Tải bản đầy đủ (.doc) (76 trang)

Một số vấn đề pháp lý về thanh toán bằng thẻ tín dụng ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (371.74 KB, 76 trang )

MỤC LỤC
BẢNG DANH MỤC CÁC CHỮ CÁI VIẾT TẮT
PHẦN MỞ ĐẦU

CHƯƠNG I. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ THANH TOÁN BẰNG THẺ
TÍN DỤNG.....................................................................................................10
1.1.Khái niệm và đặc điểm của thẻ tín dụng:..........................................10
1.1.1. Khái niệm thẻ tín dụng:...............................................................10
1.1.2. Đặc điểm của thẻ tín dụng:..........................................................15
1.2. Phân loại thẻ tín dụng:........................................................................18
1.3. Khái niệm và đặc điểm thanh toán bằng thẻ tín dụng:...................22
1.3.1. Khái niệm:.....................................................................................22
1.3.2. Đặc điểm của thanh toán bằng thẻ tín dụng:.............................24
1.4. Vai trò của phương thức thanh toán bằng thẻ tín dụng..................26
Kết luận chương I..........................................................................................31
CHƯƠNG II. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ THANH TOÁN BẰNG
THẺ TÍN DỤNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY..............................................32
2.1. Điều kiện phát hành thẻ tín dụng......................................................32
2.2. Trình tự, thủ tục thanh toán bằng thẻ tín dụng:..............................36
2.2.1. Quy trình phát hành thẻ:.............................................................37
2.2.2. Quy trình thanh toán thẻ trực tiếp tại Đơn vị chấp nhận thẻ:. 39
2.2.3.Quy trình thanh toán thẻ qua mạng Internet.............................41
2.2.4. Quy trình giao dịch với việc rút tiền mặt...................................43
2.3. Chủ thể tham gia hoạt động thanh toán bằng thẻ tín dụng............45
2.4. Quan hệ pháp lý phát sinh từ hoạt động thanh toán bằng thẻ tín
dụng:...........................................................................................................47
2.4.1. Quan hệ pháp lý giữa Tổ chức phát hành thẻ ( ngân hàng phát
hành thẻ ) và chủ thẻ tín dụng:.............................................................47

1



2.4.2. Quan hệ pháp lý giữa chủ thẻ tín dụng với Đơn vị chấp nhận
thẻ:...........................................................................................................51
2.4.3. Quan hệ pháp lý giữa Đơn vị chấp nhận thẻ và
Tổ chức thanh toán thẻ:..............................................................53
2.4.4. Quan hệ pháp lý giữa Tổ chức thanh toán trung gian với các Tổ
chức phát hành thẻ, Tổ chức thanh toán thẻ.......................................56
2.4.5. Quan hệ pháp lý giữa Tổ chức thẻ quốc tế với các Tổ chức phát
hành thẻ, Tổ chức thanh toán thẻ ở Việt Nam.....................................57
2.5. Chấm dứt hoạt động thanh toán bằng thẻ tín dụng........................58
2.6. Xử lý vi phạm trong hoạt động thanh toán bằng thẻ tín dụng:......59
Kết luận chương II........................................................................................61
CHƯƠNG III. PHƯƠNG HƯỚNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ
THANH TOÁN BẰNG THẺ TÍN DỤNG Ở VIỆT NAM..........................62
3.1 Sự cần thiết phải hoàn thiện pháp luật về thẻ tín dụng:...................62
3.2.Một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về thẻ tín dụng.........64
3.2.1. Thống nhất hóa các quy đinh về phát hành, sử dụng thanh toán
thẻ tín dụng trong một văn bản pháp luật...........................................64
3.2.2. Quản lý Nhà nước về tội phạm thẻ.............................................67
3.2.3. Phát huy năng lực hoạt động của hiệp hội ngành nghề:...........69
3.2.4. Hoàn thiện các quy định pháp lý về mở rộng đối
tượng chủ thẻ tín dụng.................................................................70
Phần kết luận.................................................................................................72
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................73
Phần phụ lục..................................................................................................76

2


BẢNG DANH MỤC CÁC CHỮ CÁI VIẾT TẮT



TCPHT

: Tổ chức phát hành thẻ.



NHPHT

: Ngân hàng phát hành thẻ.



NHNN

: Ngân hàng Nhà nước.



NN

: Nhà nước.



ĐVCNT

: Đơn vị chấp nhận thẻ.




TCTTT

: Tổ chức thanh toán thẻ.



TCTQT

: Tổ chức thẻ quốc tế.



NH

: Ngân hàng.



NHTM

: Ngân hàng thương mại.



VNĐ

: Việt Nam đồng.




KH

: Khách hàng

3


Phần mở đầu
1.

Tính cấp thiết của đề tài:
Lĩnh vực thẻ ngân hàng ở nước ta nói chung và thẻ tín dụng nói riêng

đang phát triển mạnh mẽ và nhanh chóng ở thị trường Việt Nam. Tuy nhiên,
chính sự phát triển này cũng đã tiềm ẩn rất nhiều vấn đề nảy sinh trong việc
đảm bảo quyền và các lợi ích cơ bản của các bên tham gia vào thị trường thẻ
ở nước ta. Hành lang pháp lý trong lĩnh vực thẻ tín dụng hiện nay đang có
nhiều lỗ hổng đáng lưu ý. Nắm bắt được yêu cầu cấp thiết trong việc cần bổ
sung nhiều qui định cụ thể hơn nữa để điều chỉnh các vấn đề phát sinh xung
quanh lĩnh vực thanh toán bằng thẻ tín dụng mà Pháp luật Việt Nam vẫn còn
đang thiếu, khóa luận với đề tài “ Một số vấn đề pháp lý về thanh toán bằng
thẻ tín dụng ở Việt Nam “ ra đời với mong muốn được góp một phần nhỏ ý
kiến để có thêm nhiều cái nhìn sinh động và khách quan về lĩnh vực thanh
toán bằng thẻ tín dụng ở nước ta hiện nay.
2.

Tình hình nghiên cứu:
Khóa luận đã đi sâu tìm hiểu và khái quát chung được các kiến thức về


thanh toán bằng thẻ tín dụng cũng như nghiên cứu thực trạng pháp luật về
thanh toán bằng thẻ tín dụng ở Việt Nam hiện nay. Dựa trên những thông tin
và số liệu thực tế đã thu thập, khóa luận đưa ra những nhận xét khách quan về
thực tiễn của đề tài được nghiên cứu tại thời điểm hiện tại. Đồng thời, khóa
luận cũng đã đúc kết tất cả các các kiến thức đã tìm hiểu được để đưa ra
phương hướng hoàn thiện pháp luật về thanh toán bằng thẻ tín dụng ở Việt
Nam. Khóa luận hoàn tất nghiên cứu về một số vấn đề pháp lý về thanh toán
bằng thẻ tín dụng ở nước ta hiện nay.

4


3.

Mục đích nghiên cứu:
Khóa luận được hoàn thành với mục đích tìm hiểu kỹ hơn về lĩnh vực

thẻ tín dụng ở Việt Nam hiện nay, mà cụ thể ở đây là thanh toán bằng thẻ tín
dụng. Qua những hiểu biết khái quát về thẻ tín dụng cũng như về thanh toán
bằng thẻ tín dụng, khóa luận đã tập trung tìm hiểu về thực trạng pháp luật Việt
Nam hiện nay về thanh toán bằng thẻ tín dụng. Rồi từ đó, rút ra những nhận
xét khách quan về thực tế diễn biến của vấn đề được nghiên cứu ở nước ta tại
thời điểm nghiên cứu. Cuối cùng, khóa luận đã đúc kết tất cả các vấn đề đã
nghiên cứu để đưa ra phương hướng hoàn thiện pháp luật về thanh toán bằng
thẻ tín dụng ở Việt Nam.
4.

Phạm vi nghiên cứu:
Trong phạm vi nghiên cứu của một bài khóa luận tốt nghiệp đại học,


cùng với sự hạn hẹp về thời gian nghiên cứu, khóa luận chỉ tập trung tìm hiểu
về một số vấn đề pháp lý về lĩnh vực thanh toán bằng thẻ tín dụng chứ không
tìm hiểu sâu hơn về toàn bộ pháp luật điều chỉnh về lĩnh vực thanh toán ngân
hàng nói chung. Khóa luận đã được nghiên cứu dựa trên sự tham khảo các
văn bản pháp luật chuyên ngành như: Bộ luật dân sự Việt Nam, Luật Ngân
hàng Nhà nước Việt Nam, Luật các tổ chức tín dụng…; cũng như tìm hiểu về
các nguồn thông tin trên các phương tiện truyền thông như: Tạp chí ngân
hàng Việt Nam, Thời báo Kinh tế Việt Nam, báo Thanh Niên, các trang web
chính thức của ngân hàng nhà nước, hiệp hội thẻ Việt Nam, các ngân hàng
thương mại trong nước cũng như nước ngoài…và các giáo trình, sách tham
khảo của các giảng viên khoa Luật, học viện Ngân hàng…
5.

Phương pháp nghiên cứu:
Khóa luận được thực hiện theo sự kết hợp của nhiều phương pháp

nghiên cứu khác nhau, như: phương pháp thống kê, thu thập tài liệu; phương
pháp so sánh; phương pháp tổng hợp, phân tích… Phương pháp thống kê đã
5


mang lại nhiều số liệu thực tiển khách quan về tình hình phát triển của các
giao dịch thanh toán bằng thẻ tín dụng. Phương pháp thu thập tài liệu giúp
khóa luận có được nhiều nguồn thông tin khách quan bổ trợ cũng như có các
tư liệu quý giá để nghiên cứu đề tài. Ngoài ra, nhờ vào phương pháp so sánh
các số liệu về tình hình phát triển của thị trường thẻ ngân hàng qua các năm,
khóa luận đã có cái nhìn tổng quát hơn về đề tài nghiên cứu. Cuối cùng, khóa
luận đã kết hợp giữa phương pháp tổng hợp và phân tích để đưa ra những
nhận xét, đánh giá khách quan về đề tài nghiên cứu: “ Một số vấn đề pháp lý

về thanh toán bằng thẻ tín dụng ở Việt Nam “
6.

Đóng góp của khóa luận:
Khóa luận đã kết hợp nhiều phương pháp nghiên cứu khác nhau để đi

sâu tìm hiểu và khái quát chung được các kiến thức về thanh toán bằng thẻ tín
dụng cũng như nghiên cứu thực trạng pháp luật về thanh toán bằng thẻ tín
dụng ở Việt Nam nhằm đưa ra phương hướng hoàn thiện pháp luật về thanh
toán bằng thẻ tín dụng ở Việt Nam. Khóa luận với đề tài “ Một số vấn đề pháp
lý về thanh toán bằng thẻ tín dụng ở Việt Nam “ ra đời với mong muốn được
góp một phần rất nhỏ ý kiến cá nhân để có thêm nhiều cái nhìn sinh động và
khách quan về lĩnh vực thanh toán bằng thẻ tín dụng ở nước ta hiện nay.
7.

Kết cấu của khóa luận:
Khóa luận với đề tài: “ Một số vấn đề pháp lý về thanh toán bằng thẻ

tín dụng ở Việt Nam “ được kết cấu gồm ba chương. Chương I: “ khái quát
chung về thanh toán bằng thẻ tín dụng “ đã đưa ra: khái niệm và đặc điểm của
thẻ tín dụng; phân loại thẻ tín dụng; khái niệm và đặc điểm thanh toán bằng
thẻ tín dụng và vai trò của phương thức thanh toán bằng thẻ tín dụng. Chương
II “ Thực trạng pháp luật về thanh toán bằng thẻ tín dụng ở Việt Nam hiện
nay “ gồm bốn phần với các nội dung: cơ sở pháp lý cho việc áp dụng

6


phương thức thanh toán bằng thẻ tín dụng; quan hệ pháp lý phát sinh từ hoạt
động thanh toán bằng thẻ tín dụng; chấm dứt hoạt động thanh toán bằng thẻ

tín dụng và quản lý nhà nước đối với hoạt động thanh toán bằng thẻ tín dụng.
Chương III “ Phương hướng hoàn thiện pháp luật về thanh toán bằng thẻ tín
dụng ở Việt Nam “ đã nêu ra sự cần thiết của hoàn thiện pháp luật về thẻ tín
dụng; đánh giá về sự quản lý nhà nước về tội phạm thẻ hiện nay và đề xuất
một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về thẻ tín dụng như thống nhất hóa các
quy định về phát hành, sử dụng, thanh toán thẻ tín dụng trong một văn bản
pháp luật.
Thẻ tín dụng từ lâu đã trở nên phổ biến với người dân ở các nước trên
thế giới. Nhưng ở Việt Nam, thẻ ngân hàng nói chung và thẻ tín dụng nói
riêng mới được biết đến trong khoảng gần hai thập kỷ trở lại đây. Cùng với sự
phát triển ồ ạt và tăng trưởng đồng đều của hệ thống các Ngân hàng thương
mại hiện nay, số lượng thẻ tín dụng ở thị trường Việt Nam đang không ngừng
tăng lên một cách nhanh chóng. Tuy nhiên, xét trên mặt bằng thế giới, số
lượng thẻ tín dụng ở thị trường thẻ Việt Nam là không nhiều. Trước đây, phần
đông đa số người dân nước ta vẫn chưa có thói quen sử dụng thường xuyên
thẻ tín dụng trong các giao dịch thanh toán tiêu dùng, thậm chí không ít người
vẫn lạ lẫm với chiếc thẻ tín dụng cũng như khá mơ hồ về các tính năng của
nó. Tình hình này đã được cải thiện rất nhiều nhờ vào sự cải tiến và nâng cao
chất lượng phục vụ của hệ thống Ngân hàng trong nước ngày một hiện đại,
mang nhiều tiện ích hơn cho khách hàng. Sự kiện Việt Nam gia nhập WTO
đánh dấu một bước tiến dài lịch sử được thế giới ghi nhận của nền kinh tế
nước ta. Nền kinh tế thương mại Việt Nam tiến bước hòa nhập với thị trường
quốc tế. Các tập đoàn kinh tế lớn trên toàn cầu tiến hành các dự án đầu tư,
kinh doanh ở thị trường nội địa. Theo đó, các ngân hàng thương mại trong
nước đã nỗ lực không ngừng để bắt kịp với nhịp phát triển của hệ thống dịch
vụ NH ở các nước cường quốc kinh tế trên thế giới, để có thể đứng vững cũng
như cạnh tranh được với các NH nước ngoài đang xâm nhập thị trường kinh
7



tế Việt Nam. Hiện nay, mạng lưới các tổ chức hoạt động thẻ tín dụng được mở
rộng ở nhiều nước trên thế giới và hệ thống thẻ tín dụng phổ cập toàn cầu
mang lại nhiều tiện ích phục vụ cho các nhu cầu vui chơi, giải trí, mua sắm,
học tập, du lịch, chữa bệnh… của hàng triệu người ở khắp mọi nơi với sự
chính xác và an toàn cao. Việc sử dụng thẻ tín dụng đã khắc phục được rất
nhiều điều bất tiện khi thanh toán bằng tiền mặt, nhất là với những chủ thẻ
hay dịch chuyển, sinh hoạt ở nhiều địa điểm khác nhau như: thương nhân, du
khách, du học sinh, vận động viên chuyên nghiệp…

8


CHƯƠNG I
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ THANH TOÁN BẰNG THẺ TÍN DỤNG
1.1.Khái niệm và đặc điểm của thẻ tín dụng:
1.1.1. Khái niệm thẻ tín dụng:
Hiện nay, thẻ tín dụng đã trở nên phổ biến và trở thành một vật dụng
quen thuộc không thể thiếu của hoạt động thanh toán tiêu dùng trong đời sống
người dân trên toàn cầu. Ở Việt Nam, người dân cũng đang quen dần với
thuật ngữ “ Thẻ tín dụng ”, nhất là khi tần suất xuất hiện của cụm từ này trên
các phương tiện truyền thông đại chúng ngày một nhiều hơn. Nghe nhiều về
thẻ tín dụng nhưng người dân sử dụng thẻ vẫn chưa hiểu được chính xác khái
niệm của thuật ngữ này bởi hiện nay các nhà nghiên cứu vẫn chưa đưa ra khái
niệm thống nhất về “ thẻ tín dụng “ một cách chính thức. “ Thẻ “ có thể hiểu
theo cách thông thường là vật nhỏ gọn và chứa đựng thông tin của chủ sở hữu
thẻ đó nhằm sử dụng vào một hoặc nhiều mục đích nhất định. Theo định
nghĩa của từ điển Tiếng Việt thì “ Thẻ là giấy chứng nhận một tư cách nào
đó, thường có dạng nhỏ gọn ” [19]. Từ khái niệm này, có thể đưa ra nhận xét
là thẻ luôn gắn liền với một chủ thể xác định nhất định và được chủ thể đó sử
dụng như một bằng chứng chứng minh tư cách chủ thể của mình khi tham gia

vào các gia dịch mà không phải xuất trình nhiều giấy tờ liên quan khác. Tính
năng tiện lợi này của thẻ đặc biệt hữu dụng khi tham gia vào các giao dịch
thanh toán ngân hàng, các giao dịch thanh toán tiêu dùng phát sinh thường
xuyên trong đời sống hàng ngày của người dân. Thẻ tín dụng ra đời đã thể
hiện đầy đủ các tính năng hoàn thiện đó.
Tín dụng được xem là hoạt động mang tính chất đặc trưng của các ngân
hàng nên thẻ tín dụng thường do Ngân hàng phát hành. Thẻ tín dụng không
chỉ đại diện cho hoạt động tín dụng ngân hàng mà nó còn có chức năng sử
dụng chủ yếu là để thanh toán tiền hàng hóa dịch vụ, nhằm mục đích thanh
9


toán tiêu dùng. Do đó, thẻ tín dụng là một loại thẻ thanh toán khá phổ biến
hiện nay. Với những đặc tính chung nêu trên, thì thẻ tín dụng sẽ mang những
tính chất, đặc điểm của cả thẻ ngân hàng và thẻ thanh toán. Như vậy, có thể
tìm hiểu khái niệm thẻ tín dụng thông qua khái niệm, bản chất của thẻ thanh
toán và thẻ ngân hàng.
Theo quan điểm của các nhà kinh tế học, thẻ thanh toán có thể được
hiểu là : ” chìa khóa đa năng để chủ thẻ kết nối với các chủ thẻ khác tham gia
hệ thống thanh toán thẻ phục vụ quá trình lưu chuyển hàng hóa, tiền tệ được
thỏa thuận trước nhằm thực hiện các dịch vụ thõa mãn nhu cầu của mình
”[21] . Như vậy, về phía chủ thể sử dụng thẻ thanh toán thì chỉ khi sở hữu và
sử dụng thẻ thanh toán để thực hiện các nhu cầu tiêu dùng của mình, mới có
thể tham gia vào hệ thống thanh toán thẻ và đương nhiên kết nối giao dịch với
các chủ thể khác theo một chu trình khép kín. Còn về phía các tổ chức phát
hành thẻ thì “ Thẻ thanh toán là một phương thức giao dịch ghi sổ những số
tiền thanh toán thông qua máy đọc thẻ phối hợp với hệ thống máy tính kết
hợp nối trung tâm thẻ với các điểm thanh toán ” [22]. Theo đó, thanh toán
bằng thẻ thanh toán được xem như là một phương thức giao dịch ghi sổ - một
nghiệp vụ qua ngân hàng kết hợp với sức mạnh của sự phát triển khoa học,

công nghệ thông tin.
Nhìn dưới góc độ pháp luật, khái niệm thẻ thanh toán đã xuất hiện
trong các văn bản pháp luật được ghi nhận từ năm 1994 mặc dù chưa kèm
theo các định nghĩa chính thức. Khi đó, thẻ thanh toán mới chỉ được giải thích
là: do ngân hàng phát hành và bán cho khách hàng sử dụng để trả tiền hàng
hóa, dịch vụ, các khoản thanh toán khác và rút tiền mặt tại các ngân hàng đại
lý thanh toán hay các quầy trả tiền mặt tự động 1. Theo đó, thẻ thanh toán
được phân loại bao gồm 3 loại là: thẻ ghi nợ, thẻ ký quỹ thanh toán và thẻ tín
dụng. Tuy chưa có định nghĩa chính thức về thẻ thanh toán nhưng những đặc
1

Điều 24, “ Thể lệ thanh toán không dùng tiền mặt ”, ban hành kèm theo quyết định số 22 /QĐ-

NH1 ngày 21/02/1994 của Thống đốc Ngân hàng nhà nước

10


tính cơ bản về thẻ thanh toán như: tổ chức phát hành thẻ là ngân hàng, mục
đích sử dụng thẻ là để thanh toán, rút tiền mặt và địa điểm giao dịch thẻ là tại
các ngân hàng đại lý thanh toán hay các quầy trả tiền mặt tự động cũng đã
được phần nào thể hiện ở văn bản pháp luật này. Thẻ tín dụng cũng được đề
cập qua mô tả: thẻ tín dụng áp dụng với những khách hàng có đủ điều kiện
được ngân hàng đồng ý cho vay tiền. Khách hàng chỉ được thanh toán số tiền
trong phạm vi hạn mức tín dụng đã được ngân hàng chấp thuận bằng văn
bản.2 Qua mô tả trên thì có thể phần nào có ý niệm cơ bản về thẻ tín dụng là:
thẻ được hình thành từ vốn vay của ngân hàng có mục đích sử dụng là thanh
toán tiền trong phạm vi số tiền cho vay.
Sau đó, các khái niệm về thẻ ngân hàng đã được quy định rõ nét hơn
trong Quy chế phát hành, sử dụng và thanh toán thẻ ngân hàng. Quy chế này

đã lần đầu tiên thể hiện khái niệm về thẻ ngân hàng. Theo đó, Thẻ ngân hàng
là công cụ thanh toán do tổ chức phát hành thẻ cấp cho khách hàng sử dụng
theo hợp đồng kí kết giữa tổ chức phát hành thẻ và chủ thẻ 3. Khái niệm này
thể hiện sự mở rộng hơn về chủ thể phát hành thẻ ( có thể hiểu không chỉ là
ngân hàng mới có quyền phát hành thẻ ), đồng thời nó cũng khẳng định hình
thức giao dịch là hợp đồng và cơ sở phát sinh các quyền, nghĩa vụ của các bên
là từ hợp đồng đã được kí kết. Quy chế này còn thể hiện sự rõ ràng về mặt
khái niệm qua sự phân tách thẻ ngân hàng thành 2 loại là thẻ thanh toán và thẻ
tín dụng. Tuy thẻ thanh toán và thẻ tín dụng đều là thẻ ngân hàng, phục vụ
cho mục đích thanh toán tiêu dùng, nhưng chúng không hoàn toàn giống nhau
về một vài đặc tính riêng. Theo đó, thẻ thanh toán là thẻ được Chủ thẻ sử
dụng để thanh toán tiền hàng hóa, dịch vụ, rút tiền mặt trong phạm vi số dư
trên tài khoản tiền gửi của mình tại tổ chức phát hành thẻ 4. Nếu số tiền trong
tài khoản thẻ thanh toán được hình thành từ số tiền gửi của chủ thẻ, thì số tiền
2

Điều 24, “Thể lệ thanh toán không dùng tiền mặt, quyết định số 22 /QĐ-NH1 ngày 21/02/1994

của Thống đốc Ngân hàng nhà nước
3

“ Quy chế phát hành, sử dụng và thanh toán thẻ ngân hàng”, Quyết định số 371/1999/QĐ-NHNN

ngày 19/10/1999 của thống đốc Ngân hàng nhà nước

11


trong tài khoản thẻ tín dụng lại được cấp từ số tiền cho vay của ngân hàng cho
chủ thẻ. Bởi Thẻ tín dụng được khái quát là loại thẻ cho phép Chủ thẻ thanh

toán tiền hàng hóa, dịch vụ, rút tiền mặt trong hạn mức tín dụng được tổ chức
phát hành thẻ chấp thuận theo hợp đồng.5
Trong văn bản mới đây nhất ( 2007 ), thì khái niệm về các loại thẻ đã
được sửa đổi lại trong Quy chế phát hành, sử dụng, thanh toán và cung cấp
dịch vụ hỗ trợ thẻ ngân hàng. Theo Quy chế mới ban hành này thì khái niệm
thẻ thanh toán không còn được sử dụng mà thay vào đó là khái niệm thẻ ngân
hàng. Thẻ ngân hàng được hiểu là: phương tiện do tổ chức thanh toán thẻ
phát hành để thực hiện giao dịch thẻ theo các điều kiện và điều khoản được
các bên thỏa thuận6. Theo đó, thẻ ngân hàng sẽ bao gồm 3 loại thẻ là thẻ ghi
nợ, thẻ tín dụng và thẻ trả trước. Quy chế này cũng đã đưa ra định nghĩa về
thẻ tín dụng. Thẻ tín dụng ( credit card ): là thẻ cho phép chủ thẻ thực hiện
giao dịch thẻ trong phạm vi hạn mức tín dụng được cấp theo thỏa thuận của
tổ chức phát hành thẻ. Và bổ sung kèm theo định nghĩa về thẻ tín dụng này là
khái niệm về giao dịch thẻ. Giao dịch thẻ được hiểu là việc “ sử dụng thẻ để
gửi, nạp, rút tiền mặt, thanh toán tiền hàng hóa, dịch vụ, sử dụng các dịch vụ
khác do tổ chức phát hành thẻ, tổ chức thanh toán thẻ cung ứng ”. Như vậy,
Quy chế trên đã đưa ra một khái niệm đơn giản, xúc tích, dễ hiểu hơn về thẻ
tín dụng. Thẻ tín dụng, theo khái niệm này không những thể hiện hoạt động
tín dụng ngân hàng cho khách hàng mà còn thể hiện tính đa năng trong các
hoạt động khác như: giao dịch tiền mặt qua ngân hàng, thanh toán và thực
hiện các dịch vụ tiện ích khác.
4

“ Quy chế phát hành, sử dụng và thanh toán thẻ ngân hàng”, Quyết định số 371/1999/QĐ-NHNN

ngày 19/10/1999 của thống đốc Ngân hàng nhà nước
5

“ Quy chế phát hành, sử dụng và thanh toán thẻ ngân hàng”, Quyết định số 371/1999/QĐ-NHNN


ngày 19/10/1999 của thống đốc Ngân hàng nhà nước
6

“Quy chế phát hành, sử dụng, thanh toán và cung cấp dịch vụ hỗ trợ thẻ ngân hàng”, Quyết định

20/2007/QĐ-NHNN ngày 15/5/2007 của Thống đốc NHNN ban hành

12


Như vậy, “ thẻ tín dụng “ đã được pháp luật nêu ra những khái niệm,
định nghĩa cơ bản. Tuy nhiên khái niệm trên vẫn chưa được thể hiện thống
nhất một cách cụ thể trong các văn bản pháp luật. Theo đó, thẻ tín dụng và thẻ
thanh toán vẫn được khái quát hóa thông qua các đặc trưng cơ bản của chúng.
Vậy, theo quan điểm của chúng tôi thì: “ Thẻ tín dụng là phương tiện thanh
toán do ngân hàng hoặc tổ chức phi ngân hàng phát hành theo thỏa thuận
với chủ thẻ nhằm thỏa mãn các nhu cầu tín dụng tiêu dùng, cho phép chủ
thẻ thanh toán trong một hạn mức tiền nhất định qua việc xác lập quan hệ
thanh toán giữa chủ thẻ với đơn vị chấp nhận thẻ, đồng thời cũng xác lập
quan hệ vay nợ giữa chủ thẻ với tổ chức đã phát hành thẻ ”.
Như vậy, không phải bất cứ chủ thể nào cũng được phép pháp hành thẻ
tín dụng. Chủ thể phát hành thẻ tín dụng ở Việt Nam phải là tổ chức được cấp
giấy phép của Thống đốc NHNN Việt Nam cho việc thực hiện hoạt động phát
hành thẻ và thanh tóan thẻ tín dụng. TCPHT đáp ứng được quy định ở đây là
NH hoặc tổ chức phi ngân hàng. Thẻ tín dụng được phát hành với mục đích
phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng của chủ thẻ - khách hàng giao dịch với các NH
hoặc tổ chức phi NH phát hành thẻ tín dụng. Chủ thẻ sẽ được TCPHT cấp
trước cho một số tiền nhất định trong tài khỏan theo đúng thỏa thuận với
TCPHT để sử dụng số tiền này thực hiện việc mua sắm hàng hóa, tiêu dùng
dịch vụ tại các ĐVCNT – chủ thể kinh doanh thương mại chấp nhận thanh

tóan hàng hóa, dịch vụ qua thẻ tín dụng của TCPHT. Số tiền mà TCPHT cấp
trước cho chủ thẻ được xem là một hạn mức tín dụng. Hạn mức tín dụng này
cho phép tài khỏan của chủ thẻ tín dụng có “ số dư dương “ để thuận tiện cho
việc thực hiện thanh tóan bằng thẻ tín dụng tại các ĐVCNT. Đến một thời
điểm nhất định theo đúng thỏa thuận giữa TCPHT và chủ thẻ thì chủ thẻ phải
thanh tóan lại số tiền nợ này cho TCPHT cùng với tất cả các chi phí liên quan
khác ( lãi suất hạn mức tín dụng, phí sử dụng thẻ, phí duy trì hoạt động thẻ…)
1.1.2. Đặc điểm của thẻ tín dụng:

13


Thẻ tín dụng với các chức năng và tiện ích đặc biệt của nó luôn đi kèm
với những đặc trưng pháp lý nhất định như:
* Thẻ tín dụng luôn gắn liền với một chủ thể nhất định:
Chủ thể sở hữu và sử dụng thẻ tín dụng chính là chủ thẻ. Minh chứng
cho việc xác định chủ sở hữu thẻ tín dụng được thể hiện qua tên, hình ảnh của
chủ thẻ được in ngay trên thẻ và chủ thẻ cũng thực hiện việc xác nhận sở hữu
này qua chữ kí của mình trên mặt sau thẻ dưới sự chứng kiến của nhân viên tổ
chức phát hành thẻ. Ngoài ra, chữ kí của chủ thẻ còn được thực hiện trên các
hóa đơn bán hàng tại các đơn vị chấp nhận thẻ. Nếu có yếu tố không trùng
khớp giữa chữ kí hoặc ảnh người sử dụng thẻ khi có sự đối chiếu với thông tin
trên thẻ, đơn vị chấp nhận thẻ có quyền từ chối thanh toán với lí do không đủ
yếu tố chính xác xác thực tư cách chủ thẻ. Thẻ cũng là minh chứng chứng tỏ
khả năng tài chính của chủ thẻ, thể hiện khả năng thực hiện nghĩa vụ thanh
toán của chủ thẻ sau khi mua, sử dụng hàng hóa, dịch vụ tại đơn vị chấp nhận
thẻ. Sở dĩ có thể đưa ra ý kiến như vậy bởi lẽ, để được TCPHT chấp nhận đơn
xin cấp thẻ tín dụng cho mình, khách hàng phải chứng minh tư cách chủ thẻ
qua việc cung cấp các thông tin thể hiện nhân thân, năng lực tài chính, tài sản
thuộc sở hữu…Các thông tin này sau khi đã được bộ phận thẩm định tư cách

chủ thẻ của các TCPHT xác thực thì khách hàng được chấp nhận đơn yêu cầu
cấp thẻ tín dụng và được hướng dẫn tiến hành các thủ tục khác để trở thành
chủ thẻ tín dụng của TCPHT. Chủ thẻ dùng chính thẻ tín dụng của mình để tự
xác lập các giao dịch thương mại, dân sự, giao dịch thanh toán, tín dụng…
* Thẻ tín dụng được phát hành từ hợp đồng sử dụng thẻ theo thỏa
thuận giữa chủ thẻ và tổ chức phát hành thẻ.
Trước khi kí kết hợp đồng sử dụng thẻ giữa chủ thẻ và tổ chức phát
hành thẻ thì chủ thẻ phải có đơn yêu cầu được cấp thẻ tín dụng gửi đến tổ
chức phát hành thẻ. Theo đó, chủ thẻ phải chứng minh được năng lực chủ thể,
khả năng tài chính, khả năng trả nợ của mình như: đủ độ tuổi, có địa chỉ rõ
ràng, có nguồn thu nhập ổn định, vững vàng, có tài sản bảo đảm thuộc sở hữu,
14


có uy tín trong quan hệ tín dụng... Sau khi đã thẩm định các thông tin và xác
thực tư cách khách hàng của chủ thẻ, đồng thời nhận thấy đáp ứng đủ các điều
kiện được vay, Tổ chức phát hành thẻ tiến hành xác nhận cho người yêu cầu
thông qua việc cấp thẻ tín dụng cho khách hàng. Việc này đồng nghĩa là tổ
chức phát hành cam kết thanh toán hộ cho chủ thẻ mỗi khi phát sinh giao
dịch. Hợp đồng sử dụng thẻ còn bao gồm điều kiện, trình tự, thủ tục để thực
hiện thanh toán qua trung gian như: mở tài khoản thẻ, cam kết thanh toán, các
điều khoản về xác nhận nợ, tài sản bảo đảm, nguồn trả nợ cũng như hạn mức
tín dụng, phương thức xử lý khi chậm thực hiện nghĩa vụ…
* Thẻ tín dụng luôn gắn liền với một tài khoản ngân hàng nhất
định
Hạn mức tín dụng của thẻ tín dụng chính là phạm vi số tiền mà ngân
hàng cấp cho chủ thẻ vay trong tài khoản thẻ. Tài khoản này do chủ thẻ đứng
tên và mở tại tổ chức phát hành thẻ ( nếu tổ chức phát hành thẻ cũng là ngân
hàng ) hoặc tại một ngân hàng mà tổ chức phát hành thẻ ủy quyền ( nếu tổ
chức phát hành thẻ không phải là ngân hàng ). Khi sử dụng thẻ tín dụng để

thanh toán tiền hàng hóa, dịch vụ tại đơn vị chấp nhận thẻ thì chủ thẻ không
chi trả bằng tiền mặt và đơn vị chấp nhận thẻ cũng không thu bằng tiền mặt.
Giá trị hàng hóa dịch vụ được tính bằng đồng tiền qua Ngân hàng - đồng tiền
ghi sổ [20]. Giao dịch này thường đi kèm với hệ thống thanh toán điện tử do
các tổ chức trung gian thanh toán, thường là các ngân hàng tham gia cung cấp
dịch vụ. Dịch vụ thanh toán không sử dụng tiền mặt này được thực hiện trên
các tài khoản của các bên giao dịch mà biểu hiện là việc tăng số dư tiền trên
tài khoản của chủ thể này và giảm số tiền dư tương ứng trên tài khoản của chủ
thể kia. Do đó, khi sử dụng thẻ tín dụng, tài khoản của của chủ thẻ được báo “
Nợ ” và tài khoản của đơn vị chấp nhận thẻ được báo “ Có ”. Như vậy, “ thẻ
tín dụng luôn gắn liền với một tài khoản ngân hàng nhất định ” là một đặc
trưng cơ bản không thể thiếu của phương thức thanh toán bằng thẻ tín dung.

15


* Thẻ tín dụng làm phát sinh quan hệ vay nợ giữa chủ thẻ với tổ
chức phát hành thẻ
Thẻ tín dụng được cấp hình thành nên mối quan hệ vay nợ giữa chủ thẻ
và tổ chức phát hành thẻ theo một hạn mức tiền vay nhất định gọi là hạn mức
tín dụng. Hạn mức tín dụng có tính chất tuần hoàn, tức là dư nợ phát sinh tối
đa bằng giá trị của hạn mức tín dụng. Chủ thẻ thanh toán một phần hoặc toàn
bộ dư nợ phát sinh thì hạn mức tín dụng lại được khôi phục và chủ thẻ có thể
dùng thẻ tín dụng để phát sinh tiếp dư nợ mới. Hiện nay, ngân hàng TNHH
Một thành viên HSBC đang được xem là một trong số ít NH có tuần hòan hạn
mức tín dụng linh hoạt nhất tại Việt Nam. Theo đó, chủ thẻ tín dụng chỉ cần
thanh tóan 5% tổng số nợ hàng tháng cho NH thì dư nợ mới có thể được phát
sinh theo ý muốn của chủ thẻ [31]. Khi sử dụng thẻ tín dụng để thanh toán
tiền hàng hóa, dịch vụ, tài khoản chủ thẻ sẽ báo “ Nợ “, tức là số dư âm trên
tài khoản và chủ thẻ có trách nhiệm nộp trả tổ chức phát hành thẻ theo một

thời điểm mà tổ chức phát hành thẻ ấn định. Chính có lẽ vì phát sinh từ quan
hệ vay nợ mà thuật ngữ “ tín dụng ” được dùng để đặt tên cho loại thẻ thanh
tóan này.
* Thẻ tín dụng là công cụ thanh toán phổ biến không dùng tiền mặt
trong hệ thống thanh toán thẻ tuần hoàn
Có thể thấy việc thẻ tín dụng được sử dụng như là một công cụ thanh
toán mà qua đó, chủ thẻ có thể kết nối được với các chủ thể khác trong cùng
một hệ thống thanh toán với các bên có liên quan được kết nối chặt chẽ với
nhau theo một số nguyên tắc cơ bản thống nhất chung trong. Các tổ chức phát
hành phát hành thẻ sẽ có trách nhiệm cung cấp thông tin và hướng dẫn cách
sử dụng các máy móc công nghệ phục vụ cho việc thanh tóan bằng thẻ tín
dụng tại các đơn vị chấp nhận thẻ, cũng như thỏa thuận với NHTTT để sử
dụng cùng loại máy móc công nghệ với ngân hàng thanh toán thẻ. Các bên
tham gia trong hệ thống thanh toán thẻ tín dụng thường đã có mối quan hệ
thân tín hoặc uy tín trong lĩnh vực phát hành, lưu hành và thanh toán thẻ. Hiện
16


nay, mạng lưới các tổ chức hoạt động thẻ tín dụng được mở rộng ở nhiều
nước trên thế giới và hệ thống thẻ tín dụng phổ cập toàn cầu mang lại nhiều
tiện ích phục vụ cho các nhu cầu vui chơi, giải trí, mua sắm, học tập, du lịch,
chữa bệnh… của hàng triệu người ở khắp mọi nơi với sự chính xác và an toàn
cao. Việc sử dụng thẻ tín dụng đã khắc phục được rất nhiều điều bất tiện khi
thanh tóan bằng tiền mặt, nhất là với những chủ thẻ hay dịch chuyển, sinh
hoạt ở nhiều địa điểm khác nhau như: thương nhân, du khách, du học sinh,
vận động viên chuyên nghiệp…
1.2. Phân loại thẻ tín dụng:
Thẻ tín dụng được chia thành nhiều loại để thuận tiện trong quá trình
lưu thông, tiêu dùng thẻ theo các tiêu chí như : công nghệ sản xuất, hạn mức
tín dụng, phạm vi hoạt động của thẻ, chủ thể phát hành, chức năng thanh

toán…
* Phân loại theo công nghệ sản xuất:
Thẻ tín dụng từ lúc ra đời đến nay đã trải qua rất nhiều công nghệ sản
xuất để có được chất lượng bền vững và nhỏ gọn phù hợp với các máy kỹ
thuật được đặt tại các cơ sở chấp nhận thanh toán thẻ hoặc tại các Ngân hàng (
ATM, POS ). Theo đó, thẻ tín dung có 3 loại:
- Thẻ khắc chữ nổi ( EmbossingCard ): dựa trên công nghệ khắc chữ
nổi, tấm thẻ đầu tiên được sản xuất theo công nghệ này. Hiện nay người ta
không còn sử dụng loại thẻ này nữa vì kỹ thuật quá thô sơ dễ bị giả mạo. Đây
là loại công nghệ sản xuất được áp dụng với những chiếc thẻ tín dụng đầu
tiên.
- Thẻ băng từ ( Magnetic stripe ): dựa trên kỹ thuật thư tín với hai băng
từ chứa thông tin đằng sau mặt thẻ. Thẻ này đã được sử dụng phổ biến trong
20 năm qua , nhưng đã bộc lộ một số nhược điểm: do thông tin ghi trên thẻ
không tự mã hoá được, thẻ chỉ mang thông tin cố định, không gian chứa dữ
liệu ít, không áp dụng được kỹ thuật mã hoá, bảo mật thông tin....
17


- Thẻ thông minh ( Smart Card ): đây là thế hệ mới nhất của thẻ thanh
toán, thẻ tín dụng. Thẻ có cấu trúc hoàn toàn như một máy vi tính với thông
tin được tự mã hóa, tính bảo mật thông tin cao. Thẻ thông minh đã khắc phục
được các nhược điểm mà thẻ băng từ mắc phải. Hiện nay thẻ thông minh đã
được sản xuất hàng loạt nhằm thay thế cho thẻ băng từ cũ.
* Phân loại theo hạn mức tín dụng của thẻ:
Thẻ tín dụng luôn có một mức hạn mức nhất định tùy theo phạm vi
cung cấp của từng loại ngân hàng. Sở dĩ có sự phân tách hạn mức tín dụng ở
từng loại thẻ bởi nó tùy thuộc vào nhu cầu tiêu dùng của từng loại đối tượng
khách hàng tiếp cận dịch vụ thẻ tín dụng. Hạn mức tín dụng đi kèm theo loại
thẻ tín dụng nhất định mà các Ngân hàng cung cấp ngay từ đầu cho các KH.

Theo đó, thẻ tín dụng có 2 loại sau đây:
- Thẻ vàng ( Golden Card ) là loại thẻ hạng ưu, phù hợp với mức sống
và nhu cầu tài chính của KH có thu nhập cao, được phát hành cho những đối
tượng uy tín, có địa vị xã hội, có khả năng tài chính lành mạnh, nhu cầu chi
tiêu lớn như: vụ trưởng trở lên ở các bộ của chính phủ, giám đốc của các
doanh nghiệp liên doanh, trưởng bộ phận kinh doanh tại các công ty 100%
vốn nước ngoài... Điểm nổi trội là có hạn mức tín dụng lớn. Hiện nay ở các
NHTM Việt Nam, hạn mức tín dụng của thẻ vàng tối đa là 50 triệu VNĐ [32],
[33], [34].
- Thẻ thường ( Standard card ): là loại thẻ Tín dụng với hạn mức tín
dụng thấp hơn, phổ thông, phổ biến, sử dụng rộng rãi trên toàn thế giới theo
nhu cầu tiêu dùng cá nhân là chủ yếu. Thẻ này được phát hành cho nhiều đối
tượng thuộc tầng lớp dân cư có thu nhập ổn định nhưng thấp hơn các đối
tượng chủ thẻ của thẻ Vàng. Hiện nay, các NHTM ở Việt Nam thường đồng ý
cấp hạn mức tín dụng tối đa cho loại thẻ thường là 20 triệu VNĐ [32], [33], [34].
* Phân loại theo phạm vi sử dụng:

18


Tính tiện lợi nhỏ gọn của thẻ tín dụng giúp cho chủ thẻ có thể mang thẻ
tín dụng bên người ở bất cứ đâu. Bên cạnh đó, việc liên kết, thống nhất của hệ
thống thẻ toàn cầu khiến cho các chủ thẻ có thẻ thực hiện các giao dịch ở mọi
nơi trên thế giới, chứ không chỉ giới hạn trong phạm vi hẹp của mỗi quốc gia.
Theo đó, thẻ tín dụng có 2 loại là:
- Thẻ nội địa: thẻ được giới hạn theo phạm vi quốc gia, đồng tiền giao
dịch là đồng tiền nội tệ của mỗi quốc gia, chủ yếu phục vụ cho nhu cầu tiêu
dùng, mua sắm hàng hóa nội địa của dân cư trong mỗi quốc gia. Các TCPHT
nội địa thường là các NHTM hoạt động kinh doanh trong nước.
- Thẻ quốc tế: thẻ được sử dụng các loại ngoại tệ mạnh để thanh toán.

Thẻ này được chấp nhận trên phạm vi toàn cầu nhằm phục vụ cho những nhu
cầu chi tiêu toàn cầu như: du lịch, du học... Thẻ được hỗ trợ và quản lý trên
toàn thế giới bởi các tổ chức tài chính lớn trên thế giới như: Master Card,
Visa…Hệ thống thanh toán thẻ quốc tế được hoạt động thống nhất và đồng
bộ.
* Phân loại theo chủ thể phát hành:
- Thẻ được cấp bởi ngân hàng phát hành thẻ: thẻ tín dụng với số tiền do
ngân hàng cấp hạn mức tín dụng. Đây là loại thẻ được sử dụng phổ biến trong
hoạt động thanh toán. Thẻ này được lưu hành toàn cầu ( ví dụ như: Visa Card
là loại thẻ có quy mô lớn nhất thế giới, Master Card có thành viên là các ngân
hàng trên phậm vi toàn cầu…). Thẻ tín dụng được các ngân hàng phát hành
tạo lập trên tài khoản của chủ thẻ tại chính các ngân hàng phát hành này và
hoạt động chủ yếu nhằm phục vụ nhu cầu tiêu dùng hàng ngày của người dân.
- Thẻ được cấp bởi tổ chức phi ngân hàng: đây là các loại thẻ tín dụng
phục vụ cho nhu cầu du lịch và giải trí ở các tập đoàn kinh doanh lớn như:
Diner’s Club là loại thẻ phục vụ du lịch và giải trí lớn nhất thế giới hiện nay,
Amex của Hoa Kỳ và JCB của Nhật Bản…
* Phân loại theo chức năng thanh toán :

19


- Thẻ off-line: là thẻ không có chức năng kết nối trực tiếp vào hệ thống
thanh toán giữa đơn vị chấp nhận thẻ với tổ chức thanh toán thẻ. Giá trị giao
dịch không được khấu trừ vào tài khoản của chủ thẻ ngay sau khi giao dịch
mà phải chờ đơn vị chấp nhận thẻ nộp các chứng từ hợp lệ ( Hóa đơn đã được
in các thông tin dập nổi trên thẻ, chứng từ có chữ ký của chủ thẻ…). Tổ chức
thanh toán thẻ sẽ thực hiện tra soát và trả lại tiền cho đơn vị chấp nhận thẻ.
Khi đó, tài khoản của đơn vị chấp nhận thanh toán mới được ghi “ có “ và tài
khoản của chủ thẻ mới được ghi “ nợ “. Loại thẻ này rất phổ biến ở thời kì

đầu phát triển của thẻ tín dụng nhưng hiện nay đang dần bị thay thể bởi thẻ
on-line để giảm bớt rủi ro và tranh chấp, cũng như để thay đổi công nghệ hiện
đại hơn.
- Thẻ on-line: là thẻ có tính năng kết nối trực tiếp vào hệ thống thanh
toán điện tử giữa đơn vị chấp nhận thẻ với các tổ chức thanh toán thẻ thông
qua mấy móc hiện đại như EDC, ATM…Đơn vị chấp nhận thẻ vẫn phải nộp
các hóa đơn, chứng từ hợp lệ ( Hóa đơn đã được cà các thông tin dập nổi trên
thẻ, chứng từ có chữ ký của chủ thẻ…) thì mới được tổ chức thanh toán thẻ
thanh toán lại. Tuy nhiên, giá trị giao dịch thì đã được khấu trừ ngay vào tài
khoản của chủ thẻ ngay sau giao dịch thẻ thông qua hệ thống thanh toán điện
tử. Các rủi ro đối với đơn vị chấp nhận thẻ sẽ được giảm thiểu hơn so với thẻ
off-line. Với sự tiện dụng và an toàn cao, hiện đại, thẻ on-line đang được ưa
chuộng và sử dụng rộng rãi trên khắp thế giới.
* Phân loại theo tính chất tài khoản thẻ:
- Thẻ hạn mức thấu chi: là loại thẻ gắn liền với một loại thanh toán của
chủ thẻ nhưng tài khoản này được cấp một hạn mức thấu chi - tức là chủ thẻ
có thể sử dụng vượt quá số tiền thực có trên tài khoản thẻ. Số tiền vượt quá
được coi là khoản nợ đối với tổ chức phát hành thẻ và không được vượt quá
hạn mức thấu chi đươc cấp cho chủ thẻ.
- Thẻ hạn mức tín dụng: là loại thẻ không gắn liền với tài khoản thanh
toán của chủ thẻ mà chỉ gắn với tài khoản chuyên được theo dõi dư nợ và thu
20


nợ. Tài khoản này được cấp hạn mức tín dụng để chủ thẻ sử dụng trong phạm
vi hạn mức tín dụng đó.
* Phân loại theo chủ thể nắm giữ thẻ:
- Thẻ công ty: là loại thẻ do một tổ chức yêu cầu tổ chức phát hành thẻ
phát hành. Người sử dụng thẻ là người được tổ chức đó ủy quyền và có tên in
nổi trên thẻ cùng với tên của tổ chức. Tổ chức yêu cầu phát hành thẻ phải chịu

trách nhiệm thanh toán trực tiếp với tổ chức phát hành thẻ, người sử dụng thẻ
chỉ có nghĩa vụ tuân thủ các quy định về sử dụng thẻ và không có nghĩa vụ
thanh toán.
- Thẻ cá nhân: là loại thẻ do một cá nhân có nhu cầu và có đủ điều kiện
trực tiếp đứng ra yêu cầu tổ chức phát hành thẻ phát hành cho mình. Ở thẻ cá
nhân, chủ thẻ chính là người sử dụng thẻ. Do đó, cá nhân có trách nhiệm sử
dụng thẻ đúng theo quy định và có nghĩa vụ thanh toán với ngân hàng. Thẻ cá
nhân có 2 loại là:
+ Thẻ chính: thẻ do cá nhân đứng tên xin phát hành thẻ cho chính mình
sử dụng
+ Thẻ phụ: chủ thẻ chính có thể đứng tên xin phát hành thẻ phụ cho
người khác ( chủ thẻ phụ ) và chịu trách nhiệm thanh toán toàn bộ các khoản
chi tiêu của thẻ phụ.
1.3. Khái niệm và đặc điểm thanh toán bằng thẻ tín dụng:
1.3.1. Khái niệm:
Thanh toán bằng thẻ tín dụng ngày nay đã trở nên vô cùng quen thuộc
và phổ biến trong các giao dịch đời sống hàng ngày của người dân của bất kì
quốc gia nào trên thế giới.
Theo nghĩa chung nhất, thanh toán là việc thực hiện nghĩa vụ trả tiền
phát sinh từ các quan hệ dân sự, thương mại, tài chính, tín dụng… từ các chủ
thể tham gia các quan hệ đó. Do đó, thanh toán là một hành vi có tính nghĩa
vụ của người thụ trái đối với trái chủ trong các mối quan hệ đời sống xã hội
( mà phổ biến nhất là quan hệ mang tính hợp đồng giữa các bên ). Pháp luật
21


qui định nghĩa vụ trả tiền ( có thể bao gồm cả tiền nợ lãi trên nợ gốc ) phải
được thực hiện đầy đủ, đúng thời hạn, đúng địa điểm và phương thức đã thỏa
thuận7. Việc thực hiện nghĩa vụ trả tiền này trên thực tế đã được tiến hành
thông qua rất nhiều cách thức khác nhau như: thanh toán trực tiếp và thanh

toán gián tiếp, thanh toán ngay và thanh toán trả chậm, thanh toán bằng tiền
mặt hoặc các giấy tờ có giá và thanh toán không dùng tiền mặt qua các trung
gian thanh toán…
Thanh toán bằng thẻ tín dụng tức là việc sử dụng thẻ tín dụng như một
công cụ thanh toán không dùng tiền mặt qua các trung gian thanh toán
( thường là các ngân hàng thương mại ). Theo đó thẻ tín dụng cho phép chủ
thẻ thực hiện giao dịch thẻ trong phạm vi hạn mức tín dụng được cấp theo
thỏa thuận của tổ chức phát hành thẻ để thanh toán tiền hàng hóa, dịch vụ, sử
dụng các dịch vụ khác do tổ chức phát hành thẻ, tổ chức thanh toán thẻ cung
ứng. Mục đích chính nhất mà thẻ tín dụng hướng tới đó là thanh toán các hóa
đơn tiền hàng, dịch vụ tại các đơn vị chấp nhận thẻ trong hạn mức tín dụng
cho phép. Số tiền trong tài khoản của chủ thẻ chính là mức vốn tín dụng mà
ngân hàng phát hành đã cấp cho chủ thẻ. Đây là đặc điểm để phân biệt giữa
thẻ tín dụng và các loại thẻ khác cũng có chức năng thanh toán ( ví dụ như:
thẻ ghi nợ, thẻ trả trước…). Với số tiền đã được ngân hàng ứng trước trong tài
khoản thẻ tín dụng này, chủ thẻ có thể thiết lập các giao dịch thanh toán ở bất
cứ đơn vị chấp nhận thẻ nào với điều kiện giá trị giao dịch không vượt quá
hạn mức tín dụng của thẻ.
Như vậy, “ Thanh toán bằng thẻ tín dụng là phương thức thanh toán
qua ngân hàng nhằm thỏa mãn các nhu cầu tín dụng tiêu dùng, thanh
toán trong một hạn mức tiền nhất định qua việc xác lập quan hệ thanh
toán giữa chủ thẻ với đơn vị chấp nhận thẻ, giữa đơn vị chấp nhận thẻ với
ngân hàng thanh toán, ngân hàng phát hành,… trên cơ sở quan hệ vay nợ
đã được xác lập giữa chủ thẻ với tổ chức đã phát hành thẻ ”.
7

Điều 290 Bộ luật dân sự Việt Nam - 2005

22



1.3.2. Đặc điểm của thanh toán bằng thẻ tín dụng:
* Thanh toán bằng thẻ tín dụng là một phương thức thanh toán không
dùng tiền mặt qua trung gian cung ứng dịch vụ thanh toán.
Hệ thống thanh toán liên kết giữa ngân hàng phát hành và ngân hàng
thanh toán cũng như với các đơn vị chấp nhận thẻ, các tổ chức thẻ quốc tế tạo
nên sự thông suốt trong luân chuyển đồng tiền điện tử. Thẻ tín dụng mang lại
sự thuận tiện cho việc thanh toán bằng phương thức thực hiện chi trả hiện đại,
nhanh chóng, an toàn. Các đơn vị chấp nhận thẻ tạo thành một mạng lưới
rộng rãi cho các tổ chức phát hành thẻ có thể phát triển hoạt động cung ứng
thanh toán không dùng tiền mặt của mình. Người mua - Chủ thẻ không phải
trả tiền mặt khi thực hiện thanh toán tiền hàng hóa dịch vụ tại các cơ sở chấp
nhận thẻ và người bán - các đơn vị chấp nhận thẻ cũng không thu tiền mặt đã
tạo nên sự tiện lợi, nhanh chóng, an toàn cho hoạt động mua bán. Việc mua
sắm hàng hóa, tiêu dùng dịch vụ của người dân từ đó không bị hạn chế bởi
khoảng cách không gian, tiết kiệm thời gian đã kích thích tiêu dùng tăng cao,
tạo đà tăng trưởng cho các hoạt động kinh doanh, sản xuất, dịch vụ, thúc đẩy
cường độ giao thương, hội nhập. Việc thanh toán trong và ngoài nước trở nên
dễ dàng hơn. Việc các ngân hàng cung ứng trước một khoản tiền cho vay trên
tài khoản của chủ thẻ tín dụng cũng là một nghiệp vụ hiện đại hóa hoạt động
cho vay vốn mang tính chất truyền thống của các ngân hàng, qua đó góp phần
gia tăng lượng tiêu thụ hàng hóa, dịch vụ sản phẩm trong mỗi quốc gia, khu
vực, châu lục.
* Thanh toán bằng thẻ tín dụng là phương thức bao gồm quy trình
thanh toán và bù trừ ( settlement and clearing ):
Sau khi chủ thẻ tiến hành giao dịch thẻ ( mua sắm hàng hóa, tiêu dùng
dịch vu, rút tiền mặt…) tại các đơn vị chấp nhận thẻ hoặc các ngân hàng
thanh toán thẻ thì việc cân bằng lại tài khoản “ Nợ ” và “ Có ” sẽ là quá trình
ngân hàng thanh toán ( ngân hàng phát hành ) trả tiền cho cơ sơ chấp nhận
thẻ, quá trình truy đòi tiền của ngân hàng phát hành thẻ đối với chủ thẻ và quá

23


trình thanh toán bù trừ giữa ngân hàng phát hành thẻ với ngân hàng thanh
toán thẻ về hoạt động kinh doanh thẻ ( có thể thông qua các tổ chức thẻ quốc
tế ). Các quá trình này có thể được thực hiện lần lượt ( ngân hàng thanh toán
trả tiền cho đơn vị chấp nhận thẻ rồi được thanh toán lại tiền từ ngân hàng
phát hành thẻ, sau một thời điểm thì ngân hàng phát hành thẻ truy đòi tiền từ
chủ thẻ ) hoặc tiến hành đồng thời. Theo đó, phần tiền mặt giá trị chênh lệch
của các thương vụ đã được thực hiện bằng thẻ sẽ được chuyển đổi qua lại
giữa các thành viên tham gia quá trình thanh toán thẻ trên cơ sở ghi “ Nợ ” ở
tài khoản chủ thẻ và ghi “ Có ” ở tài khoản thích hợp ( tài khoản đơn vị chấp
nhận thẻ )
* Thanh toán bằng thẻ tín dụng là thể hiện quan hệ cam kết thanh toán
liên hoàn
Cam kết thanh toán liên hoàn có thể được hiểu là cam kết của các tổ
chức trung gian cho đơn vị chấp nhận thẻ. Khi tiến hành giao dịch thẻ tín
dụng, tài khoản chủ thẻ đã bị ghi “ nợ ” nhưng chủ thẻ không phải thanh toán
ngay cho tổ chức phát hành thẻ. Khi đó, tài khoản của đơn vị chấp nhận thẻ
cũng chưa được báo “ có ” mà đơn vị chấp nhận thẻ chỉ mới nhận được cam
kết sẽ thanh toán của các đơn vị trong hệ thống thanh toán thẻ ( tổ chức phát
hành thẻ, tổ chức thanh toán thẻ, tổ chức thẻ quốc tế…) Đầu tiên là cam kết
của Tổ chức thanh toán thẻ - đơn vị trực tiếp quản lý tài khoản và cung cấp
dịch vụ thanh toán cho đơn vị chấp nhận thẻ. Sau đó là cam kết của tổ chức
phát hành thẻ - đơn vị trực tiếp quản lý tài khoản chủ thẻ và cung cấp dịch vụ
thanh toán cho chủ thẻ. Căn cứ vào số dư nợ trong tài khoản chủ thẻ đã phát
sinh giao dịch, tổ chức phát hành thẻ cam kết thanh toán cho tổ chức thanh
toán thẻ. Nếu tổ chức phát hành thẻ và tổ chức thanh toán thẻ không có mối
liên hệ trực tiếp thì cam kết thanh toán này còn liên quan đến các đơn vị trung
gian như: ngân hàng đầu mối, tổ chức thẻ quốc tế…Nếu ngân hàng phát hành


24


thẻ cũng đồng thời là ngân hàng thanh toán thẻ thì cam kết thanh toán chỉ
dược đưa ra bởi một ngân hàng duy nhất.
1.4. Vai trò của phương thức thanh toán bằng thẻ tín dụng
* Thúc đẩy giao dịch thanh toán không sử dụng tiền mặt
Với nhiều tính năng hấp dẫn “ chi tiêu trước, trả tiền sau ”, có thể thanh
toán toàn bộ hay một phần khoản hạn mức khi đến hạn thanh toán; thời hạn
miễn lãi từ 15 đến 45 ngày, không tính lãi nếu chủ thẻ thanh toán toàn bộ dư
nợ vào trước ngày thanh toán, mức phí phát hành, phí thường niên thấp, đồng
thời sự tác động tích cực của các chương trình xúc tiến mở rộng thị phần mà
các NH Việt Nam và các tổ chức Thẻ quốc tế đang thực hiện. Hoạt động
thanh toán bằng thẻ tín dụng đã đẩy nhanh tốc độ phát triển của phương thức
giao dịch không dùng tiền mặt - thanh toán qua NH - một phương thức hiện
đại được ưa chuộng trên thế giới.
Những tiện ích mà các dịch vụ thẻ mang lại đã góp phần từng bước phá
vỡ thói quen ưa sử dụng tiền mặt của người dân, giảm chi phí xã hội, nâng
cao khả năng quản lý tiền tệ của NN cũng như góp phần hữu ích vào việc tạo
dựng nền móng cho sự hình thành một nền thương mại điện tử còn non trẻ
của nước ta. Có thể thấy thói quen dùng tiền mặt cũng như tích trữ tiền mặt đã
trở thành truyền thống trong cuộc sống hàng ngày. Trong 58% số người được
phỏng vấn đã trả lời không có đủ tiền nên không cần thiết mở tài khoản ngân
hàng ( NH ). Trong khi đó, những người được phỏng vấn đều thuộc nhóm dân
cư có sở hữu tài sản và giàu có. Khảo sát được tiến hành tại Hà Nội và
TP.HCM, trong đó gần 50% tại Hà Nội và 31% tại TP.HCM cho biết có tài
khoản NH. Chỉ 21% biết về thẻ tín dụng ( credit card ), 8% biết về thẻ ghi nợ
( debit card ) và 91% biết về thẻ ATM. Rất ít người được hỏi có vay tiền NH.
Đối với người VN, vàng và ngoại tệ được xem là các công cụ đầu tư an toàn

nhất [23].

25


×