Tải bản đầy đủ (.doc) (60 trang)

Thực trạng và thực tiễn áp dụng pháp luật về thanh toán bằng thư tín dụng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (373.25 KB, 60 trang )

Website: Email : Tel : 0918.775.368
LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ngày nay, sự phát triển mạnh mẽ của hoạt động ngoại thương đã thúc đẩy
nền kinh tế thế giới tăng trưởng không ngừng. Vì thế, quan hệ mua bán hàng hóa
trong nước và quốc tế cũng nhờ thế mà phát triển mạnh mẽ, kéo theo sự xuất
hiện của nhiều phương thức thanh toán, trong đó hình thức thanh toán bằng thư
tín dụng có vị trí, vai trò quan trọng nhất. Với những ưu điểm nổi bật của mình,
thanh toán bằng thư tín dụng là phương thức thanh toán được hầu hết các quốc
gia sử dụng, với tỷ lệ chiếm khoảng 70% tổng số giao dịch thanh toán quốc tế.
Trong những năm qua, hoạt động thanh toán tín dụng chứng từ của các
ngân hàng thương mại Việt Nam đã có nhiều đổi mới, từng bước gắn với hội
nhập,đáp ứng các yêu cầu của quốc tế. Bên cạnh đó vẫn còn tồn tại không nhỏ
các lỗi,tranh chấp phát sinh giữa các chủ thể tham gia giao dịch tín dụng thư do
pháp luât quy định chưa rõ ràng,một số quy định còn hạn chế và do không am
hiểu tường tận, áp dụng không đồng bộ thông lệ quốc tế,pháp luật quốc gia.
Trong thời gian tới pháp luật cần có những thay đổi nhất định quy định cụ
thể,điều chỉnh thống nhất quan hệ thanh toán tín dụng chứng từ để hạn chế thấp
nhất các lỗi,tranh chấp có thể xẩy ra. Làm sáng tỏ tầm quan trọng của thanh toán
bằng tín dụng thư, phân tích đánh giá thực trạng từ đó đề xuất những giải pháp
đối với pháp luật về thanh toán bằng thư tín dụng nhằm góp phần nâng cao chất
lượng thanh toán quốc tế cũng chính là giải pháp cho bài toán của nền kinh tế
Việt Nam trước xu thế hội nhập. Với suy nghĩ như vậy em đã chọn đề tài nghiên
cứu: “Thực trạng và thực tiễn áp dụng pháp luật về thanh toán bằng thư tín
dụng”
2. Mục đích nghiên cứu đề tài
Làm rõ vai trò quan trọng cuả phương thức thanh toán tín dụng chứng từ
trong nền kinh tế,phân tích thực trạng pháp luật về thanh toán bằng thư tín dụng
và thực tiễn áp dụng từ đó đề xuất những giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật
1
Website: Email : Tel : 0918.775.368


3. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Đề tài này tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về pháp
luật thanh toán bằng thư tín dụng. Đề xuất một số giải pháp cơ bản, thiết thực
đối với pháp luật, nâng cao chất lượng thanh toán tín dụng chứng từ.
Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung của đề tài được trình bày thành
hai chương:
Chương I: Những vấn đề lý luận chung về thanh toán bằng thư tín dụng
Chương II: Thực trạng và thực tiễn áp dụng pháp luật về thanh toán bằng
thư tín dụng
2
Website: Email : Tel : 0918.775.368
CHƯƠNG I
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG
VỀ THANH TOÁN BẰNG THƯ TÍN DỤNG
1. Khái niệm thanh toán bằng thư tín dụng
1.1. Khái quát chung về thư tín dụng
Ngày nay, dưới tác động của xu hướng toàn cầu hoá, hoạt động ngoại
thương trên thế giới ngày càng phát triển và đa dạng, xoá dần đi những rào cản
tự do hóa thương mại giữa các quốc gia. Xuất phát từ tính rủi ro cao của những
thương vụ buôn bán toàn cầu, từ lâu người mua và người bán đã biết cách sử
dụng những hình thức thanh toán có độ an toàn cao nhất, trong đó có hình thức
thanh toán bằng thư tín dụng (hay còn gọi là hình thức thanh toán bằng tín dụng
chứng từ).
1.1.1. Định nghĩa thư tín dụng (Letter of credit – L/C)
Trong quan hệ thương mại quốc tế, khái niệm thư tín dụng trong UCP500
được thừa nhận rộng rãi ở nhiều quốc gia trên thế giới.
Theo UCP500: “tín dụng có nghĩa là bất cứ một sự thoả thuận nào, dù cho
được gọi hoặc mô tả như thế nào, mà theo đó một ngân hàng (ngân hàng phát
hành) hành động theo yêu cầu và theo chỉ thị cuả một khách hàng (người yêu
cầu phát hành tín dụng) hoặc nhân danh chính mình:

a. Phải tiến hành việc trả tiền theo lệnh của một người thứ 3 (người hưởng
lợi) hoặc phải chấp nhận và trả tiền các hối phiếu do người hưởng lợi kí phát,
hoặc:
b. Uỷ quyền cho một ngân hàng khác tiến hành thanh toán như thế hoặc
chấp nhận và trả tiền các hối phiếu như thế, hoặc:
c. Uỷ quyền cho một ngân hàng khác chiết khấu khi (các) chứng từ quy
định được xuất trình với điều kiện là các điều kiện của Tín dụng được thực hiện
đúng”.
Theo quy định hiện hành của pháp luật Việt Nam, thư tín dụng là một văn
bản cam kết có điều kiện được ngân hàng mở theo yêu cầu của người sử dụng
3
Website: Email : Tel : 0918.775.368
dịch vụ thanh toán (người xin mở tín dụng), theo đó ngân hàng thực hiện yêu
cầu của người xin mở thư tín dụng để:
- Trả tiền hoặc uỷ quyền cho ngân hàng khác trả tiền ngay theo lệnh của
người thụ hưởng khi nhận được bộ chứng từ xuất trình phù hợp với các điều
kiện cuả tín dụng, hoặc:
- Chấp nhận sẽ trả tiền hoặc uỷ quyền cho ngân hàng khác trả tiền theo
lệnh của người thụ hưởng vào một thời điểm nhất định trong tương lai, khi nhận
được bộ chứng từ xuất trình phù hợp với các điều kiện thanh toán của thư tín
dụng.
Cả hai cách định nghĩa trên đây, dù được dựa trên và hướng tới những
chuẩn mực khác nhau trong thanh toán quốc tế nhưng đều tìm cách làm rõ các
vấn đề mang tính bản chất của thư tín dụng. Các vấn đề này bao gồm:
- Thư tín dụng có bản chất là một cam kết của ngân hàng phát hành, sẽ tự
mình thực hiện việc trả tiền cho người thụ hưởng, hoặc ủy quyền cho ngân hàng
khác trả tiền cho người thụ hưởng theo các điều kiện thanh toán được ghi trong
thư tín dụng.
- Thư tín dụng tuy được mở theo yêu cầu của khách hàng (người xin mở
thư tín dụng) nhưng lại làm phát sinh nghĩa vụ trả nợ cho ngân hàng phát hành

thư tín dụng, đối với người thứ ba (người thụ hưởng thư tín dụng). Nghĩa vụ này
có tính độc lập so với nghĩa vụ của người xin mở thư tín dụng, đồng thời cũng
độc lập so với chính hợp đồng đã làm phát sinh ra nghĩa vụ đó.
- Thư tín dụng làm phát sinh một quan hệ tín dụng giữa ngân hàng phát
hành với khách hàng - người xin mở thư tín dụng, theo đó ngân hàng phát hành
thư tín dụng cam kết sẽ ứng tiền của mình để thực hiện một nghĩa vụ tài sản thay
cho khách hàng, đối với người thứ ba – người thụ hưởng thư tín dụng và do đó
có quyền yêu cầu khách hàng hoàn lại cho mình số tiền đã được ứng trước, kèm
theo một khoản phí dịch vụ theo thỏa thuận.
1.1.2. Các đặc trưng cơ bản của Thư tín dụng (L/C)
Thư tín dụng là một văn bản pháp lý quan trọng đối với hình thức thanh
toán tín dụng chứng từ. Nếu không có thư tín dụng thì sẽ không có hình thức
4
Website: Email : Tel : 0918.775.368
thanh toán bằng thư tín dụng. Trên nguyên tắc, thư tín dụng được hình thành
trên cơ sở hợp đồng mua bán nhưng sau khi đã được mở, thư tín dụng hoàn toàn
độc lập với hợp đồng mua bán và ngân hàng chỉ tham gia vào việc thanh toán
trên cơ sở thư tín dụng.
Thư tín dụng có một số đặc điểm cơ bản sau đây:
Thứ nhất, xét trong mối quan hệ giữa ngân hàng phát hành với người yêu
cầu mở thư tín dụng thì Thư tín dụng là sự thoả thuận giữa ngân hàng phát hành
và người yêu cầu mở thư tín dụng. Khi nhận được yêu cầu mở thư tín dụng của
khách hàng, Ngân hàng sẽ xem xét hợp đồng mua bán hàng hoá giữa khách
hàng - người yêu cầu mở thư tín dụng và người được thụ hưởng để quyết định
việc chấp thuận hay từ chối mở thư tín dụng theo yêu cầu của khách hàng. Như
vậy, việc phát hành (mở) thư tín dụng hay không là kết quả của sự thỏa thuận
giữa ngân hàng với người yêu cầu mở thư tín dụng, thông qua việc ngân hàng
thẩm định các điều kiện mở thư tín dụng.
Về bản chất, việc mở thư tín dụng vừa là một hoạt động cung cấp dịch vụ
cuả ngân hàng, đồng thời có thể xem là một phương thức cấp tín dụng của ngân

hàng phát hành cho người yêu cầu mở thư tín dụng và người này phải ký quỹ
khoản tiền mở thư tín dụng, trả phí cho dịch vụ này.
Thứ hai, xét trong mối quan hệ giữa ngân hàng phát hành với người thụ
hưởng thư tín dụng thì Thư tín dụng là cam kết đơn phương của ngân hàng về
việc trả tiền cho người bán/người thụ hưởng thư tín dụng. Do là cam kết đơn
phương nên sau khi thư tín dụng được phát hành hợp lệ bởi ngân hàng thì nó
mới chỉ có giá trị ràng buộc đối với ngân hàng phát hành ra nó. Người bán sau
khi nhận được thông báo mở thư tín dụng nếu không đồng ý phải thông báo cho
ngân hàng; nếu đồng ý thì sẽ giao hàng và hoàn thiện chứng từ để chuẩn bị đòi
tiền từ ngân hàng phát hành thư tín dụng, theo các điều kiện trả tiền đã được ghi
trong thư tín dụng. Ngân hàng gửi chứng từ cho người yêu cầu mở thư tín dụng
để thông báo và tất toán tài khoản thư tín dụng để trực tiếp trả tiền ngay cho
người thụ hưởng theo các điều kiện đã cam kết trong thư tín dụng, mà không cần
đến sự chấp thuận của người yêu cầu mở thư tín dụng.
5
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Thứ ba, Thư tín dụng được lập trên cơ sở hợp đồng mua bán hàng hoá
nhưng lại có tính độc lập so với hợp đồng mua bán.
Thư tín dụng được lập trên cơ sở hợp đồng mua bán hàng hóa nhưng về
bản chất thư tín dụng là một giao dịch độc lập, tách biệt với các hợp đồng mua
bán. Điều này thể hiện ở chỗ, sau khi đã phát hành thư tín dụng hợp lệ, ngân
hàng phát hành chỉ bị ràng buộc với thư tín dụng do chính mình phát hành chứ
không bị chi phối, liên quan hoặc bị ràng buộc với các hợp đồng mua bán vốn là
cơ sở để phát sinh nhu cầu phát hành thư tín dụng, thậm chí ngay cả trong thư
tín dụng có bất kỳ sự dẫn chiếu nào đến các hợp đồng đó. Nói cách khác, khi
viết đơn yêu cầu mở thư tín dụng, người mua phải dựa vào nội dung của hợp
đồng mua bán nhưng khi thư tín dụng đã được mở thì mọi hậu quả pháp lý xảy
ra đối với hợp đồng mua bán đó không hề ảnh hưởng gì đến việc thực hiện các
quyền và nghĩa vụ của ngân hàng phát hành thư tín dụng. Trong quá trình thanh
toán, ngân hàng chỉ cần dựa trên chứng từ, hồ sơ hợp lệ được các bên xuất trình

mà không cần phải dựa vào thực tế giao nhận hàng hoá, tên hàng, số lượng,
trọng lượng, chất lượng, trạng thái, bao bì, giá trị hoặc sự hiện hữu của hàng
hoá. Bởi quan hệ trong hợp đồng mua bán là quan hệ giữa người bán và người
mua còn quan hệ thanh toán tiền theo thư tín dụng lại phát sinh giữa ngân hàng
phát hành với người thụ hưởng thư tín dụng/người bán. Nếu xảy ra rủi ro trong
quá trình giao nhận hàng hoá thì hai bên người mua, người bán sẽ giải quyết
theo hợp đồng hoặc pháp luật mà ngân hàng không phải chịu trách nhiệm về
hàng hóa đó.
1.1.3. Nội dung của thư tín dụng
Nội dung cơ bản của một thư tín dụng sẽ bao gồm các điều khoản được
ngân hàng phát hành lập theo tiêu chuẩn chung của UCP500. Các điều khoản
này phản ánh một cách rõ ràng ý chí của ngân hàng phát hành trong việc cam
kết thanh toán số tiền ghi trên thư tín dụng cho người thụ hưởng/người bán
hàng, nếu người này xuất trình thư tín dụng một cách hợp lệ để đòi tiền ngân
hàng, theo các điều kiện thanh toán đã được ghi trong thư tín dụng.
Theo thông lệ chung, một thư tín dụng gồm có các điều khoản sau đây:
6
Website: Email : Tel : 0918.775.368
- Số hiệu của L/C. Về nguyên tắc, tất cả các L/C đều phải có số hiệu riêng
nhằm tạo điều kiện thuận lợi trong quá trình trao đổi thư từ, điện tín cho nhau
trong quá trình thực hiện thư tín dụng. Số hiệu của thư tín dụng còn được dùng
để ghi vào các chứng từ liên quan trong bộ chứng từ thanh toán.
- Địa điểm mở L/C. Đó là nơi ngân hàng mở L/C lập bản cam kết thanh
toán tiền cho nhà xuất khẩu. Địa điểm này có ý nghĩa quan trọng trong vấn đề
chọn luật áp dụng, mỗi khi có tranh chấp xẩy ra giữa các bên có liên quan đến
thư tín dụng. Thông thường, nếu trong thư tín dụng không xác định rõ nơi mở
thư tín dụng thì theo tập quán giao dịch, địa điểm mở thư tín dụng được xác định
là địa chỉ nơi ngân hàng phát hành đặt trụ sở chính, hoặc trụ sở chi nhánh (nếu
thư tín dụng được mở tại một chi nhánh cụ thể của ngân hàng).
- Ngày mở L/C. Đó là ngày mà người đại diện hợp pháp của ngân hàng

phát hành thư tín dụng ký vào văn bản thư tín dụng để tạo lập một thư tín dụng
theo đúng các quy tắc của tín dụng chứng từ, dựa trên sự tuân thủ Bản Quy tắc
và thực hành tín dụng chứng từ (UCP500). Trong thực tiễn, hầu hết các trường
hợp ngày mở thư tín dụng chính là ngày mà sự cam kết thanh toán của ngân
hàng đối với nhà xuất khẩu bắt đầu có hiệu lực, đồng thời cũng là ngày phát sinh
hiệu lực của hợp đồng được thực hiện giữa ngân hàng mở thư tín dụng và nhà
nhập khẩu. Tuy nhiên, về lý thuyết cũng có thể xảy ra trường hợp ngày mở thư
tín dụng không trùng khớp với ngày phát sinh hiệu lực của thư tín dụng, nếu
trong thư tín dụng có điều khoản ghi chú của ngân hàng phát hành về việc lùi
thời hạn có hiệu lực của thư tín dụng vào một ngày nhất định sau ngày mở thư
tín dụng. Đôi khi, ngày mở thư tín dụng cũng được coi là căn cứ để nhà xuất
khẩu kiểm tra xem nhà nhập khẩu có mở L/C đúng như quy định trong hợp đồng
mua bán hay không.
- Tên, địa chỉ của những người có liên quan đến L/C. Các chủ thể này bao
gồm: người yêu cầu mở L/C; người thụ hưởng L/C; ngân hàng phát hành L/C;
ngân hàng thông báo L/C và đôi khi là cả ngân hàng xác nhận L/C. Các chủ thể
này phải được xác định rõ danh tính, địa chỉ và số hiệu tài khoản (nếu có) nhằm
phòng ngừa và hạn chế các tranh chấp có thể xảy ra trong quá trình thực hiện
7
Website: Email : Tel : 0918.775.368
thư tín dụng.
- Trị giá của L/C. Đó là số tiền được ghi bằng chữ và ghi bằng số, thể hiện
giá trị nghĩa vụ tài sản của ngân hàng phát hành đối với người thụ hưởng. Trị giá
được ghi bằng chữ và trị giá được ghi bằng số trong L/C phải thống nhất với
nhau và trong trường hợp có sự không thống nhất thì có thể coi số tiền ghi bằng
chữ là có giá trị. Ngoài ra, tên của đơn vị tiền tệ phải ghi rõ ràng, đầy đủ, chính
xác theo quy định chung đã được thừa nhận trong giao dịch thanh toán quốc tế
và tránh sự hiểu nhầm hay sự giải thích không có lợi cho các bên.
- Thời hạn hiệu lực của L/C. Đây là thời hạn mà ngân hàng phát hành cam
kết sẽ trả tiền cho nhà xuất khẩu nếu nhà xuất khẩu xuất trình bộ chứng từ thanh

toán trong thời hạn đó và phù hợp với những quy định trong L/C. Thời hạn của
L/C được tính từ ngày mở L/C đến ngày hết hiệu lực của L/C. Thời hạn hiệu lực
của L/C phải là một khoảng thời gian hiệu lực hợp lí để tạo thuận lợi cho quá
trình thực hiện hợp đồng cũng như không gây khó khăn cho việc xuất trình bộ
chứng từ thanh toán từ phía nhà xuất khẩu/người thụ hưởng.
- Thời hạn thanh toán của L/C. Thời hạn này liên quan đến việc trả tiền
ngay hay trả chậm. Điều khoản này hoàn toàn phụ thuộc vào quy định trong hợp
đồng ngoại thương, trong đó các bên mua và bán có thể xác định rõ việc thanh
toán bằng thư tín dụng trả ngay hay thanh toán bằng thư tín dụng trả chậm.
- Thời hạn giao hàng. Thời hạn này sẽ do hợp đồng mua bán quy định và
phải được ghi vào L/C như một điều kiện trả tiền đối với người thụ hưởng.
Trong trường hợp các bên tham gia hợp đồng mua bán có thỏa thuận về việc kéo
dài thời hạn giao hàng mà không đề cập đến việc kéo dài thời hạn có hiệu lực
của thư tín dụng thì mặc nhiên được coi là thư tín dụng cũng được kéo dài thêm
thời hạn tương ứng. Ngược lại, nếu các bên thỏa thuận kéo dài thời hạn có hiệu
lực của thư tín dụng nhưng lại không thỏa thuận về việc kéo dài thời hạn giao
hàng thì không được phép hiểu rằng thời gian giao hàng cũng được kéo dài
tương ứng.
- Điều khoản về những nội dung liên quan đến hàng hóa như tên hàng hóa,
số lượng, trọng lượng, giá cả, quy cách, phẩm chất, bao bì, kí mã hiệu đều được
8
Website: Email : Tel : 0918.775.368
ghi đầy đủ vào L/C.
- Điều khoản về những nội dung liên quan đến vận tải, giao nhận hàng hóa
như điều kiện giao hàng (FOB, CIF, CFR…), nơi bốc hàng, dỡ hàng, nơi gửi,
nơi giao hàng, hình thức vận chuyển… cũng được ghi vào L/C.
- Điều khoản xác định Bộ chứng từ mà nhà xuất khẩu phải xuất trình để
yêu cầu thanh toán. Đây là nội dung rất quan trọng của L/C, vì bộ chứng từ là
bằng chứng chứng minh nhà xuất khẩu đã hoàn thành nghĩa vụ giao hàng đúng
như L/C đã quy định. Nếu bộ chứng từ phù hợp với L/C thì ngân hàng phát hành

sẽ thanh toán tiền hàng cho nhà xuất khẩu và ngược lại, ngân hàng phát hành
L/C có thể từ chối thanh toán. Bộ chứng từ do L/C quy định ít hay nhiều, tùy
theo tính chất hàng hóa và sự thỏa thuận giữa hai bên mua và bán. Trong thanh
toán quốc tế, ngân hàng thực hiện thanh toán dựa trên cơ sở chứng từ chứ không
dựa vào hàng hóa. Thông thường, ngân hàng mở L/C đòi hỏi nhà xuất khẩu phải
thỏa mãn những đặc điểm sau đây khi xuất trình bộ chứng từ:
+ Các loại chứng từ đã được thỏa thuận trong hợp đồng mua bán giữa nhà
xuất khẩu và nhà nhập khẩu.
+ Số lượng của từng loại chứng từ.
+ Thủ tục kí phát của từng loại chứng từ.
- Sự cam kết trả tiền của ngân hàng mở L/C. Đây là một trong số các nội
dung quan trọng nhất của L/C. Điều khoản này ràng buộc trách nhiệm của ngân
hàng mở L/C phải thanh toán tiền cho nhà xuất khẩu nếu nhà xuất khẩu xuất
trình bộ chứng từ phù hợp với những quy định của L/C. Thực tiễn cho thấy nếu
điều khoản này không được quy định rõ ràng, rất có thể sẽ dẫn đến tranh chấp
giữa các bên và gây khó khăn cho Tòa án hay Trọng tài trong quá trình giải
quyết tranh chấp.
- Điều khoản ghi nhận quyền và nghĩa vụ của các bên có liên quan. Trong
thực tế, các loại L/C khác nhau đều mang những tính chất và nội dung khác
nhau. Vì thế, việc quy định về quyền lợi và nghĩa vụ của các bên liên quan trong
một thư tín dụng cũng có thể khác nhau.
- Những điều khoản đặc biệt khác.
9
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Ngoài những nội dung kể trên, ngân hàng mở L/C và nhà nhập khẩu có
thể thỏa thuận đưa thêm vào thư tín dụng một số nội dung khác như có thể hoàn
trả tiền bằng điện chuyển tiền hoặc thư điện tử…
- Chữ kí của ngân hàng mở L/C. Do thư tín dụng thực chất là một khế ước
hay hợp đồng dân sự nên người kí vào thư tín dụng cũng phải là người có đủ
năng lực pháp luật và năng lực hành vi theo quy định của pháp luật dân sự.

Thông thường, người ký tên vào thư tín dụng chính là người đại diện hợp pháp
của ngân hàng phát hành, bao gồm người đại diện theo pháp luật hoặc người đại
diện theo ủy quyền.
1.1.4. Phân loại thư tín dụng
Trong thực tiễn giao dịch thanh toán bằng thư tín dụng, mỗi quan hệ
thanh toán có những đặc trưng riêng gắn với quyền lợi đặc thù của các bên thanh
toán, đòi hỏi phải lựa chọn áp dụng những hình thức thư tín dụng phù hợp cho
từng giao dịch thanh toán. Chính vì vậy, việc phân loại thư tín dụng được xem là
điều kiện, tiền đề, cơ sở cho việc lựa chọn và áp dụng hợp lý loại hình thư tín
dụng cho từng trường hợp cụ thể của quan hệ thanh toán.
Về lý thuyết, có thể phân loại thư tín dụng dựa vào các tiêu chí chủ yếu
sau đây:
(i) Nếu căn cứ vào tính chất và đặc điểm, thư tín dụng có thể được phân
chia thành những loại sau:
- Thư tín dụng có thể huỷ ngang (Revocable Letter Of Credit).
Đây là loại thư tín dụng mà người mở (nhà nhập khẩu) có quyền đề nghị
ngân hàng phát hành sửa đổi, bổ sung, huỷ bỏ bất cứ lúc nào mà không cần sự
chấp thuận và thông báo trước của người thụ hưởng (nhà xuất khẩu). Tất nhiên,
lệnh sửa đổi, bổ sung hoặc huỷ bỏ của ngân hàng phát hành chỉ có giá trị khi
hàng chưa được người bán giao cho người mua. Còn nếu hàng hóa đã được giao,
lệnh này không có giá trị và ngân hàng vẫn phải thực hiện nghĩa vụ thanh toán
cho người thụ hưởng/người bán như không có việc gì xảy ra. Trên thực tế, loại
hình thư tín dụng có thể huỷ ngang thường không đảm bảo quyền lợi cho người
thụ hưởng, vì họ có thể gánh chịu rủi ro bất cứ lúc nào nếu ngân hàng phát hành
10
Website: Email : Tel : 0918.775.368
đơn phương hủy ngang thư tín dụng đã phát hành. Vì thế nên loại thư tín dụng
này rất ít được sử dụng trong thực tiễn giao dịch thương mại.
- Thư tín dụng không thể huỷ ngang (Irrevocable Letter Of Credit).
Đây là loại thư tín dụng mà sau khi đã được mở và nhà xuất khẩu đã chấp

nhận, thì ngân hàng phát hành không được sửa đổi, bổ sung hay huỷ bỏ trong
thời gian hiệu lực của thư tín dụng, trừ khi có sự thoả thuận đầy đủ của các bên
tham gia. Theo quy định của UCP 500 thì một thư tín dụng có thể là thư tín dụng
có thể huỷ ngang hoặc thư tín dụng không thể huỷ ngang, do vậy phải ghi rõ
ràng hoặc là không thể huỷ ngang hoặc có thể huỷ ngang. Một thư tín dụng
không ghi rõ thuộc loại nào thì vẫn coi là không thể huỷ ngang. Điều này phù
hợp với nhận thức phổ biến của những người tham gia giao dịch L/C, bởi hiện
nay loại L/C có thể huỷ ngang gần như chỉ tồn tại trên lý thuyết.
Nếu như L/C có thể huỷ ngang nói lên khả năng đơn phương huỷ bỏ L/C
đang còn hiệu lực không cần sự đồng ý của các bên liên quan thì L/C không thể
huỷ ngang không cho phép bên nào đơn phương huỷ bỏ hay sửa đổi. Tuyên bố
đơn phương đó không có giá trị pháp lý. Như vậy không có nghĩa là một L/C
không thể huỷ ngang là không thể huỷ bỏ. Trong trường hợp các bên cùng nhau
thoả thuận chấp nhận huỷ bỏ thì nó được công nhận là không có giá trị thực
hiện. Và một điều kiện tất yếu là nó phải được sự đồng ý của tất cả các ngân
hàng liên quan bằng văn bản điện tín. Do ưu điểm là quyền lợi của nhà xuất
khẩu được bảo đảm nên loại L/C này đang được sử dụng phổ biến trên thế giới.
- Thư tín dụng không thể huỷ ngang có xác nhận (Confirmed Irrerrcable
Letter Of Credit).
Đây là loại L/C không thể huỷ ngang, được một ngân hàng khác (gọi là
ngân hàng xác nhận) đảm bảo trả tiền L/C đó theo yêu cầu của ngân hàng mở
L/C. Ngân hàng xác nhận chịu trách nhiệm trả tiền cho người bán nếu ngân hàng
mở L/C không có khả năng trả tiền. Nhu cầu xác nhận L/C phụ thuộc vào uy tín,
tình hình tài chính của ngân hàng phát hành và đôi khi nó còn phụ thuộc vào
tình hình kinh tế, chính trị của quốc gia nơi ngân hàng đó đặt trụ sở. Thông
thường đây là ngân hàng quốc tế có uy tín. Đối với loại L/C này, quyền lợi của
11
Website: Email : Tel : 0918.775.368
nhà xuất khẩu được đảm bảo rất chắc chắn, vì cả ngân hàng mở và ngân hàng
xác nhận đều cam kết có trách nhiệm thanh toán hối phiếu, chứng từ cho người

hưởng lợi khi nó được xuất trình phù hợp với các điều kiện, điều khoản của L/C.
Ngân hàng phát hành phải trả phí xác nhận và thường là phải ký quỹ tại ngân
hàng xác nhận. Phí xác nhận thường rất cao, có khi lên đến 1% trị giá thư tín
dụng và khoản tiền ký quỹ cho ngân hàng xác nhận có khi lên đến 100% trị giá
thư tín dụng.
- Thư tín dụng không thể huỷ ngang miễn truy đòi (Irrrvocable
Without Recouse Letter Of credit).
Đây là loại L/C mà sau khi nhà xuất khẩu đã được trả tiền thì ngân hàng
mở L/C không có quyền đòi lại tiền từ nhà xuất khẩu trong mọi trường hợp. Khi
loại L/C này được sử dụng, nhà xuất khẩu sẽ ghi vào hối phiếu do mình ký phát
dòng chữ “miễn truy đòi từ người ký phát” (without recouse to drwers). Loaị
L/C này cũng rất phổ biến trong thanh toán quốc tế.
- Thư tín dụng có thể chuyển nhượng (Transferable Letter Of Credit).
Đây là loại L/C không thể huỷ ngang theo đó người hưởng lợi có quyền
yêu cầu ngân hàng có trách nhiệm thực hiện thư tín dụng (trả tiền, hoặc chấp
nhận, hoặc chiết khấu) để cho một bên thứ ba (người hưởng lợi thứ hai) sử dụng
số tiền của L/C, hoặc yêu cầu chia nhỏ số tiền của L/C ra thành nhiều phần cho
nhiều bên thứ ba (nhưng vẫn là người hưởng lợi thứ hai) mỗi người sử dụng một
phần. Một L/C chỉ có thể chuyển nhượng khi ngân hàng mở ghi rõ trong L/C là
“có thể chuyển nhượng”.
Loại thư tín dụng này có những điểm đáng lưu ý như sau:
+ Thủ tục phí và lệ phí của ngân hàng phát sinh từ việc chuyển nhượng
thông thường do người hưởng lợi thứ nhất chịu trừ khi có sự thoả thuận khác.
+ Một L/C chuyển nhượng chỉ có thể được chuyển nhượng một lần, trừ
khi có sự quy định khác trong L/C này. Vì vậy, L/C không thể được chuyển
nhượng theo yêu cầu của người hưởng lợi thứ hai cho bất kỳ người hưởng lợi
thứ ba nào, nếu không có chỉ dẫn nào trong L/C về khả năng chuyển nhượng lại
hoặc tiếp tục chuyển nhượng.
12
Website: Email : Tel : 0918.775.368

+ Sự chuyển nhượng phải được thực hiện theo L/C gốc. Việc chuyển
nhượng L/C không có nghĩa là hợp đồng mua bán cũng được chuyển nhượng.
Người hưởng lợi ban đầu vẫn là người chịu trách nhiệm chính với nhà xuất
khẩu.
+ Trường hợp người thừa hưởng thứ ba không giao hàng hay không giao
đúng hàng, chứng từ không hoàn hảo thì người hưởng lợi thứ nhắt phải chịu
trách nhiệm về phía bên xuất khẩu theo hợp đồng đã ký.
- Thư tín dụng giáp lưng (Back To Back Letter Of Credit).
Sau khi nhận được L/C do nhà nhập khẩu mở cho mình hưởng, nhà xuất
khẩu căn cứ vào nội dung của L/C này để dùng chính L/C này đem thế chấp mở
một L/C khác cho người hưởng khác với nội dung gần giống L/C ban đầu. L/C
được đem đi thế chấp gọi L/C gốc. L/C sau được gọi là L/C giáp lưng, người xin
mở L/C giáp lưng là người trung gian.
Nói chung, L/C giáp lưng có nội dung tương tự như L/C gốc , ngoại trừ
một số điểm sau:
+ Số chứng từ của L/C giáp lưng phải nhiều hơn số chứng từ của L/C gốc.
+ Trị giá của L/C giáp lưng phải ít hơn trị giá của L/C gốc. Khoảng giá trị
chênh lệch này trả cho chi phí mở L/C giáp lưng và trả hoa hồng cho nhà trung
gian.
+ Thời gian giao hàng của L/C giáp lưng phải sớm hơn của L/C gốc.
Yêu cầu khi sử dụng loại L/C này là nhà xuất khẩu phải đảm bảo tính
thống nhất giữa những điều khoản của L/C giáp lưng và L/C gốc. Nếu người
cung cấp hàng hoá hoặc cung cấp tài chính không đáp ứng được điều kiện thuận
lợi cho nhà xuất khẩu thì nhà xuất khẩu phải liên hệ ngay với nhà nhập khẩu để
người này điều đình với ngân hàng chỉnh lại các điều khoản trong L/C gốc cho
phù hợp. Thủ tục thực hiện L/C giáp lưng rất phức tạp. Ngoài ra, L/C giáp lưng
không thể chuyển nhượng, L/C gốc và L/C giáp lưng phải được thực hiện thông
qua một ngân hàng trực tiếp cho nhà xuất khẩu.
- Thư tín dụng đối ứng (Reciprocal letter of credit).
Đây là loại L/C được phát hành theo yêu cầu của nhà xuất khẩu cho người

13
Website: Email : Tel : 0918.775.368
thụ hưởng là nhà nhập khẩu, tương ứng với L/C đã được nhà nhập khẩu mở
trước đó cho người thụ hưởng là nhà xuất khẩu. Trên nguyên tắc, để ràng buộc
nghĩa vụ đối ứng của nhà xuất khẩu với nhà nhập khẩu thì L/C được phát hành
cho nhà xuất khẩu thụ hưởng (gọi là L/C mở trước) sẽ chỉ có hiệu lực khi nào
nhà xuất khẩu đã mở ra một L/C đối ứng (gọi là L/C mở sau) cho nhà nhập khẩu
thụ hưởng. Vì thế, thông thường trong L/C mở trước phải được ghi rõ cụm từ:
“L/C này chỉ có giá trị khi người thụ hưởng mở lại một L/C đối ứng với nó để
cho người mở L/C này thụ hưởng”. Tương tự như vậy, trong L/C đối ứng do nhà
xuất khẩu mở cho nhà nhập khẩu, cũng phải ghi rõ cụm từ: “L/C này đối ứng
với L/C số…….. mở ngày…….. qua ngân hàng………”.
Trong thực tiễn thương mại quốc tế, người ta nhận thấy L/C đối ứng
thường được sử dụng trong trường hợp thực hiện mua bán hàng hoá theo
phương thức hàng đổi hàng (Barter); hoặc trong giao dịch quốc tế mà người bán
đồng thời là người mua và ngược lại; hoặc trong trường hợp gia công hàng hóa
quốc tế giữa hai doanh nghiệp ở hai nước khác nhau.
- Thư tín dụng tuần hoàn (Rerolving letter of Credit).
Đây là loại L/C không thể hủy ngang mà sau khi đã sử dụng hết giá trị của
nó hoặc đã hết thời hạn hiệu lực thì lại tự động có giá trị như cũ và tiếp tục được
sử dụng một cách tuần hoàn trong một thời hạn nhất định, cho đến khi tổng giá
trị hợp đồng được thực hiện.
Loại L/C tuần hoàn thường được sử dụng trong trường hợp giữa nhà xuất
khẩu và nhập khẩu có quan hệ mua bán lâu dài, thường xuyên, ổn định hoặc đối
với những mặt hàng được mua bán thường xuyên, định kỳ, số lượng lớn và được
giao nhiều lần. Việc sử dụng L/C tuần hoàn có những thuận lợi rất lớn đối với
nhà nhập khẩu như không bị ứ đọng vốn, giảm được chi phí mở L/C nhiều lần.
Còn đối với nhà xuất khẩu, họ không phải chờ đợi L/C mới, đồng thời khi giao
hàng có thể nhận được ngay tiền trong cùng một L/C.
Thực tiễn giao dịch quốc tế cho thấy, khả năng tuần hoàn của loại thư tín

dụng này có thể được thực hiện theo 3 cơ chế như sau:
+ Cơ chế tuần hoàn tự động: Theo cơ chế này, nếu L/C đã mở nhưng bị
14
Website: Email : Tel : 0918.775.368
hết hiệu lực thì mặc nhiên L/C đó sẽ tự động có giá trị trở lại mà không cần sự
thông báo của ngân hàng mở L/C.
+ Cơ chế tuần hoàn bán tự động: Theo cơ chế này, nếu sau một thời hạn
nhất định kể từ ngày L/C đã mở bị hết hiệu lực hoặc đã sử dụng hết mà ngân
hàng mở L/C không có ý kiến gì thì L/C đó sẽ tự động có hiệu lực như cũ.
+ Cơ chế tuần hoàn không tự động: Theo cơ chế này, khi L/C đã hết hiệu
lực, nếu muốn có hiệu lực trở lại thì phải có sự thông báo của ngân hàng mở L/C
cho nhà xuất khẩu.
Về lý thuyết, L/C tuần hoàn được chia làm hai loại:
L/C tuần hoàn có tích luỹ (Cummulative Revolving Letter of Credit) là
loại L/C cho phép chuyển giá trị của L/C trước vào giá trị cho L/C sau, cứ như
thế cho đến L/C cuối cùng.
L/C tuần hoàn không tích luỹ (Non Cummulative Revolving Letter Of
Credit) là loại L/C không cho phép chuyển giá trị của L/C trước vào trị giá của
L/C sau.
Để đảm bảo tính chặt chẽ của thư tín dụng trong quá trình thanh toán, L/C
tuần hoàn cần ghi rõ ngày hết hiệu lực cuối cùng, số lần tuần hoàn của thư tín
dụng và là L/C tuần hoàn có tích luỹ hay không.
- Thư tín dụng dự phòng (Standly Letter Of Credit).
L/ C dự phòng là loại L/C được mở theo yêu cầu của nhà xuất khẩu, trong
đó quy định nghĩa vụ của ngân hàng mở L/C cam kết sẽ thanh toán cho nhà nhập
khẩu số tiền đã đặt cọc, tiền ứng trước… trong trường hợp nhà xuất khẩu không
hoàn thành nghĩa vụ giao hàng mà L/C đã quy định, cũng như ngân hàng mở
L/C sẽ bồi thường thiệt hại do mình gây ra cho nhà nhập khẩu. Loại thứ tín dụng
này được áp dụng khá phổ biến tại một số nước như Mỹ, Nhật Bản… nhằm bảo
đảm quyền lợi cho người mua hàng trước nguy cơ vi phạm hợp đồng của người

bán.
- Thư tín dụng có tài khoản đỏ (Red Clause Letter Of Credit).
Đây là loại L/C mà ngân hàng phát hành cho phép ngân hàng thông báo
ứng trước cho người thụ hưởng để mua hàng hoá, nguyên liệu sản xuất hàng hóa
15
Website: Email : Tel : 0918.775.368
theo L/C đã mở. Tiền ứng trước lấy từ tài khoản của người mở, nghĩa là tín dụng
thương mại, mà không phải là tín dụng của ngân hàng thông báo cho ngân hàng
phát hành. Ngân hàng thông báo chỉ thực hiện các thủ tục theo điều khoản của
L/C mà không cam kết hoặc chịu trách nhiệm về số tiền đó. Việc ứng tiền được
ngân hàng phát hành uỷ quyền cho ngân hàng thông báo thực hiện. Sau đó ngân
hàng phát hành sẽ trích tài khoản của người mở chuyển cho ngân hàng thông
báo. Tên gọi của L/C xuất phát từ việc trước đây được in bằng mực đỏ để tăng
sự chú ý.
Với điều khoản đỏ, ngân hàng phát hành cam kết ứng trước một số tiền
nhất định của L/C khi nhận được các chứng từ thông thường là:
+ Hối phiếu của số tiền ứng trước.
+ Hóa đơn.
+ Giấy nhận nợ hoặc cam kết giao hàng.
(ii) Nếu căn cứ theo thời điểm thanh toán, thư tín dụng có thể được phân
chia thành hai loại sau đây:
- Thư tín dụng trả ngay (at sight).
Đây là loại L/C không huỷ ngang mà ngân hàng phát hành L/C cam kết sẽ
thanh toán tiền hàng cho nhà xuất khẩu, ngay khi nhận được bộ chứng từ phù
hợp với L/C trong thời hạn hiệu lực của thư tín dụng.
- Thư tín dụng trả chậm (usance L/C).
Đây là loại L/C không thể huỷ ngang được ngân hàng phát hành cam kết
sẽ thanh toán tiền hàng cho nhà xuất khẩu sau một thời gian nhất định đã được
quy định trong L/C, nếu nhà xuất khẩu xuất trình đủ bộ chứng từ hợp lệ theo quy
định của L/C và trong thời hạn hiệu lực của L/C.

1.2. Thanh toán bằng L/C
1.2.1. Khái niệm và những đặc trưng cơ bản của thanh toán bằng L/C
Thanh toán bằng L/C là hình thức thanh toán qua ngân hàng, theo đó việc
thanh toán được tiến hành từ một khoản tiền được bên mua lưu ký (ký quỹ)
trước ở ngân hàng phục vụ mình để trả tiền cho bên bán theo các chứng từ được
bên bán xuất trình về số lượng hàng hoá đã giao, dịch vụ đã cung ứng theo các
16
Website: Email : Tel : 0918.775.368
điều kiện sử dụng L/C.
Đối với hình thức thanh toán bằng thư tín dụng, việc mở thư tín dụng là
điều kiện bắt buộc để áp dụng hình thức thanh toán này. Trong giao dịch thương
mại nội địa cũng như quốc tế, thanh toán bằng L/C thường được áp dụng khi bên
bán hàng không tin tưởng vào khả năng trả nợ của bên mua, do vậy họ đòi hỏi
bên mua phải có sự đảm bảo thanh toán bằng cách mở một thư tín dụng tại ngân
hàng để chuẩn bị trả tiền cho mình, sau khi đã giao hàng theo hợp đồng đã ký.
Do việc thanh toán bằng thư tín dụng luôn luôn gắn liền với cam kết thanh toán
của một ngân hàng (gọi là ngân hàng phát hành L/C) nên hình thức này tỏ ra rất
an toàn cho bên bán là người thụ hưởng.
Về lý thuyết, hình thức thanh toán bằng L/C có những đặc trưng cơ bản
sau đây:
Thứ nhất, ngân hàng phát hành L/C tiến hành thanh toán tiền cho người
thụ hưởng (bên bán) từ một khoản tiền đã được bên mua lưu ký hay ký quỹ
trước tại ngân hàng. Điều này cho phép hạn chế tối đa các rủi ro có thể xảy ra
đối với ngân hàng. Trong trường hợp này, dù có những rủi ro bất ngờ đến với
bên mua hoặc bên bán thì ngân hàng cũng không phải chịu chung bất lợi với họ.
Tuy nhiên, việc ký quỹ nhiều hay ít còn tùy thuộc vào thỏa thuận giữa các bên
cũng như mức độ thân thiện của mối quan hệ giữa ngân hàng và khách hàng –
người yêu cầu mở thư tín dụng.
Thứ hai, trong thanh toán bằng thư tín dụng, tuy nghĩa vụ trả nợ cho bên
bán vốn dĩ là nghĩa vụ của bên mua, phát sinh từ hợp đồng mua bán nhưng do

ngân hàng đã phát hành thư tín dụng để cam kết sẽ tự mình thực hiện nghĩa vụ
đó theo yêu cầu của bên mua nên về nguyên tắc chính ngân hàng sẽ là người
trực tiếp thanh toán tiền với bên bán, sau đó sẽ yêu cầu hoàn lại từ phía bên mua
trên cơ sở số tiền ký quỹ của bên mua khi mở thư tín dụng. Nghĩa vụ này của
ngân hàng phát hành L/C tuy phát sinh trên cơ sở nghĩa vụ của bên mua đối với
bên bán trong hợp đồng mua bán nhưng sau đó, chính nghĩa vụ này của ngân
hàng lại độc lập với nghĩa vụ của người mua trong hợp đồng mua bán, theo đó,
ngân hàng phát hành L/C phải thanh toán cho người thụ hưởng – bên bán khi họ
17
Website: Email : Tel : 0918.775.368
xuất trình đầy đủ các chứng từ hợp lệ, bất luận mối quan hệ pháp lý giữa người
mua và người bán có hệ quả như thế nào.
Như vậy, có thể nhận thấy trong thanh toán bằng thư tín dụng, sau khi đã
được ngân hàng chấp nhận mở L/C, bên mua gần như không phải tự mình trả nợ
cho bên bán mà uỷ quyền hoàn toàn cho ngân hàng thực hiện nghĩa vụ này, trên
cơ sở làm thủ tục ký quỹ và trả phí cho ngân hàng. Khi bên bán đã xuất trình đầy
đủ bộ chứng từ phù hợp thì ngân hàng thực hiện thanh toán cho bên bán theo
đúng quy định của L/C. Đồng thời ngân hàng có sự chủ động yêu cầu bên bán
phải giao hàng cho bên mua bởi chỉ sau khi giao hàng thì bên bán mới có đủ
chứng từ để yêu cầu ngân hàng thanh toán theo L/C đã mở.
Thứ ba, thanh toán bằng L/C luôn phản ánh mối quan hệ dịch vụ giữa
ngân hàng bên mua với người mua. Đây là một trong nhiều hoạt động cung cấp
dịch vụ của ngân hàng và ngân hàng được thu phí cho dịch vụ này của mình.
Ngoài ra, thanh toán bằng L/C còn có thể phản ánh mối quan hệ tín dụng
giữa ngân hàng phát hành L/C với người mua, khi trong tài khoản ký quỹ của
người mua không đủ tiền để thanh toán cho người bán. Khoản tiền chênh lệch
này được các bên thỏa thuận ngay khi thương lượng về số tiền ký quỹ tại ngân
hàng để mở L/C và nó được xem là khoản vay của khách hàng mở L/C tại ngân
hàng phát hành. Khoản vay này có thể được đảm bảo bằng hình thức nào là phù
thuộc vào sự thỏa thuận giữa các bên khi tiến hành giao dịch về mở thư tín dụng.

1.2.2. Quy trình thanh toán bằng thư tín dụng
Sau khi hai bên mua, bán đã ký kết hợp đồng mua bán hàng hoá với điều
khoản thanh toán bằng thư tín dụng thì quy trình thanh toán bằng thư tín dụng sẽ
được thực hiện thông qua các bước như sau:
Bước 1: Bên mua (hay nhà nhập khẩu) làm đơn yêu cầu mở L/C gửi đến
ngân hàng phục vụ mình. Đơn này có thể được lập theo mẫu thống nhất do ngân
hàng phát hành, với nội dung đề nghị ngân hàng mở L/C cho người thụ hưởng là
bên bán (hay nhà xuất khẩu) trên cơ sở hợp đồng thương mại đã ký kết. Hợp
đồng thương mại phải được gửi kèm theo giấy đề nghị mở L/C cho ngân hàng
để chứng minh sự tồn tại của nghĩa vụ thanh toán giữa bên mua và bên bán.
18
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Bước 2: Ngân hàng phục vụ bên mua tiến hành kiểm tra, xem xét yêu cầu
mở L/C trên cơ sở đối chiếu với các điều kiện mở L/C do pháp luật hoặc tập
quán giao dịch quy định. Nếu không đồng ý mở L/C, Ngân hàng hoàn trả lại các
giấy tờ kèm theo văn bản trả lời cho bên mua, ghi rõ lý do không chấp nhận mở
L/C. Nếu chấp thuận mở L/C cho bên mua, ngân hàng cũng phải thông báo cho
bên mua biết bằng văn bản và đề nghị bên mua làm các thủ tục cần thiết như ký
quỹ một khoản tiền trong tài khoản tại ngân hàng để có cơ sở phát hành L/C
theo yêu cầu của bên mua. Trên cơ sở đó, ngân hàng chấp nhận sẽ phát hành
L/C và chuyển L/C cho ngân hàng thông báo (hoặc thông qua ngân hàng đại lý,
chi nhánh của mình) để thông báo về việc phát hành L/C.
Bước 3: Ngân hàng thông báo tiến hành thông báo L/C cho bên bán -
người thụ hưởng. Việc thông báo này phải được thực hiện nguyên văn đúng như
nội dung của L/C đã phát hành mà không được phép thêm, bớt bất cứ điều
khoản nào. Thông thường, việc thông báo được thực hiện bằng cách ngân hàng
thông báo chuyển giao văn bản L/C cho bên bán.
Bước 4: Bên bán tiếp nhận L/C, nếu chấp nhận nội dung thư tín dụng thì
tiến hành thực hiện hợp đồng đối với bên mua theo thỏa thuận và lập bộ chứng
từ thanh toán để chuẩn bị đòi tiền từ ngân hàng phát hành L/C hoặc ngân hàng

được ủy quyền chỉ định thanh toán.
Bước 5: Bên bán chuyển giao bộ chứng từ thanh toán kèm theo L/C gửi
tới ngân hàng phát hành L/C, thông qua ngân hàng thông báo, với nội dung đề
nghị thanh toán tiền theo bộ chứng từ đã xuất trình, trong thời gian L/C đang có
hiệu lực.
Bước 6: Ngân hàng phát hành (hoặc ngân hàng được ủy quyền thanh
toán) kiểm tra tính hợp lệ của bộ chứng từ thanh toán, nếu thấy phù hợp với các
điều kiện ghi trong L/C thì thanh toán cho bộ chứng từ đó.
Bước 7: Ngân hàng phát hành thông báo cho bên mua đề nghị họ làm thủ
tục thanh toán các khoản tiền cho mình, bao gồm toàn bộ số tiền đã được thanh
toán theo L/C, phí dịch vụ phát hành và thanh toán L/C và các khoản tiền phạt,
tiền bồi thường thiệt hại, nếu có.
19
NHPH NHTB
Bên mua Bên bán
1
2
6
6
5
3
7 8
4
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Bước 8: Bên mua kiểm tra bộ chứng từ do ngân hàng phát hành chuyển
đến, nếu phù hợp thì thanh toán cho ngân hàng trên cơ sở bộ chứng từ nhận
được.
Có thể khái quát quy trình thanh toán bằng thư tín dụng theo sơ đồ như sau:
1.2.3. Vai trò của thanh toán bằng thư tín dụng trong bối cảnh hội nhập
kinh tế quốc tế

Thanh toán bằng L/C là một hình thức thanh toán có nhiều ưu điểm, rất an
toàn và tỏ ra phù hợp với quyền lợi của hầu hết các bên có liên quan (bên bán,
bên mua, ngân hàng phát hành, ngân hàng thông báo, ngân hàng đại lý…). Tuy
nhiên, do đặc tính an toàn cao đối với người sử dụng nên về khía cạnh kỹ thuật,
hình thức thanh toán này khá phức tạp và đòi hỏi người sử dụng phải có những
hiểu biết sâu sắc về bản chất cũng như quy trình kỹ thuật của nó. Có như vậy
mới tránh được nguy cơ gặp phải các rủi ro pháp lý trong quá trình giao dịch.
Ngày nay, khi các nền kinh tế trên thế giới đang có xu hướng xích lại gần
nhau dưới tác động khách quan của quá trình toàn cầu hoá thì nhu cầu sử dụng
dịch vụ thanh toán bằng thư tín dụng trong thương mại quốc tế càng có cơ hội
phát triển mạnh. Một cách khái quát, có thể hình dung vai trò tích cực của thanh
toán bằng thư tín dụng được thể hiện trên những khía cạnh chủ yếu sau đây:
Thứ nhất, thanh toán bằng thư tín dụng tạo điều kiện cho các bên đạt được
thoả thuận nhanh chóng về điều khoản thanh toán khi mới thiết lập giao dịch
hoặc khi các bên không đủ độ tin cậy lẫn nhau. Chính sự tham gia tích cực của
20
Website: Email : Tel : 0918.775.368
ngân hàng phát hành L/C và ngân hàng thông báo L/C vào quá trình thanh toán
mà khiến cho phương thức thanh toán bằng L/C trở nên hiệu quả hơn, đáp ứng
yêu cầu của các bên tốt hơn và điều đó sẽ góp phần làm gia tăng hoạt động
thương mại trong nước cũng như quốc tế.
Thứ hai, thanh toán bằng thứ tín dụng thúc đẩy sự liên kết thành một hệ
thống giữa các ngân hàng khác nhau ở mỗi quốc gia và trên toàn thế giới. Để
cung cấp dịch vụ thuận lợi nhất cho khách hàng, để thu lợi nhuận cao nhất thì
các ngân hàng buộc phải mở nhiều chi nhánh vươn ra hoạt động ở nhiều khu
vực, quốc gia và trên toàn thế giới, thông qua mối liên kết với các ngân hàng
khác. Sự liên kết này tạo thành một hệ thống vừa cạnh tranh vừa giúp đỡ nhau
cùng phát triển, mở ra những cơ hội lớn hơn cho mỗi ngân hàng cũng như cho
sự phát triển của nền kinh tế xã hội.
Thứ ba, thanh toán bằng thư tín dụng được sử dụng phổ biến trong thanh

toán quốc tế sẽ góp phần giảm bớt sự cách biệt về trình độ phát triển giữa các
doanh nghiệp cũng như các nền kinh tế trên thế giới. Trong hoạt động thương
mại quốc tế, tuy khoảng cách địa lý là một vấn đề đáng lo ngại nhưng nhờ có kỹ
thuật thanh toán bằng L/C mà trở ngại này có thể dễ dàng vượt qua, do cơ chế
thỏa thuận đại lý giữa ngân hàng phát hành L/C với ngân hàng thông báo đặt trụ
sở ở nhiều nước xuất khẩu. Điều này tỏ ra rất thuận lợi cho các bên xuất nhập
khẩu ở các nước khác nhau.
Thứ tư, thanh toán bằng L/C đôi khi là một hình thức tài trợ xuất nhập
khẩu của ngân hàng đối với doanh nghiệp. Điều này thể hiện ở chỗ:
Đối với nhà nhập khẩu, nếu khi ký quỹ để mở L/C mà số tài khoản ký quỹ
không đủ hoặc khi ngân hàng đã thanh toán L/C cho người thụ hưởng mà nhà
nhập khẩu chưa thể hoàn trả lại toàn bộ tiền cho ngân hàng thì coi như ngân
hàng đã thực hiện cho vay đối với nhà nhập khẩu. Như vậy, bằng cách này, ngân
hàng đã tài trợ nhập khẩu đối với doanh nghiệp nhập khẩu.
Đối với nhà xuất khẩu, trong trường hợp họ thụ hưởng một L/C trả chậm
nhưng do doanh nghiệp xuất khẩu chưa thể sử dụng số tiền trên L/C nên ngân
hàng có thể chấp nhận hình thức ứng trước số tiền ghi trên L/C cho nhà xuất
21
Website: Email : Tel : 0918.775.368
khẩu để họ sử dụng như một phương thức cấp tín dụng cho nhà xuất khẩu, trên
cơ sở nhà xuất khẩu thỏa thuận chuyển quyền sở hữu L/C cho ngân hàng.
Ở Việt Nam hiện nay, thực tế cho thấy phần lớn các doanh nghiệp xuất
nhập khẩu thường ít vốn và luôn gặp nhiều khó khăn trong thanh toán quốc tế
nên hoạt động tài trợ xuất nhập khẩu qua thanh toán bằng L/C là tương đối phổ
biến.
2. Quan hệ pháp luật thanh toán bằng thư tín dụng
2.1. Luật áp dụng cho quan hệ thanh toán bằng thư tín dụng (L/C)
Hoạt động thanh toán qua tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán nói chung
và thanh toán bằng L/C nói riêng làm phát sinh nhiều quan hệ lợi ích. Những
quan hệ lợi ích này có ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến lợi ích của các bên

tham gia, đồng thời cũng ảnh hưởng đến các khía cạnh tăng trưởng của nền kinh
tế. Vì lẽ đó, việc Nhà nước ban hành các quy phạm pháp luật điều chỉnh các mối
quan hệ này nhằm đảm bảo lợi ích cho các chủ thể, đảm bảo an toàn cho nền
kinh tế là điều cần thiết và tất yếu.
Pháp luật về thanh toán bằng thư tín dụng là tổng hợp các quy phạm pháp
luật do Nhà nước ban hành hoặc thừa nhận, nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội
phát sinh trong hoạt động thanh toán bằng thư tín dụng. Xét theo nghĩa rộng,
pháp luật về thanh toán bằng thư tín dụng bao gồm hai bộ phận, đó là pháp luật
quốc gia và pháp luật quốc tế (thông lệ quốc tế và tập quán quốc tế về tín dụng
chứng từ).
2.1.1. Luật quốc gia điều chỉnh quan hệ thanh toán bằng thư tín dụng
Đây là nguồn pháp luật cơ bản điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh
trong hoạt động thanh toán bằng thư tín dụng. Bộ phận pháp luật này bao gồm
các quy phạm pháp luật được quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật
chủ yếu như Bộ luật dân sự; Luật ngân hàng nhà nước Việt Nam năm 1997 (sửa
đổi, bổ sung năm 2003); Luật các tổ chức các tín dụng năm 1997 (được sửa đổi,
bổ sung một số điều năm 2004); Nghị định số 64/2001/NĐ-CP ngày 20/9/2001
về hoạt động thanh toán qua các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán; Quyết
22
Website: Email : Tel : 0918.775.368
định số 226/2002/QĐ- NHNN ngày 20/3/2002 ban hành Quy chế hoạt động
thanh toán qua các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán; Quyết định số
1096/2002/QĐ- NHNN ngày 8/10/2002 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước về
việc ban hành thủ tục thanh toán qua các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán…
Ngoài ra, hoạt động thanh toán bằng thư tín dụng còn chịu sự điều chỉnh
của các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan như Luật các công cụ chuyển
nhượng 2005, Pháp lệnh ngoại hối 2005…
2.1.2. Các thông lệ quốc tế và tập quán ngân hàng quốc tế
Hiện nay chưa có các điều ước quốc tế nào trực tiếp điều chỉnh vấn đề
thanh toán bằng thư tín dụng. Do vậy, các tập quán và thông lệ quốc tế về vấn đề

này được áp dụng rất rộng rãi trên toàn thế giới. Các quy tắc và thực hành thống
nhất về tín dụng chứng từ (UCP) là bộ các quy tắc được công nhận rộng rãi điều
chỉnh đến việc sử dụng chứng từ trong thương mại quốc tế. Trải qua 6 lần sửa
đổi, với số xuất bản số 500 có hiệu lực từ 1/1/1994 là bản sửa đổi hiện tại, toàn
diện và sâu sắc nhất (UCP500) đã được các hiệp hội ngân hàng, các ngân hàng
riêng biệt ở gần 200 quốc gia áp dụng.
UCP500 là những quy tắc thể hiện đầy đủ các thông lệ và tập quán quốc
tế trong giao dịch L/C bao gồm các điều khoản vừa mang tính tổng quát vừa hết
sức cụ thể. Có thể hình dung những vấn đề cơ bản được quy định trong văn bản
này bao gồm:
Mục A: Những quy định chung và định nghĩa.
Mục B: Hình thức và thông báo tín dụng.
Mục C: Nghĩa vụ và trách nhiệm.
Mục D: Các chứng từ là những điều chỉ dẫn quan trọng, cần thiết khi sử
dụng tín dụng chứng từ. Các điều khoản này không chỉ cung cấp cho các ngân
hàng, các nhà xuất khẩu, nhà nhập khẩu mà cả các hãng vận tải, bảo hiểm sự
giúp đỡ thực hành và trợ lực có liên quan đến thương mại quốc tế.
UCP là tập quán quốc tế áp dụng toàn cầu còn luật quốc gia là luật riêng
áp dụng riêng cho từng nước. Trừ Hoa Kỳ và Colombia coi UCP là một bộ phận
cấu thành của hệ thống pháp luật quốc gia thì đa số các quốc gia đều nhìn nhận
UCP là văn bản trong hệ thống luật lệ và tập quán quốc tế mà các giao dịch quốc
23
Website: Email : Tel : 0918.775.368
tế liên quan đều vận dụng. Tuy nhiên, mức độ vận dụng như thế nào còn phụ
thuộc vào hệ thống pháp luật của mỗi quốc gia.
2.2. Các chủ thể tham gia quan hệ pháp luật thanh toán bằng thư tín dụng
Quan hệ pháp luật thanh toán bằng thư tín dụng được xác lập và thực hiện
theo một quy trình khá phức tạp, với sự tham gia của nhiều chủ thể khác nhau.
Các chủ thể này bao gồm:
2.2.1. Bên yêu cầu mở thư tín dụng( Applicant For Letter Of Credit)

Là người mua hoặc nhà nhập khẩu, yêu cầu ngân hàng phục vụ mình phát
hành L/C và có trách nhiệm pháp lý đối với việc trả tiền của ngân hàng cho
người bán theo L/C này. Trong thực tiễn, để tham gia vào giao dịch này, bên yêu
cầu mở thư tín dụng phải thỏa mãn một số điều kiện do ngân hàng quy định phù
hợp với pháp luật. Các điều kiện này được gọi là điều kiện mở thư tín dụng.
2.2.2. Bên phát hành thư tín dụng
Ngân hàng phát hành (Issuing Bank) hay ngân hàng mở (Open Bank) là
ngân hàng được chỉ định theo yêu cầu của người mua, phát hành một hoặc nhiều
L/C cho người bán hưởng. Ngân hàng phát hành thường được hai bên mua, bán
thoả thuận trong hợp đồng mua bán. Trong trường hợp không có sự thoả thuận
trước thì nhà nhập khẩu được phép lựa chọn ngân hàng phát hành.
2.2.3. Bên thụ hưởng thư tín dụng
Người thụ hưởng L/C (Benefciary) là người được hưởng số tiền thanh
toán hay sở hữu hối phiếu đã chấp nhận thanh toán. Đó là người bán (Seller)
hoặc nhà xuất khẩu (Exporter) hoặc người ký hối phiếu (Drawer) hay người
thắng thầu (contracter). Người thụ hưởng thư tín dụng sẽ được chỉ định ngay
trong thư tín dụng và có quyền yêu cầu ngân hàng phát hành thanh toán cho
mình số tiền đã được ghi trong thư tín dụng, phù hợp với các điều kiện thanh
toán đã được ghi trong thư tín dụng.
2.3.4. Các chủ thể khác có liên quan
Các chủ thể này thường là Ngân hàng thông báo (Adrsing Bank) và Ngân
hàng xác nhận (Cofirming Bank).
Ngân hàng thông báo là ngân hàng được ngân hàng phát hành yêu cầu
24
Website: Email : Tel : 0918.775.368
thông báo L/C cho người hưởng. Ngân hàng thông báo thường là ngân hàng đại
lý hay một chi nhánh của ngân hàng phát hành ở nước mà nhà xuất khẩu mang
quốc tịch.
Ngân hàng xác nhận (Cofirming Bank) là ngân hàng được ngân hàng phát
hành yêu cầu đứng ra xác nhận L/C trong trường hợp nhà xuất khẩu muốn có sự

bảo đảm chắc chắn của L/C bằng thủ tục xác nhận. Thông thường, đó là một
ngân hàng lớn, có uy tín và trong nhiều trường hợp nó chính là ngân hàng thông
báo.
Ngân hàng chỉ định (Nominated Bank) là ngân hàng xác nhận hoặc ngân
hàng nào đó được ngân hàng phát hành uỷ nhiệm để khi nhận được bộ chứng từ
xuất trình phù hợp với những quy định trong L/C thì thanh toán cho người thụ
hưởng, chấp nhận hối phiếu kỳ hạn, chiết khấu hối phiếu hoặc bộ chứng từ; hoặc
chịu trách nhiệm trả chậm giá trị của L/C.
Ngân hàng chỉ định có trách nhiệm kiểm tra bộ chứng từ của nhà xuất
khẩu gửi giấy như ngân hàng phát hành.
Ngân hàng phục vụ bên thụ hưởng là ngân hàng nơi nhà xuất khẩu mở tài
khoản giao dịch. Ngân hàng này cũng có thể chính là ngân hàng được các bên
chỉ định làm người mở/phát hành thư tín dụng theo yêu cầu của người mua để
trả tiền cho người bán theo bộ chứng từ nhận được.
2.3. Quyền và nghĩa vụ của các bên
2.3.1. Quyền và nghĩa vụ của bên yêu cầu mở thư tín dụng
Người yêu cầu mở L/C có quyền đưa ra các chỉ thị để xác nhận L/C và
kiểm tra việc thực hiện các chỉ thị đó. Đồng thời với việc hưởng quyền người
yêu cầu mở L/C cũng phải thực hiện các nghĩa vụ.
Người yêu cầu mở L/C cũng phải thực hiện ký quỹ trong trường hợp L/C
thanh toán ngay và hoàn trả L/C mà ngân hàng đã thanh toán; thực hiện các biện
pháp đảm bảo đối với ngân hàng phát hành L/C; trả phí dịch vụ cho ngân hàng.
2.3.2. Quyền và nghĩa vụ của bên phát hành thư tín dụng
Ngân hàng phát hành có quyền yêu cầu người mở L/C chuyển tiền kí quỹ
đầy đủ trước khi thực hiện mở L/C. Ngân hàng cũng có quyền truy đòi người
25

×