1
LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Kháng cáo, kháng nghị là một chế định quan trọng trong luật tố tụng hình
sự. Sau khi xét xử sơ thẩm, trong thời hạn luật định, Viện kiểm sát, bị cáo,
những người tham gia tố tụng có quyền và lợi ích pháp lý liên quan đến vụ án và
những người khác theo quy định của pháp luật có quyền kháng cáo, kháng nghị
những bản án hoặc quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp
luật. Đây là cơ sở pháp lý cho Tòa án cấp phúc thẩm xét xử lại vụ án, qua đó kịp
thời phát hiện và khắc phục những sai lầm, thiếu sót của Tòa án cấp dưới cả về
nội dung cũng như hình thức tố tụng, đảm bảo sự công bằng của pháp luật, bảo
vệ lợi ích của Nhà nước, tổ chức xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của công
dân.
Đặc trưng của xét xử hình sự là có thể đưa đến hậu quả bất lợi cho bị cáo,
buộc bị cáo phải chịu hậu quả và các biện pháp tư pháp khác. Vì vậy, Bản án hay
quyết định của Tòa án khi xét xử phải đảm bảo chính xác, đúng người, đúng tội,
đúng pháp luật. Tuy nhiên, không phải trong mọi trường hợp ngay từ đầu phán
quyết của Tòa án đã đảm bảo được yêu cầu này. Do đó, pháp luật quy định việc
xét xử phải được thực hiện ở các cấp khác nhau nhằm đảm bảo giải quyết đúng
đắn vụ án hình sự.
BLTTHS năm 2003 ra đời đã khắc phục được những vướng mắc, thiếu
sót của BLTTHS năm 1988. Tuy nhiên, vẫn còn những điểm chưa đầy đủ, hoàn
thiện trong quy định của pháp luật về kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm cùng
với việc hướng dẫn, giải thích của các cơ quan có thẩm quyền chưa rõ ràng, đầy
đủ dẫn đến trong thực tiễn xét xử của Tòa án các cấp còn nhiều sai phạm. Nhiều
trường hợp các sai phạm của Tòa án cấp dưới không được khắc phục kịp thời,
không bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của người tham gia tố tụng, làm
giảm uy tín của Tòa án và làm cho mục đích của xét xử phúc thẩm không đạt
được.
2
Trong giai đoạn hiện nay, khi Đảng và Nhà nước ta đang tiến hành xây
dựng nhà nước pháp quyền XHCN. Và chúng ta đang đẩy nhanh tiến trình cải
cách tư pháp theo tinh thần Nghị quyết 49/NQ-TW ngày 2/6/2005 của Bộ chính
trị nhằm xây dựng nền tư pháp vững mạnh, dân chủ, công bằng và nghiêm minh
theo hướng ngày càng chú trọng hơn đến lợi ích của cá nhân và chống làm oan
người vô tội. Thì việc nghiên cứu các chế định về kháng cáo, kháng nghị phúc
thẩm có ý nghĩa rất quan trọng.
Từ những ý nghĩa cấp thiết nêu trên, cùng với mong muốn nghiên cứu của
bản thân nên em đã chọn đề tài: “Kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc
thẩm trong tố tụng hình sự Việt Nam” làm đề tài khóa luận tốt nghiệp của
mình.
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu.
Mục đích của việc nghiên cứu đề tài là trên cơ sở lý luận và thực tiễn,
khóa luận đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động
kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm.
Để đạt được mục đích nêu trên, khóa luận phải giải quyết những nhiệm vụ
sau đây:
+ Phân tích khái niệm và ý nghĩa của kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục
phúc thẩm.
+ Làm rõ và đánh giá các quy định của pháp luật tố tụng hiện hành về
kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm.
+ Phân tích, đánh giá thực tiễn thi hành hoạt động kháng cáo, kháng nghị
theo thủ tục phúc thẩm, làm rõ những vướng mắc trong quy định của pháp luật,
những tồn tại trong thực tiễn áp dụng và nguyên nhân của những vướng mắc,
tồn tại đó. Trên cơ sở đó, đề xuất những giải pháp có cơ sở lý luận và thực tiễn
nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện hoạt động kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục
phúc thẩm trên thực tế.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu.
3
Đối tượng nghiên cứu của khóa luận là những vấn đề chung về kháng cáo,
kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm. Quy định của pháp luật TTHS Việt Nam và
luật tố tụng hình sự một số nước trên thế giới về kháng cáo, kháng nghị bản án,
quyết định theo thủ tục phúc thẩm.Thực tiễn thi hành quyền kháng cáo, kháng
nghị theo thủ tục phúc thẩm trong những năm gần đây.
Kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm là một chế định rộng và
phức tạp liên quan đến nhiều chế định khác trong pháp luật tố tụng hình sự. Bởi
vậy, trong phạm vi nghiên cứu của một khóa luận tốt nghiệp, không thể xem xét
và giải quyết mọi vấn đề một cách toàn diện và sâu sắc. Do đó, em chỉ tập trung
trình bày những nội dung cơ bản của kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc
thẩm như: chủ thể, thời hạn, thủ tục, vấn đề thay đổi bổ sung kháng cáo, kháng
nghị… đối với bản án sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật theo thủ tục phúc thẩm
trong BLTTHS năm 2003.
4. Phương pháp nghiên cứu.
Việc nghiên cứu đề tài này được tiến hành trên cơ sở phương pháp luận
Mác-Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật, các quan điểm
của Đảng cộng sản Việt Nam về xây dựng nhà nước pháp quyền, cải cách và
hoàn thiện hệ thống pháp luật. Ngoài ra, tác giả còn sử dụng các phương pháp
nghiên cứu như: phân tích, tổng hợp, phương pháp so sánh, phương pháp lý luận
kết hợp thực tiễn, phương pháp lịch sử.
5. Cơ cấu khóa luận.
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
khóa luận gồm có 3 chương như sau:
Chương 1: Những vấn đề chung về kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục
phúc thẩm
Chương 2: Những quy định của BLTTHS năm 2003 về kháng cáo, kháng
nghị theo thủ tục phúc thẩm.
Chương 3: Thực tiễn thi hành những quy định của BLTTHS năm 2003 về
kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm và một số kiến nghị.
4
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ KHÁNG CÁO, KHÁNG NGHỊ
THEO THỦ TỤC PHÚC THẨM
1.1. Khái niệm kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm
Để đảm bảo sự thận trọng trong việc xét xử, cũng như đảm bảo quyền
được phản đối lại bản án, quyết định của Tòa án của bị cáo và những người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, luật TTHS Việt Nam quy định “nguyên tắc hai
cấp xét xử”. Theo đó, bản án và quyết định sơ thẩm sau khi tuyên án có thể bị
kháng cáo, kháng nghị để xét xử lại một lần nữa. Khi có kháng cáo, kháng nghị
theo thủ tục phúc thẩm, Tòa án cấp trên trực tiếp của Tòa án đã xét xử sơ thẩm
sẽ tiến hành mở phiên tòa phúc thẩm để xét xử lại vụ án về mặt nội dung cũng
như xét lại tính hợp pháp và tính có căn cứ của bản án sơ thẩm. Tòa án cấp phúc
thẩm sau khi xét xử sẽ ra bản án hoặc quyết định cần thiết để giải quyết vụ án,
bản án, quyết định phúc thẩm có hiệu lực pháp luật ngay sau khi tuyên án.
Như vậy, xét xử phúc thẩm là một giai đoạn của TTHS. Trong giai đoạn
này Tòa án cấp trên trực tiếp xét xử lại vụ án hoặc xét lại quyết định sơ thẩm mà
bản án, quyết định sơ thẩm đối với vụ án đó chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng
cáo hoặc kháng nghị nhằm khắc phục những sai lầm của Tòa án cấp dưới, bảo
đảm áp dụng thống nhất pháp luật, bảo vệ lợi ích Nhà nước, quyền và lợi ích
hợp pháp của công dân [10, tr.406].
1.1.1. Khái niệm kháng cáo theo thủ tục phúc thẩm
Theo Từ điển tiếng Việt, “kháng cáo là chống án lên Tòa án cấp trên yêu
cầu xét xử lại” [14, tr.492]. Khái niệm trên chỉ nêu một cách chung chung, cho ta
một khái niệm khái quát và mang tính hình thức mà chưa đề cập đến những vấn
5
đề cơ bản của kháng cáo theo thủ tục phúc thẩm như: chủ thể, đối tượng… Theo
cách định nghĩa này thì khái niệm “kháng cáo” đồng nghĩa với “chống án” mà
trước đây một số người thường dùng. Pháp luật TTHS nước ta hiện nay không
dùng thuật ngữ này mà thống nhất dùng thuật ngữ “kháng cáo”.
Trong khoa học pháp lý hiện nay, còn có những khái niệm khác nhau về
kháng cáo. Trong cuốn “Từ điển giải thích luật học” của Trường Đại học Luật
Hà Nội có đưa ra khái niệm kháng cáo “Người tham gia tố tụng có quyền và lợi
ích trong vụ án yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm xét xử lại bản án hoặc quyết định
sơ thẩm” [11, tr.182]. Khái niệm trên đã nêu được đối tượng, chủ thể, mục đích
của kháng cáo nhưng chưa chỉ rõ được đối tượng là bản án có hiệu lực hay chưa
có hiệu lực pháp luật. Nên định nghĩa này cũng chưa đầy đủ.
Tác giả Đinh Văn Quế trong cuốn “Thủ tục phúc thẩm trong luật tố tụng
hình sự Việt Nam” đã đưa ra khái niệm “Kháng cáo là biểu thị sự bất đồng của
mình đối với bản án hoặc quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm để yêu cầu tòa án
cấp trên xét xử lại” [7, tr.8]. Đây là một khái niệm khá đầy đủ đã nêu được chủ
thể, đối tượng và Tòa án có thẩm quyền xét xử, nhưng chưa chính xác ở điểm
“tòa án cấp trên”. Theo Điều 230 BLTTHS 2003 thì chỉ có “Tòa án cấp trên
trực tiếp” mới có quyền xét xử lại bản án, quyết định theo thủ tục phúc thẩm khi
có kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm. Mặt khác, định nghĩa trên đã
nêu được đối tượng của kháng cáo nhưng chưa chỉ rõ đối tượng của kháng cáo
phúc thẩm.
Kháng cáo “là quyền theo luật định của những người tham gia tố tụng
được đề nghị Tòa án cấp trên trực tiếp xét lại bản án, quyết định của Tòa án
cấp sơ thẩm đang còn trong thời gian kháng cáo” [1, tr.249]. Đây là một khái
niệm khá hợp lý, đã nêu được chủ thể có quyền kháng cáo theo thủ tục phúc
thẩm là những người theo luật định mà không phải là bất cứ người tham gia tố
tụng nào cũng có quyền kháng cáo như: Người bị tạm giữ, người làm chứng...
Ngoài ra, khái niệm này còn nêu được Tòa án có thẩm quyền xét xử, thời hạn
6
kháng cáo. Tuy nhiên, khái niệm trên chưa chỉ rõ được đối tượng của kháng cáo,
và cần phải thay từ “thời gian” bằng từ “thời hạn” thì sẽ mang tính pháp lý hơn.
Nhìn chung, các khái niệm nêu trên đều chưa đưa ra được một khái niệm
chính xác về kháng cáo theo thủ tục phúc thẩm. Theo chúng tôi, để có được khái
niệm đầy đủ và hoàn chỉnh về kháng cáo, chúng ta cần làm rõ những vấn đề sau:
Thứ nhất, đối tượng của kháng cáo theo thủ tục phúc thẩm là các bản án,
quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật. Trong thời hạn
luật định (hoặc ngoài thời hạn luật định nhưng có lý do chính đáng), nếu bản án
hoặc quyết định bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm thì Tòa án cấp
trên của Tòa án đã xét xử sơ thẩm phải xét xử lại bản án theo thủ tục phúc thẩm.
Thứ hai, chủ thể có quyền kháng cáo theo thủ tục phúc thẩm là những
người tham gia tố tụng, nhưng không phải tất cả người tham gia tố tụng đều có
quyền kháng cáo mà chỉ những người được pháp luật quy định cụ thể mới có
quyền kháng cáo. Chủ thể của quyền kháng cáo theo thủ tục phúc thẩm có thể là
những người có quyền và lợi ích liên quan đến vụ án, bản án và quyết định của
Tòa án đã ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của họ. Chủ thể của quyền
kháng cáo còn có thể là những người không có quyền và lợi ích pháp lý liên
quan đến vụ án nhưng họ tham gia tố tụng để bảo vệ quyền lợi cho những người
khác. Đó là người mà họ đại diện hợp pháp hoặc là người họ nhận bào chữa, bảo
vệ quyền lợi trong trường hợp những người này chưa thành niên hoặc có nhược
điểm về thể chất, tâm thần. Do bản án, quyết định của Tòa án có ảnh hưởng trực
tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp của họ hoặc của người mà họ đại diện, bảo
vệ nên pháp luật quy định cho họ quyền kháng cáo theo thủ tục phúc thẩm đối
với bản án, quyết định chưa có hiệu lực pháp luật của Tòa án cấp sơ thẩm, để họ
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
Thứ ba, mục đích của kháng cáo theo thủ tục phúc thẩm là nhằm bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của người tham gia tố tụng. Khi xét xử Tòa án phải
tuân theo pháp luật từ việc đánh giá chứng cứ đến việc đưa ra bản án, quyết
định. Nhưng vì nhiều lý do khác nhau mà bản án có thể không đúng pháp luật,
7
không đảm bảo sự chính xác. Pháp luật quy định quyền kháng cáo phúc thẩm để
Tòa án cấp trên trực tiếp phải xem xét lại bản án, quyết định sơ thẩm chưa có
hiệu lực pháp luật có sai sót, nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người
tham gia tố tụng, tạo cho công dân niềm tin vào sự công minh của pháp luật.
Trong thời hạn kháng cáo, kháng nghị và trong thời gian xét xử phúc thẩm, bản
án sơ thẩm chưa được đưa ra thi hành. Cho nên, khi xét xử phúc thẩm bản án
hoặc quyết định đó còn có thể được sửa theo hướng có lợi cho người tham gia tố
tụng. Mặt khác, nếu họ bị xử oan sai ở giai đoạn sơ thẩm thì sẽ được sửa sai,
minh oan và trả tự do ngay sau khi HĐXX phúc thẩm tuyên án. Hay nếu bị cáo
bị xử quá nhẹ so với hành vi phạm tội của mình thì sẽ phải chịu hình phạt thích
đáng và tương ứng với thiệt hại mà mình gây ra.
Quyền kháng cáo theo thủ tục phúc thẩm còn nhằm để thực hiện “nguyên
tắc hai cấp xét xử”, một nguyên tắc đã có quá trình hình thành lâu dài và mới
được quy định lại trong BLTTHS năm 2003. Theo đó, xét xử sơ thẩm là cấp xét
xử thứ nhất, bản án hoặc quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm sau khi tuyên thì
Viện kiểm sát có quyền kháng nghị, bị cáo và những người tham gia tố tụng
khác có quyền kháng cáo lên Tòa án cấp trên trực tiếp yêu cầu xét xử lại. Phúc
thẩm là cấp xét xử thứ hai. Thực hiện tốt “nguyên tắc hai cấp xét xử” là đảm bảo
nền pháp chế XHCN.
Thứ tư, quyền kháng cáo theo thủ tục phúc thẩm của những người tham
gia tố tụng phải được thể hiện dưới hình thức nhất định và theo thời hạn được
quy định trong luật TTHS mới được coi là hợp pháp. Thời hạn kháng cáo được
quy định chung cho tất cả các chủ thể có quyền kháng cáo nhưng cách tính thời
điểm bắt đầu khác nhau.
Từ những điểm đã phân tích ở trên, có thể đưa ra khái niệm kháng cáo
theo thủ tục phúc thẩm như sau: “Kháng cáo là quyền của một số người tham
gia tố tụng theo quy định của pháp luật được yêu cầu Tòa án cấp trên trực
tiếp xét lại bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật trong thời
hạn và theo thủ tục luật định nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp họ”.
8
1.1.2. Khái niệm kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm
Tại Điều 19 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002 quy định “khi
thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử các vụ án hình sự, Viện kiểm sát
nhân dân có quyền kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm
các bản án, quyết định của Tòa án nhân dân theo quy định của pháp luật”. Như
vậy, “kháng nghị” không chỉ là cơ sở làm phát sinh thủ tục phúc thẩm mà còn là
căn cứ làm phát sinh thủ tục giám đốc thẩm và tái thẩm. Kháng nghị là hoạt
động trọng tâm thể hiện chức năng của Viện kiểm sát nhưng hiện nay lại chưa có
một khái niệm nào về kháng nghị được quy định trong các văn bản pháp luật tố
tụng hình sự mà mới chỉ có những định nghĩa mang tính khoa học.
Từ điển Luật học nêu định nghĩa về kháng nghị nói chung trong đó có
kháng nghị phúc thẩm như sau: kháng nghị là việc người có thẩm quyền bằng
văn bản của mình gửi đến Tòa án có thẩm quyền làm ngưng hiệu lực phán quyết
của Tòa án trong bản án, quyết định để xét xử theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc
thẩm hoặc tái thẩm nhằm làm cho vụ án được chính xác, khách quan và đúng
pháp luật [1, tr.249]. Cách định nghĩa này rất khái quát, đã nêu được chủ thể, đối
tượng, thủ tục nhưng còn thiếu sót. Như trong thời gian kháng nghị phúc thẩm,
bản án hoặc quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật. Vì vậy, kháng nghị
không thể làm “ngưng” hiệu lực của bản án, quyết định sơ thẩm (Điều 240
BLTTHS năm 2003). Ngoài ra, khái niệm chưa nêu được chủ thể của quyền
kháng nghị là Viện kiểm sát.
Theo “Từ điển giải thích Luật học” của Trường đại học Luật Hà Nội thì
kháng nghị là việc “người có thẩm quyền yêu cầu Tòa án xét lại bản án, quyết
định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật theo thủ tục phúc thẩm” [11, tr.183].
Khái niệm trên đã nêu được đối tượng, chủ thể nhưng chưa nêu rõ chủ thể nào
có quyền kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm, chủ thể nào có quyền xét kháng
nghị.
Theo tác giả Đinh Văn Quế thì “kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm là một
văn bản do Viện kiểm sát ban hành yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm xét xử lại vụ
9
án mà Tòa án cấp sơ thẩm cùng cấp hoặc cấp dưới trực tiếp đã xét xử nhưng xét
thấy không đúng pháp luật” [7, tr.40]. Định nghĩa đã nêu được hình thức, thẩm
quyền, chủ thể của kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm. Nhưng tác giả chỉ mới đi
sâu vào hình thức, mà chưa nêu được bản chất của kháng nghị theo thủ tục phúc
thẩm là nhằm sửa chữa những sai lầm của Tòa án cấp sơ thẩm sao cho đúng.
Mặt khác, Viện kiểm sát có quyền kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm cả trong
trường hợp bản án hoặc quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm thiếu căn cứ, không
phản ánh đúng sự thật khách quan chứ không chỉ có quyền kháng nghị duy nhất
đối với bản án, quyết định “không đúng pháp luật”.
Còn có rất nhiều tác giả đưa ra những khái niệm khác nhau về kháng nghị
theo thủ tục phúc thẩm, nhưng theo chúng tôi cách định nghĩa theo Giáo trình
Công tác kiểm sát là hợp lý và khoa học “kháng nghị phúc thẩm là một trong
những quyền của Viện kiểm sát được thể hiện bằng một văn bản pháp lý thể hiện
quan điểm không thống nhất với bản án, quyết định chưa có hiệu lực pháp luật
của Tòa án cấp sơ thẩm vì xét xử thiếu căn cứ, không hợp pháp và yêu cầu Tòa
án cấp phúc thẩm xét xử lại vụ án đó đúng pháp luật” [12, tr.88]. Định nghĩa
trên đã nêu được một cách cơ bản các nội dung của kháng nghị như chủ thể,
thẩm quyền, đối tượng, hình thức. Tuy không phải là khái niệm pháp lý được ghi
nhận trong các văn bản pháp lý nhưng đây là một khái niệm khá chính xác và
khoa học.
Phân tích những khái niệm nêu trên, chúng tôi thấy rằng khái niệm kháng
nghị theo thủ tục phúc thẩm phải nêu được một số vấn đề như sau:
Thứ nhất, về chủ thể của kháng nghị là VKSND, ở đây là Viện kiểm sát
cùng cấp và Viện Kiểm sát cấp trên trực tiếp của Tòa án đã xét xử sơ thẩm. Chủ
thể của quyền kháng nghị phúc thẩm khác với quyền kháng nghị giám đốc thẩm,
tái thẩm. Viện kiểm sát cùng cấp hoặc Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp có quyền
kháng nghị phúc thẩm. Còn kháng nghị giám đốc thẩm và tái thẩm chỉ dành cho
Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp (từ cấp tỉnh trở lên) và một số chủ thể khác.
10
Thứ hai, đối tượng kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm cũng là bản án
quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật. Bản án, quyết định khi đã có
hiệu lực pháp luật thì không phải là đối tượng kháng cáo, kháng nghị theo thủ
tục phúc thẩm mà là đối tượng của kháng nghị giám đốc thẩm hoặc tái thẩm.
Thứ ba, pháp luật quy định cho Viện kiểm sát quyền đồng thời là nhiệm
vụ kháng nghị phúc thẩm nhằm mục đích để Viện kiểm sát thực hiện chức năng
kiểm sát việc xét xử và thực hành quyền công tố, đảm bảo vụ án được giải quyết
đúng đắn, khách quan và công bằng. Chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp
luật đảm bảo cho hoạt động tố tụng hợp pháp, khách quan, đầy đủ, tương hỗ cho
chức năng thực hành quyền công tố làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ án,
xử lý đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Quy định quyền kháng cáo, kháng
nghị theo phúc thẩm còn nhằm mục đích sửa chữa và khắc phục những sai lầm
của Tòa án cấp sơ thẩm. Đây là điều mà những người thực hiện quyền kháng
cáo, Viện kiểm sát thực hiện quyền kháng nghị và chính Tòa án các cấp hướng
tới.
Thứ tư, thời hạn kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm được quy định khác
nhau cho hai chủ thể có quyền kháng nghị. Điều này khác với kháng nghị giám
đốc thẩm và tái thẩm, thời hạn được quy định giống nhau cho tất cả các chủ thể
thực hiện quyền kháng nghị. Thời hạn kháng nghị cũng được quy định khác với
thời hạn kháng cáo, thời hạn kháng cáo được quy định chung cho tất cả các chủ
thể có quyền kháng cáo.
Thứ năm, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm phải được thể hiện theo hình
thức luật định, Viện kiểm sát khi ban hành kháng nghị phải thể hiện dưới dạng
văn bản. Điều này khác với kháng cáo theo thủ tục phúc thẩm, người có quyền
kháng cáo có thể kháng cáo thông qua văn bản (đơn kháng cáo) hoặc trình bày
trực tiếp bằng miệng.
Từ những vấn đề đã trình bày ở trên, chúng tôi thấy rằng khái niệm kháng
nghị theo thủ rục phúc thẩm cần phải bao hàm các nội dung sau: “Kháng nghị
phúc thẩm là quyền của Viện kiểm sát nhân dân được thể hiện bằng một văn
11
bản pháp lý, yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm xét xử lại bản án hoặc quyết định
chưa có hiệu lực pháp luật của Tòa án cấp sơ thẩm do xét xử thiếu căn cứ,
không hợp pháp nhằm đảm bảo vụ án được giải quyết đúng đắn, khách quan
và công bằng ”.
Nói tóm lại, kháng cáo kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm đều thể hiện sự
bất đồng quan điểm của các chủ thể theo quy định của pháp luật với bản án,
quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm. Chỉ khi có kháng cáo, kháng nghị Tòa án
cấp trên trực tiếp mới xét xử lại vụ án theo thủ tục phúc thẩm. Khi có kháng cáo,
kháng nghị hợp pháp việc xét xử là bắt buộc để kiểm tra lại tính hợp pháp và
tính có căn cứ của bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật, đồng
thời cũng xét xử lại nội dung vụ án. Vì vậy, kháng cáo kháng nghị theo thủ tục
phúc thẩm là phù hợp với “nguyên tắc hai cấp xét xử” và đảm bảo cho nền pháp
chế XHCN.
1.2. Ý nghĩa của kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm
1.2.1. Ý nghĩa chính trị
Việc quy định và thực hiện chế định kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm
trong TTHS có ý nghĩa quan trọng trong việc đáp ứng các yêu cầu của Nhà
nước pháp quyền XHCN. Quy định quyền kháng cáo cho bị cáo và những người
tham gia tố tụng liên quan là Nhà nước đã tạo điều kiện cho họ tự mình đứng ra
bảo vệ các quyền và lợi ích chính đáng của công dân. Quyền kháng cáo của bị
cáo và người đại diện hợp pháp của họ là một trong những cách thức để thực
hiện quyền bào chữa của bị cáo. Kháng cáo là cơ sở pháp lý để Tòa án cấp trên
mở phiên tòa phúc thẩm, qua đó bị cáo có thể trình bày thêm những chứng cứ
hay thông tin liên quan để Tòa án cấp phúc thẩm xem xét và quyết định. Thông
qua kháng cáo, họ thể hiện sự bất đồng và những quan điểm của mình về việc
giải quyết vụ án ở cấp sơ thẩm, đồng thời đề đạt những nguyện vọng, yêu cầu
của mình đối với Tòa án cấp phúc thẩm, qua đó bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của mình, đảm bảo sự dân chủ.
12
Trong trường hợp kháng cáo hợp lệ thì Tòa án cấp phúc thẩm phải mở
phiên tòa phúc thẩm để xem xét, giải quyết kháng cáo đó. Tòa án là cơ quan
được Nhà nước trao quyền xét xử. Chính vì vậy, việc Tòa án cấp phúc thẩm xét
xử lại bản án, quyết định bị kháng cáo, kháng nghị đã thể hiện mối quan hệ qua
lại giữa nhà nước và công dân, đáp ứng yêu cầu của Nhà nước pháp quyền.
Mặt khác, kháng nghị phúc thẩm là một hình thức pháp lý quan trọng để
Viện kiểm sát thực hiện chức năng kiểm sát việc xét xử và thực hành quyền
công tố. Khi bản án chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị, Tòa án
phúc thẩm sẽ tiến hành nhiều biện pháp nhằm làm sáng tỏ nội dung kháng cáo,
kháng nghị, xem xét những vấn đề khác có liên quan, đồng thời chuẩn bị các
điều kiện cần thiết khác để đưa vụ án ra xét xử. Trong toàn bộ quá trình này,
Viện kiểm sát có nhiệm vụ kiểm sát việc tuân theo pháp luật đối với tất cả các
hoạt động tố tụng của HĐXX và những người tham gia tố tụng khác tại phiên
tòa phúc thẩm. Hoạt động này của Viện kiểm sát cũng là một nhân tố bảo đảm
cho hoạt động thực hành quyền công tố của Kiểm sát viên tại phiên tòa (như
tham gia xét hỏi, phát biểu quan điểm của Viện kiểm sát, tranh luận, đối đáp, đề
nghị HĐXX chấp nhận hay không chấp nhận kháng cáo, kháng nghị) đạt hiệu
quả cao. Kiểm sát viên theo dõi chặt chẽ diễn biến phiên tòa, kịp thời phát hiện
những sai lầm thiếu sót của HĐXX trong quá trình giải quyết vụ án để yêu cầu
khắc phục ngay, đảm bảo vụ án được giải quyết đúng đắn, khách quan, công
bằng và đúng pháp luật, đảm bảo nguyên tắc pháp chế và đảm bảo tính tối
thượng của pháp luật.
Khi các chủ thể thực hiện quyền kháng cáo, kháng nghị của mình đồng
nghĩa với việc họ đã giúp Tòa án cấp trên biết những sai lầm, thiếu sót của Tòa
án cấp dưới để có sự chỉ đạo, hướng dẫn, kịp thời khắc phục những sai phạm và
rút kinh nghiệm cho công tác xét xử, đảm bảo cho việc áp dụng pháp luật thống
nhất của Tòa án các cấp. Từ nội dung kháng cáo, kháng nghị các cơ quan bảo vệ
pháp luật sẽ thấy những vướng mắc trong quy định của pháp luật, từ đó có kiến
nghị sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện hệ thống pháp luật.
13
1.2.2. Ý nghĩa pháp lý
Việc quy định và thực hiện chế định kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm là
cơ sở pháp lý làm phát sinh thủ tục phúc thẩm. Khi có kháng cáo, kháng nghị
phúc thẩm Tòa án cấp trên trực tiếp của Tòa án đã xét xử sơ thẩm sẽ tiến hành
mở phiên tòa phúc thẩm xét xử lại vụ án về nội dung cũng như xét lại tính hợp
pháp của bản án. Tòa án cấp phúc thẩm khi xét lại bản án, quyết định sơ thẩm
chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị và trong quá trình xét xử lại
vụ án có khả năng phát hiện những sai lầm, thiếu sót trong việc xét xử sơ thẩm
và sửa chữa những sai lầm, thiếu sót đó một cách trực tiếp hoặc gián tiếp. Qua
đó, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức
và công dân. Mặt khác, thông qua việc sửa chữa sai lầm của Tòa án cấp dưới,
Tòa án cấp phúc thẩm hướng dẫn Tòa án cấp dưới giải thích và vận dụng đúng
pháp luật.
Chế định kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm còn có ý nghĩa quan trọng đảm
bảo thực hiện một số nguyên tắc cơ bản của luật TTHS như nguyên tắc “thực
hiện chế độ hai cấp xét xử”, nguyên tắc “thực hành quyền công tố và kiểm sát
việc tuân theo pháp luật trong TTHS”… đây là những nguyên tắc thể hiện thái
độ thận trọng của Nhà nước trong việc đưa ra phán xét về số phận pháp lý, sinh
mạng và quyền lợi của người đã thực hiện hành vi vi phạm pháp luật hình sự .
Đồng thời, thể hiện rõ ràng nhất bản chất của Nhà nước pháp quyền Việt Nam là
nhà nước của dân, do dân và vì dân, luôn tôn trọng và bảo vệ các quyền, lợi ích
chính đáng, hợp pháp của công dân.
1.2.3. Ý nghĩa xã hội
Tòa án với nhiệm vụ thực hiện quyền tư pháp của nhà nước, trong phạm
vi xét xử của mình phải đảm bảo xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
Vì thế, khi nhận được một bản kháng cáo, kháng nghị thì cả Tòa án cấp sơ thẩm
và Tòa án cấp phúc thẩm đều phải có trách nhiệm kiểm tra lại bản án, quyết định
đã tuyên. Bản án, quyết định nếu có sai sót thì sửa chữa, khắc phục, nếu đúng
pháp luật thì bác đơn kháng cáo, kháng nghị và giữ nguyên bản án sơ thẩm.
14
Đảm bảo xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật sẽ nâng cao uy tín của Tòa
án, tạo lòng tin cho người bị hại, người có quyền và lợi ích liên quan, thậm chí
cả bị cáo khi nhận được một bản án đúng với hành vi của mình, đồng thời tạo
lòng tin cho cả xã hội.
Việc quy định và thực hiện chế định kháng cáo phúc thẩm là cơ sở pháp lý
đảm bảo cho quyền và lợi ích của người tham gia tố tụng được bảo vệ một cách
công khai và chính đáng. Với nhiều lý do khác nhau, bản án sơ thẩm có thể quá
nặng hoặc quá nhẹ so với mức độ nguy hiểm của tội phạm gây ra, ảnh hưởng
đến quyền và lợi ích của những người tham gia tố tụng. Trong trường hợp đó
người có quyền kháng cáo thực hiện quyền kháng cáo nhằm bảo vệ quyền và lợi
ích của chính họ hoặc cho người mà họ đại diện. Quy định quyền kháng cáo là
cách mà pháp luật trao sự chủ động và quyền tự bảo vệ chính mình cho bị cáo và
những người tham gia tố tụng khác.
Kháng nghị của Viện kiểm sát đối với các bản án, quyết định sơ thẩm có
vi phạm pháp luật vừa thể hiện kết quả hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp
luật, vừa thể hiện trách nhiệm thực hành quyền công tố, bảo đảm không để xảy
ra các trường hợp xét xử oan, sai hoặc bỏ lọt tội phạm, nhằm bảo vệ lợi ích của
Nhà nước, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Kháng nghị khi phát
hiện thiếu sót trong bản án, quyết định của Tòa án không chỉ là quyền hạn mà
còn là nhiệm vụ của Viện kiểm sát.
Chế định kháng cáo phúc thẩm được quy định trong BLTTHS thể hiện sự
tôn trọng và đảm bảo thực hiện có hiệu quả các quyền của con người trong lĩnh
vực tư pháp. Quy định này tạo điều kiện để các chủ thể tham gia tố tụng có thể
trực tiếp bảo vệ quyền lợi của mình ở cấp xét xử cao hơn. Khi kháng cáo hợp lệ,
những người kháng cáo có quyền tham gia phiên tòa phúc thẩm, họ được trực
tiếp đưa ra các chứng cứ, tình tiết mới để Tòa án cấp phúc thẩm xem xét.
Như vậy, việc quy định và thực hiện chế định kháng cáo, kháng nghị theo
thủ tục phúc thẩm trong tố tụng hình sự góp phần rất lớn vào việc đảm bảo công
bằng xã hội, nâng cao hiệu quả giáo dục ý thức pháp luật và phòng ngừa tội
15
phạm, góp phần củng cố lòng tin của của nhân dân vào hoạt động xét xử của
Tòa án, nâng cao uy tín của Tòa án nói riêng và các cơ quan tiến hành tố tụng
nói chung. Bởi vì, mục đích cao nhất của hoạt động xét xử là đảm bảo xét xử
đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, tránh oan sai và bảo đảm quyền bình đẳng
của mọi công dân trước pháp luật.
Chương 2
NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA LUẬT BLTTHS NĂM 2003
VỀ KHÁNG CÁO, KHÁNG NGHỊ BẢN ÁN, QUYẾT ĐỊNH
CỦA TÒA ÁN THEO THỦ TỤC PHÚC THẨM
2.1. Đối tượng của kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm
Điều 230 BLTTHS năm 2003 quy định: bản án, quyết định sơ thẩm chưa
có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị. Như vậy, đối tượng của kháng
cáo, kháng nghị phúc thẩm là các bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực
pháp luật. Pháp luật tố tụng nước ta không hạn chế đối tượng của kháng cáo,
kháng nghị phúc thẩm. Đó là một trong những nguyên nhân dẫn đến việc kháng
cáo tràn lan trong thực tế. Về vấn đề này pháp luật tố tụng một số nước có quy
định khác với pháp luật nước ta. Ví dụ: Điều 546 luật TTHS Pháp quy định
những người có quyền kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm “nếu hình phạt đã
tuyên là hình phạt tiền quy định cho tội vi cảnh bậc năm, nếu Tòa án đã tuyên
16
hình phạt quy định tại khoản 1 Điều 131 – 16 Bộ luật hình sự, hoặc nếu mức
tiền phạt mà Tòa án đã tuyên vượt quá mức tối đa quy định cho tội vi cảnh bậc
hai” [21, tr.234]. Quy định này đã được giải thích rõ hơn trong cuốn “Tố tụng
hình sự và vai trò của tố tụng hình sự” như sau: “Đối với các tội vi cảnh, chỉ có
những án vi cảnh quan trọng đến mức nào đó mới bị kháng cáo, kháng nghị.
Ngày nay chỉ những án vi cảnh bị phạt tiền từ 5.000 phờ - răng trở lên mới bị
kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm” [5, tr.42]. Như vậy, luật TTHS Pháp quy định
một số vụ án có thể xét xử chung thẩm, chỉ những vụ án vi cảnh quan trọng hoặc
án vi cảnh bị phạt tiền từ 5.000 phờ - răng trở lên mới được kháng cáo, kháng
nghị theo thủ tục phúc thẩm.
Việc xét xử phúc thẩm không chỉ là xét lại tính hợp pháp và tính có căn cứ
của bản án, quyết định sơ thẩm mà trên cơ sở tài liệu, chứng cứ đã có trong vụ
án xét xử lại nội dung vụ án, không chỉ trong phạm vi những phần bản án, quyết
định bị kháng cáo mà có thể xem xét cả phần bản án, quyết định khác không bị
kháng cáo, kháng nghị nhưng liên quan đến việc giải quyết tổng thể vụ án. Theo
quy định của luật TTHS thì chỉ những bản án sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật
mới bị kháng cáo, kháng nghị. Tuy nhiên, trong trường hợp đặc biệt, một số bản
án sơ thẩm đã có hiệu lực pháp luật vẫn có thể trở thành đối tượng của kháng
cáo, kháng nghị như trường hợp kháng cáo quá hạn, hay Tòa án cấp phúc thẩm
xem xét ngoài phạm vi kháng cáo theo quy định tại Điều 240 BLTTHS năm
2003, hoặc trường hợp bản án đã đưa ra thi hành vẫn có thể bị kháng cáo, kháng
nghị theo khoản 2 Điều 255 BLTTHS năm 2003.
Theo quy định tại khoản 2 Điều 239 BLTTHS năm 2003 thì: “quyết định
tạm đình chỉ hoặc đình chỉ vụ án của Tòa án cấp sơ thẩm có thể bị kháng cáo
trong thời hạn bảy ngày”. Như vậy, bị cáo và những người tham gia tố tụng
khác chỉ có quyền kháng cáo đối với quyết định tạm đình chỉ hoặc đình chỉ vụ
án của Tòa án cấp sơ thẩm, vì đây là các quyết định có liên quan trực tiếp đến
quyền và lợi ích của họ. Ngoài ra, theo quy định tại khoản 2 Điều 316 BLTTHS
năm 2003 thì “việc kháng nghị hoặc kháng cáo đối với quyết định của Tòa án về
17
việc áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh được tiến hành như đối với bản án
sơ thẩm”. Quy định này cho chúng ta thấy rằng quyết định áp dụng biện pháp
chữa bệnh cũng là đối tượng của kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm.
2.2. Chủ thể có quyền kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm
2.2.1. Chủ thể có quyền kháng cáo theo thủ tục phúc thẩm
Điều 231 BLTTHS năm 2003 quy định về quyền kháng cáo của bị cáo và
các đương sự trong trường hợp họ không nhất trí với bản án hoặc quyết định của
Tòa án cấp sơ thẩm. Quy định này thể hiện tính nhân đạo và dân chủ của pháp
luật tố tụng hình sự nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân khi vụ
án được xét xử lại ở cấp phúc thẩm. Những quy định về chủ thể có kháng cáo là
cơ sở pháp lý để các chủ thể chủ động thực hiện quyền kháng cáo của mình,
đồng thời là cơ sở để Tòa án xem xét kháng cáo đó có hợp lệ hay không. Theo
quy định của BLTTHS năm 2003 các chủ thể sau đây có quyền kháng cáo:
* Bị cáo và người đại diện hợp pháp của họ
Bị cáo là đối tượng của việc buộc tội trong hình sự, họ có thể phải chịu
hình phạt và bồi thường thiệt hại do hành vi phạm tội của mình gây ra bằng một
bản án, quyết định của Tòa án hoặc có thể được tuyên vô tội và được trả tự do
ngay. Để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, họ có quyền kháng cáo.
Quyền kháng cáo được pháp luật tố tụng quy định cho chính bản thân bị cáo.
Người đại diện hợp pháp của bị cáo trong trường hợp bị cáo là người chưa thành
niên hoặc là người có nhược điểm về thể chất, tâm thần có thể là cha, mẹ, anh
chị em ruột, anh chị em cùng cha khác mẹ hoặc cùng mẹ khác cha. Theo hướng
dẫn tại Nghị quyết 05/2005/ NQ-HĐTP ngày 8/12/2005 thì: chỉ người đại diện
theo pháp luật của bị cáo là người chưa thành niên, người có nhược điểm về tâm
thần hoặc thể chất có quyền kháng cáo toàn bộ bản án hoặc quyết định sơ thẩm.
Như vậy, bị cáo và người đại diện hợp pháp của họ có quyền kháng cáo
đối với mọi bản án, quyết định sơ thẩm. Nếu bị cáo là người chưa thành niên, có
nhược điểm về thể chất hoặc tâm thần thì họ cũng có quyền tự mình kháng cáo,
18
đồng thời, người đại diện hợp pháp và người bào chữa của họ có quyền kháng
cáo trong các trường hợp này để bảo vệ quyền lợi cho bị cáo mà không cần có
sự đồng ý hay yêu cầu của bị cáo, đây là quyền kháng cáo độc lập, không phụ
thuộc vào yêu cầu của bị cáo. Trong luật của một số nước lại quy định về việc
kháng cáo thay cho bị cáo như quy định tại Điều 129 BLTTHS nước Cộng hòa
nhân dân Trung Hoa “Nếu bị cáo đồng ý, người bào chữa hoặc nhân thân của bị
cáo có thể kháng cáo lên Tòa án cấp trên” [15, tr.47]. Hay luật TTHS Nhật Bản
cho phép bị cáo ủy quyền cho người khác kháng cáo thay mình [24, tr.60].
Bị cáo và người đại điện hợp pháp có quyền kháng cáo đối với toàn bộ
bản án: về tội danh, điều khoản BLHS, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm
hình sự, hình phạt chính và hình phạt bổ sung, về biện pháp tư pháp, xử lý vật
chứng, án phí, bồi thường thiệt hại… và các quyết định sơ thẩm: quyết định đình
chỉ, tạm đình chỉ vụ án và quyết định áp dụng biện pháp chữa bệnh.
Để khôi phục hoàn toàn danh dự cho mình, người được Tòa án tuyên là
không có tội có quyền kháng cáo phần lý do của bản án sơ thẩm tuyên bị họ
không có tội. Ví dụ: Nguyễn Văn A không thực hiện hành vi trái pháp luật nhưng
Tòa án cấp sơ thẩm lại nhận định A có thực hiện hành vi trái pháp luật nhưng
chưa đến mức cấu thành tội phạm. Trong trường hợp này, A có quyền kháng cáo
yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm sửa lại phần nhận định của bản án cho đúng với
sự thật [25].
* Người bào chữa
Để đảm bảo việc bảo vệ quyền lợi cho bị cáo là người bị hạn chế về năng
lực hành vi tố tụng, luật TTHS Việt Nam quy định người bào chữa có quyền
kháng cáo để bảo vệ lợi ích của bị cáo là người chưa thành niên hoặc có nhược
điểm về thể chất, tâm thần. Đây là quyền kháng cáo độc lập của người bào chữa,
không phụ thuộc bị cáo có đồng ý hay không. Việc người bào chữa kháng cáo
không loại trừ quyền tự bào chữa của bị cáo.
* Người bị hại và đại diện hợp pháp của họ
19
Quyền kháng cáo của người bị hại và người đại diện hợp pháp của họ
được quy định tại Điều 231 “người bị hại, người đại diện hợp pháp của họ có
quyền kháng cáo bản án hoặc quyết định sơ thẩm”. Như vậy, nếu người bị hại là
người đã thành niên và không có nhược điểm về thể chất hoặc tinh thần thì họ
phải tự mình thực hiện quyền kháng cáo. Nếu người bị hại là người chưa thành
niên, có nhược điểm về thể chất hoặc tinh thần thì người đại diện hợp pháp của
họ có quyền kháng cáo đối với bản án sơ thẩm.
Người bị hại và người đại diện hợp pháp của họ có quyền kháng cáo bản
án, quyết định của Tòa án về phần hình phạt cũng như bồi thường thiệt hại.
Riêng về bồi thường thiệt hại, Nghị quyết số 05/2005/ NQ - HĐTP có hướng
dẫn “trong trường hợp người bị hại chỉ kháng cáo phần bản án hoặc quyết định
sơ thẩm có liên quan đến việc bồi thường thiệt hại thì họ có thể ủy quyền cho
người khác. Người được ủy quyền có các quyền và nghĩa vụ như người đại diện
hợp pháp của nguyên đơn dân sự”.
Trong trường hợp người bị hại chết mà có từ hai người trở lên đều là
người đại diện hợp pháp của người bị hại (ví dụ: cha, mẹ, vợ và con thành niên
của người bị hại) thì phân biệt như sau:
Trong quá trình điều tra, truy tố hoặc tại phiên tòa sơ thẩm những người
này đã đồng ý cử một người trong số họ tham gia tố tụng với tư cách là người
đại diện hợp pháp của người bị hại thì sau khi xét xử sơ thẩm những người này
vẫn có quyền kháng cáo toàn bộ bản án hoặc quyết định sơ thẩm. Việc kháng
cáo có thể do từng người thực hiện hoặc có thể cử một người trong số họ thay
mặt họ thực hiện.
Trong quá trình điều tra, truy tố hoặc tại phiên tòa sơ thẩm, những người
này chưa cử ai trong số họ thay mặt họ làm người đại diện hợp pháp của người
bị hại, mà người đại diện hợp pháp của người bị hại chỉ do một hoặc một số
người trong số họ tự nhận, nếu sau khi xét xử sơ thẩm có người trong số những
người chưa cử người đại diện có đơn với nội dung khiếu nại bản án sơ thẩm
hoặc yêu cầu xét xử phúc thẩm mà nội dung đơn của họ phù hợp với nội dung
20
kháng cáo của người đại diện hợp pháp đã tham gia tố tụng thì Tòa án cấp phúc
thẩm chấp nhận để xét xử theo thủ tục chung. Nếu nội dung đơn của họ không
phù hợp với nội dung kháng cáo của người đại diện hợp pháp đã tham gia tố
tụng hoặc người đại diện hợp pháp đã tham gia tố tụng không kháng cáo nhưng
trong vụ án còn có những người tham gia tố tụng khác kháng cáo, Viện kiểm sát
kháng nghị thì khi xét xử phúc thẩm, Tòa án cấp phúc thẩm hủy bản án hoặc
quyết định sơ thẩm về phần có liên quan mà họ có khiếu nại hoặc yêu cầu xét xử
phúc thẩm vụ án, để điều tra lại hoặc xét xử sơ thẩm lại do vi phạm nghiêm
trọng về thủ tục tố tụng (chưa đưa họ vào tham gia tố tụng khi quyền, lợi ích của
họ xung đột với quyền và lợi ích của người đại diện hợp pháp đã tham gia tố
tụng) [25].
Người bị hại có quyền kháng cáo cả theo hướng tăng nặng hoặc giảm nhẹ
đối với bản án sơ thẩm: về tội danh, điều khoản của BLHS, tình tiết tăng nặng,
giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, hình phạt chính và hình phạt bổ sung, về bồi
thường thiệt hại, về quyết định đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án...
* Nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự và người đại diện hợp pháp của họ
Do lợi ích của nguyên đơn dân sự và bị đơn dân sự chỉ liên quan đến việc
bồi thường thiệt hại, nên họ chỉ có quyền kháng cáo phần bản án hoặc quyết
định sơ thẩm có liên quan đến việc bồi thường thiệt hại. Quyền kháng cáo của
nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự có thể do họ hoặc người đại diện, người bảo
vệ quyền lợi của họ thực hiện.
Nếu nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự là người chưa thành niên hoặc có
nhược điểm về thể chất, tâm thần thì người đại diện hợp pháp của họ cũng có
quyền kháng cáo đối với bản án, quyết định sơ thẩm. Ngoài ra, BLTTHS năm
2003 đã có quy định mới về việc kháng cáo đối với đương sự là người chưa
thành niên: đối với những người này, người bảo vệ quyền lợi cho họ có quyền
kháng cáo phần bản án, quyết định có liên quan đến quyền và nghĩa vụ của
người mà mình bảo vệ.
21
* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án và người đại diện hợp
pháp của họ
Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ án, là người mà quyền
lợi, nghĩa vụ bị ảnh hưởng trực tiếp bởi quyết định của cơ quan tiến hành tố
tụng. Họ có thể là người không liên quan đến việc thực hiện tội phạm nhưng các
cơ quan tiến hành tố tụng phải xử lý theo pháp luật những vấn đề có liên quan
đến quyền và nghĩa vụ của họ. Ví dụ: Người có tài sản bị kẻ phạm tội sử dụng
làm công cụ, phương tiện phạm tội, người đã được kẻ phạm tội cho một số tài
sản do phạm tội mà có... Người đã tham gia vào việc thực hiện tội phạm nhưng
được miễn trách nhiệm hình sự cũng có thể trở thành người có quyền và nghĩa
vụ liên quan, nếu cơ quan tiến hành tố tụng xử lý những vấn đề liên quan đến
quyền lợi và nghĩa vụ của họ, như xử lý vật thuộc sở hữu của họ làm công cụ,
phương tiện phạm tội, xử lý tài sản do phạm tội mà có...
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án và người đại diện hợp
pháp của họ có quyền kháng cáo phần bản án hoặc quyết định có liên quan đến
quyền lợi và nghĩa vụ của họ.
Khác với BLTTHS năm 1988, Điều 231 BLTTHS năm 2003 đã quy định
cụ thể về quyền kháng cáo của người bảo vệ quyền lợi cho người chưa thành
niên hoặc người có nhược điểm về thể chất, tâm thần đối với phần bản án hoặc
quyết định của Tòa án có liên quan đến quyền lợi của họ, mà không được kháng
cáo về phần hình phạt và bồi thường thiệt hại như bị cáo hay người bị hại.
* Người bảo vệ quyền lợi của đương sự
Người bảo vệ quyền lợi của đương sự chưa thành niên, có nhược điểm về
tâm thần hoặc thể chất có quyền kháng cáo phần bản án, quyết định sơ thẩm liên
quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của người mà mình bảo vệ. Đây là quyền kháng
cáo độc lập, không phụ thuộc đương sự có đồng ý hay không.
2.2.2. Thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm
Nhằm mục đích bảo vệ pháp chế XHCN, bảo đảm tính hợp pháp và có
căn cứ của bản án, quyết định của Tòa án. Điều 232 BLTTHS năm 2003 quy
22
định “Viện kiểm sát cùng cấp và Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp có quyền kháng
nghị những bản án và quyết định sơ thẩm”. Theo Điều 19 luật tổ chức VKSND
năm 2002, thì “khi thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử các vụ án hình
sự, Viện kiểm sát nhân dân có quyền kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm...”. Quy
định này nhằm nâng cao vai trò và trách nhiệm của Viện kiểm sát các cấp trong
việc thực hiện chức năng kiểm sát các hoạt động điều tra, xét xử, đảm bảo cho
việc điều tra, truy tố, xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Khi phát hiện
bản án, quyết định sơ thẩm có sai lầm, thiếu sót trong việc đánh giá chứng cứ
hoặc áp dụng pháp luật, Viện kiểm sát có quyền kháng nghị để yêu cầu Tòa án
cấp trên xét xử lại.Việc quy định cả Viện kiểm sát cùng cấp và Viện kiểm sát cấp
trên trực tiếp đều có quyền kháng nghị là nhằm phát hiện và khắc phục kịp thời
các sai sót về xét xử của Tòa án cấp sơ thẩm, bảo đảm tính hợp pháp và có căn
cứ của các bản án hoặc quyết định sơ thẩm trước khi đưa ra thi hành.
Về quyền kháng nghị trong TTHS của một số nước có những điểm khác
với quy định của Việt Nam. Theo luật TTHS của nước Cộng hòa nhân dân Trung
Hoa thì chỉ có Viện kiểm sát cùng cấp có quyền kháng nghị (Điều 130 BLTTHS
Trung Hoa) [15, tr.47], hay luật TTHS Nhật Bản quy định Luật sư thực hiện
chức năng công tố có quyền kháng nghị (Điều 373) [24, tr.61].
Theo Điều 36 BLTTHS năm 2003 thì người có thẩm quyền quyết định
việc kháng nghị phúc thẩm là Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát các
cấp. Kháng nghị phúc thẩm cũng có điểm khác so với kháng nghị giám đốc
thẩm và tái thẩm: chủ thể có quyền kháng nghị phúc thẩm là Viện kiểm sát cùng
cấp với Tòa án đã xét xử sơ thẩm và Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp; chủ thể có
quyền kháng nghị giám đốc thẩm và tái thẩm là Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp
hoặc cấp trên nữa, Viện trưởng Viện kiểm sát cùng cấp không có quyền kháng
nghị giám đốc thẩm, tái thẩm.
Viện kiểm sát được tổ chức và hoạt động theo hệ thống ngành dọc, cấp
dưới phải phục tùng cấp trên. Nếu kháng nghị của Viện kiểm sát cấp sơ thẩm có
nội dung mâu thuẫn với kháng nghị của Viện kiểm sát cấp phúc thẩm (ví dụ:
23
Viện kiểm sát cấp sơ thẩm kháng nghị yêu cầu tăng mức hình phạt đối với bị
cáo, nhưng viện kiểm sát cấp phúc thẩm lại kháng nghị theo hướng giảm nhẹ
hình phạt cho bị cáo), thì Tòa án cấp phúc thẩm xem xét phần nội dung mâu
thuẫn theo kháng nghị của Viện kiểm sát cấp phúc thẩm. Trường hợp hai bản
kháng nghị không mâu thuẫn với nhau thì việc xem xét nội dung kháng nghị
được tiến hành đồng thời theo quy định của pháp luật.
Phạm vi kháng nghị phúc thẩm của Viện kiểm sát không bị giới hạn, Viện
kiểm sát có quyền kháng nghị toàn bộ hoặc một phần bản án, quyết định của Tòa
án cấp sơ thẩm: về tăng nặng hay giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, về mức bồi
thường thiệt hại, về áp dụng BLHS…
2.3. Thủ tục kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm
2.3.1. Thủ tục kháng cáo phúc thẩm
Pháp luật TTHS Việt Nam không chỉ quy định cho bị cáo và những người
tham gia tố tụng quyền kháng cáo, mà quy định rõ cả thủ tục mà họ phải tiến
hành để chủ động thực hiện quyền của mình, đồng thời để Tòa án cấp phúc thẩm
xác định được kháng cáo của họ có hợp lệ hay không. Chỉ khi quyền kháng cáo
được thực hiện đúng thủ tục luật định thì kháng cáo đó mới được coi là hợp lệ và
mới được giải quyết.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 233 BLTTHS năm 2003 thì: “Người
kháng cáo phải gửi đơn đến Tòa án đã xét xử sơ thẩm hoặc Tòa án cấp phúc
thẩm. Trong trường hợp bị cáo đang bị tạm giam, Ban giám thị trại tạm giam
phải bảo đảm cho bị cáo thực hiện quyền kháng cáo. Người kháng cáo cũng có
thể trình bày trực tiếp với Tòa án đã xét xử sơ thẩm về việc kháng cáo”. Như
vậy, người kháng cáo có thể thực hiện việc kháng cáo của mình dưới hai hình
thức: bằng văn bản (đơn kháng cáo) hoặc trực tiếp trình bày với Tòa án đã xét
xử sơ thẩm. Quy định như vậy nhằm đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của
những người tham gia tố tụng. Bởi trên thực tế, do trình độ dân trí của nước ta
còn thấp nên vẫn còn một bộ phận người dân chưa biết chữ, họ không thể tự
24
mình viết đơn kháng cáo. Vì vậy, nếu chỉ quy định hình thức kháng cáo bằng
văn bản thì sẽ hạn chế quyền kháng cáo của những người này.
Nếu lựa chọn hình thức kháng cáo bằng văn bản thì người kháng cáo có
thể gửi đơn đến Tòa án cấp sơ thẩm hoặc Tòa án cấp phúc thẩm. Trước đây, việc
nhận và xử lý đơn kháng cáo chưa được hướng dẫn cụ thể. Hiện nay, theo hướng
dẫn tại Mục I.3 Nghị quyết 05/2005/NQ-HĐTP của TANDTC ngày 08/12/2005
thì: nếu đơn gửi tới Tòa án cấp sơ thẩm thì sau khi nhận đơn kháng cáo, Tòa án
cấp sơ thẩm vào sổ nhận đơn và kiểm tra tính hợp pháp về chủ thể, nội dung,
thời hạn kháng cáo có đúng quy định pháp luật hay không. Nếu đơn kháng cáo
hợp lệ thì tiến hành thông báo theo quy định tại Điều 236 BLTTHS và hoàn tất
hồ sơ vụ án để chuyển lên Tòa án cấp phúc thẩm cùng với đơn kháng cáo. Nếu
đơn kháng cáo, tài liệu,chứng cứ được gửi lên Tòa án cấp phúc thẩm thì sau khi
nhận đơn, Tòa án cấp phúc thẩm chuyển cho Tòa án cấp sơ thẩm để tiến hành
các công việc nêu trên. Quy định như vậy là đúng đắn và hợp lý, bởi Tòa án cấp
sơ thẩm trên cơ sở đã xét xử sơ thẩm trước đó, nắm bắt được nội dung vụ án,
chủ thể, thời hạn kháng cáo. Trên cơ sở kiểm tra các yếu tố đó, nếu thấy nội
dung đơn kháng cáo chưa đầy đủ thì Tòa án cấp sơ thẩm sẽ thông báo ngay cho
người kháng cáo để họ bổ sung kịp thời, đảm bảo quyền kháng cáo của họ [25].
Đơn kháng cáo là cơ sở pháp lý quan trọng cho việc giải quyết quyền, lợi
ích hợp pháp của người tham gia tố tụng. Vì vậy, trong đơn kháng cáo phải ghi
rõ các nội dung như: ngày làm đơn kháng cáo, họ tên và tư cách tham gia tố
tụng trong vụ án của người kháng cáo, kháng cáo về vấn đề gì trong bản án,
quyết định sơ thẩm, lý do kháng cáo và yêu cầu của người kháng cáo.
Người kháng cáo cũng có thể không viết đơn kháng cáo mà trình bày trực
tiếp với Tòa án đã xét xử sơ thẩm về việc kháng cáo. Trong trường hợp này, Tòa
án phải lập biên bản về việc kháng cáo, ghi rõ ngày kháng cáo, họ tên và tư cách
tố tụng trong vụ án của người kháng cáo. nội dung kháng cáo...
Trong trường hợp bị cáo đang bị tạm giam thì đơn kháng cáo được gửi
qua Ban giám thị trại giam. Ban giám thị trại giam phải có trách nhiệm tạo điều
25
kiện thuận lợi cho bị cáo thực hiện quyền kháng cáo. Ban giám thị trại giam phải
tiếp nhận đơn kháng cáo, xác nhận ngày, tháng, năm nhận đơn, ký và đóng dấu
vào đơn rồi gửi ngay cho Tòa án đã xét xử sơ thẩm vụ án.
2.3.2. Thủ tục kháng nghị phúc thẩm
Đối với kháng nghị của Viện kiểm sát thì tại khoản 2 Điều 233 BLTTHS
năm 2003 quy định “Viện kiểm sát cùng cấp hoặc Viện kiểm sát cấp trên trực
tiếp kháng nghị bằng văn bản, có nêu rõ lý do”. Như vậy, đối với việc kháng
nghị của Viện kiểm sát bắt buộc phải bằng văn bản. Trong kháng nghị phải ghi
rõ ngày, tháng, nội dung, lý do kháng nghị và yêu cầu của Viện kiểm sát... Ngoài
ra, trong quyết định kháng nghị còn phải nêu rõ các căn cứ mà Viện kiểm sát
dựa vào đó để kháng nghị. Tuy nhiên, trong BLTTHS hiện hành lại chưa quy
định cụ thể về các căn cứ kháng nghị (vi phạm như thế nào, mức độ đến đâu thì
bị kháng nghị..). Vì vậy, để nhận thức và áp dụng thống nhất vấn đề này, tại
khoản 1 Điều 33 Quy chế về công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát xét
xử hình sự ngày 17/09/2007 có quy định về các căn cứ kháng nghị phúc thẩm
như sau: “Bản án hoặc quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng
nghị theo thủ tục phúc thẩm khi có một trong các căn cứ sau:
1) Việc điều tra, xét hỏi tại phiên tòa sơ thẩm phiến diện hoặc không đầy
đủ.
2) Kết luận của bản án hoặc quyết định hình sự sơ thẩm không phù hợp
với các tình tiết khách quan của vụ án.
3) Có vi phạm trong việc áp dụng BLHS.
4) Thành phần HĐXX sơ thẩm không đúng luật định hoặc có vi phạm
nghiêm trọng khác về thủ tục tố tụng” [23].
Thực tiễn xét xử cho thấy hầu hết các bản kháng nghị phúc thẩm đều nêu
rõ lý do kháng nghị. Tuy nhiên, cũng có một số kháng nghị không nêu rõ lý do
mà chỉ nêu chung chung (như: không thỏa đáng, không nghiêm minh, không
công bằng...). Vì vậy, một trong những yêu cầu đặt ra đối với kháng nghị phúc
thẩm là trong quyết định kháng nghị phải thể nêu rõ và cụ thể những vi phạm