của nhà nước và thu nhập xã hội, thì thuế thu nhập cá nhân chỉ xuất hiện khi thu
nhập xã hội đạt đến một mức độ tạo nên khoảng cách chênh lệch giữa các cá
nhân với nhau. Thu nhập của cá nhân, tổ chức trong nền kinh tế thị trường bị chi
phối không phải chỉ bởi lao động và vốn mà còn chịu sự tác động lớn bởi công
nghệ. Đăc biệt trong nền kinh tế tri thức ngày nay, thu nhập ngày càng bị tác
động mạnh và dẫn tới một hệ quả tất yếu là sự phân hoá giàu nghèo lớn hơn. Để
giảm bớt khoảng cách này, thuế thu nhập cá nhân - loại thuế trực thu ra đời đã
điều tiết một phần thu nhập của bộ phận dân có thu nhập cao vào ngân sách nhà
nước. Từ đó nhà nước tái phân phối lại thu nhập để bảo đảm công bằng xã hội.
Bên cạnh đó, thuế thu nhập cá nhân ra đời là một công cụ để nhà nước
quản lý, điều tiết các hoạt động kinh tế một phần nào đó cùng với các loại thuế

khác. Thông qua việc đánh thuế thu nhập cá nhân, nhà nước có thể tác động trực
tiếp, định hướng tiêu dùng và đầu tư theo hướng có lợi, thực hiện mục tiêu điều
chỉnh kinh tế cho phù hợp với đường lối, chiến lược của nhà nước đã đề ra.
Ở Việt Nam cũng như các nước khác trên thế giới, pháp luật thuế về thu
nhập của cá nhân cũng bắt nguồn từ một số cơ sở trên. Tuỳ vào từng thời kỳ
khác nhau với các điều kiện kinh tế phát triển hay không phát triển, cũng như
đời sống người dân cao hay thấp mà nhà nước ban hành các sắc thuế phù hợp,
nhằm động viên một phần thu nhập của dân cư trong xã hội bổ sung vào ngân
sách nhà nước.
Ngày 27/12/1990, Chủ tịch nước đã ký lệnh công bố Pháp lệnh thuế thu
nhập đối với người có thu nhập cao và được áp dụng trên thực tế từ ngày
1/4/1991. Thời kỳ này, việc gọi tên là Pháp lệnh thuế thu nhập đối với người có
thu nhập cao là phù hơn tên gọi thuế thu nhập cá nhân, bởi thu nhập của người


Khóa luận tốt nghiệp

5

dân lúc này rất thấp, đến lương của Thủ tướng Chính phủ mới chỉ có 120.000
đồng/tháng [15]. Để phù hợp với tình hình thực tế của từng giai đoạn phát triển
kinh tế - xã hội của đất nước, Pháp lệnh thuế thu nhập cao đã được sửa đổi, bổ
sung 6 lần: lần thứ nhất vào ngày 10/3/1992, lần thứ hai vào ngày 19/5/1994, lần
thứ ba vào ngày 6/2/1997, lần thứ tư vào ngày 30/6/1999, lần thứ năm vào ngày
19/5/2001 và lần thứ sáu là Pháp lệnh thuế thu nhập cao sửa đổi, bổ sung
số14/2004/PL-UBTHQH11 ban hành ngày 24/3/2004 (có hiệu lực từ ngày
1/7/2004) [19]. Việc Pháp lệnh tồn tại khoảng 15 năm mà vẫn không thay đổi
tên gọi, bởi vì thời kỳ này kinh tế nước ta chưa phát triển mạnh, đang trong thời
kỳ chuyển đổi, cùng với việc chịu ảnh hưởng của các cuộc khủng hoảng kinh tế
trên thế giới cũng như trong khu vực. Do đó, đời sống dân cư xét về cùng một

mặt bằng là chưa cao, chưa ổn định, vì vậy Nhà nước mới chỉ động viên thu
nhập của bộ phận dân cư có thu nhập cao hơn mặt bằng chung.
Năm 2007 đánh dấu sự ra đời của Luật Thuế thu nhập cá nhân - văn bản
pháp lý có giá trị cao hơn (có hiệu lực từ ngày 1/1/2009). Luật Thuế thu nhập cá
nhân là một trong những sắc thuế quan trọng nhằm tiến tới công bằng xã hội khi
nó bảo đảm cho mọi người bình đẳng về nghĩa vụ đối với đất nước và tạo điều
kiện cho mọi người tự giác đóng thuế để tăng ngân sách nhà nước, củng cố an
ninh - quốc phòng, tăng cường an ninh xã hội, xây dựng kết cấu hạ tầng, phát
triển kinh tế… Tỷ trọng nguồn thu từ thuế chiếm ngày càng cao trong tổng thu
ngân sách nhà nước (khoảng 90%), nên việc làm cho các tầng lớp nhân dân hiểu
sâu sắc về Luật thuế thu nhập cá nhân, thấy rõ quyền lợi và nghĩa vụ, tự giác
chấp hành pháp luật là vô cùng quan trọng và hết sức cần thiết. Luật thuế thu
nhập cá nhân được thông qua khi mà thị trường đã bắt đầu có dấu hiệu của
những “cơn bão giá” nên các đại biểu Quốc hội rất thận trọng khi đưa ra các ý
kiến của mình cũng như thảo luận các quy định của dự thảo. Luật thuế thu nhập
cá nhân ra đời đã đánh dấu một bước ngoặt trong hệ thống pháp luật thuế, trong
sự phát triển kinh tế đất nước cũng như đời sống của của người dân ngày càng
cao.


Khóa luận tốt nghiệp

6

2. Những vấn đề chung về phạm vi áp dụng trong thuế thu nhập đối với cá
nhân
Thuế thu nhập đối với cá nhân đã và đang ngày càng trở nên phổ biến
hơn. Việc tìm hiểu phạm vi áp dụng trong thuế thu nhập đối với cá nhân là rất
cần thiết. Để tiện cho việc nghiên cứu, các thông tin về đối tượng nộp thuế và
đối tượng chịu thuế của một số nước trên thế giới được tham khảo trong cuốn

Thuế thu nhập cá nhân trên thế giới và định hướng vận dụng và Việt Nam của
TS.Lê Văn Ái và TS.Đỗ Đức Minh, Nxb Tài chính, Hà Nội 2002.
2.1 Đối tượng nộp thuế.
Đối tượng nộp thuế chung của thuế thu nhập cá nhân chính là cá nhân có
thu nhập chịu thuế. Mỗi quốc gia lại có những quy định riêng để xác định đối
tượng nộp thuế cụ thể. Đa số các quốc gia trên thế giới đều quy định đối tượng
nộp thuế dựa trên tiêu chí “cư trú” để xác định đối tượng cư trú và không cư trú.
Ví dụ như: Luật thuế thu nhập cá nhân ở Pháp quy định: đối tượng nộp thuế là
các thể nhân là đối tượng cư trú hoặc không cư trú thuế ở Pháp. Cá nhân được
coi là cư trú thuế ở Pháp phải đáp ứng một trong các điều kiện sau:
- Có hộ gia đình tại Pháp;
- Có thời gian sống chủ yếu tại Pháp từ 183 ngày trở lên;
- Có hoạt động nghề nghiệp hay trung tâm kinh tế ở Pháp.
Cá nhân còn lại được coi là không cư trú thuế tại Pháp.
Luật thuế thu nhập cá nhân ở Trung Quốc ra đời năm 1936 đến nay đã
mang lại cho ngân sách Trung Quốc một khoản thu không nhỏ. Theo đó đối
tượng nộp thuế bao gồm cá nhân cư trú và không cư trú có thu nhập chịu thuế.
Đối tượng cư trú là những người có nhà hoặc chỗ ở cố định tại Trung Quốc và
những người không có nhà hoặc không có chỗ ở cố định tại Trung Quốc nhưng
cư trú tại Trung Quốc 1 năm trở lên. Đối tượng không cư trú là những cá nhân
còn lại. Đối với cá nhân cư trú và không cư trú thì nghĩa vụ nộp thuế của họ là
khác nhau đối với thu nhập phát sinh.


Khóa luận tốt nghiệp

7

Còn ở Nhật Bản, trước đây khi mới ra đời thuế thu nhập cá nhân chỉ được
áp dụng cho nhóm người có thu nhập cao, nhưng theo quy định hiện hành mọi

cá nhân có thu nhập đều là đối tượng phải nộp thuế. Cụ thể, đối tượng nộp thuế
bao gồm những người cư trú (thường xuyên, không thường xuyên) và những
người không cư trú. Trong đó, đối tượng cư trú thường xuyên gồm những người
có nhà ở thường trú tại Nhật Bản và những người cư trú liên tục tại Nhật Bản từ
5 năm trở lên, họ phải nộp thuế trên toàn bộ thu nhập bất kể nguồn gốc thu nhập
từ đâu. Đối tượng cư trú không thường xuyên gồm những người không có ý định
ở lâu dài và thời gian cư trú dưới 5 năm, họ phải nộp thuế thu nhập cá nhân tính
trên toàn bộ thu nhập có nguồn gốc thu nhập từ Nhật Bản và thu nhập có nguồn
gốc thu nhập từ nước ngoài nhưng được chi trả tại Nhật Bản. Đối tượng còn lại
gọi là đối tượng không cư trú, họ chỉ phải nộp thuế đối với thu nhập có nguồn
gốc từ Nhật Bản.
Phải nói rằng khi quy định như vậy sẽ rất thuận lợi cho các quốc gia khi
áp dụng thuế thu nhập cá nhân để xác định nghĩa vụ nộp thuế của cá nhân có thu
nhập chịu thuế phát sinh, vì tiêu chí nhằm xác định là đối tượng cư trú hay
không cư trú là rất rõ ràng, dễ áp dụng trên thực tế mà không có tranh cãi.
2.2 Đối tượng chịu thuế.
Thuế thu nhập cá nhân đánh vào thu nhập thực nhận của các cá nhân.
Hiện chưa có một cách hiểu thống nhất mang tính chất luật định về thu nhập. Ở
mỗi góc độ nghiên cứu, mỗi nhà nghiên cứu lại có cách hiểu theo cách riêng.
JOSEPL E. STIGLITZ đã từng nói “Quan niệm thu nhập về lý thuyết dường
như khá đơn giản song trên thực tế việc xem xét cái gì phải và cái gì là không
phải là thu nhập lại là một vấn đề khó khăn”[2,tr.459].
Theo Từ điển Tiếng Việt năm 2008 của Trung tâm từ điển học VIETLEX,
Nxb Đà Nẵng thì “thu nhập là tổng thể nói chung các khoản thu nhập được
trong một khoảng thời gian nhất định, thường tính theo tháng, năm”. Còn nếu
thu nhập được coi là một động từ thì “thu nhập là thu được, kiếm được tiền bạc,
của cải, vật chất từ một công việc nào đó để chi dung cho cuộc sống”.


Khóa luận tốt nghiệp


8

“Thu nhập” cũng được nhiều nhà kinh tế hoc định nghĩa theo cách riêng
của mình. Trong cuốn Kinh tế học II của PAUL A. SAMUELSON và WILLIAM
D. NORDHAUS thì “thu nhập” là “ phần thu được của một cá nhân hay một nước về tiền lương, tiền lãi cho vay, tiền lãi cổ phần và những khoản thu nhập
khác”[1,tr.699]. Một số nhà nghiên cứu Việt Nam cũng đưa ra quan điểm của
mình như sau: Thu nhập là tổng giá trị tài sản và của cải được biểu hiện dưới
hình thức tiền tệ mà chủ thể nào đó trong nền kinh tế tạo ra và nhận được từ các
nguồn lao động, tài sản hay đầu tư thông qua quá trình phân phối tổng sản phẩm
xã hội và thu nhập quốc dân trong một khoảng thời hạn nhất định [10,tr.9].
Với một số khái niệm trên ta có thể hiểu khái niệm “thu nhập” làm căn cứ
tính thuế như sau: Thu nhập là các khoản thu dưới dạng tiền tệ, hiện vật hoặc
dưới các hình thức lợi ích mang tính chất kinh tế khác nhau mà cá nhân nhận
được hoặc tạo ra thông qua hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, từ lao
động, từ quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản, từ quà biếu…hoặc từ các khoản
thu nhập hợp pháp khác.
Hiện nay thu nhập của cá nhân rất đa dạng, có thể bằng tiền hoặc hiện vật.
Và nếu dựa vào nguồn tạo ra thu nhập thì có thu nhập từ lao động, từ kinh
doanh, từ nhận quà biếu, quà tặng, từ thừa kế… Nó cũng có thể là thu nhập
thường xuyên và thu nhập không thường xuyên nếu dựa vào tần suất phát sinh.
Và cũng có thể là thu nhập phát sinh trong nước và thu nhập phát sinh ở nước
ngoài khi xét nó ở phạm vi lãnh thổ phát sinh.
Ở các quốc gia, các khoản thu nhập chịu thuế được pháp luật quy định
không hoàn toàn giống nhau bởi lẽ: mỗi quốc gia có quyền đánh thuế riêng theo
cách của mình, theo những tiêu chí khác nhau với phạm vi điều tiết rộng hẹp
khác nhau; trình độ, năng lực kiểm soát, quản lý thuế từ thu nhập phát sinh là
khác nhau, không phải nước nào cũng ở trình độ cao cả; và điều kiện kinh tế xã
hội cũng như chính sách phát triển đất nước của từng quốc gia là không giống
nhau, nên nó chi phối phần nào các quy định của pháp luật.



Khóa luận tốt nghiệp

9

Trong hầu hết luật của các quốc gia trên thế giới, thay vì định nghĩa “thu
nhập” là gì thì nó liệt kê những thu nhập của cá nhân phải chịu thuế. Ví dụ:
Trong luật của Hàn Quốc, thu nhập chịu thuế bao gồm:
- Thu nhập từ lao động hay thu nhập từ kinh doanh;
- Thu nhập từ cho thuê bất động sản;
- Thu từ tài sản tạm thời: lợi nhuận, chuyển quyền sở hữu, quyền khai
thác và cho thuê cửa hàng;
- Thu nhập khác từ trúng thưởng xổ số,…;
- Một số thu nhập riêng biệt như: lương hưu, khai thác gỗ…
Còn trong Luật thuế thu nhập cá nhân của Pháp có quy định 8 loại thu
nhập chịu thuế, bao gồm:
- Thu nhập từ lương và các khoản coi như lương;
- Thu nhập từ hoạt động kinh doanh công thương ngiệp;
- Thu nhập từ nông nghiệp: từ các hoạt động trồng trọt, chăn nuôi;
- Thu nhập từ hành nghề độc lập và các dịch vụ tư vấn;
- Thu nhập từ đầu tư chứng khoán;
- Thu nhập từ cho thuê bất động sản;
- Thu nhập từ chuyển nhượng tài sản;
- Thù lao cho người điều hành công ty.
Từ những nước ra đời pháp luật thuế thu nhập cá nhân đầu tiên đến các
nước sau này, đã tạo ra một tiền lệ chung về quy định đối tượng chịu thuế, theo
đó đối tượng chịu thuế đã được liệt kê một cách cụ thể, nhiều ít khác nhau theo ý
chí của nhà làm luật ở mỗi quốc gia.
2.3 Đối tượng miễn thuế và đối tượng không thuộc diện chịu thuế.

Trong quy định pháp luật về thuế thu nhập cá nhân bao giờ cũng quy định
các trường hợp được miễn thuế và các trường hợp không thuộc diện chịu thuế.
Xét về bản chất, hai loại thu nhập là thu nhập được miễn thuế và thu nhập không
thuộc diện chịu thuế là hoàn toàn khác nhau. Thu nhập được miễn thuế là những
khoản thu nhập chịu thuế mà do các tính chất, đặc trưng của nó cũng như điều


Khóa luận tốt nghiệp

10

kiện về kinh tế, xã hội, đời sống nên thu nhập này được miễn, nhưng khi có đủ
điều kiện và cần thiết nhà nước sẽ không cho các thu nhập này được miễn thuế
mà sẽ đưa nó vào diện chịu thuế, chịu sự điều chỉnh của các quy định liên quan
về thu nhập chịu thuế, thuế suất, giảm trừ gia cảnh…và các thủ tục liên quan
khác. Còn thu nhập không thuộc diện chịu thuế thì nó nằm ngoài phạm vi điều
chỉnh của các quy định pháp luật, pháp luật chỉ liệt kê ra để thuận tiện cho việc
áp dụng trên thực tế.
Pháp luật về thuế thu nhập của cá nhân của các nước trên thế giới cũng
quy định về các trường hợp miễn thuế. Ví dụ trong pháp luật của Trung Quốc có
liệt kê các thu nhập sau được miễn thuế:
- Thu nhập từ giải thưởng trong các lĩnh vực như khoa học, giáo dục, công
nghệ, văn hoá, y tế, thể thao, và bảo vệ môi trường được trao bởi cấp chính
quyền nhân dân tỉnh, các bộ và các ban của Hội đồng Nhà nước…, thu nhập từ
giải thưỏng của tổ chức nước ngoài hoặc cơ sở giáo dục quốc tế;
- Lãi từ trái phiếu chính phủ hoặc trái phiếu tài chính do Nhà nướcphát
hành ;
- Trợ cấp và phụ cấp được nhận theo các quy định của Nhà nước;
- Phúc lợi xã hội, trợ cấp lương hưu và tiền cứu tế;
- Bảo hiểm bồi thường thiệt hại;

- Tiền trợ cấp xuất ngũ và tiền trợ cấp mất sức quân nhân;
- Trợ cấp chuyển công tác sang nơi mới, tiền hưu trí, tiền hưu trí cho
những cán bộ cựu chiến binh, phụ cấp sinh hoạt cho các cựu chiến binh về hưu,
cán bộ theo quy định thống nhất của nhà nước;
- Thu nhập của đại diện ngoại giao, và các nhân viên của đại sứ quán và
lãnh sự quán nước ngoài tại Trung Quốc, quyền được miễn thuế như quy định
trong việc áp dụng luật pháp của nhà nước;
- Thu nhập được miễn thuế theo quy định tại các công ước quốc tế tham
gia vào hoặc ký kết thỏa thuận của chính phủ Trung Quốc;


Khóa luận tốt nghiệp

11

- Thu nhập được miễn thuế như chấp thuận của Sở Tài chính của Hội
đồng Nhà nước[18].
Việc quy định các trường hợp miễn thuế và không thuộc diện chịu thuế
cũng nhằm bảo đảm những nguyên tắc quan trọng của pháp luật thuế nói chung
và chính sách thuế thu nhập cá nhân nói riêng. Đó là cân đối lợi ích nhà nước và
lợi ích người nộp thuế vì thuế thu nhập cá nhân là loại thuế trực thu, ảnh hưởng
trực tiếp đến lợi ích cá nhân người nộp thuế. Điều này giống như Bộ trưởng tài
chính của Pháp Colbert đã nói: “Đánh thuế cũng giống như vặt lông ngỗng: anh
muốn vặt được số lông ngỗng tối đa với số tiếng kêu tối thiểu của con
ngỗng”[1,tr.464].
3. Phạm vi áp dụng trong pháp luật thuế thu nhập đối với cá nhân ở Việt
Nam
Pháp luật Việt Nam về thuế thu nhập cá nhân tuy được áp dụng sau các
nước khác trên thế giới nhưng trải qua một quá trình áp dụng nó cũng đã dần
phát triển và hoàn thiện, được áp dụng ngày càng có hiệu quả trong đời sống xã

hội. Từ chỗ là các quy định trong Pháp lệnh, ngày nay các quy phạm pháp luật
thuế thu nhập cá nhân đã được đặt đúng chỗ của mình trong một hình thức pháp
lý cao hơn - luật. Việc Luật thuế thu nhập cá nhân ra đời đã chứng tỏ tầm quan
trọng của thuế thu nhập cá nhân cũng như tạo ra sự bảo đảm thi hành trên thực
tế.
Lần sửa đổi cuối cùng Pháp lệnh thuế thu nhập cao là vào ngày
24/03/2004 và tồn tại cho đến khi Luật thuế thu nhập cá nhân ra đời. Theo quy
định của Pháp lệnh thuế thu nhập cao và các văn bản hướng dẫn liên quan, thì
thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao là loại thuế trực thu, thu vào một số
khoản thu nhập cao, chính đáng của cá nhân nhằm thực hiện chính sách điều tiết
thu nhập giữa các tầng lớp dân cư, góp phần thực hiện công bằng xã hội về thu
nhập và góp phần tăng nguồn thu cho ngân sách nhà nước.


Khóa luận tốt nghiệp

12

Dấu hiệu đặc trưng của phạm vi áp dụng theo các quy định của Pháp lệnh
thuế thu nhập cao được thể hiện ở một số điểm sau:
Thứ nhất: Đối tượng nộp thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao là
các cá nhân không kinh doanh có thu nhập chịu thuế phát sinh. Đó là: công dân
Việt Nam ở trong nước hoặc đi lao động, công tác ở nước ngoài có thu nhập
chịu thuế; cá nhân là người không mang quốc tịch Việt Nam nhưng định cư
không thời hạn tại Việt Nam có thu nhập; người nước ngoài làm việc tại Việt
Nam kể cả người nước ngoài không sinh sống ở Việt Nam nhưng có thu nhập
phát sinh tại Việt Nam (Điều 1- NĐ 147/2004 của Chính Phủ quy định chi tiết
thi hành Pháp lệnh thuế thu nhập cao (NĐ 147)).
Thứ hai: Thu nhập chịu thuế trong thuế thu nhập đối với người có thu
nhập cao là các khoản thu nhập phát sinh từ lao động và các khoản thu nhập

khác không từ kinh doanh của các cá nhân. Bao gồm:
1, Thu nhập thường xuyên dưới các hình thức:
- Các khoản tiền lương, tiền công, kể cả các khoản thu nhập được chi trả
hộ không tính trong tiền lương, tiền công như tiền nhà, điện, nước; các khoản
thu nhập khác do tham gia dự án hiệp hội kinh doanh…; các khoản phụ cấp, các
khoản tiền thưởng;
- Các khoản thu nhập về tiền bản quyền sử dụng sáng chế, nhãn hiệu, tác
phẩm; thu nhập về tiền nhuận bút, thu nhập về dịch vụ khoa học, kỹ thuật; dịch
vụ tin học..;
- Các khoản thu nhập ngoài tiền lương, tiền công do tham gia hoạt động
sản xuất, kinh doanh, dịch vụ không thuộc đối tượng nộp thuế thu nhập doanh
nghiệp.
2, Thu nhập không thường xuyên dưới các hình thức:
- Chuyển giao công nghệ, trừ trường hợp biếu, tặng;
- Trúng thưởng xổ số (Điều 2 - NĐ 147).
Thứ ba: Các khoản thu nhập không thuộc diện chịu thuế, bao gồm:
- Phụ cấp lưu động;


Khóa luận tốt nghiệp

13

- Phụ cấp độc hại, nguy hiểm;
- Phụ cấp chức vụ, phụ cấp trách nhiệm đối với cán bộ công chức;
- Phụ cấp khu vực, phụ cấp thu hút, phụ cấp đặc biệt;
- Phụ cấp thâm niên đối với lực lượng vũ trang, hải quan và cơ yếu;
- Một số khoản phụ cấp khác;
- Tiền công tác phí;
- Các khoản trợ cấp xã hội;

- Tiền bồi thường bảo hiểm;
- Trợ cấp thôi việc, trợ cấp mất việc làm;
- Trợ cấp điều động về cơ sở sản xuất kinh doanh;
- Một số loại tiền thưởng như: tiền thưởng về cải tiến kỹ thuật, sáng chế
phát minh, tiền thưởng kèm theo các danh hiệu được nhà nước phong tặng…
- Thu nhập của hộ kinh doanh cá thể thuộc diện chịu thuế thu nhập doanh
nghiệp;
- Tiền nộp bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế từ tiền lương, tiền công của
người lao động (Điều 4 - NĐ 147).
Thứ tư: Đối tượng được miễn thuế gồm hai trường hợp sau:
- Cá nhân người nộp thuế gặp khó khăn do thiên tai, địch hoạ, tai nạn làm
thiệt hại đến tài sản, thu nhập và đời sống.
- Trong trường hợp đặc biệt, nếu việc nộp thuế của cá nhân làm ảnh
hưởng đến lợi ích kinh tế, chính trị, xã hội của quốc gia (Điều 15 - NĐ 147).
Thứ năm: Các khoản thu nhập tạm thời chưa thu thuế, bao gồm: lãi tiền
gửi ngân hàng, lãi tiền gửi tiết kiệm, lãi mua tín phiếu, trái phiếu, kỳ phiếu, cổ
phiếu; thu nhập từ hoạt động đầu tư chứng khoán, chênh lệch mua bán chứng
khoán (Điều 3 - NĐ 147).
Kinh tế xã hội ngày càng phát triển, thu nhập và đời sống của nhân dân
ngày càng cao, điều đó dẫn đến hệ lụy tất yếu là pháp luật thực định không còn
phù hợp với thực tế, không điều chỉnh được hết các quan hệ xã hội phát sinh
trong thực tế đời sống và đòi hỏi pháp luật phải được sửa đổi, bổ sung hoặc ban


Khóa luận tốt nghiệp

14

hành mới. Pháp lệnh Thuế thu nhập cao cũng vậy, nó được thay thế bằng Luật
Thuế thu nhập cá nhân 2007, có hiệu lực chính thức ngày 01/01/2009. Theo quy

định pháp luật mới thì phạm vi áp dụng của Luật Thuế thu nhập cá nhân có một
số điểm nổi bật sau:
Thứ nhất: Về đối tượng nộp thuế: Là cá nhân cư trú có thu nhập chịu thuế
phát sinh trong và ngoài lãnh thổ Việt Nam và cá nhân không cư trú có thu nhập
chịu thuế phát sinh trong lãnh thổ Việt Nam (Điều 2 - Luật thuế thu nhập cá
nhân).
Thứ hai: Thu nhập chịu thuế thu nhập cá nhân bao gồm 10 loại thu nhập
phân loại theo nguồn gốc phát sinh bao gồm:
- Thu nhập từ kinh doanh;
- Thu nhập từ tiền lương, tiền công;
- Thu nhập từ đầu tư vốn;
- Thu nhập từ chuyển nhượng vốn;
- Thu nhập từ chuyển nhượng bất động sản;
- Thu nhập từ trúng thưởng;
- Thu nhập từ bản quyền;
- Thu nhập từ nhận thừa kế là chứng khoán, phần vốn trong các tổ chức
kinh tế, cơ sở kinh doanh, bất động sản và tài sản khác phải đăng ký sở hữu hoặc
đăng ký sử dụng;
- Thu nhập từ nhận quà tặng và chứng khoán, phần vốn trong các tổ chức
kinh tế, cơ sở kinh doanh, bất động sản và tài sản khác phải đăng ký sở hữu hoặc
đăng ký sử dụng (Điều 3 Luật thuế thu nhập cá nhân).
Thứ ba: Thu nhập được miễn thuế bao gồm 14 loại:
- Thu nhập từ chuyển nhượng bất động sản giữa vợ với chồng; cha đẻ, mẹ
đẻ với con đẻ; cha nuôi, mẹ nuôi với con nuôi; cha chồng, mẹ chồng với con
dâu; cha vợ, mẹ vợ với con rể; ông nội, bà nội với cháu nội; ông ngoại, bà ngoại
với cháu ngoại; anh, chị, em ruột với nhau;


Khóa luận tốt nghiệp


15

- Thu nhập từ chuyển nhượng nhà ở, quyền sử dụng đất ở và tài sản gắn
liền với đất ở của cá nhân trong trường hợp cá nhân chỉ có một nhà ở, đất ở duy
nhất;
- Thu nhập từ giá trị quyền sử dụng đất của cá nhân được nhà nước giao
đất;
- Thu nhập từ nhận thừa kế, quà tặng là bất động sản giữa vợ với chồng,
cha đẻ, mẹ đẻ với con đẻ; cha nuôi, mẹ nuôi với con nuôi; cha chồng, mẹ chồng
với con dâu; cha vợ, mẹ vợ với con rể; ông nội, bà nội với cháu nội; ông ngoại,
bà ngoại với cháu ngoại; anh, chị, em ruột với nhau;
- Thu nhập của hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp, lâm
nghiệp, làm muối, nuôi trồng, đánh bắt thuỷ sản chưa qua chế biến thành các sản
phẩm khác hoặc chỉ qua sơ chế thông thường;
- Thu nhập từ chuyển đổi đất nông nghiệp của hộ gia đình, cá nhân được
Nhà nước giao để sản xuất;
- Thu nhập từ lãi tiền gửi tại tổ chức tín dụng, lãi từ hợp đồng bảo hiểm
nhân thọ;
- Thu nhập từ kiều hối;
- Phần tiền lương làm việc ban đêm, làm thêm giờ được trả cao hơn so với
tiền lương làm việc ban ngày, làm trong giờ theo quy định của pháp luật;
- Tiền lương hưu do Bảo hiểm xã hội chi trả;
- Thu nhập từ học bổng;
- Thu nhập từ bồi thường hợp đồng bảo hiểm nhân thọ, phi nhân thọ, tiền
bồi thường tai nan lao động, khoản bồi thường nhà nước và các khoản bồi
thường khác theo quy định của pháp luật;
- Thu nhập nhận được từ quỹ từ thiện được cơ quan nhà nước có thẩm
quyền cho phép thành lập hoặc công nhận, hoạt động vì mục đích từ thiện, nhân
đạo, không nhằm mục đích lợi nhuận;



Khóa luận tốt nghiệp

16

- Thu nhập nhận được từ nguồn viện trợ nước ngoài vì mục đích từ thiện,
nhân đạo dưới hình thức chính phủ và phi chính phủ được cơ quan nhà nước có
thẩm quyền phê duyệt (Điều 4 Luật thuế thu nhập cá nhân).
Trên đây là một số quy định pháp luật liên quan đến phạm vi áp dụng
pháp luật thuế thu nhập đối với cá nhân của hai văn bản pháp luật là Luật thuế
thu nhập cá nhân và Pháp lệnh thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao. Từ
đó ta sẽ so sánh dưới góc độ pháp lý để tìm ra điểm tương đồng và khác biệt về
phạm vi áp dụng của hai văn bản pháp luật này.


Khóa luận tốt nghiệp

17

CHƯƠNG II. NỘI DUNG CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT
VỀ PHẠM VI ÁP DỤNG TRONG LUẬT THUẾ THU NHẬP
CÁ NHÂN VÀ PHÁP LỆNH THUẾ THU NHẬP ĐỐI VỚI
NGƯỜI CÓ THU NHẬP CAO DƯỚI GÓC ĐỘ SO SÁNH
1. Đối tượng nộp thuế
Như đã nói, thuế thu nhập cá nhân ra đời bắt nguồn từ yêu cầu đảm bảo sự
công bằng trong phân phối thu nhập và nó chỉ xuất hiện khi thu nhập xã hội đạt
đến một mức độ tạo nên khoảng cách chênh lệch về mức sống giữa các cá nhân
với nhau. Trước đây, khi mà nền kinh tế nước ta là nền kinh tế tập trung quan
liêu bao cấp, thu nhập của người dân chưa cao lại khá đồng nhất nên chưa có
thuế thu nhập cá nhân. Sau đó nước ta bước vào công cuộc đổi mới (năm 1986)

với chính sách mở cửa thu hút đầu tư nước ngoài nên số người có thu nhập cao
ngày càng nhiều, chênh lệch về thu nhập giữa các tầng lớp dân cư ngày một biểu
hiện rõ. Đặc biệt trong nền kinh tế thị trường hiện nay ở Việt Nam, các thị
trường tài chính, chứng khoán, bất động sản đang bắt đầu phát triển mạnh mẽ
hơn, giúp các cá nhân có cơ hội đầu tư tạo ra các khoản thu nhập đột biến không
nhỏ. Bên cạnh đó, dòng chảy vốn FDI vào Việt Nam cũng làm gia tăng thu nhập
của nhiều cá nhân. Chính vì vậy, ở mỗi giai đoạn kinh tế mà Nhà nước lại đưa ra
các chính sách về thuế thu nhập đối với cá nhân như thế nào, đối tượng phải nộp
thuế ở đây bao gồm những ai. Do đều là văn bản pháp luật điều chỉnh thu nhập
của cá nhân nên Luật thuế thu nhập cá nhân và Pháp lệnh có một số điểm tương
đồng nhất định và cũng có một số khác biệt do chính sách pháp luật áp dụng
khác nhau ở mỗi thời kỳ.


Khóa luận tốt nghiệp

18

1.1 Điểm tương đồng giữa Luật thuế thu nhập cá nhân và Pháp lệnh thuế
thu nhập đối với người có thu nhập cao về đối tượng nộp thuế .
Mặc dù hai văn bản pháp luật quy định về đối tượng nộp thuế theo tiêu
chí riêng của mình nhưng ta có thể thấy điểm tương đồng ở hai văn bản này như
sau:
Thứ nhất: Đối tượng nộp thuế đều là các cá nhân có thu nhập chịu thuế
phát sinh. Luật thuế thu nhập cá nhân và Pháp lệnh thuế thu nhập cao đều điều
chỉnh thu nhập của cá nhân phát sinh trong kỳ nộp thuế - tức khoảng thời gian
để xác định số tiền thuế phải nộp ngân sách nhà nước theo quy định của pháp
luật về thuế1. Theo đó, trong kỳ nộp thuế nếu cá nhân có thu nhập chịu thuế phát
sinh thì sẽ phải nộp thuế cho nhà nước trên cơ sở đăng ký thuế, khai thuế, nộp
thuế,…theo quy định của pháp luật về quản lý thuế. Và nếu cá nhân thuộc các

trường hợp ưu đãi về thuế, hoàn thuế, miễn thuế, giảm thuế thì sẽ được cơ quan
quản lý thuế thực hiện theo đúng quy định của pháp luật.
Thứ hai: Cả Luật thuế thu nhập cá nhân và Pháp lệnh thuế thu nhập cao
đều lấy tiêu chí “cư trú” để xác định đối tượng nộp thuế.
Theo các quy định của Pháp lệnh thuế thu nhập cao thì tiêu chí “cư trú”
được quy định cho đối tượng nộp thuế là người nước ngoài. Theo đó, “người
nước ngoài được coi là cư trú tại Việt Nam nếu ở tại Việt Nam từ 183 ngày trở
lên tính cho 12 tháng liên tục kể từ khi đến Việt Nam”, còn người nước ngoài
được coi là không cư trú tại Việt Nam “nếu ở tại Việt Nam dưới 183 ngày, kể cả
trường hợp không hiện diện tại Việt Nam nhưng có thu nhập phát sinh tại Việt
Nam”. Còn theo quy định của Luật thuế thu nhập cá nhân thì tiêu chí “cư trú”
được quy định cho cả người Việt Nam và người nước ngoài. Theo đó, chỉ cần
đáp ứng một trong các điều kiện sau thì sẽ được coi là cá nhân cư trú:
- Có mặt tại Việt Nam từ 183 ngày trở lên trở lên tính trong một năm
dương lịch hoặc tính theo 12 tháng liên tục kể từ ngày đầu tiên có mặt tại Việt
Nam;
1

Khoản 4 Điều 5 Luật quản lý thuế 2006


Khóa luận tốt nghiệp

19

- Có nơi ở thường xuyên tại Việt Nam, bao gồm có nơi ở đăng ký thường
trú hoặc có nhà thuê để ở tại Việt Nam theo hợp đồng thuê có thời hạn.
Nếu không đáp ứng đáp ứng một trong hai điều kiện trên sẽ là cá nhân
không cư trú.
Với cách quy định như trên giúp xác định phạm vi thu nhập của cá nhân

phải nộp thuế. Có phải là mọi khoản thu nhập chịu thuế phát sinh kể cả ở Việt
Nam và nước ngoài hay chỉ một phần thu nhập phát sinh tại Việt Nam. Đồng
thời, cũng phần nào giúp cho việc so sánh về phạm vi áp dụng của Luật thuế thu
nhập cá nhân và Pháp lệnh thuế thu nhập cao dễ dàng hơn, thấy rõ được điểm
tương đồng giữa hai văn bản pháp luật này. Việc Pháp lệnh thuế thu nhập cao lấy
tiêu chí “cư trú” để xác định đối tượng nộp thuế chứng tỏ các nhà làm luật đã
tiếp thu phần nào pháp luật thuế thu nhập của các nước khác trên thế giới. Và
đến nay, Luật thuế thu nhập cá nhân lại kế thừa làm cho pháp luật thuế thu nhập
cá nhân của Việt Nam thêm phù hợp với pháp luật thế giới về vần đề này.
Thứ ba: Cả Luật thuế thu nhập cá nhân và Pháp lệnh thuế thu nhập cao
đều điều chỉnh những cá nhân có thu nhập từ tiền lương, tiền công, chuyển giao
công nghệ, trúng thưởng xổ số, trúng thưởng khuyến mại.
Vấn đề đối tượng nộp thuế có liên quan đến đối tượng chịu thuế - thu
nhập chịu thuế. Hai nội dung này có quan hệ mật thiết với nhau, bởi đối tượng
nộp thuế là người tạo ra thu nhập mà thu nhập đó phát sinh thì sẽ phải nộp thuế.
Chính vì vậy, pháp luật đưa thu nhập nào vào diện đánh thuế thì cá nhân có hoạt
động tạo ra thu nhập đó sẽ nằm trong sự điều chỉnh của pháp luật, tức là cá nhân
đó phải nộp thuế; còn nếu thu nhập nào mà pháp luật không đánh thuế thì cá
nhân tạo ra thu nhập sẽ không phải nộp thuế. Tất nhiên, một cá nhân có thể tạo
ra nhiều loại thu nhập khác nhau, chứ không phải một cá nhân chỉ có một loại
thu nhập nên họ có loại thu nhập nào thuộc diện chịu thuế thì sẽ phải nộp thuế
cho loại thu nhập đó.
Việc Luật thuế thu nhập cá nhân và Pháp lệnh thuế thu nhập cao tương
đồng nhau ở điểm này cũng không có gì phải lý giải nhiều. Những thu nhập phổ


Khóa luận tốt nghiệp

20


biến trước đây nay vẫn thấy phù hợp, vẫn thấy cần phải điều chỉnh thì đương
nhiên nó vẫn nằm trong phạm vi điều chỉnh của Luật thuế thu nhập cá nhân.
1.2 Điểm khác biệt giữa Luật thuế thu nhập cá nhân và Pháp lệnh thuế thu
nhập đối với người có thu nhập cao về đối tượng nộp thuế.
Không chỉ có điểm tương đồng mà giữa Luật thuế thu nhập cá nhân và
Pháp lệnh thuế thu nhập cao còn có một số điểm khác biệt liên quan đến đối
tượng nộp thuế, cụ thể như sau:
Thứ nhất: Về tiêu chí để xác định đối tượng nộp thuế. Theo các quy định
của Pháp lệnh thuế thu nhập cao thì ba tiêu chí được sử dụng để xác định đối
tượng nộp thuế là “quốc tịch”, “nơi cư trú” và “lãnh thổ”. Tiêu chí “quốc tịch”
được thể hiện ở quy định “công dân Việt Nam ở trong nước hoặc đi công tác, lao
động ở nước ngoài có thu nhập”. Tiêu chí “nơi cư trú” thể hiện ở quy định “cá
nhân là người không mang quốc tịch Việt Nam nhưng định cư không thời hạn tại
Việt Nam”. Còn tiêu chí “lãnh thổ” chính là quy định “người nước ngoài làm
việc tại Việt Nam kể cả người nước ngoài không sinh sống ở Việt Nam nhưng có
thu nhập phát sinh tại Việt Nam”. Chính việc quy định như vậy làm cho pháp
luật về thuế thu nhập của cá nhân ở Việt Nam phần nào khác với pháp luật của
các nước khác trên thế giới về vấn đề này, bởi họ chỉ áp dụng tiêu chí là “cư trú”
để xác định đối tượng nộp thuế là cá nhân cư trú hay cá nhân không cư trú.
Vấn đề Pháp lệnh thuế thu nhập cao không đồng nhất với pháp luật các
nước (ở góc độ nào đó) cũng cản trở mối quan hệ hợp tác giữa nước ta với các
nước khác, đặc biệt hợp tác về kinh tế mà quan hệ chủ yếu thông qua các cá
nhân trực tiếp. Quan trọng hơn là trong bối cảnh toàn cầu hoá, quá trình hội
nhập kinh tế quốc tế ngày càng diễn ra nhanh chóng và mạnh mẽ, việc thu hút
đầu tư từ nước ngoài vào trong nước đang được ưu tiên hàng đầu của bất kỳ
quốc gia nào trên thế giới nhằm phát triển kinh tế nội địa. Nhiều hàng rào (hàng
rào thuế quan và hàng rào phi thuế quan) đã dần dần được cắt giảm cũng như
xoá bỏ thông qua các điều ước quốc tế đa phương và song phương giữa các quốc



Khóa luận tốt nghiệp

21

gia nhằm thiết lập quan hệ thương mại quốc tế. Việt Nam cũng không tránh khỏi
quy luật này. Chúng ta không nên tạo ra những rào cản một cách không cần
thiết, trong đó có rào cản pháp lý. Chính những quy định của Pháp lệnh phần
nào tạo ra trở ngại trong nền kinh tế thị trường, nó tạo ra tâm lý e ngại cho các
nhà đâu tư khi muốn đầu tư vào Việt Nam, bởi nó liên quan đến trách nhiệm về
thuế mà họ phải gánh chịu. Đó là việc, một khoản thu nhập của nhà đầu tư có
thể phải nộp thuế cho quốc gia nơi thu nhập phát sinh và cho quốc gia mà họ
mang quốc tịch sẽ làm giảm lợi nhuận mà họ thu được, nên có thể họ do dự
trong việc đầu tư vốn ở nước ngoài trong khi họ đang thừa vốn và có ý muốn
đầu tư. Đặc biệt khi mà giữa Việt Nam và nước có nhà đầu tư chưa ký kết hiệp
định tránh đánh thuế hai lần. Điều đó dễ dẫn đến việc đánh thuế trùng - là việc
hai hay nhiều quốc gia đánh một loại thuế trên cùng một khoản thu nhập hay tài
sản chịu thuế của cùng một đối tượng nộp thuế trong cùng một kỳ tính thuế 1.
Việc đánh thuế trùng của các quốc gia xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác
nhau như: do xung đột về quyền đánh thuế, mỗi quốc gia đều áp dụng quyền
đánh thuế của mình theo một hoặc hai hoặc cả ba nguyên tắc là theo quốc tịch,
theo nơi cư trú và theo lãnh thổ; do các nước quy định về cách xác định quốc
tịch, nơi cư trú, nguồn thu nhập cũng khác nhau. Hiện nay, do xu thế quốc tế
hoá đời sống kinh tế - xã hội ngày càng mở rộng, hiện tượng một số đối tượng
nộp thuế có nhiều quốc tịch, nhiều nơi cư trú, nhiều nguồn thu nhập phát sinh
trong và ngoài nước tương đối phổ biến, dẫn đến nhiều trường hợp bị đánh thuế
trùng đối với các loại thuế trực thu. Việc đánh thuế trùng ảnh hưởng đến sự phát
triển kinh tế, xã hội chung ở các quốc gia. Nó là rào cản đối với dòng luân
chuyển hàng hoá, vốn, công nghệ và lao động, cản trở quá trình toàn cầu hoá
kinh tế.
Khác với Pháp lệnh thuế thu nhập cao, Luật thuế thu nhập cá nhân đã quy

định đối tượng nộp thuế dựa trên tiêu chí “cư trú” , được áp dụng thống nhất cho
cả cá nhân là người Việt Nam và người nước ngoài, nghĩa là trên cùng một mặt
1

Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật thuế Việt Nam, NXBCAND, 2008


Khóa luận tốt nghiệp

22

bằng về đối tượng. Từ tiêu chí “cư trú” phân chia làm hai loại đối tượng nộp
thuế là “cá nhân cư trú” và “cá nhân không cư trú”. Điều đó làm cho các quy
định của Luật thuế thu nhập cá nhân chặt chẽ hơn và dễ áp dụng hơn. Theo đó,
đối với đối tượng nộp thuế là cá nhân cư trú thì thu nhập chịu thuế là cả thu nhập
phát sinh trong và ngoài lãnh thổ Việt Nam; đối với đối tượng nộp thuế là cá
nhân không cư trú thì thu nhập chịu thuế là thu nhập phát sinh trong lãnh thổ
Việt Nam.
Bên cạnh đó, việc xác định đối tượng là người cư trú trong Luật thuế thu
nhập cá nhân cũng khác với Pháp lệnh thuế thu nhập cao. Chỉ cần đáp ứng một
trong hai điều kiện tại khoản 2 Điều 2 Luật thuế thu nhập cá nhân là được coi là
cá nhân cư trú. Mặt khác, Luật thuế thu nhập cá nhân cũng quy định khá cụ thể
về thời hạn cư trú tại Việt Nam. Đó là, việc có mặt tại Việt Nam là từ 183 ngày
trở lên tính trong một năm dương lịch hoặc tính theo 12 tháng liên tục kể từ
ngày có mặt tại Việt Nam, chứ không phải là ở tại Việt Nam từ 183 ngày trở lên
tính cho 12 tháng liên tục kể từ khi đến Việt Nam như Pháp lệnh thuế thu nhập
cao quy định. Đây là một quy định khá mềm dẻo của Luật thuế thu nhập cá
nhân. Chính quy định này cũng góp phần bao quát hơn đối tượng nộp thuế, đông
thời khắc phục được hạn chế của quy định cũ.
Xuất phát từ lợi ích của quốc gia mình, với mục tiêu thúc đẩy đầu tư nước

ngoài, tạo cơ sở pháp lý hỗ trợ các nhà đầu tư tham gia vào hoạt động thương
mại, công nghiệp tài chính, cùng cạnh tranh lành mạnh, thực hiện đầu tư vốn,
chuyển giao công nghệ và luân chuyển lao động mà không bị ảnh hưởng do việc
đánh thuế trùng giữa các quốc gia. Việt Nam cũng như các quốc gia khác trên
thế giới đã tìm cách loại bỏ hiện tượng này bằng việc ký kết hiệp định tránh
đánh thuế hai lần để giải quyết các vấn đề đa phương, song phương về thuế. Đến
nay, Việt Nam đã ký kết được hơn 40 hiệp định tránh đánh thuế hai lần
[3,tr.240]. Việc Luật thuế thu nhập cá nhân quy định phù hợp với các nước khác
trên thế giới đã góp phần củng cố thêm hành lang pháp lý của Việt Nam liên
quan đến việc tránh đánh thuế hai lần. Tuy nhiên, việc quy định như trên cũng


Khóa luận tốt nghiệp

23

đặt ra thách thức không nhỏ trong việc quản lý thu nhập phát sinh ngoài lãnh thổ
Việt Nam của cá nhân cư trú, vì nó liên quan đến pháp luật, tập quán của nước
sở tại có thu nhập phát sinh. Nếu quản lý tốt được vấn đề này thì sẽ tránh được
việc thất thu một khoản thu nhất định cho ngân sách nhà nước.
Thứ hai: Về vấn đề phạm vi đối tượng nộp thuế. Rõ ràng, Pháp lệnh thuế
thu nhập cao không bao quát được hết đối tượng nộp thuế, mà chỉ điều chỉnh
những cá nhân có thu nhập từ tiền lương, tiền công, chuyển giao công nghệ,
trúng thưởng xổ số, trúng thưởng khuyến mại. Còn những cá nhân có thu nhập
từ nguồn khác như: thu nhập từ kinh doanh, thu nhập từ nhượng quyền thương
mại, thu nhập từ đầu tư vốn, thu nhập từ chuyển nhượng vốn, chuyển nhượng
bất động sản…thì nằm ngoài phạm vi điều chỉnh của Pháp lệnh thuế thu nhập
cao. Điều đó có nghĩa là những cá nhân có thu nhập trên không phải nộp thuế
khi thu nhập đó phát sinh. Không bao quát đối tượng nộp thuế cũng đồng nghĩa
với việc làm giảm nguồn thu từ thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao

trong ngân sách nhà nước. Đồng thời, nó cũng thể hiện sự không công bằng giữa
các cá nhân là đối tượng phải nộp thuế nhưng lại chịu sự điều chỉnh của những
quy định pháp luật khác nhau, đặc biệt là giữa cá nhân kinh doanh (Luật thuế thu
nhập doanh nghiệp 2003 điều chỉnh) và cá nhân phi kinh doanh ( Pháp lệnh thuế
thu nhập đối với người có thu nhập cao điều chỉnh) và giữa các cá nhân có thu
nhập phát sinh từ những nguồn khác nhau thì có cá nhân phải nộp thuế, có cá
nhân không phải nộp thuế.
Việc ra đời của Luật thuế thu nhập cá nhân cũng một phần do các quy
định trên của Pháp lệnh thuế thu nhập cao không còn phù hợp với thực tế, cần
phải bổ sung mới. Chính vì vậy Luật thuế thu nhập cá nhân đã mở rộng đối
tượng nộp thuế - một điểm mới rất cần thiết và hợp lý. Theo đó, ngoài các đối
tượng nộp thuế như trong Pháp lệnh thuế thu nhập cao, Luật thuế thu nhập cá
nhân còn bổ sung các cá nhân có thu nhập khác vào diện phải nộp thuế thu nhập
cá nhân, cụ thể:


Khóa luận tốt nghiệp

24

- Cá nhân có thu nhập từ kinh doanh, bao gồm: cá nhân có thu nhập từ
hoạt động sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ và cá nhân có thu nhập từ hoạt
động hành nghề độc lập có giấy phép hoặc chứng chỉ hành nghề theo quy định
của pháp luật;
- Cá nhân có thu nhập từ đầu tư vốn;
- Cá nhân có thu nhập từ chuyển nhượng vốn;
- Cá nhân có thu nhập từ chuyển nhượng bất động sản;
- Cá nhân có thu nhập từ trúng thưởng trong các hình thức cá cược, casino
và trúng thưởng trong các trò chơi, cuộc thi có thưởng và các hình thức trúng
thưởng khác;

- Cá nhân có thu nhập từ nhượng quyền thương mại;
- Cá nhân có thu nhập từ nhận thừa kế là chứng khoán, phần vốn trong các
tổ chức kinh tế, cơ sở kinh koanh, bất động sản và tài sản khác phải đăng ký sở
hữu hoặc đăng ký sử dụng;
- Cá nhân có thu nhập từ nhận quà tặng là chứng khoán, phần vốn trong
các tổ chức kinh tế, cơ sở kinh doanh, bất động sản và tài sản khác phải đăng ký
sở hữu hoặc đăng ký sử dụng.
Như vậy, một mặt Luật thuế thu nhập cá nhân đã bao quát rộng hơn đối
tượng nộp thuế so với Pháp lệnh thuế thu nhập cao, đồng thời nó cũng đảm bảo
công bằng hơn cho các đối tượng có nghĩa vụ nộp thuế như nhau. Tuy nhiên, khi
những đối tượng này thuộc sự điều chỉnh của Luật thuế thu nhập cá nhân có thể
gặp một số vấn đề về kỹ thuật đánh thuế, như việc sử dụng hóa đơn, chứng từ,
chi phí khấu trừ,… Nhưng giải quyết được những vấn đề này sẽ là bước tiến
thuận lợi cho việc áp dụng pháp luật thuế lâu dài, cũng như tăng thu cho ngân
sách nhà nước. Vấn đề này Nhà nước cũng đã và đang có những biện pháp kỹ
thuật để giải quyết, đặc biệt là việc ứng dụng công nghệ thông tin vào việc quản
lý thông tin người nộp thuế, cách thức thu thuế.
Với quy định và bổ sung mới như đã phân tích ở trên, Luật thuế thu nhập
cá nhân đã khắc phục được những hạn chế của Pháp lệnh thuế thu nhập cao, làm


×