Tải bản đầy đủ (.doc) (71 trang)

Pháp luật và chính sách bồi thường thiệt hại đối với nông dân khi nhà nước thu hồi đất nông nghiệp tại quận long biên, hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (304.9 KB, 71 trang )

Kho¸ luËn tèt nghiÖp

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU................................................................................................................4
CHƯƠNG I. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁP LUẬT BỒI
THƯỜNG THIỆT HẠI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT NÔNG NGHIỆP.......7
1.1. Tầm quan trọng của đất đai đối với đời sống con người.......................7
1.2. Những quy định chung của pháp luật về thu hồi đất nông nghiệp.......8
1.2.1. Các trường hợp bị thu hồi đất.............................................................9
1.2.2 Quy định của pháp luật về bồi thường sau thu hồi đất
nông nghiệp..................................................................................................10
1.2.3. Bồi thường thiệt hại sau thu hồi đất nông nghiệp............................16
1.2.4. Thẩm quyền thu hồi đất nông nghiệp...............................................17
1.2.5. Cưỡng chế thu hồi đất........................................................................17
CHƯƠNG II. THỰC TRẠNG ÁP DỤNG PHÁP LUẬT KHI NHÀ NƯỚC
THU HỒI ĐẤT NÔNG NGHIỆP TẠI QUẬN LONG BIÊN – HÀ NỘI......19
2.1. Giới thiệu tổng quan về Quận Long Biên..............................................19
2.2. Thực trạng thu hồi đất nông nghiệp......................................................26
2.2.1.“Lạm phát” các dự án vô bổ...............................................................29
2.2.2.Thu hồi rồi bỏ hoang..........................................................................30
2.3 . Thực trạng áp dụng pháp luật...............................................................32
2.3.1. Khó khăn và tồn tại của việc áp dụng pháp luật...............................32
2.3.1.1. Vấn đề an ninh - lương thực.............................................................32
2.3.1.2. Những ảnh hưởng về môi trường.....................................................35
2.3.1.3. Đời sống, lao động và việc làm của người nông dân sau thu hồi đất....36
2.3.2. Nguyên nhân dẫn đến hậu quả trên..................................................39
2.3.3.Thực tế bất cập khi áp dụng pháp luật...............................................42

1



Kho¸ luËn tèt nghiÖp
CHƯƠNG III. GIẢI PHÁP CHO VIỆC THU HỒI ĐẤT NÔNG NGHIỆP
TRONG THỜI KÌ CÔNG NGHIỆP HOÁ......................................................46
3.1. Nhóm giải pháp về chính sách của Nhà nước.......................................46
3.2. Nhóm giải pháp về công tác quản lí.......................................................52
3.3. Nhóm giải pháp việc làm.........................................................................55
3.4. Một số giải pháp khác............................................................................. 60
KẾT LUẬN..........................................................................................................62
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................63
PHỤ LỤC PHỎNG VẤN ĐIỀU TRA.................................................................66

2


Kho¸ luËn tèt nghiÖp
MỞ ĐẦU
1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Theo văn kiện Đại hội Đại biểu toàn Quốc lần thứ IX của Đảng Cộng sản
Việt Nam : “…Tăng cường sự chỉ đạo và huy động các nguồn lực cần thiết để
đẩy nhanh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông thôn, tiếp tục phát triển và đưa
nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp lên một trình độ mới bằng ứng dụng khoa
học và công nghệ, nhất là công nghệ sinh học, đẩy mạnh thuỷ lợi hoá, cơ giới
hoá, điện khí hoá, quy hoạch sử dụng đất hợp lí…Đầu tư nhiều hơn cho phát
triển công nghiệp dịch vụ, các ngành nghề đa dạng, chú trọng công nghiệp chế
biến… chuyển một bộ phận quan trọng lao động công nghiệp và dịch vụ, tạo
nhiều việc làm mới, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, cải thiện đời sống
nông dân và dân cư ở nông thôn…”.
Việt Nam vốn là một đất nước thuần nông, để phát triển đất nước theo
hướng công nghiệp hoá như mục tiêu đã đề ra ở trên thì vấn đề đặt ra là phải thu
hồi đất nông nghiệp làm cơ sở thực hiện các dự án phát triển đất nước.

Vấn đề này tiếp tục được nhấn mạnh và hoàn thiện tại Văn kiện Đại hội
đại biểu toàn Quốc lần thứ X. Theo đó “.Hiện nay và trong nhiều năm tới, vấn đề
nông nghiệp, nông dân và nông thôn có tầm chiến lược đặc biệt quan trọng. Phải
luôn coi trọng đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn,
hướng tới xây dựng một nền nông nghiệp hàng hoá lớn, đa dạng phát triển nhanh
và bền vững, có năng suất, chất lượng và khả năng cạnh tranh cao, tạo điều kiện
từng bước hình thành nền nông nghiệp sạch, phấn đấu giá trị tăng thêm trong
nông, lâm nghiệp và thuỷ sản tăng từ 3- 3,2%/ năm, tốc độ phát triển công
nghiệp và dịch vụ ở nông thôn không thấp hơn mức bình quân của cả nước. Gắn
phát triển kinh tế với xây dựng nông thôn mới, giải quyết tốt hơn mối quan hệ
giữa nông thôn và thành thị, giữa các vùng miền, góp phần giữ vững ổn định

3


Kho¸ luËn tèt nghiÖp
chính trị xã hội ”. Văn kiện đã đưa ra tư tưởng chỉ đạo làm kim chỉ nam cho toàn
bộ tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước là nông nghiệp phải tiến
hành song song với công nghiệp.
Với vai trò của một cán bộ quản lý ở cấp cơ sở, tôi nhận thấy vấn đề bồi
thường thiệt hại cho người nông dân ở Việt Nam trong thời kỳ đổi mới của đất
nước đang tồn tại nhiều bất cập trong quá trình Nhà nước quản lý đất đai.
Chính vì vậy, tôi chọn đề tài: “Pháp luật và chính sách bồi thường thiệt
hại đối với nông dân khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp tại Quận Long
Biên, Hà Nội” làm đề tài nghiên cứu cho khoá luận tốt nghiệp cử nhân luật của
mình.
Đề tài được thực hiện dựa trên phân tích Thực trạng thu hồi đất nông
nghiệp tại Quận Long Biên, thành phố Hà Nội , hậu quả thu hồi đất nông nghiệp
( Bồi thường sau thu hồi, giải quyết việc làm, các vấn đề xã hội khác đưa ra một
số kiến nghị cũng như các giải pháp cho các vấn đề còn tồn tại.

2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU CỦA KHÓA LUẬN.
Nghiên cứu đề tài này, tôi muốn hướng tới mục đích tìm hiểu sâu hơn về
vấn đề thu hồi đất nông nghiệp , góp phần xây dựng một cách nhìn đúng đắn hơn
nữa về phát triển nông nghiệp trong thời kì công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
3. PHẠM VI NGHIÊN CỨU.
Hiện nay theo quy định của pháp luật cũng như trong thực tiễn, việc thu
hồi đất có thể diễn ra với nhiều loại đất khác nhau và nhiều lí do khác nhau. Tuy
nhiên trong khoá luận này, tôi chỉ nghiên cứu việc thu hồi đất dưới góc độ thu
hồi đất nông nghiệp phục vụ cho các công trình Quốc gia, các dự án chung cư
của các doanh nghiệp và những hậu quả của nó đã được triển khai trên địa bàn
Quận Long Biên – Hà Nội.

4


Kho¸ luËn tèt nghiÖp
4. ĐỐI TƯỢNG VÀ KHÁCH THỂ NGHIÊN CỨU:
- Đối tượng nghiên cứu: Thu hồi đất nông nghiệp – những quy định của
pháp luật, thực trạng, hậu quả và giải pháp.
- Khách thể nghiên cứu: Một số hộ nông dân có đất bị thu hồi tại tổ 7Phường Thạch Bàn- Quận Long Biên- Hà Nội.
5. YÊU CẦU CẦN ĐẠT ĐƯỢC KHI NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI:
* Đưa ra một số số liệu về thu hồi đất tại địa phương và đánh giá.
* Nghiên cứu những tác động của thu hồi đất nông nghiệp .
* Tìm hiểu nguyên nhân và đưa ra giải pháp cho thu hồi thực trạng trên.
* Đưa ra những ý kiến chủ quan của bản thân khi nghiên cứu đề tài.
6. PHƯƠNG PHÁP TIẾP CẬN VÀ NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI:
Để hoàn thành đề tài này, tôi đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau:
* Phương pháp điều tra, thu thập số liệu từ Internet.
* Phương pháp nghiên cứu văn bản, tài liệu.
* Phương pháp điều tra xã hội học.

* Phương pháp quan sát.
7. BỐ CỤC CỦA KHOÁ LUẬN
Ngoài lời mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, khóa luận được kết
cấu thành 3 chương như sau:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về pháp luật bồi thường thiệt hại khi Nhà
nước thu hồi đất nông nghiệp.
Chương 2: Thực trạng áp dụng pháp luật khi Nhà nước thu hồi đất nông
nghiệp tại Quận Long Biên – Hà Nội.
Chương 3: Giải pháp hoàn thiện pháp luật về thu hồi đất và bồi thường thiệt
hại khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp.

5


Kho¸ luËn tèt nghiÖp
CHƯƠNG I
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁP LUẬT BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI
NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT NÔNG NGHIỆP
1.1. Tầm quan trọng của đất đai đối với đời sống con người.
Đất đai là nguồn tài nguyên quý giá của mỗi Quốc gia. Đánh giá về tầm
quan trọng của đất đai đối với đời sống của con người đã có rất nhiều nhận định
của các nhà nghiên cứu. William Betty đã từng nhận định : “Lao động là cha còn
đất đai là mẹ của mọi của cải, vật chất”.
Mác- Enghen khi nghiên cứu về vai trò của đất đai cũng đi đến kết luận
“đất đai là nguồn gốc đầu tiên của mọi của cải vật chất”.
Thật đúng vậy, trong bất kì thời điểm nào, xã hội nào chúng ta cũng không
thể phủ nhận được vai trò không gì thay thế được của đất đai. Đất đai cũng có
thể nghiên cứu dưới nhiếu góc độ:
Về mặt xã hội đất đai là nơi con người sinh sống là nền tảng để con người
tiến hành các hoạt động cần thiết cho cuộc sống của mình như lao động sản xuất,

vui chơi, giải trí, xây dựng các công trình. Đất đai là yếu tố cơ bản của môi
trường sống
Về mặt chính trị đất đai là thành quả của cách mạng, là kết quả của biết
bao nhiêu mồ hôi xương máu mà ông cha ta đã đổ xuống đấu tranh giành lại.
Lịch sử đấu tranh giành độc lập của dân tộc khẩu hiệu “giành đất cho dân
cày”, “người cày có ruộng”đã luôn được giương cao. Cho đến nay, chính sách
đất nông nghiệp vẫn là chính sách quan trọng nhất đối với người nông dân bởi
với họ đất nông nghiệp là tư liệu sản xuất chủ yếu tạo ra nguồn thu nhập chính
và một thứ bảo hiểm an toàn cho họ trước những rủi ro, biến động của cuộc
sống.

6


Kho¸ luËn tèt nghiÖp
Về mặt kinh tế: đất đai là tư liệu sản xuất đặc biệt không gì thay thế được
đối với người nông dân. Nhờ có đất đai mà con người tạo ra lương thực, thực
phẩm, của cải vật chất đảm bảo cho sự tồn tại của mình. Như vậy, đất nông
nghiệp đã đóng vai trò to lớn trong việc bảo đảm an ninh lương thực, ngoài ra,
còn đóng góp một nguồn ngoại tệ lớn cho đất nước qua việc xuất khẩu gạo.
Đối với một đất nước nông nghiệp như đất nước ta thì vai trò của đất càng
trở nên quan trọng. Tuy nhiên, đất nông nghiệp lại đang dần bị thu hẹp do việc
xây dựng các công trình, do đô thị hóa, dẫn đến một bộ phận người nông dân
thiếu hoặc không có đất để canh tác. Thêm vào đó, đất đai bị bạc màu do khai
thác bừa bãi, việc sử dụng đất nông nghiệp lãng phí, hoang hóa đang là một trở
ngại rất lớn trên con đường, phát triển của đất nước, bởi vậy, bảo vệ đất nông
nghiệp trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa càng trở nên cấp thiết hơn
bao giờ hết.
Đề tài nghiên cứu. “Pháp luật và chính sách bồi thường thiệt hại đối với
nông dân khi Nhà nước thu hồi nông nghiệp tại Quận Long Biên thành phố Hà

Nội” của tôi cũng xuất phát từ việc nhìn nhận vai trò của đất nông nghiệp và
cũng không nằm ngoài mục đích bảo vệ đất nông nghiệp, đặc biệt là trong bối
cảnh hiện nay, đất nông nghiệp ngày càng bị thu hẹp do việc thu hồi đất phục vụ
công nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện đại hóa đất nước.
1.2. Những quy định chung của pháp luật về thu hồi đất nông nghiệp.
Ngược lại với giao đất, cho thuê đất là hình thức pháp lí là hình thành một
quan hệ pháp luật đất đai thì thu hồi đất lại là một biện pháp pháp lí làm chấm
dứt quan hệ pháp luật đất đai. Biện pháp này thể hiện quyền lực Nhà nước trong
tư cách là người đại diện chủ sở hữu toàn dân về đất đai.
Thu hồi đất cần được xem xét dưới các khía cạnh :
Một là quyết định hành chính của người có thẩm quyền nhằm chấm dứt
quan hệ sử dụng đất của người sử dụng.

7


Kho¸ luËn tèt nghiÖp
Hai là quyết định hành chính thể hiện quyền lực của Nhà nước nhằm thực
thi một trong những nội dung của quản lí Nhà nước về đất đai.
Ba là việc thu hồi xuất phát từ nhu cầu của Nhà nước và xã hội hoặc là
biện pháp chế tài được áp dụng nhằm xử lí các hành vi vi phạm pháp luật đất đai
của người sử dụng.
Quyết định : Thu hồi đất là văn bản hành chính của cơ quan Nhà nước có
thẩm quyền nhằm chấm dứt một quan hệ pháp luật đất đai để phục vụ lợi ích của
Nhà nước, của xã hội hoặc xử lí hành chính hành vi vi phạm pháp luật đất đai
của người sử dụng.
Hiện nay, pháp luật Việt Nam có quy định rất cụ thể về việc thu hồi đất.
Đất nông nghiệp là một trong ba loại đất theo phân loại của Luật Đất Đai 2003,
nên việc thu hồi đất nông nghiệp cũng phải tuân theo những quy định chung về
thu hồi đất. Cụ thể như sau:

1.2.1. Các trường hợp bị thu hồi đất.
Các trường hợp thu hồi đất được quy định tại Điều 38 Luật Đất đai 2003, theo
đó được chia thành 3 nhóm trường hợp. Đó là :
Thu hồi đất vì lí do đương nhiên: (thu hồi đất vì cá nhân sử dụng đất chết
mà không có người thừa kế, người sử dụng đất tự nguyện trả đất…)
Thu hồi đất do nhu cầu của Nhà nước, bao gồm thu hồi đất để sử dụng vào
mục đích Quốc phòng, lợi ích công cộng Quốc gia, sử dụng vào mục tiêu phát
triển kinh tế để xây dựng các khu công nghiệp, khu kinh tế, khu công nghệ cao.
Thu hồi đất do hành vi vi phạm pháp luật đất đai của người sử dụng đất
đai.
Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài, tôi đi sâu vào vấn đề thu hồi đất
nông nghiệp vì mục đích phát triển kinh tế, cụ thể là thu hồi đất phục vụ công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

8


Kho¸ luËn tèt nghiÖp
1.2.2 Quy định của pháp luật về bồi thường sau thu hồi đất nông nghiệp.
Phải nói rằng người nông dân là người chịu thiệt thòi nhất trong quá trình
thu hồi đất. Họ là những người gắn bó với đồng ruộng nhất, họ không có con
đường nào khác ngoài sản xuất nông nghiệp mà tư liệu cần sản xuất là đất. Việc
thu hồi đất đã đẩy cuộc sống người nông dân vào khó khăn. Chính vì vậy, điều
khiến họ quan tâm nhất là vấn đề giải quyết quyền lợi của họ sau khi thu hồi đất.
Để giải quyết thỏa đáng nguyện vọng của người dân, kèm theo những quy
định về thu hồi đất là những quy định về bồi thường .
* Điều kiện được bồi thường về đất:
Luật Đất đai 2003 không quy định cụ thể điều kiện được bồi thường về đất
nhưng có quy định các trường hợp thu hồi đất mà không bồi thường. (Điều 43)
Luật Đất đai đã sửa đổi bổ xung theo Nghị quyết số 51/2001/QH10 ngày 25

tháng 12 năm 2001 của Quốc hội khoá X, kỳ họp thứ 10 .
Trong quá trình thực hiện đã được hướng dẫn tại Điều 8 Nghị định số
197/2004/NĐ-CP, khoản 4 Điều 14 và Điểm b Khoản 2 Điều 67 nghị định số
84/2007/NĐ-CP ngày 25 tháng 5 năm 2007. Theo tìm hiểu tại thành phố Hà Nội,
để thực hiện các qui định trên UBND TP đã ban hành Quyết định số
137/2007/QĐ-UBND ngày 30/11/2007 trong đó đã giải thích cụ thể các điều
kiện cụ thể được bồi thường. Tại Điều 7 của nghị định quy định: “Người bị Nhà
nước thu hồi đất có một trong các điều kiện sau đây thì được bồi thường:
1. Có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật về
đất đai.
2. Có quyết định giao đất của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền theo quy
định của pháp luật về đất đai.

9


Kho¸ luËn tèt nghiÖp
3. Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất ổn định, được UBND xã,
phường, thị trấn xác nhận không có tranh chấp mà có một trong các loại giấy tờ
sau:
a) Những giấy tờ về quyền sử dụng đất đai trước ngày 15/10/1993 do cơ
quan có thẩm quyền cấp trong quá trình thực hiện chính sách đất đai của Nhà
nước Việt Nam dân chủ cộng hoà. Chính phủ cách mạng lâm thời miền Nam Việt
Nam và Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Chỉ thị số 07-CT/TU ngày 11 tháng 12 năm 2006 của Thành uỷ Hà Nội về
tăng cường lãnh đạo thực hiện công tác bồi thường, hộ trợ, tái định cư khi giải
phóng mặt bằng, thu hồi đất phát triển kinh tế – xã hội Thủ đô
Nghị quyết số 04/2008/NQ-HĐND ngày 19 tháng 4 năm 2008 của HĐND
Thành phố Hà Nội về đề án “Một số giải pháp hội trợ ổn định đời sống, học tập,
đào tạo nghề và việc làm cho các hộ dân vùng chuyển đổi mục đính sử dụng đất

nông nghiệp”.
Quyết định số 2526/QĐ-UBND ngày 01 tháng 7 năm 2008 của UBND
Thành phố về việc phê duyệt Đề án “một số giải pháp hỗ trợ ổn định đời sống,
học tập, đào tạo nghề và việc làm cho các hộ dân vùng chuyển đổi mục đích sử
dụng đất nông nghiệp” trên địa bàn Thành phố Hà Nội .
Quyết định số 18/2008/ QĐ-UBND ngày 29 tháng 9 năm 2008 của UBND
thành phố Hà Nội về việc Ban hành quy định về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư
trên địa bàn thành phố Hà Nội
Việc quy định cụ thể như trên tạo cơ sở cho việc tiến hành bồi thường, bảo
đảm quyền lợi của người dân bị thu hồi đất. Một mặt nó phù hợp với chủ trương
minh bạch hoá, công khai hoá trong xây dựng và áp dụng pháp luật.
* Nguyên tắc bồi thường :
Để bảo đảm quyền lợi của các chủ thể trong thu hồi đất, đặc biệt là người
nông dân, Luật Đất đai 2003, có những quy định rất cụ thể về điều kiện thu hồi

10


Kho¸ luËn tèt nghiÖp
đất. Theo Luật Đất đai 2003, tại Khoản 2 Điều 42 có quy định : “Người bị thu
hồi loại đất nào thì được bồi thường bằng việc giao đất mới có cùng mục đích sử
dụng, nếu không có đất để bồi thường thì được bồi thường bằng giá trị quyền sử
dụng đất đai tại thời điểm có quyết định thu hồi...”. Cũng tại Khoản 4- điều 42
này thì : “ Trường hợp thu hồi đất của hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất mà
không có đất để bồi thường cho việc tiếp tục sản xuất thì ngoài việc được bồi
thường bằng tiền, người bị thu hồi đất còn được Nhà nước hỗ trợ để ổn định đời
sống, đào tạo chuyển đổi ngành nghề, bố trí việc làm mới”.
Tại Điều 29 (Thực hiện khoản 5 Điều 7 và 31 Nghị định số 197/ 2004/NĐ
-CP) Hỗ trợ chuyển đổi nghề nghiệp và tạo việc làm” Nghị định số
197/2004/NĐ- CP và được sửa đổi, bổ sung tại Khoản 4- Điều 4 Nghị định

17/2006/ NĐ- CP ngày 27/1/2006 về sửa đổi, bổ sung một số điều của các Nghị
định hướng dẫn thi hành Luật Đất đai và Nghị định số 187/2004/NĐ- CP về
chuyển đổi công ty Nhà nước thành công ty cổ phần có quy định : “Hộ gia đình
cá nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp bị thu hồi trên 30 % diện tích đất nông
nghiệp mà không được Nhà nước bồi thường bằng đất nông nghiệp tương ứng
thì được hỗ trợ chuyển đổi nghề nghiệp và tạo việc làm theo quy định sau” :
1. Được giao đất có thu tiền sử dụng đất tại vị trí có thể làm mặt bằng sản
xuất kinh doanh dịch vụ phi nông nghiệp ; mức giao đất do UBND cấp tỉnh căn
cứ vào khả năng quỹ đất và mức đất bị thu hồi của từng hộ gia đình, cá nhân để
quy định; giá đất được giao bằng giá đất nông nghiệp tương ứng + chi phí đầu tư
hạ tầng trên đất nhưng không cao hơn giá đất tại thời điểm thu hồi đất đã được
UBND quy định và công bố;
2. Trường hợp đặc biệt không có đất để bố trí như quy định tại khoản 1Điều này thì những thành viên trong hộ gia đình còn trong độ tuổi lao động được
hỗ trợ đào tạo chuyển đổi nghề nghiệp; mức hỗ trợ cụ thể do UBND cấp tỉnh quy

11


Kho¸ luËn tèt nghiÖp
định phù hợp với thực tế tại địa phương; việc hỗ trợ đào tạo chuyển đổi nghề
nghiệp chủ yếu bằng hình thức học nghề tại các cơ sở dạy nghề”.
Như vậy về các nguyên tắc, người nông dân sau khi thu hồi đất sẽ được
bồi thường bằng đất nông nghiệp để sản xuất, trường hợp không có đất nông
nghiệp để bồi thường thì mới tiến hành bồi thường bằng tiền và các biện pháp hỗ
trợ khác như giao đất sản xuất kinh doanh dịch vụ có thu tiền sử dụng đất. Việc
quy định trên có ý nghĩa rất lớn, thể hiện sự quan tâm của Nhà nước đối với
người nông dân bị thu hồi đất, đồng thời khẳng định rằng pháp luật ngày càng sát
với thực tế đời sống của người nông dân.
Nguyên tắc bồi thường đất được quy định tại Điều 6, Nghị định số 197/
2004/ NĐ- CP ngày 3/12/2004 và tại Hà Nội đã có hướng dẫn cho địa phương

mình. Quyết định số 33/2008/QĐ-UBND ngày 9/6/2008 quy định chính sách
bằng đất ở, căn hộ và bằng tiền hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất nông
nghiệp bị thu hồi trên 30% diện tích đất nông nghiệp được giao theo Nghị định
số 64/CP ngày 27/9/1993
1. Trường hợp Nhà nước thu hồi đất mà người sử dụng đất được bồi
thường chưa thực hiện nghĩa vụ tài chính về đất đai đối với Nhà nước theo quy
định của pháp luật thì phải khấu trừ đi khoản tiền phải thực hiện nghĩa vụ tài
chính theo quy định hiện hành vào số tiền được bồi thường để hoàn trả ngân sách
Nhà nước.
Người được Nhà nước giao sử dụng dất nông nghiệp theo quy định của
pháp luật nhưng tự ý sử dụng làm đất phi nông nghiệp thì chỉ được bồi thường
theo giá đất nông nghiệp.
Cụ thể đối với đất nông nghiệp, tại điều 10 Nghị định số 197/2004/NĐ-CP
ngày 03 tháng 12 năm 2004 về bồi thường, hỗ chợ và tái định cư khi nhà đất thu
hồi đất, đã giải quyết cặn kẽ các trường hợp bồi thường, hỗ trợ đối với đất nông
nghiệp của hộ gia đình, cá nhân.

12


Kho¸ luËn tèt nghiÖp
Theo quy định trên của pháp luật hiện hành cho thấy chính sách bồi
thường của Nhà nước ta sau thu hồi đất nông nghiệp là vẫn đảm bảo cho người
nông dân có đất sản xuất. Việc bồi thường bằng tiền cho người dân chỉ là giải
pháp cuối cùng khi mà không thực hiện được bồi thường bằng đất canh tác và
cũng không đền bù được bằng một ngành nghề phi nông nghiệp nào đó.
Các trường hợp khác như đất nông nghiệp xen kẽ trong khu dân cư, đất
vườn ao liền kề với đất ở trong khu dân cư, trường hợp hộ gia đình sử dụng vượt
hạn mức, sử dụng đất do nhận giao khoán đất được giải quyết cụ thể tại các
Khoản 2,3,4,5,6,7 của Điều 10 Nghị định số 197/2004/NĐ/CP .

Ngoài ra, theo Điều 48 Nghị định số 84/2007/NĐ-CP ngày 25 tháng 5 năm
2007 có quy định : “Hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp bị thu
hồi trên 30% diện tích đất nông nghiệp trong trường hợp không được Nhà nước
bồi thường bằng đất nông nghiệp tương ứng mà không có nguyện vọng nhận bồi
thường bằng đất làm mặt bằng sản xuất hoặc kinh doanh dịch vụ phi nông
nghiệp theo quy định tại Khoản 4 Điều 4 Nghị định số 17/2006/NĐ-CP ngày
27/1/2006 thì được bồi thường bằng giao đất ở có thu tiền sử dụng đất tại khu tái
định cư hoặc tại vị trí trong khu dân cư phù hợp với quy hoạch”. Theo ý kiến của
người dân thi quy định này là chưa rõ, cần có hướng dẫn thêm.
Tuy nhiên, chỉ mới có Thành phố Hà Nội tại Quyết định số 33/2008/ QĐUBND ngày 8/6/2008 là có cách giải thích cụ thể cho vấn đề này.
Theo Quyết định trên, những hộ gia đình, cá nhân trực tiếp trên diện tích
đất nông nghiệp được giao theo Nghị định số 64/ CP ngày27/9/1993 của Chính
phủ hoặc phương án giao đất nông nghiệp theo quy định của pháp luật khi Nhà
nước thu hồi trên 30% đất nông nghiệp được giao thì được giải quyết bồi thường
bằng đất ở hoặc bằng nhà ở căn hộ chung cư cao tầng hoặc bằng tiền. Việc bồi
thường cho hộ gia đình, cá nhân theo quy định này chỉ được thực hiện một lần.
Đáng lưu ý là các trường hợp nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất nông

13


Kho¸ luËn tèt nghiÖp
nghiệp nhưng không phải là người trực tiếp sản xuất nông nghiệp thì không
thuộc đối tượng thực hiện quyết định này. Khi bồi thường cho hộ gia đình, cá
nhân bị thu hồi đất nông nghiệp tại các xã, thị trấn thuộc các huyện thì áp dụng
hình thức giao đất ở có hạ tầng kĩ thuật; tại các phường thuộc các Quận thì áp
dụng hình thức bán nhà ở căn hộ trong quỹ nhà tái định cư.
Đặc biệt, trường hợp hộ gia đình, cá nhân không có nhu cầu nhận đất ở,
nhà ở thì được bồi thường bằng tiền . Cụ thể, số tiền được nhận bồi thường bằng
diện tích đất được giao cho hộ gia đình, cá nhân theo quy định nhưng với giá đất

ở tại vị trí được giao theo bảng giá đất do UBND TP ban hành, trừ đi tổng của
giá đất nông nghiệp tương ứng bị thu hồi theo bảng giá đất do UBND TP ban
hành với chi phí đầu tư hạ tầng bình quân khu dân cư.
Trong trường hợp chưa xác định được vị trí giao đất ở cho hộ gia đình, cá
nhân thì giá đất ở làm cơ sở tính bồi thường được tính theo vị trí 2 của đường
phố có tên tiếp giáp với khu đất nông nghiệp bị thu hồi trong bảng giá đất do
UBND TP ban hành. Trường hợp khu đất nông nghiệp bị thu hồi tiếp giáp với
nhiều vị trí thì lấy vị trí 2 của đường phố mức giá cao nhất.
Những hộ gia đình, cá nhân bị thu hồi đất tại các phường và các trường
hợp trên được mua một căn hộ chung cư cao tầng theo khả năng, cơ cấu diện tích
quỹ nhà tái định cư của Thành phố và phù hợp với diện tích đất nông nghiệp thu
hồi, nhưng diện tích sàn căn hộ không quá 80 m 2. Trong trường hợp diện tích bố
trí lớn hơn thì phần diện tích lớn hơn phải mua theo giá quy định nhân hệ số bằng 1,2.
Đối với hộ gia đình, các nhân bị thu hồi diện tích đất nông nghiệp nhỏ hơn
hạn mức và nhỏ hơn 40 m2 đối với các phường, nhưng đó là thửa đất cuối cùng
của hộ gia đình, cá nhân được giao để thực hiện các dự án thì được bồi thường
diện tích đất ở đủ theo hạn mức (đối với các Huyện) hoặc được mua căn hộ
không quá 80 m2 (đối với các Quận). Nếu diện tích đất giao vượt diện tích đất
thu hồi, gia đình phải nộp tiền sử dụng đất theo giá đất do UBND TP quy định tại

14


Kho¸ luËn tèt nghiÖp
thời điểm giao đất. Nếu diện tích này lớn hơn hai lần diện tích thu hồi thì phần
diện tích lớn hơn phải mua theo giá quy định nhân hệ số bằng 1,2.
Việc ban hành Quyết định số 33 là cấp thiết và nóng bỏng. Trên cơ sở đó,
Hà Nội cần nghiên cứu và thực hiện. Khi nghiên cứu , Hà Nội cũng cần hết sức
thận trọng, hướng xác định là quan tâm đến lợi ích chính đáng của người dân.
Tiếp nữa là căn cứ vào đặc điểm tình hình của Hà Nội để không phá vỡ quy

hoạch, đỡ bị manh mún. Hơn nữa là giải quyết kịp thời những vướng mắc trong
mặt bằng hiện nay vì khối lượng giải phóng mặt bằng hiện rất lớn và hầu hết
đang bị đình lại chưa thực hiện được.
Giá bồi thường :
Theo Điều 9 Nghị định số 197/2007/NĐ-CP ngày 3/12/2004 về thì : “giá đất
để tính bồi thường theo mục đích đang sử dụng tại thời điểm có quyết định thu
hồi đất do UBND cấp tỉnh công bố theo quy định của Chính phủ; không bồi
thường theo giá đất sẽ được chuyển mục đích sử dụng ”.
Thành phố Hà Nội Quyết định số 137/2007/QĐ- UBND ngày 30/11/2007
của UBND Thành phố, thay thế Quyết định số 26/2005QĐ/UB ngày
18/2/2005của UBND thành phố, thực hiện Luật Đất đai 2003; chính sách hỗ trợ
ổn định đời sống, hỗ trợ học nghề giải quyết lao động việc làm cho người nông
nghiệp bị thu hồi đất: Ổn định đời sống: 35.000.Nghìn đồng /m2, hỗ trợ học
nghề, chuyển đổi nghề nghiệp :30.000 nghìn đồng /m2
1. Đất nông nghiệp của hộ gia đình, cá nhân có đủ điều kiện quy định tại
Điều 7 của bản quy định này khi Nhà nước thu hồi thì được bồi thường bằng
tiền theo giá đất nông nghiệp .
2. Đất nông nghiệp, vườn ao trong cùng một thửa đất có nhà ở của hộ gia
đình, cá nhân trong khu dân cư mà tại thời điểm xây dựng nhà ở không vi phạm
một trong các quy định tại các điểm a, b,c,d,đ Khoản 5 Điều 7 Quyết định này

15


Kho¸ luËn tèt nghiÖp
khi Nhà nước thu hồi, ngoài việc được bồi thường theo giá đất nông nghiệp cùng
mục đích sử dụng còn được hỗ trợ bằng tiền theo quy định sau:
1.2.3. Bồi thường thiệt hại sau thu hồi đất nông nghiệp.
a) Bằng 50% giá đất ở trong cùng thửa đất có nhà ở của hộ gia đình, cá
nhân mà đất này đủ một trong các điều kiện quy định tại Khoản 1,2 ,3, 4, 5, 6, 7

Điều 7 hoặc Điều 19 của bản Quy định này.
b) Bằng 30% giá đất ở trong cùng thửa đất có nhà ở của hộ gia đình cá
nhân đối với trường hợp sử dụng đất ở không có giấy tờ từ ngày 15/10/1993 đến
trước ngày 01/7/2004.
Quy định này đã thể hiện sự quan tâm của chính quyền địa phương đối với
quyền lợi của người dân sau khi bị thu hồi đất.
Tuy nhiên, vấn đề “giá bồi thường” hiện vẫn đang gây nhiều bức xúc trong
người dân, những quy định của pháp luật qua thực tế áp dụng đã bộc lộ những
hạn chế. Đây cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến việc xây dựng dự
thảo Luật sửa đổi Luật Đất đai 2003 mà tôi sẽ đề cập đến ở phần sau. Đề tài
nghiên cứu pháp luật điều chỉnh hoạt động thu hồi đất và thực trạng thu hồi đất
nông nghiệp.
1.2.4. Thẩm quyền thu hồi đất nông nghiệp.
Căn cứ vào Điều 44 Luật Đất đai năm 2003 thì thẩm quyền thu hồi đất cụ
thể như sau: UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương quyết định thu hồi đất
đối với tổ chức, cơ sở tôn giáo, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, tổ chức,
cá nhân nước ngoài.
Trừ trường hợp UBND huyện, quận, thị xã thành phố thuộc tỉnh quyết
định thu hồi đất đối với hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư, người Việt Nam
định cư ở nước ngoài thuộc đối tượng được mua nhà ở gắn liền với quyền sử
dụng đất tại Việt Nam.
1.2.5. Cưỡng chế thu hồi đất.

16


Kho¸ luËn tèt nghiÖp
Việc thu hồi đất có thể được bàn giao trong thời hạn 20 ngày kể từ ngày tổ
chức làm nhiệm vụ bồi thường giải phóng mặt bằng, thanh toán xong tiền bồi
thường theo phương án đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền xét duyệt.

Trong quá trình thu hồi đất cơ quan nhà nước có thẩm quyền đôi khi phải
thực hiện việc cưỡng chế thu hồi đất. Việc cưỡng chế thu hồi đất được thực hiện
khi đã quá 30 ngày kể từ thời điểm phải bàn giao đất quy định tại Điều 59 của
Nghị định số 84/2007/NĐ - CP ngày 25/5/2007 quy định bổ sung về việc cấp
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, thu hồi đất thực hiện quyền sử dụng đất
trình tự, thủ tục thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ tái định cư khi Nhà nước thu hồi
đất và giải quyết khiếu nại về đất đai mà người có đất bị thu hồi không bàn giao
đất cho tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường giải phóng mặt bằng.
Với thẩm quyền của cơ quan quản lý nhà nước, việc cưỡng chế thu hồi đất
có thể được tiến hành sau khi đại diện của tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường giải
phóng mặt bằng, UBND và Uỷ ban mặt trận Tổ quốc cấp xã nơi có đất thu hồi
đã vận động thuyết phục những người có đất bị thu hồi không chấp hành việc
bàn giao đất bị thu hồi.
Sau 15 ngày kể từ ngày giao trực tiếp quyết định cưỡng chế hoặc ngày
niêm yết công khai quyết định cưỡng chế mà người bị cưỡng chế không bàn giao
đất thường UBND cấp huyện chỉ đạo, tổ chức lực lượng cưỡng chế thu hồi đất
theo quy định của pháp luật.
Mọi trường hợp giải quyết khiếu nại đối với quyết định bồi thường, hỗ trợ
tái định cư hoặc quyết định cưỡng chế thu hồi đất được thực hiện theo quy định
tại Điều 138 của Luật Đất đai 2003, và Điều 63, 64 Nghị định số 84/NĐ - CP
ngày 25/5/2007.

17


Kho¸ luËn tèt nghiÖp

CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG ÁP DỤNG PHÁP LUẬT KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI
ĐẤT NÔNG NGHIỆP TẠI QUẬN LONG BIÊN – HÀ NỘI

2.1. Giới thiệu tổng quan về Quận Long Biên
Ngày 6/11/2003, Chính phủ ban hành Nghị định số 132/2003/NĐ-CP về
việc điều chỉnh dể thành lập Quận Long Biên thuộc Thành phố Hà Nội. Long
Biên có Sông Hồng là giới hạn vói Quận Hoàn Kiếm, Tranh trì, Tây hồ, Hai Bà
Trưng: Sông Đuống là giới hạn với Huyện Gia Lâm, Đông anh. Phía Đông giáp
huyện Gia Lâm; phí Tây giáp Quận Hoàn Kiếm, Phía Nam giáp huyện Thanh
Trì; phía bắc giáp huyện Gia Lâm, Đông Anh.
Long Biên có diện tích 6.038,24 ha với trên 190.000 nhân khẩu, có 14 đơn
vị hành chính trực thuộc là các phường: Cự Khối, Thạch Bàn, Long Biên, Bồ Đề,
Ngọc Thuỵ, Ngọc Lâm, Gia Thuỵ, Thượng Thanh, Việt Hưng, Phúc Đồng, Sài

18


Kho¸ luËn tèt nghiÖp
Đồng, Phúc Lợi, Giang Biên, Đức Giang với 301 tổ dân phố mật độ bình quân
2,83 nghìn người trên km2.
Quận Long Biên có 1 vị trí chiến lược rất quan trọng về chính trị, kinh tế,
văn hoá xã hội của Hà Nội và đất nước. Nơi đây có các tuyến giao thông quan
trọng như đường sắt, đường bộ, đường thuỷ, đường không nối liền với các tỉnh
phía Bắc, Đông Bắc; có sân bay Gia Lâm, khu vực quân sự, nhiều khu công
nghiệp liên doanh với nước ngoài như; khu công nghiệp kỹ thuật cao Sài Đồng
B, khu công nghiệp Sài Đồng A, nhiều công trình kinh tế, văn hoá, khoa học kỹ
thuật, cơ quan nhà máy, đơn vị sản xuất, kinh doanh của Trung ương, Thành phố
và địa phương. Đặc biệt với lợi thế vị trí cửa ngõ Hà Nội, nối liền với trục tam
giác kinh tế Hà Nội – Hải Phòng – Quảng Ninh, đồng thời cũng là trục kinh tế
sôi động hội nhập nền kinh tế trong khu vực và thế giới. Đó là yếu tố cơ bản
thuận lợi cho Quận Long Biên phát triển nhanh, mạnh và bền vững về kinh tế –
xã hội.
Năm năm là khoảng thời gian rất ngắn, nhưng với Long Biên 5 năm đầu

mới thành lập có ý nghĩa cực kỳ quan trọng, quyết định chiều hướng phát triển
và diện mạo tương lai của một Quận. Từ một phần đất của một huyện ngoại
thành trở thành một Quận ven đô nhiệm vụ trọng tâm suốt thời kỳ đầu của Long
Biên là tập trung phát triển đô thị với yêu cầu nhanh song phải đạt đượng sự bền
vững, bảo đảm có những chuyển biến căn bản trên tất cả các lĩnh vực, đồng thời
tạo sự gắn kết chặt chẽ giữa phát triển kinh tế, xây dựng – quản lý đô thị, văn
hoá - xã hội, bảo đảm an ninh quốc phòng. Phải huy động được sức mạnh của cả
hệ thống chính trị để đạt được mục tiêu trước mắt cũng như lâu dài. Với tinh thần
chủ động, năng động, sáng tạo trong lãnh đạo điều hành, tổ chức thực hiện các
cấp uỷ Đảng, chính quyền từ Quận đến cơ sở, phát huy vai trò tích cực của Mặt
trận tổ quốc và các Đoàn thể nhân dân; đặc biệt sự quan tâm lãnh đạo sát sao của
Thành uỷ, HĐND, UBND, sự phối hợp chặt chẽ, có hiệu quả của các sở, ban,

19


Kho¸ luËn tèt nghiÖp
ngành, Đoàn thể của Thành phố, 5 năm qua quận Long Biên đã đạt được kết quả
toàn diện, những thành tích rất đáng tự hào trên các lĩnh vực công tác và đời
sống xã hội.
Kinh tế trên địa bàn chuyển dịch nhanh từ cơ cấu kinh tế công nghiệp
– dịch vụ – Nông nghiệp sang cơ cấu kinh tế: Dịch vụ – công nghiệp – nông
nghiệp theo hướng đô thị sinh thái. Thu ngân sách mỗi năm một tăng và vượt
cao so với kế hoạch.
Xây dựng quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội quận Long Biên
đến năm 2010, định hướng đến năm 2020. Khuyến khích tạo điều kiện cho các
doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế phát triển thuận lợi, thu hút nhiều
doanh nghiệp đầu tư phát triển trên địa bàn, khi mới thành lập Quận năm 2004
trên địa bàn có 598 doanh nghiệp, nay đã phát triển 1.900 doanh nghiệp thuộc
các thành phần kinh tế, góp phần đẩy nhanh tốc độ phất triển kinh tế trên địa bàn

Quận.
Luôn đạt tốc độ tăng trưởng cao và ổn định, giá trị sản xuất năm 2004 đạt
1.468,5 tỷ đồng, năm 2008 đạt 2.706 tỷ đồng tăng 84% so với năm 2004, tốc độ
tăng bình quân hàng năm 16.8% (chỉ tiêu Đại hội đề ra từ 15 – 16%) Quận chủ
trương phát triển công nghiệp có chọn lọc, khuyến khích phát triển công nghiệp
với hàm lượng chất xám cao, hướng ưu tiên vào những ngành sử dụng công
nghiệp hiện đại, kỹ thuật tiên tiến không gây ô nhiễm môi trường và làm ra các
sản phẩm có thị trường, có khả năng cạnh tranh cao (điện, điện tử, công nghiệp
lắp ráp ôtô, xe máy...)
Khối doanh nghiệp đã đẩy mạnh sắp xếp, đổi mới, chủ động dựng kế
hoạch sản xuất kinh doanh, bám sát thị trường, gắn sản xuất với tiêu thụ sản
phẩm, đổi mới công nghệ.
Phát triển theo hướng vừa chú trọng phát triển các loại hình dịch vụ phổ
thông vừa khuyến khích tạo điều kiện từng bước phát triển các loại hình dịch vụ

20


Kho¸ luËn tèt nghiÖp
chất lượng cao, đáp ứng ngày càng đa dạng yêu cầu sản xuất và nhu cầu tiêu
dùng của nhân dân. Các hoạt động dịch vụ đáp ứng nhanh quá trình phát triển
khu công nghiệp, khu đô thị mới. Mạng lưới tại chợ 14 phường được sắp xếp
củng cố, đưa vào quản lý sử dụng có hiệu quả, thu hút được nhiều tổ chức, cá
nhân tham gia kinh doanh, thúc đẩy lưu chuyển hoàng hoá, tạo việc làm, ổn định
thu nhập, góp phần chuyển dịch cơ cấu lao động từ nông nghiệp sang dịch vụ.
Quận đã chủ động lập danh mục các dự án kêu gọi đầu tư xây dựng phát
triển các chợ, các trung tâm thương mại tại: Việt Hưng, Thạch Bàn, Sài Đồng,
Ngọc Thuỵ, Gia Thuỵ,...Bên cạnh đó các loại hình dịch vụ chất lượng cao như:
Tài chính, Ngân hàng, bưu chính viễn thông, cũng được tạo điều kiện khuyến
khích phát triển mạnh mẽ.

Năm 2004, tổng mức lưu chuyển hàng hoá đạt 752.8 tỷ đồng, năm 2008
đạt 2.614 tỷ đồng tăng 247% so với năm 2004, cơ cấu ngành dịch vụ chiếm
47.9% (tăng 15% so với năm 2004).
Được quy hoạch phát triển theo hướng nông nghiệp - đô thị – sinh thái
đảm bảo cho quá trình phát triển bền vững. Mặc dù chịu ảnh hưởng của nhiều
yếu tố bất lợi do thời tiết, quy trình đô thị hoá, song do sự chỉ đạo làm tốt công
tác quy vùng, quy hoạch, tăng cường đầu tư các công trình kỹ thuật hạ tầng kỹ
thuật phục vụ sản xuất nông nghiệp, đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong
nông nghiệp theo hướng sản xuất những sản phẩm hàng hoá với chất lượng và
giá trị cao, bước đầu hình thành các vùng sản xuất rau an toàn.
Tốc độ tăng trưởng ngành nông nghiệp hàng năm trên địa bàn Quận đạt
1,1% giá trị sản xuất trên 1 ha canh tác tăng bình quân 4,6%,
Tăng cường cho công tác đầu tư phát triển của Quận. Thu ngân sách hàng
năm đều đạt và vượt kế hoạch thành phố giao, nhiều khoản thu đạt cao. Năm
2004, tổng thu đạt 259,404 tỷ đồng, nhiệm vụ thu năm 2008 gần 800 tỷ đồng
tăng gấp 3 lần năm 2004.

21


Kho¸ luËn tèt nghiÖp
Từ các nguồn vượt thu theo kế hoạch đã tăng cường đầu tư xây dựng
nhiều công trình quan trọng phục vụ cho phát triển kinh tế xã hội và đời sống của
nhân dân như: hệ thống đường giao thông, chiếu sáng, tiêu thoát nước, các
trường học, trạm y tế phường, nhà văn hoá.
Hệ thống các quy hoạch được nhanh chóng xây dựng, hoàn thiện. Tập
trung đầy tư phát triển hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội. Bộ mặt đô thị có nhiều
thay đổi. Quản lý đất đai, trật tự xây dựng đô thị đi vào nề nếp và có chuyển biến
rõ nét, môi trường xã hội được cải thiện.
Là một nhiệm vụ trọng tâm xuyên suốt trong 5 năm qua. Ngay khi mới

thành lập Quận đã chủ động đề xuất với thành phố; phối hợp chặt chẽ với các Sở,
ngành, các Viện nghiên cứu, trường Đại học để xây dựng quy hoạch tổng thể
phát triển kinh tế – xã hội đến năm 2010, định hướng đến năm 2020. Các quy
hoạch chuyên ngành về hạ tầng kỹ thuật như: Điện, giao thông, cấp thoát nước,
chiếu sáng, đảm bảo công tác quản lý đô thị theo quy hoạch, đồng thời huy động
mọi nguồn lực để phát triển nhanh và đồng bộ hệ thống hạ tầng kỹ thuật trên địa
bàn. Thực tế hiệu quả xã hội hoá trong nhiều lĩnh vực, vệ sinh môi trường, đầu tư
xây dựng chợ, làm đường giao thông, cứng hoá mương thoát nước, duy tu vườn
hoa, công viên, áp dụng cơ chế vay vốn để xây dựng các tuyến đường chính theo
quy hoạch. Là Quận đầu tiên của Thành phố tổ chức tốt việc đấu thầu thu gom
rác thảo theo đề án xã hội hoá vệ sinh môi trường.
Các công trình kết cấu hạ tầng được đầu tư mạnh mẽ theo hướng đồng bộ,
hiện đại, ưu tiền đầu tư cho giáo dục, y tế, giao thông.Trong 5 năm quận đã đầu
tư trên 1.300 tỷ đồng từ các nguồn vống để xây dựng các công trình hạ tầng kỹ
thuật xã hội 100% các trường học đầu tư xây dựng và nâng cấp, trong 11 trường
học đạt chuẩn quốc gia, 100% y tế phường đạt chuẩn quốc gia về y tế cơ sở, xây
dựng 141 trụ sở nhà văn hoá tổ dân phố, đầu tư đường giao thông; nước sinh
hoạt, đến nay cơ bản nhân dân trong toàn Quận được sử dụng nước sạch trong

22


Kho¸ luËn tèt nghiÖp
sinh hoạt. Cơ bản hoàn thành việc lắp đặt hệ thống chiếu sáng ở các tuyến đường
rộng trên 2m tại các phường trên địa bàn, góp phần thay đổi diện mạo của Quận
mới được thành lập.
Tăng cường công tác quản lý đất đai, quản lý đô thị trên địa bàn, xây dựng
và tổ chức tốt kế hoạch sử dụng đất hàng năm, cơ bản hoàn thành việc cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất đối với các khu dân cư thuộc quận quản lý. Quận
tiếp nhận và quản lý 175 khu tập thể do các đơn vị bàn giao. Hoàn thành rà soát,

đánh giá, phân loại toàn bộ quỹ đất thống kê các vị trí đất công đưa vào quản lý,
khai thác. Thực hiện nghiêm túc công tác thanh tra, kiểm tra theo chỉ thị số 15,
16, 17 của UBND Thành phố, xử lý nghiêm các sai phạm.
Công tác quản lý đô thị trên địa bàn có nhiều chuyển biến tích cực, thường
xuyên kiểm tra, đôn đốc, chỉ đạo, phối hợp chặt chẽ các ngành chức năng từ
Quận tới các Phường. UBND Quận đã ban hành quy trình cấp phép xây dựng và
quy trình xử lý vi phạm về trật tự xây dựng, kiên quyết xử lý và không để phát
sinh những vi phạm mới đối với đất nông nghiệp, ngăn chặn có hiệu quả việc lấn
chiếm đất công, đất kẹt, ao hồ ở cơ sở. Nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của
người dân đô thị; tỷ lệ công trình xây dựng xin phép trên địa bàn quận từ 15%
năm 2004 tăng lên 95% (là quận có tỷ lệ xin phép xây dựng cao của Thành phố).
Được xác định là một trong những nhiệm vụ trọng tâm trong công tác lãnh
đạo; với phương châm chỉ đạo làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục, thuyết
phục; đảm bảo công khai, dân chủ và đúng luật, tạo sự thống nhất trong hệ thống
chính trị và sự đồng thuận trong nhân nhân.
Sự nghiệp Văn hoá - Xã hội phát triển tiến bộ theo hướng “Chuẩn hóa” và
“Xã hội hoá”
Tập trung chỉ đạo thực hiện chương trình phát triển văn hoá xã hội, thiết
thực kỷ niệm 1000 năm Thăng Long – Hà Nội, triển khai thực hiện đề án: Xây

23


Kho¸ luËn tèt nghiÖp
dựng tổ dân phố văn hoá, giải quyết việc làm, nâng cao chất lượng dinh dưỡng
cộng đồng đã đạt được những kết quả phấn khởi.
Quán triệt quan điểm của Đảng “Giáo dục là quốc sách hàng đầu”, “Đầu
tư cho giáo dục là đầu tư cho tương lai”, trong 5 năm quận đã tập trung đầu tư
nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, củng cố mạng lưới trường học, phát
triển quy mô giáo dục, tạo sự đồng đều về chất lượng giữa các vùng, đẩy mạnh

xây dựng “trường chuẩn Quốc gia”.
Hoạt động văn hoá thông tin, thể dục thể thao đã góp phần xây dựng môi
trường văn hoá lành mạnh, xây dựng nếp sống văn minh đô thị, xây dựng người
Long Biên – Hà Nội thanh lịch – văn minh, nâng cao chất lượng cuộc vận động
“Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá”, triển khai thực hiện đề án “Xây
dựng tổ dân phố văn hoá Quận Long Biên giai đoạn 2006 -2010”. Bình quân
hàng năm có 95.8% hộ gia đình đăng ký gia đình văn hoá, trên 83,4% gia đình
đạt danh hiệu gia đình văn hoá.
5 năm qua, Quận đã kịp thời chi trả đầy đủ chế độ, lương hưu, trợ cấp,
chính sách, xã hội; tổ chức chu đáo việc tặng quà cho các cụ cao tuổi, người có
công, gia đình chính scáh, gia đình có hoán cảnh khó khăn trong các dịp lễ tết,
đặc biệt trong năm 2008 đã chủ động xây dựng kế hoạch nhằm đảm bảo an sinh
xã hội trên địa bàn, quận đã trích trên 2 tỷ đồng, hỗ trợ cho các gia đình chính
sách khó khăn, các gia đình khó khăn, các gia đình mắc bệnh hiểm nghèo, tặng
80 nhà tình nghĩa. Mỗi năm giải quyết việc làm cho trên 5000 lao động hướng
nghiệp dạy nghề tổ chức tốt các hoạt động.
Trong thời gian từ 23/11/2003 đến 23/11/2008 quận đã tổ chức đền bù,
GPMB 67 dự án trên tổng diện tích 245ha, thực hiện giao đất tái định cư trên
diện tích 3,5 ha, dự án xây dựng Khu đô thị mới Việt Hưng, Sài Đồng, Thạch
Bàn, đường vành đai 3 cầu Thanh Trì, bãi đỗ xe và chợ đầu mối Gia Thuỵ, khu
đấu giá quyền sử dụng đất phường Việt Hưng. Đặc biệt, cuối năm 2004, trong

24


Kho¸ luËn tèt nghiÖp
một thời gian ngắn đã hoàn thành GPMB phục vụ khởi công xây dựng cầu Vĩnh
Tuy.
Trong sự phát triển của đất nước, nông nghiệp và nông thôn giữ vai trò vô
cùng quan trọng trong việc thúc đẩy sản xuất, góp phần giải quyết việc làm cho

một bộ phận lớn lao động, nâng cao đời sống của người nông dân. Với vai trò là
ngành kinh tế chiếm tỉ trọng lớn trong nền kinh tế Quốc dân, ngành nông nghiệp
đã và đang thể hiện xứng đáng với vị trí then chốt của mình. Nghị quyết Hội
nghị Ban chấp hành Trung ương lần thứ 5 khoá IX đã xác định “Đẩy mạnh công
nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn với tốc độ nhanh, vững chắc
theo mục tiêu đã định ” càng khẳng định hơn nữa vai trò của nông nghiệp trong
công cuộc xây dựng và đổi mới đất nước. Cùng với sự phát triển của nông
nghiệp, một yếu tố giữ vai trò then chốt là đất nông nghiệp. Số lượng diện tích
đất nông nghiệp và hiệu quả sử dụng của nó ảnh hưởng trực tiếp tới sự phát triển
của nông nghiệp.
Tuy nhiên, hiện nay vấn đề công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước đang
diễn ra mạnh mẽ. Từ đó, đặt ra việc phải có đất để triển khai các dự án, thu hút
vốn đầu tư trong nước và nước ngoài. Để đáp ứng nhu cầu về đất trong thời kì
công nghiệp hoá, hiện đại hoá, một phần lớn diện tích đất nông nghiệp đã bị thu
hồi theo chủ trương của Nhà nước. Việc thu hồi đất nông nghiệp phục vụ các khu
công nghiệp cần phải được tính toán một cách khoa học, tránh những tác động
xấu đến đời sống của người nông dân, sản xuất nông nghiệp. Trên thực tế hiện
nay, do việc nhìn nhận còn chưa đúng đắn, khách quan, quá coi trọng phát triển
công nghiệp, trong nhiều năm, nhiều địa phương đã thực hiện chính sách “trải
thảm đỏ” đón các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài dẫn đến việc thu hồi đất
nông nghiệp một cách ồ ạt, đất “ bờ xôi ruộng mật” bị lấy làm khu công nghiệp,
khu đô thị. Song lại không giải quyết được tốt các vấn đề hậu thu hồi đất, gây ra
những bất ổn trong xã hội. Vấn đề trên đang thu hút được nhiều sự quan tâm từ

25


×