Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

Một số kinh nghiệm tổ chức các hoạt động trải nghiệm sáng tạo cho học sinh, xây dựng mô hình “trường học cuộc sống”

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (112.43 KB, 13 trang )

Một số kinh nghiệm tổ chức các hoạt động trải nghiệm sáng tạo cho học
sinh, xây dựng mô hình “Trường học cuộc sống”

I- ĐẶT VẤN ĐỀ
Giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là sự nghiệp của Đảng, Nhà nước và
của toàn dân. Đầu tư cho giáo dục là đầu tư phát triển và được ưu tiên đi trước
trong các chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội.
Chính vì vậy, Hội nghị Trung ương 8 khóa XI, Đảng ta đã đề ra Nghị
quyết số 29-NQ/TW ngày 4/11/2013 về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và
đào tạo với mục tiêu là: Tạo chuyển biến căn bản, mạnh mẽ về chất lượng, hiệu
quả giáo dục, đào tạo; đáp ứng ngày càng tốt hơn công cuộc xây dựng, bảo vệ
Tổ quốc và nhu cầu học tập của nhân dân. Giáo dục con người Việt Nam phát
triển toàn diện và phát huy tốt nhất tiềm năng, khả năng sáng tạo của mỗi cá
nhân; yêu gia đình, yêu Tổ quốc, yêu đồng bào; sống tốt và làm việc hiệu quả.
Xây dựng nền giáo dục mở, thực học, thực nghiệp, dạy tốt, học tốt, quản lý tốt;
có cơ cấu và phương thức giáo dục hợp lý, gắn với xây dựng xã hội học tập; bảo
đảm các điều kiện nâng cao chất lượng; chuẩn hóa, hiện đại hoá, dân chủ hóa, xã
hội hóa và hội nhập quốc tế hệ thống giáo dục và đào tạo; giữ vững định hướng
xã hội chủ nghĩa và bản sắc dân tộc. Phấn đấu đến năm 2030, nền giáo dục Việt
Nam đạt trình độ tiên tiến trong khu vực.
Xuất phát từ mục tiêu trên, trong năm học 2015-2016, Sở GD&ĐT Phú Thọ,
Phòng GD&ĐT Cẩm Khê đã chỉ đạo việc đổi mới công tác giáo dục và đào tạo
từ những nhiệm vụ cụ thể. Căn cứ vào Hướng dẫn nhiệm vụ năm học 2015-2016
của Phòng GD&ĐT Cẩm Khê, tôi xin trích dẫn nhiệm vụ cụ thể và một số
nhiệm vụ khác do Phòng GD& ĐT chỉ đạo đã được nhà trường lựa chọn để xây
dựng Kế hoạch chỉ đạo năm học của nhà trường đó là:
Chỉ đạo 100% các trường tiểu học thực hiện trang trí lớp học và thành lập Hội
đồng tự quản lớp học theo mô hình VNEN, trong đó cần lưu ý việc trang trí lớp
học phải sáng tạo, thiết thực, hiệu quả, phù hợp với điều kiện cụ thể, tránh lãng
phí, làm đồng bộ, không phục vụ được các nội dung học tập và hoạt động của
HS. Khuyến khích các đơn vị không tham gia thí điểm vận dụng linh hoạt tổ


chức các tiết học theo mô hình VNEN.
Với một số hoạt động khác, ở nội dung xây dựng mô hình "Trường học cuộc
sống", Phòng Giáo dục và Đào tạo chỉ đạo trường Tiểu học Thị trấn Sông Thao
nghiên cứu xây dựng mô hình "Trường học cuộc sống" phù hợp với thực tiễn,
các đơn vị còn lại tiếp tục tìm hiểu, nghiên cứu để có kế hoạch xây dựng mô
hình phù hợp đối với đơn vị mình trong những năm tiếp theo.
Để nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện cho trẻ em, môi trường giáo dục
trong nhà trường là nơi quan trọng nhất. Mô hình “Trường học cuộc sống” là mô
hình mà các nhà trường đang hướng tới để thực hiện mục tiêu trên. Với Trường


Tiểu học Tùng Khê, việc đổi mới được chúng tôi thực hiện bắt đầu từ các hoạt
động trải nghiệm sáng tạo cho học sinh cùng với việc mạnh dạn đăng kí áp dụng
làm quen mô hình “Trường học cuộc sống”. Qua một năm thực hiện, mặc dù
năm đầu thực hiện song “Trường học cuộc sống” cùng với các hoạt động trải
nghiệm sáng tạo đã thu hút được sự tham gia tích cực của đội ngũ giáo viên, các
em học sinh và được CMHS đồng tình ủng hộ trong tất cả các hoạt động. Từ
những nỗ lực cố gắng của nhà trường và sự vào cuộc quyết liệt của CMHS trong
các hoạt động trải nghiệm sáng tạo đó, trường Tiểu học Tùng Khê đã được Đảng
ủy, chính quyền địa phương xã Tùng Khê, Phòng GD&ĐT Cẩm Khê, Sở
GD&ĐT Phú Thọ đánh giá cao.
Với mục đích là huy động tất cả HS, phụ huynh, cộng đồng xã hội cùng vào
cuộc để tạo ra môi trường học tập “ thân thiện, tích cực” phát huy khả năng sáng
tạo và rèn kĩ năng sống cho HS thông qua các hoạt động trải nghiệm sáng tạo,
giúp các em tự tin hơn trong giao tiếp và trong học tập góp phần nâng cao chất
lượng dạy-học.
Đây là một nội dung mới mẻ, hấp dẫn tôi và chưa có nhiều người nghiên cứu.
Căn cứ vào những việc thực tế mình đã làm, tôi viết thành sáng kiến Một số
kinh nghiệm tổ chức các hoạt động trải nghiệm sáng tạo cho học sinh, xây
dựng mô hình “Trường học cuộc sống” để chia sẻ với đồng nghiệp, bạn bè

những kinh nghiệm mà tôi đã áp dụng tại Trường Tiểu học Tùng Khê trong năm
học 2015-2016.
II- GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
PHẦN I: THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ
Sau một năm được cấp trên điều động về trường, qua quá trình tiếp xúc với học
sinh, tôi thấy học sinh rất nhút nhát, thiếu tự tin trong giao tiếp, việc tham gia
các hoạt động GDTT, NGLL chủ yếu là thụ động. Về phía Ban Đại diện CMHS,
họ rất nhiệt tình tham gia hội họp nhưng họ chưa có cơ hội được phối hợp tham
gia các hoạt động cùng giáo viên và con em mình. Việc tham gia của CMHS chỉ
tập trung vào các thành viên trong Ban đại diện CMHS còn các phụ huynh khác
thì đứng ngoài cuộc. Cụ thể như sau:
Các sân chơi được tổ chức
Trang trí
lớp học
Năm
học

20132014

Tổng số
Số HS
HS
tham Tỉ lệ
gia
9,4%

Thi “Rung
Thi văn nghệ
chuông vàng” 20/11


CMHS phối
hợp với GV
trong các hoạt
động giáo dục

Số HS
tham Tỉ lệ
gia

Số
tham
gia

50

Số HS
tham Tỉ lệ
gia
21,9%

Tỉ lệ
18,8%


2014200
2015

15,1% 50

33,3%


30,3%

Qua bảng trên cho thấy:
Trong hai năm học này, nhà trường tổ chức được hai sân chơi lớn cho HS,
số HS được tham gia vào các hoạt động rất ít. Các HS khác chỉ đóng vai trò là
một khán giả. Trong các sân chơi này, CMHS không tham gia hoặc cũng là một
khán giả.
Năm học 2013-2014 chỉ có 9,4% số HS tham gia vào việc trang trí lớp học, còn
lại 80,6% số HS không tham gia; mới có 43,8% HS được tham gia vào dự thi
“Rung chuông vàng” còn lại 56,2% số HS chưa được tham gia; 21,9% số HS
tham gia tích cực, chủ động; chỉ có 18,8% số CMHS đến trường hoặc trao đổi
với GV về việc phối hợp giáo dục con em, còn lại 81,2% số CMHS đứng ngoài
cuộc trong việc phối hợp với GV cùng giáo dục trẻ.
Năm học 2014-2015 chỉ có 9,4% số HS tham gia vào việc trang trí lớp học, còn
lại 80,6% số HS không tham gia; 56,2% số HS chưa được tham gia vào dự thi
“Rung chuông vàng”; 66,7% số HS chưa tham gia vào hoạt động một cách tích
cực, chủ động; 30,3% số CMHS đã phối hợp với nhà trường tham gia các hoạt
động giáo dục con cái, số đông CMHS vẫn phó mặc nhiệm vụ giáo dục cho thầy
cô giáo.
Qua thực trạng trên cho thấy:
* Ưu điểm: Em đánh máy vào đây nhé!
Nhà trường đã có kế hoạch tổ chức các hoạt động NGLL, HĐTT cho học sinh
hàng năm, quan tâm đến việc tổ chức các hoạt động NGLL cho HS
Các tổ chức trong nhà trường, GV đã có sự phối hợp để tổ chức các hoạt động
đó
Việc tổ chức các hội thi, các sân chơi trí tuệ vừa tạo ra không khí vui tươi phấn
khởi cho HS sau những giờ học căng thẳng vừa góp phần rèn luyện kỹ năng
sống cho HS, giúp cho các HS được tham gia hoạt động được giao lưu, học hỏi,
rèn sự tự tin mạnh dạn trong giao tiếp và trong học tập.

Các HS được tham gia cổ vũ cho các bạn trong các sân chơi cũng có được
không khí vui vẻ và cơ hội học hỏi lẫn nhau
Việc tổ chức các hoạt động như vậy phù hợp với nguồn kinh phí của những cán
bộ, giáo viên, cha mẹ HS không phỉa vất vả nhiều khi tham gia vào các hoạt
động đó.
*Tồn tại:
Số lượng học sinh được tham gia thực sự vào các sân chơi đó rất hạn chế do vậy
chỉ có những HS đó thực sự được rèn kỹ năng sống và có được sự tự tin, mạnh
dạn trong giao tiếp và học tập.
Số đông các HS khác chỉ là người cổ vũ nên các em sẽ gặp phải sự tự ti về mình
kém bạn nên không được lựa chọn tham gia dự thi. Do vậy, số đông học sinh sẽ
nhút nhát, không dám chủ động tự tin trong giao tiếp và học tập
Nhà trường sẽ không phát huy được hết năng lực của từng giáo viên mà gánh
nặng vẫn đủ tập trung vào Ban giám hiệu và Tổng phụ trách đội


Cha mẹ học sinh không được huy động vào cuộc và cho rằng nhiệm vụ giáo dục
là của giáo viên và nhà trường
Khoảng cách giữa nhà trường và gia đình không được thu hẹp
*Nguyên nhân của thực trạng trên là do:
- Nhà trường: Khi xây dựng kế hoạch chỉ đạo năm học về các hoạt động NGLL
mà vẫn theo lối mòn. Các sân chơi bị giới hạn về đối tượng học sinh tham gia số
lượng sân chơi ít, việc HĐTT như múa hát tập thể, thể dục giữa giờ là chính.
Do nguồn kinh phí của nhà trường còn hạn chế nên không có đủ kinh phí để tổ
chức nhiều hoạt động lớn
- Việc xây dựng kế hoạch phối hợp với Ban đại diện cha mẹ HS theo lối mòn,
chưa nắm bắt rõ được tiềm lực của cha mẹ HS
- Cán bộ quản lý ngại vất vả khi phải xây dựng các hoạt động ở quy mô lớn.
- Đội Thiếu niên tiền phong, GV chưa chủ động xây dựng kế hoạch hoạt động
giáo dục, phụ thuộc vào sự chỉ đạo của nhà trường.

- Nhà trường, giáo viên không tin tưởng vào khả năng của HS, cha mẹ học sinh
không dám giao nhiệm vụ cho tất cả HS.
- Giáo viên ngại hoạt động, không muốn mất thời gian rèn luyện các kỹ năng
sống cho HS
- Về phía cha mẹ học sinh: đa số phụ huynh điều kiện kinh tế còn gặp khó khăn.
Đa số phụ huynh đều phát biểu rằng: trách nhiệm của cha mẹ học sinh là cho
con đến trường còn việc tổ chức các hoạt động giáo dục là của nhà trường.
Giáo viên chưa coi trọng việc giáo dục kĩ năng sống cho HS, việc tổ chức cho
các em tham gia các hoạt động vẫn là áp đặt, chưa tạo cơ hội tự học, tự phát hiện
cho các em.
Giáo viên chưa huy động được HS tham gia vào các hoạt động học tập và giáo
dục hoặc các hoạt động tổ chức chưa hấp dẫn với các em.
Bản thân GV chưa tin tưởng vào khả năng của HS, luôn nghi ngờ khả năng của
HS, không dám giao việc vì sợ các em không làm được.
Trong khi tổ chức các hoạt động giáo dục, GV chỉ tập trung khuyến khích cho
các HS nhanh nhẹn, có năng lực hơn, GV chưa biết cách kết nối các em lại với
nhau, chưa hướng dẫn, chưa tạo cơ hội cho các em gặp khó khăn trong học tập
và trong giao tiếp cách hỏi bạn khi mình không hiểu, không biết cách làm.
Bản thân GV chưa thực sự gần gũi thân thiện, chưa hiểu hết những tâm tư
nguyện vọng của học trò nên khoảng cách thầy-trò vẫn thể hiện rõ nét.
Cha mẹ HS chưa xác định rõ vai trò của mình trong việc giáo dục con em, chưa
chú ý rèn kĩ năng sống cho HS ở nhà. Một số CMHS thiếu quan tâm đến việc
chăm sóc giáo dục con em, phó mặc trách nhiệm cho nhà trường, không muốn
phối hợp với GV trong việc giáo dục con em vì mặc cảm cá nhân, tạo ra những
rào cản trong việc nâng cao chất lượng giáo dục HS.
Việc kết hợp giáo dục giữa nhà trường, gia đình và các tổ chức xã hội đôi lúc
còn lỏng lẻo.
Từ những nguyên nhân trên, tôi thấy trước tiên mình cần phải tạo cơ hội tốt nhất
cho HS để các em được gần gũi với thầy cô, bè bạn, phát huy hết khả năng của
từng em và huy động tất cả các em cùng tham gia các hoạt động giáo dục là vô



cùng cần thiết. Để các em gần gũi với cô giáo, người kết nối không ai khác
chính là các bậc phụ huynh HS. Mô hình “Trường học và cuộc sống” đã được
chúng tôi lựa chọn và cần trải nghiệm. Và cơ hội đầu tiên dành cho chúng tôi
chính là Hội thi, Hội chợ tuổi thơ 2015.
1. Thuận lợi :
Tùng Khê là một xã miền núi của huyện Cẩm Khê. Tình hình chính trị,
kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh trật tự khá ổn định. Đảng ủy và chính quyền địa
phương rất quan tâm đến công tác giáo dục. Nhân dân địa phương cần cù lao
động, dân trí ngày càng được nâng cao đã tạo tiền đề quan trọng thúc đẩy, nâng
cao hiệu quả công tác bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em, thu hút được sự
tham gia tích cực của các cơ quan Đảng, chính quyền, các tổ chức đoàn thể xã
hội.
Trong những năm gần đây, nhà trường luôn được sự chỉ đạo sát sao về
chuyên môn của Phòng GD&ĐT cẩm Khê, đặc biệt là sinh hoạt chuyên môn
theo hướng đổi mới nhằm nâng cao chất lượng dạy học. Đối với phong trào thi
đua "Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực", Phòng GD&ĐT đã có
chỉ đạo cụ thể đến từng nội dung. Trên cơ sở đó, đơn vị đã triển khai đầy đủ các
văn bản chỉ đạo của các cấp quản lý về phong trào thi đua, cụ thể hóa từng nội
dung thực hiện đến 100% CB, GV, NV và HS của nhà trường. Trường Tiểu học
Tùng Khê có đội ngũ CB, GV, NV đảm bảo đủ về số lượng, đa số GV trẻ nhiệt
tình và có lòng yêu nghề mến trẻ. Đội ngũ GV đồng tình hưởng ứng cuộc vận
động của ngành và các nội dung mà đơn vị đã xây dựng.
- Tổ chức Plan đã hỗ trợ kinh phí để xây dựng phòng học, thư viện ngoài trời,
bàn ghế, sách tham khảo phục vụ dạy-học.
- Nhà trường đã huy động được nhiều sự đóng góp của cha mẹ học sinh và các
lực lượng giáo dục ngoài nhà trường trong việc xây dựng, tu bổ CSVC, cảnh
quan trường lớp học.
2. Khó khăn:

Điều kiện kinh tế của đa số nhân dân địa phương còn gặp khó khăn. Số học sinh
hộ nghèo trong năm học là 105/200 = 52,5%. Một số gia đình học sinh bố mẹ ly
hôn, cả bố và mẹ đều đi làm ăn xa nhà nên sự quan tâm của cha mẹ dành cho
con cái còn nhiều hạn chế. Về cơ hội học tập, sinh hoạt, giao lưu, vui chơi giải
trí bên ngoài nhà trường cũng như các điều kiện khác không có nhiều. Tình
trạng một số trẻ em đi học thiếu sách vở, dụng cụ học tập vẫn liên tục xảy ra.
Gánh nặng học tập đã trở thành rào cản thiếu nhi đến các hoạt động vui chơi tập
thể. Sự phối hợp giữa nhà trường và một số gia đình học sinh chưa thường
xuyên.
* Về cơ sở vật chất trường lớp:
- Các phòng học chưa được trang trí theo đúng yêu cầu quy định và tính thẩm
mỹ chưa cao.
- Các bồn hoa đã được xây dựng nhưng việc chăm sóc chưa thường xuyên.
- Bàn ghế giáo viên đã bị hư hỏng, thiếu tính thẩm mĩ.
- Bàn ghế học sinh đã bị xuống cấp do đã sử dụng nhiều năm nên có nhiều bộ đã
bị hỏng như bàn bị tróc sơn, vỡ các cạnh bàn, ghế bị gẫy chân, bung mặt,…
* Về công tác dạy và học:


- Tập thể GV đã thực hiện đổi mới phương pháp dạy và học song chưa thường
xuyên, chưa có hiệu quả, chưa chủ động áp dụng vào dạy-học hàng ngày. Trong
năm học 2013-2014, số tiết dự được đánh giá là "dạy-học tích cực" 3/18 =
16,7%.
- Số giáo viên ứng dụng công nghệ thông tin vào việc soạn giảng: số GV soạn
giáo án bằng máy vi tính: 9/14 = 64,3%; số GV giảng bài bằng giáo án điện tử:
0.
- Các tiết dạy của GV trong các buổi thao giảng chưa khuyến khích học sinh tích
cực phát biểu ý kiến xây dựng bài.
- Các buổi sinh hoạt tập thể, các hoạt động giáo dục khác, học sinh còn thụ động
khi tham gia và không có sự tham gia của GV.

* Về tổ chức các hoạt động tập thể:
- Đội thiếu niên, Đoàn thanh niên, giáo viên chủ nhiệm hàng năm có tổ chức các
hoạt động văn hóa văn nghệ, thể dục thể thao trong nhà trường nhân các ngày lễ
lớn trong năm như 20/11, 22/12, 26/3,... Tiến hành các hoạt động tập thể, hoạt
động GDNGLL… tạo sân chơi lành mạnh cho học sinh qua các hoạt động văn
hóa, văn nghệ, thể dục, thể thao… Mặc dù các hoạt động đã tổ chức nhiều song
chưa phát huy hết tính chủ động, sáng tạo của học sinh.
* Rèn luyện kỹ năng sống cho học sinh:
- Việc rèn kỹ năng sống đã được nhà trường chỉ đạo thực hiện song vẫn mang
tính hình thức như chỉ thể hiện trên giáo án hoặc ở các tiết dạy thao giảng. Học
sinh chưa được GV chú trọng rèn kỹ năng sống thường xuyên. Vì vậy các em
còn nhút nhát, thiếu tự tin, khi tham gia các kỳ giao lưu cấp huyện các em bộc lộ
rất rõ điểm yếu này.
- Các kỹ năng tự bảo vệ, phòng tránh tai nạn thương tích, ... còn lúng túng.
* Về tham gia tìm hiểu, chăm sóc và phát huy giá trị các di tích lịch sử, văn hoá,
cách mạng ở địa phương:
- Ở địa phương có Chùa Thăng Long Tự, nghĩa trang liệt sỹ. Các em đã được
giáo dục truyền thống dân tộc, truyền thống văn hoá lịch sử ở địa phương cho
học sinh, giữ gìn bản sắc văn hoá của dân tộc thông qua công tác tuyên truyền
song các em không hiểu vì sao mình phải tham gia chăm sóc, bảo vệ các di tích
đó...
3. Một số khó khăn đối với công tác Đội và phong trào thiếu nhi:
Những công tác chỉ đạo, nghiên cứu, tìm tòi giải pháp mới trong công tác Đội,
và phong trào thiếu nhi chưa thật sự được chú trọng, các hoạt động tổ chức theo
kinh nghiệm, ít sáng tạo.
Cán bộ làm công tác Đội mới được bổ nhiệm nên ít kinh nghiệm và kỹ năng
nghiệp vụ còn hạn chế.
Các GV không tham gia phối hợp cùng Tổng phụ trách khi tổ chức các hoạt
động ngoài giờ lên lớp.
Nhìn chung hoạt động phong trào còn tổ chức theo hướng áp đặt, theo lối mòn,

chưa đáp ứng về nhu cầu sở thích của thiếu nhi, thiếu tính sáng tạo, tính tự quản
của các em chưa cao.
Giáo viên-tổng phụ trách Đội chưa xây dựng được các hoạt động thực sự sáng
tạo, có tính giáo dục và hấp dẫn các em học sinh tham gia sinh hoạt.


Thực trạng đó đặt ra yêu cầu về xây dựng môi trường học tập, vui chơi thân
thiện với trẻ em, tạo điều kiện cho trẻ em tích cực phát triển toàn diện .
PHẦN II: CÁC BIỆN PHÁP ĐÃ TIẾN HÀNH
1. Thực hiện công tác xã hội hóa bằng công tác tuyên truyền về việc xây
dựng trường học thân thiện - học sinh tích cực
- Bản thân tôi xác định công tác tuyên truyền vận động là vô cùng quan trọng.
Trong những năm học trước, nội dung và phương pháp tuyên truyền tại đơn vị
còn một số hạn chế. Tôi rất trăn trở suy nghĩ cần cải cách lại phương pháp tuyên
truyền theo hình thức mới có hiệu quả hơn. Sự kết hợp công tác tuyên truyền
nâng cao nhận thức của toàn dân về xây dựng trường học thân thiện, học sinh
tích cực cùng với chương trình giáo dục Tiểu học mới và kết hợp với vận động
đóng góp xây dựng cơ sở vật chất xây dựng môi trường thân thiện. Trước hết đối
với thành viên ban chỉ đạo năm mới có điều chỉnh bổ sung thành viên mới là đại
diện phụ huynh tham gia vào ban chỉ đạo, nhằm tạo nhân lực làm tiếng nói rất
gần gũi trong quá trình xã hội hóa công tác xây dựng trường học thân thiện, học
sinh tích cực.
- Trong các cuộc giao ban Bí thư chi bộ với Ban chấp hành Đảng ủy, UBND,
MTTQ và các đoàn thể trong xã như: Đoàn Thanh niên, Hội Phụ nữ, Hội Nông
dân, Hội Khuyến học và Ban đại diện cha mẹ học sinh trường, tôi đều tham gia
phát biểu ý kiến để tuyên truyền các nội dung về phong trào thi đua “xây dựng
trường học thân thiện, học sinh tích cực”. Trong ý kiến phát biểu khéo léo đưa
tất cả các tổ chức đoàn thể cùng tham gia vào cuộc vận động, tranh thủ được sự
đồng tình ủng hộ của các cấp lãnh đạo. Tại các cuộc họp này, trường đã báo cáo
kết quả đã đạt được năm qua để rút kinh nghiệm những gì chưa làm được lấy ý

kiến đóng góp từ các đại biểu và thống nhất được một số nội dung cần thực hiện
trong thời gian sớm nhất. Hiệu trưởng báo cáo kế hoạch “ xây dựng trường học
thân thiện, học sinh tích cực” của trường năm học 2014 - 2015 và đã tranh thủ
được sự quan tâm, giúp đỡ, ủng hộ của lãnh đạo cấp uỷ, chính quyền địa phương
để tuyên truyền sâu rộng chủ trương này đến các lực lượng xã hội.
- Lập kế hoạch tuyên truyền vận động toàn thể CMHS ủng hộ phong trào thi đua
này. Khi tuyên truyền cần nêu rõ mục đích, ý nghĩa, những quyền lợi mà các em
HS được hưởng từ của phong trào thi đua.
- Cuộc họp với các đoàn thể và GV trong trường về “xây dựng trường học thân
thiện, học sinh tích cực”. Các đoàn thể và GV đã thảo luận sâu sắc vào kế hoạch
của trường và đưa yêu cầu, nội dung của phong trào vào kế hoạch công tác năm,
hàng tháng của tổ chuyên môn cá nhân. Cuộc họp còn tập trung thảo luận các
giải pháp tiếp tục thực hiện nội dung 2 và 3: “Dạy và học có hiệu quả, phù hợp
với đặc điểm, lứa tuổi của học sinh ở mỗi địa phương, giúp các em tự tin trong
học tập” và “ Rèn luyện kỹ năng sống cho học sinh”. Ban phụ trách Đội cần trao
đổi sâu về việc “Tổ chức các hoạt động vui chơi lành mạnh, lễ hội dân gian ở địa
phương” và công tác xã hội hóa bằng tuyên truyền rộng rãi mô hình “ xây dựng
trường học thân thiện, học sinh tích cực”.
- Cuộc họp ban chỉ đạo và các tuyên truyền viên được triển khai nội dung cần
tuyên truyền hiệu quả, phù hợp với đặc điểm tình hình thực tế của địa phương.


- Phân công tuyên truyền viên (là GV chủ nhiệm của các lớp) có khả năng, năng
lực thuyết trình, am hiểu văn hóa nền nếp, phong tục địa phương do1 giáo viên
và 01 phụ huynh cơ sở có nhận thức tốt về GDTH và am hiểu nội dung “ xây
dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” làm điểm tựa. Sau đó sẽ gợi ý
những nội dung cần tuyên truyền, mỗi tuyên truyền viên viết bài và gửi về ban
giám hiệu nhà trường để thảo luận nội dung cũng như góp ý kiến bài viết cho
lô gíc ngắn gọn và xúc tích, đồng thời tập huấn rút kinh nghiệm và thống nhất
hình thức tuyên truyền.

- Thời gian tuyên truyền vào hội nghị đại đoàn kết toàn dân do trưởng khu đứng
ra triệu tập tháng 11 trong năm, số lượng nhân dân đến dự 465 người. Kết quả
được nhân dân rất lắng nghe và đưa ra một số chủ trương về việc “ xây dựng
trường học thân thiện, học sinh tích cực” góp phần nâng cao chất lượng giáo dục
cho trẻ.
- Tuyên truyền bằng hình thức: Giới thiệu các sản phẩm của học sinh về thủ
công, về vẽ, viết chữ đẹp, nhằm phát huy tính mạnh dạn, khả năng sáng tạo của
học sinh. Giúp cha mẹ học sinh đến lớp hiểu thêm về nội dung “xây dựng trường
học thân thiện, học sinh tích cực” tạo điều kiện cho những người xung quanh có
những suy nghĩ của mình về thầy cô và các mối quan hệ của học sinh hàng ngày,
một số qui tắc ứng xử thân thiện của người lớn đối với trẻ em.
- Thời gian tuyên truyền: trong cả năm học.
- Địa điểm tuyên truyền: trong trường học và trên đài truyền thanh, các cuộc họp
ở xã, ở các khu dân cư.
Các buổi tuyên truyền đã thực sự được GV và đông đảo các tổ chức đoàn thể
ủng hộ và tham gia, vận động mọi người cùng thực hiện.
2. Làm tốt công tác phối hợp với cha mẹ học sinh cùng xây dựng trường học
thân thiện, học sinh tích cực.
Cha mẹ học sinh là một lực lượng gắn bó mật thiết với nhà trường trong việc
phối kết hợp giáo dục học sinh. Họ là người hàng ngày chuẩn bị điều kiện cho
con tới trường, nắm bắt kết quả học tập và rèn luyện của con em sau mỗi ngày
đến lớp. Chính vì vậy tôi đã triển khai và tích cực phối hợp với Ban đại diện
CMHS cùng tham gia “xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực”.
Trong hội nghị CMHS đầu năm học, mọi người đã được trao đổi về mục đích, ý
nghĩa, nội dung của phong trào thi đua này và vai trò, trách nhiệm của nhà
trường và gia đình trong việc tổ chức thực hiện. CMHS đều hiểu ý nghĩa nhân
văn của phong trào thi đua, cởi mở, chia sẻ thân thiện về những nội dung cụ thể
là:
+ Thông báo tình hình hoạt động dạy và học của nhà trường, thực trạng cơ sở
vật chất và các trang thiết bị hiện có, kế hoạch tu bổ cơ sở vật chất cho năm học

mới. Nhà trường cũng vận động các nhà hảo tâm tham gia ủng hộ quỹ xã hội
hóa giáo dục của nhà trường mua sắm thêm một số đồ dùng, trang thiết bị phục
vụ dạy học. CMHS dân chủ bàn bạc với nhà trường về việc tu bổ, mua sắm cơ
sở vật chất, trang thiết bị dạy học. Ví dụ: sửa chữa bàn ghế, đổ bê tông cổng
trường, mua sắm máy vi tính phục vụ dạy tin học, đồ dùng thiết bị dạy học, ...
+ Kế hoạch tổ chức các hoạt động ngoài giờ lên lớp, các trò chơi dân gian nhân
các ngày kỷ niệm như 20/11, 22/12, 26/3, 30/4.


+ Tổ chức “Diễn đàn đối thoại giữa GV và phụ huynh HS” để GV và CMHS
được trao đổi, chia sẻ cách phối hợp giáo dục trẻ em ở trường cũng như ở nhà.
+ Kế hoạch phối hợp cùng chăm sóc giáo dục cho trẻ em ở gia đình cũng như ở
trường như hướng dẫn con cách thực hiện các trò chơi, đồ chơi dân gian.
Sự phối hợp giữa nhà trường và CMHS đã đạt được hiệu quả giáo dục trong
phong trào thi đua “xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực”, đó là
sự đoàn kết giữa phụ huynh và giáo viên, sự cởi mở thân thiện, ủng hộ thêm
kinh phí để cải thiện cơ sở vật chất, môi trường học tập của học sinh. Kết thúc
học kì I năm học 2014-2014, nhà trường đã nhận được sự ủng hộ của CMHS
gồm 46.556.000 đồng để thanh toán nợ xây dựng tường rào, bục chào cờ từ
năm học trước và mua mới 8 máy vi tính phục vụ học Tin học, sửa chữa bàn ghế
GV và HS đáp ứng nhu cầu dạy-học..
3. Chỉ đạo giáo viên đổi mới phương pháp dạy học:
- Để dạy học có hiệu quả, tôi đã chỉ đạo tổ chuyên môn thực hiện tốt sinh hoạt
chuyên môn theo hướng đổi mới, chia sẻ tích cực sau dự giờ. Mỗi GV được thực
tập khoảng 2 tiết/năm học. Trong khi chia sẻ, người dự chú trọng đến hoạt động
học của HS như có phát huy được khả năng của HS trong lớp không, có phù hợp
đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi không, các em có tự tin làm chủ kiến thức không?
Khi đánh giá tiết dạy, chú trọng đến hiệu quả tiết dạy. Tất cả GV tham gia đều
phải phát biểu ý kiến để chia sẻ những thành công, hạn chế của bài học và rút ra
bài học kinh nghiệm cho chính bản thân mình.

- Khuyến khích GV dạy học có ứng dụng CNTT và đổi mới phương pháp dạy
học trong giờ học. Những GV này khi chia sẻ hoặc đánh giá giờ dạy được đánh
giá cao.
- Trong các giờ nghỉ trống tiết, khuyến khích GV khai thác thông tin, tài liệu bồi
dưỡng chuyên môn, các tiết dạy minh họa trên Internet để học hỏi, tham khảo.
- Tham gia sinh hoạt chuyên môn liên trường đầy đủ, đi thăm quan học hỏi kinh
nghiệm dạy-học tích cực tại trường Tiểu học Tạ Xá 2, Văn Bán.
- Tổ chức giao lưu với trường Tiểu học Tình Cương để trao đổi kinh nghiệm
dạy-học tích cực và mô hình trường học mới Vnen.
- Khảo sát chất lượng HS để đánh giá hiệu quả dạy học của GV và HS. Khảo sát
có thể ngay sau tiết học, khảo sát định kỳ một cách nghiêm túc từ khâu ra đề
(mỗi lớp 1 đề, mỗi môn có đề chẵn, đề lẻ) đến khâu coi, chấm khảo sát ( coi,
chấm chéo, chọn GV có năng lực để chấm bài). Lấy chất lượng khảo sát làm căn
cứ cơ bản để đánh giá, xếp loại thi đua lớp, GV.
Tính đến hết tháng 4/2015, nhà trường đã có 3 tiết dạy-học bằng giáo án điện
tử. Năng lực chia sẻ giờ dạy và áp dụng đổi mới phương pháp dạy học có nhiều
tiến bộ trong các buổi học hàng ngày. Do đó chất lượng học của HS được
chuyển biến.
4. Tăng cường rèn kỹ năng sống cho học sinh thông qua các hoạt động.
Để đứa trẻ trở thành một cá nhân độc lập, tự chủ, sống khỏe, sống tốt thành công
trong tương lai thì ngay từ nhỏ giáo dục cần phải rèn cho trẻ những kỹ năng
sống tối thiểu và cơ bản. Có thể coi đó là chìa khóa cho sự sống còn và phát
triển của mỗi con người, nếu có kỹ năng sống phù hợp sẽ luôn vững vàng trước
những khó khăn và thử thách. Các em sẽ biết giải quyết tình huống theo hướng


tích cực và làm chủ cuộc sống. Nhận thức được ý nghĩa và tầm quan trọng đó,
tôi đã chỉ đạo GV tập trung bồi dưỡng các kỹ năng sống cho HS như: kỹ năng
vận động, kỹ năng nhận thức, kỹ năng giao tiếp, kỹ năng hợp tác nhóm, kỹ năng
tự phục vụ và tự vệ, kỹ năng bảo vệ môi trường,… Hàng ngày cần rèn kỹ năng

thông qua nhiều hình thức khác nhau.
- Tổ chức họp xây dựng kế hoạch hoạt động ngoài giờ lên lớp có sự tham gia
đóng góp ý kiến của HS:
Ngay từ đầu năm học, nhà trường đã tổ chức họp với đại diện HS các lớp để
thống nhất xây dựng kế hoạch hoạt động ngoài giờ lên lớp. TPT đưa ra kế
hoạch theo dự kiến, các HS đưa ra ý kiến của mình rồi sau đó cùng thống nhất
bàn bạc kế hoạch hoạt động trong năm học.
- Rèn kỹ năng sống được lồng ghép trong các tiết học:
Đa số các tiết học đều có nội dung giáo dục kỹ năng sống cho HS. Giáo viên
phải nghiên cứu đầy đủ các văn bản hướng dẫn để soạn giáo án đầy đủ các yêu
cầu trước khi lên lớp. Ban giám hiệu, tổ chuyên môn khi ký duyệt phải kiểm tra
kỹ về nội dung này. Đặc biệt là nhà trường giám sát kỹ việc GV thực tế dạy-học
trên lớp có đáp ứng yêu cầu đặt ra không? Vì vậy trong thời gian đầu, ban giám
hiệu phải kiểm soát một cách chặt chẽ, thường xuyên để việc giáo dục kỹ năng
sống cho HS được GV quan tâm và đi vào nền nếp.
- Rèn kỹ năng sống thông qua hoạt động vui chơi: hướng dẫn trẻ cách chơi
các trò chơi bổ ích như nhảy dây, ném bóng, cướp cờ, mèo đuổi chuột...Khi chơi
tự phân công người chủ trò, trọng tài, người chơi, người cổ vũ,... Sắp xếp lựa
chọn địa điểm chơi cho phù hợp với tính chất của trò chơi, đảm bảo an toàn khi
chơi. Lúc đầu các trò chơi có GV hướng dẫn, sau đó các em tự vui chơi và tự
rèn kỹ năng sống cho bản thân.
-Thông qua hoạt động hàng ngày: GV hướng dẫn các em các kỹ năng đơn
giản hàng ngày như chào hỏi, cám ơn, xin lỗi, động viên, chia sẻ khi bạn gặp
chuyện buồn, giúp bạn khi gặp khó khăn, tự phục vụ, tự vệ, ... Mặc dù là
chuyện tưởng như đơn giản nhưng nếu không được GV chỉ dẫn, các em có
thể bỏ qua hoặc có những hành vi thiếu văn minh nơi công cộng.
- Thông qua các hoạt động ngoài giờ lên lớp: Đội thiếu niên tăng cường các
hoạt động tập thể như: giao lưu văn nghệ, thi "Rung chuông vàng", "Mặt trời tri
thức", thi kể chuyện sách, thi tìm hiểu sách, thể dục Aerobic và múa hát tập thể
giữa giờ, ... Khi tổ chức các hoạt động này, GV-tổng phụ trách cần giao việc

chủ động chương trình cho các em HS có khả năng để phát huy được tính chủ
động, sáng tạo, tính mạnh dạn, tự tin trước mọi người xung quanh. Huy động tất
cả GV cùng tham gia hoạt động với HS để quản lí HS, giúp đỡ những HS gặp
khó khăn trong quá trình hoạt động.
Khi được tham gia xây dựng kế hoạch hoạt động ngoài giờ lên lớp, các em đã
được phát huy tính chủ động, sáng tạo của mình. Việc tham gia vào các hoạt
động tập thể với thầy cô, bạn bè, khoảng cách thầy-trò được thu nhỏ lại, các em
gần gũi với nhau hơn, thực sự tự tin, mạnh dạn và thông qua đó các em đã tự tin
hơn hẳn trong giờ học.
5. Tích cực tìm hiểu và chăm sóc các di tích lịch ở địa phương, tổ chức hát
dân ca Xoan Phú Thọ và chơi trò chơi dân gian:


-Trước hết, nhà trường mời trưởng ban văn hóa xã về giới thiệu cho CB, GV,
NV, HS các di tích lịch sử tại địa phương để tất cả mọi người được hiểu rõ về
nguồn gốc, những giá trị của các di tích đó. Từ đó mỗi người đều hiểu được vì
sao mình phải có trách nhiệm trong việc chăm sóc, giữ gìn và phát huy những
nét văn hóa đó. Đặc biệt trong lễ hội Đình Cả, nhà trường nhận tham gia các tiết
mục văn nghệ chào mừng, vận động CB, GV, NV quyên góp công đức vào quỹ
tu bổ các di tích của địa phương.
- Nhà trường chỉ đạo giáo viên dạy âm nhạc cần tham gia đầy đủ các lớp tập
huấn về hát dân ca Xoan ghẹo Phú Thọ trong nhà trường, tích cực dạy hát dân ca
trong các tiết dạy ở buổi thứ hai/ngày.
- Lập kế hoạch tổ chức thi hát dân ca và chơi trò chơi dân gian vào dịp 26/3.
Mỗi lớp thành lập một đội văn nghệ, một đội chơi trò chơi dân gian.
- Gợi ý cho GV chủ nhiệm, GV thể dục-công tác đội cung cấp một số trò chơi
dân gian, những bài hát dân ca, những bài đồng dao của khắp mọi miền đất nước
để dạy và hướng dẫn học sinh.
- Mỗi giáo viên sưu tầm 2 trò chơi dân gian ở ba miền đất nước. Tổ trưởng
chuyên môn tập hợp in thành tập những trò chơi dân gian: Gồm 34 trò chơi dân

gian làm tài liệu học tập cho các lớp.
- Ngoài lồng ghép chơi trò chơi dân gian vào các hoạt động tôi còn tổ chức hội
thi với chủ đề chúng em hát dân ca và chơi trò chơi dân gian để cho HS thỏa
lòng yêu thích của mình cùng thầy cô giáo và bè bạn. Mỗi đội văn nghệ do lớp
tự chọn, biểu diễn 2 tiết mục; đội chơi trò chơi tổ chức cho tất cả HS được tham
gia, mỗi lớp tổ chức 3 đội: 1 đội thi kéo co, 1 đội thi cướp cờ, một đội ném bóng
rổ.
Khi tổ chức cho tất cả HS tham gia các em sẽ thấy mình được hòa đồng, được
góp sức cho tập thể, xóa đi sự phân biệt giữa bạn giỏi với bạn yếu, giữa giàu
với nghèo, giữa nhanh với chậm,... Các em sẽ được GV hướng dẫn cách phối
hợp ăn ý, khéo léo, những phản ứng liên quan giữa các thành viên thể hiện tinh
thần tập thể cao, sự cố gắng, khéo léo của mỗi HS và sự hứng thú của người
tham gia cổ vũ sôi nổi và chơi hết mình. Trong khi tham gia chơi, sự phân công
trách nhiệm các thành viên thể hiện sự công bằng vô tư là sự tôn trọng phát huy
năng lực của cá nhân, điều này đánh giá rất cao trong xây dựng môi trường học
tập thân thiện.
PHẦN III: HIỆU QUẢ CỦA SÁNG KIẾN
Sau khi áp dụng các biện pháp trên, với sự cố gắng nỗ lực của tập thể cán
bộ - giáo viên, các em học sinh, sự vào cuộc của cha mẹ HS, việc tổ chức các
hoạt động trải nghiệm sáng tạo cho HS, mô hình “trường học cuộc sống” ở
trường tiểu học Tùng Khê đã gặt hái được rất nhiều thành quả đáng khích
lệ, làm thay đổi cách nhìn nhận cảu mọi người về một miền quê nghèo. Điều
đó thể hiện ở sự đồng thuận và tạo các điều kiện thuận lợi nhất cho nhà
trường từ phía lãnh đạo địa phương. Đảng uỷ, chính quyền địa phương
không những nhất trí về quan điểm chỉ đạo mà còn tích cực động viên về
tinh thần, hỗ trợ về kinh phí cho nhà trường hoạt động, lãnh đạo các đoàn
thể nhân dân cùng tham gia vào cuộc với nhà trường.


Nhận thức của cha mẹ HS cũng thay đổi, cha mẹ HS hiểu được vai trò, tầm

quan trọng của mình trong việc phối hợp tổ chức các hoạt động giáo dục
HS. Cha mẹ HS thấu hiểu, chung tay với GV chủ nhiệm, với nhà trường
vào từng hoạt động: phụ huynh tham gia trang trí lớp học cho con cháu
mình, hướng dẫn con cháu làm các sản phẩm sáng tạo, đồ dùng học tập,
cùng GV,HS sưu tầm, trưng bày mỗi lớp 1 gian hàng trong Hội chợ tuổi thơ
nhân dịp Tết trung thu tháng 9 năm 2015. Mỗi người tự mang đến gom góp
vào gian hàng một số sản phẩm đan lát truyền thống của địa phương như:
rổ, rá,… hay các nông sản đại phương như: gạo nếp, đỗ xanh, lạc,… và
hướng dẫn con em làm các món ẩm thực: chè xanh, xôi nếp, bánh trôi, sắn
luộc,… Hội chợ tuổi thơ của HS trường Tiểu học Tùng Khê đã tạo được ấn
tượng sâu sắc trong lòng mỗi người tham dự hôm đó và còn đọng lại mãi
trong tâm trí trẻ thơ
Đối với hội trại, hội thi “Cùng em bảo vệ môi trường” được tổ chức trong
tháng 4/ 2016: Trưởng ban đại diện cha mẹ học sinh 8 lớp đã họp thống
nhất với cha mẹ HS lớp mình và phân công công việc rất cụ thể cho từng
phụ huynh như: phụ huynh nào tham gia vào đội dự thi của lớp trong màn
chào hỏi và tài năng, phụ huynh nào chuẩn bị lo sinh hoạt ăn uống cho HS
trong ngày tổ chức hội thi,…
Và khi hội thi, hội trại diễn ra trong 2 ngày, phụ huynh đã sắp xếp thời gian
để tham gia mỗi người mỗi việc với mong muốn con em mình được trải
nghiệm, được hưởng hạnh phúc trọn vẹn của tuổi thơ.
Đối với GV: + Nhận thức rõ vai trò, vị trí của mình trong việc giáo dục
HS. Hơn ai hết, GV chủ nhiệm lớp là người quyết định cơ bản đến kết quả
giáo dục của HS lớp mình. Các hoạt động tổ chức, GV đều cố gắng để
khẳng định mình nâng cao uy tín của bản thân, tạo mối quan hệ thân thiện
với HS, cha mẹ HS.
+ GV được phân công dạy các tiết thí điểm vận dụng
phương pháp dạy học tích cực theo mô hình VNEN đã có sự đầu tư nghiêm
cứu cụ thể làm sao để tất cả HS đều được tham gia, tất cả HS đều được học
và học được, tạo đà cho các giáo viên khác cùng phấn đấu theo.

+ Đối với việc phát huy vai trò của Hội đồng tự quản HS,
GV đã hướng dẫn HS một cách tỉ mỉ ở những công việc đầu tiên, sau đó
hướng dẫn HS tự linh hoạt thực hiện ở các công việc khác.
+ Đối với việc tham gia các hôik thi với qui mô lớn, có sự
tham gia của cha mẹ HS, có đại biểu khách mời đến dự đối với GV lúc đầu
còn mất tinh thần, ngại tham gia nhưng khi đã vào việc các giáo viên đều
thể hiện hết năng lực của mình khuyến khích để tất cả HS đều được tham
gia vào các phần thi.
Đối với HS: các em HS đã được tham gia vào tất cả các hoạt động trải
nghiệm. Em nào cũng được đóng vai trò chủ động, được phát huy tính sáng
tạo của riêng mình.
+ Ở hội thi Trang trí lớp học, làm đồ dùng dạy học và hội chợ tuổi thơ:
mỗi em được giao nhiệm vụ làm ít nhất một đồ dùng học tập hoặc một sản
phẩm sáng tạo từ phế liệu, sưu tầm hoặc làm sản phẩm đan lát địa phương,


hoặc món ăn ẩm thực để trưng bày.

III- KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
1- KẾT LUẬN
a. Ý nghĩa của sáng kiến: Qua phong trào thi đua “Xây dựng trường học thân
thiện, học sinh tích cực” trách nhiệm của cán bộ quản lý, giáo viên, Tổng phụ
trách Đội có ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc rèn luyện cho các em phẩm
chất đạo đức, năng lực học tập và khả năng tự học của HS. Nó xây dựng cho các
em những kế hoạch thiết thực, những kỹ năng sống đời thường bổ ích. Theo đó
các thế hệ HS năng động, tích cực học tập trong môi trường thân thiện sẽ là nhân
tố quyết định sự phát triển bền vững, lâu dài của đất nước nói chung và trường
Tiểu học Tùng Khê nói riêng.
b. Khả năng ứng dụng triển khai: Sáng kiến kinh nghiệm này đã áp dụng
thành công tại trường tiểu học Tùng Khê thì cũng sẽ thực hiện tốt ở các đơn vị

trường Tiểu học khác trong huyện. Tôi tin rằng sáng kiến kinh nghiệm này sẽ
được các trường bạn tin tưởng lựa chọn ứng dụng thực hiện.
c. Một số bài học kinh nghiệm:
- Công tác tuyên truyền cần khéo léo tạo được sự đồng thuận, ủng hộ của chính
quyền, các đoàn thể và nhân dân địa phương tham gia thật đông đảo.
- Kiên định với sinh hoạt chuyên môn đổi mới, tăng cường kiểm tra việc thực
hiện dạy-học hàng ngày của GV, HS. Các khó khăn cần tháo gỡ dần dần, không
nóng vội.
- Phối hợp tốt với CMHS để họ cùng tham gia giải quyết một số nhiệm vụ như
bàn bạc, định hướng cho họ cách phối hợp giáo dục HS.
- Tổ chức tốt các hoạt động GDNGLL thường xuyên tạo cho các em HS tự tin,
sự gần gũi với bạn bè, thầy cô, góp phần nâng cao chất lượng dạy học.
- Cần khuyến khích cá nhân, tập thể có thành tích trong quá trình thực hiện.
2- KIẾN NGHỊ , ĐỀ XUẤT:
a. Đối với Phòng Giáo dục và Đào tạo:
- Phối hợp với Huyện Đoàn tổ chức các hoạt động trong hè cho HS để các em
được tham gia hoạt động vui tươi lành mạnh, bổ ích.
b. Đối với hiệu trưởng các trường :
- Tạo điều kiện cho GV, tổng phụ trách phát huy hơn nữa sự sáng tạo trong việc
đổi mới phương pháp dạy học và giáo dục HS. Chỉ đạo tốt việc xây dựng kế
hoạch hoạt động ngoài giờ lên lớp để thúc đẩy chất lượng giáo dục.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1- Chỉ thị số 40/ 2008/ CT – BGD&ĐT của Bộ GD&ĐT về việc phát động
phong trào thi đua “ Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực ” trong
các trường giai đoạn 2008 – 2013.



×