Tải bản đầy đủ (.doc) (11 trang)

VAI TRÒ, CÁC NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU, NẮM BẮT DƯ LUẬN XÃ HỘI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (93.53 KB, 11 trang )

VAI TRÒ, CÁC NHIỆM VỤ CỦA CÔNG TÁC NGHIÊN CỨU, NẮM BẮT DƯ
LUẬN XÃ HỘI.
1. Vài trò của công tác nghiên cứu, nắm bắt dư luận xã hội.
1.1. Tham mưu cho các cơ quan lãnh đạo, quản lý công việc soạn thảo, ban
hành, tổ chức thực hiện quyết định; thông tin, tuyên truyền định hướng dư luận
xã hội.
- Nhờ phản ánh khách quan, trung thực và khả năng dự báo chính xác tình hình
tâm trạng, tư tưởng, thái độ, nguyện vọng của các tầng lớp xã hội trước các sự kiện,
hiện tượng, vấn đề xã hội nhất là các vấn đề có liên quan đến sự lãnh đạo, quản lý của
đất nước, các báo cáo tổng hợp, phân tích tình hình dư luận xã hội là căn cứ thông tin
quan trọng phục vụ quá trình soạn thảo, ban hành, tổ chức thực hiện chủ trương, quyết
sách của các cơ quan lãnh đạo, quản lý đất nước. Các cơ quan lãnh đạo, quản lý đất
nước khó có thể ban hành được các chủ trương, quyết sách sát thực, có sức sống, có
tính khả thi nếu không nắm chắc được tâm trạng, tư tưởng của đối tượng có liên quan
đến các chủ trương, quyết sách đó. Công tác nghiên cứu dư luận xã hội giúp các cơ
quan lãnh đạo, quản lý giải đáp các câu hỏi như: các vấn đề bức xúc mà thực tiễn đất
nước (hoặc ở địa phương, ngành) đòi hỏi phải giải quyết là gì? Các chủ trương, quyết
sách dự định được ban hành (của cơ quan lãnh đạo, quản lý) có được người dân ủng
hộ không? Nếu không dừng thì cần có các biện pháp thông tin, tuyên truyền cụ thể gì
để tạo sự ủng hộ của nhân dân?.
- Trên cơ sở lý luận về cơ chế hình thành dư luận xã hội và các thông tin cụ thể
về các băn khoăn, thắc mắc của nhân dân, công tác nghiên cứu dư luận xã hội có khả
năng đề xuất các giải pháp thông tin, tuyên truyền, định hướng dư luận xã hội có hiệu
quả.
1.2. Góp phần củng cố và mở rộng nền dân chủ trong Đảng, trong xã hội.
Tạo điều kiện để cán bộ, đảng viên và nhân dân đóng góp ý kiến, tham gia vào
các công việc của Đảng, Nhà nước: việc tiếp xúc của các cộng tác viên nghiên cứu dư
luận xã hội với người dân để nắm bắt ý kiến của họ, nhất là các cuộc điều tra, thăm dò


dư luận xã hội là cơ hội để người dân bài tỏ chính kiến, tham gia ý kiến với các công


việc điều hành, quản lý đất nước của các cấp ủy đảng và chính quyền, nâng cao ý thức
làm chủ đất nước, làm chủ xã hội của họ.
- Phát huy vai trò phản biện xã hội, vai trò kiểm tra, giám sát của cán bộ, đảng
viên và nhân dân: khi người dân cảm thấy ý kiến của mình được lắng nghe, được coi
trọng thì trách nhiệm phản biện, kiểm tra, giám sát xã hội của họ cũng được nâng cao.
Nhân dân có “trăm tai, nghìn mắt” nên có thể nhìn rõ mọi vấn đề, sự vật dưới nhiều
góc độ. Sự phản biện, kiểm tra, giám sát xã hội của nhân dân giúp các cơ quan lãnh
đạo, quản lý kịp thời phát hiện những sơ hở, hạn chế, yếu kém trong công tác lãnh
đạo, quản lý của mình, trên cơ sở đó, kịp thời đề ra các giải pháp khắc phục.
1.3. Công tác nghiên cứu, nắm bắt dư luận xã hội góp phần đổi mới công tác
tư tưởng của Đảng.
- Ưu điểm và hạn chế của cách nắm bắt tâm trạng, tư tưởng truyền thống (tổng
hợp ý kiến phản ánh trực tiếp hoặc thông quan thảo luận của cán bộ, đảng viên…):
+ Ưu điểm: dễ làm, ít tốn kém về thời gian, nhân lực và tài chính.
+ Hạn chế: các thông tin thu được dễ mang tính chủ quan, nhất là trong bối cảnh
bệnh thành tích phát triển (các báo cáo dễ bị “vo tròn”, biểu hiện tâm trạng, tư tưởng
tích cực dễ bị “thổi phồng”, những vấn đề gai góc, phức tạp trong tâm trạng, tư tưởng
xã hội dễ bị bỏ qua).
- Điều tra xã hội học về dư luận xã hội giúp khắc phục hạn chế nêu trên của việc
nắm bắt tâm trạng, tư tưởng theo các phương pháp truyền thống. Tuy nhiên, ở đây
cũng có những hạn chế: khó làm, đòi hỏi cán bộ phải có chuyên môn, nghiệp vụ xã
hội học, đòi hỏi chi phí về tài chính.


1. Định hướng dư luận xã hội, một hoạt động quan trọng trong công tác
tuyên giáo
Với tư cách là một hoạt động quan trọng trong lĩnh vực tuyên giáo, hoạt động
định hướng dư luận xã hội là việc sử dụng các phương thức thông tin nhất định tác
động vào các nhóm đề mang tính thời sự.
Ở đây dư luận xã hội được hiểu là tập hợp các luồng ý kiến cá nhân trước các

vấn đề, sự kiện, hiện tượng có tính thời sự”. Cách tiếp cận này cho thấy dư luận xã
hội là hình thức tập hợp ngẫu nhiên ý kiến cá nhân thành những luồng ý kiến khác
nhau, thậm chí là trái ngược nhau cùng đánh giá, phán xét về một vấn đề, một sự kiện,
một hiện tượng nào đó, nó có thể đúng, có thể sai, vì vậy người ta không thể dựa vào
số đông người phản ánh làm căn cứ để kết luận sự đúng đắn của một vấn đề mà sự
phản ánh đó bước đầu chỉ là sự bộc lộ của trạng thái tâm lý mang tính chủ quan của
người đánh giá như tâm trạng, thái độ, tình cảm, mong muốn, nhu cầu… Các trạng
thái tâm lý này luôn phụ thuộc vào trình độ nhận thức, lối sống của người phán xét.
Số lượng người tán thành hoặc phản đối nhiều hay ít về một vấn đề nào đó một mặt có
ý nghĩa như là sự thể hiện thái độ, tâm tư, nguyện vọng của nhóm xã hội mang ý kiến
đó, mặt khác nó thể hiện quan điểm cá nhân của họ được quy định bởi hệ thống giá
trị, chuẩn mực, lối sống trong quá trình xã hội hoá mà họ được tham gia. Điều này nói
lên rằng công tác nghiên cứu nắm bắt dư luận xã hội có vai trò hết sức quan trọng đối
với qúa trình định hướng dư luận xã hội. Cái khó của việc sử dụng thông tin dư luận
xã hội là ở chỗ phải có cơ sở khách quan cho việc lựa chọn và sử dụng một luồng ý
kiến nào đó trong số các luồng ý kiến đa dạng và trái ngược nhau đã được thu thập,
phân loại để đưa ra kết luận, loại bỏ yếu tố chủ quan trong các luồng ý kiến khác
nhau, phân tích, so sánh đối chiếu một cách khoa học, tìm ra ý nghĩa thực của những
luồng thông tin thu được. Sử dụng thông tin dư luận không phải là sự chấp nhận đa số
ý kiến tán thành, ủng hộ hay phản đối một vấn đề nào đó mà điều quan trọng là dựa
trên cơ sở nào để tìm hiểu, đánh giá đúng đắn nguyên nhân phát sinh các luồng ý kiến
đó trong các nhóm xã hội khác nhau.


Mục đích của định hướng dư luận xã hội là góp phần điều chỉnh hành vi, hướng
tới làm thay đổi thái độ, nhận thức và hành động của các nhóm xã hội theo hướng có
lợi cho một giai cấp nhất định. Vì vậy định hướng dư luận xã hội là một trong những
hoạt động lãnh đạo chỉ đạo quan trọng thuộc về giai cấp và mang tính giai cấp.
Ở nước ta việc định hướng dư luận xã hội được thực hiện nhằm hướng tới mục tiêu và
lý tưởng XHCN, hướng tới hoàn thành các nhiệm vụ kinh tế xã hội của đất nước dưới

sự lãnh đạo của Đảng.
2. Cấp độ định hướng dư luận.
Định hướng dư luận sử dụng các nguồn thông tin chính thống tác động đến cá
nhân, nhóm và cộng đồng làm thay đổi nhận thức, thái độ của họ, tạo ra sự nhất trí và
đồng thuận thực hiện thắng lợi các mục tiêu, phương hướng đề ra, định hướng dư luận
có phạm vi tác động ở 3 cấp độ: Cấp độ cá nhân, cấp độ nhóm xã hội và cấp độ cộng
đồng. xã hội. Tuy nhiên sự phân biệt này chỉ mang tính tương đối.
a) Định hướng ở cấp độ cá nhân là việc thông qua những phương pháp mang tính
tuyên truyền, giáo dục, vận động, thuyết phục tác động đến cá nhân làm thay đổi thái
độ, nhận thức của họ theo hướng có lợi cho tập thể. Cá nhân vừa là chủ thể mang ý
kiến,vừa là chủ thể nhận thức và phản ánh vào dư luận xã hội quan điểm, thái độ,
phán xét của họ về những sự kiện xuất hiện liên quan đến trực tiếp hoặc gián tiêp đến
lợi ích mà họ được hưởng. Cá nhân thường gắn mình với các nhóm xã hội và mang
đặc trưng của các nhóm xã hội đó vì vậy so với một nhóm xã hội nhất định cá nhân
vừa có điểm chung của nhóm đó vừa có điểm riêng đặc trưng của nhóm xã hội khác,
ngoài ra cá nhân còn có những đặc trưng riêng có của mình.
Việc cung cấp thông tin, cơ sở chứng cứ, lý lẽ phù hợp với nhận thức của chủ thể
có vai trò hết hức quan trọng trong quá trình chuyển đổi trạng thái nhận thức: từ
không hiểu đến hiểu, từ chưa nhận thức rõ đến nhận thức rất rõ, từ phản đối đến tán
thành …hoặc quá trình chuyển đổi trạng thái tâm lý : từ ghét đến yêu, từ không chấp
nhận đến chấp nhận, từ không thích đến rất thích…Trên thực tế các cá nhân có thể hy
sinh lợi ích cá nhân vì lợi ích của tập thể, của cộng đồng nếu như họ được giác ngộ và


ý thức rõ ràng về sự hy sinh đó…Ngược lại khi chưa có sự giác ngộ và ý thức rõ ràng
về mục đích rất dễ dẫn đến sự chống đối bằng mọi giá. Định hướng ở cấp độ cá nhân
cần phải chú ý đến mối quan hệ giữa cá nhân và tập thể đặc biệt là các quan hệ về lợi
ích
b) Cấp độ định hướng nhóm xã hội.
Các cá nhân luôn được gắn với một nhóm nhất định, chịu sự tác động, ràng buộc

bởi các quy tắc, chuẩn mực của nhóm và tuân thủ các quyết định của nhóm xã hội đó.
Có nhiều tiêu chí để xác định một nhóm xã hội, các ngành khoa học khác nhau tiếp
cân dựa vào những đặc trưng cơ bản, trên cơ sở tính bền vững và tính tính tương đối
đồng nhất của các cá nhân mà người ta có thể xác định những nhóm xã hội khác nhau
ví dụ trong xã hội học có nhóm quy chiếu (nhóm thực, nhóm tượng trưng), nhóm sơ
cấp, nhóm thứ cấp… Việc lựa chọn các tiêu chí xác định nhóm luôn phụ thuộc vào
mục đích và tính chất của vấn đề cần nghiên cứu…
Khi định hướng dư luận trong nhóm xã hội thì việc thông qua những người có uy
tín, địa vị cao trong nhóm có vai trò hết sức quan trọng. Ví dụ bí thư đoàn thanh niên
định hướng dư luận cho đoàn viên, chủ tịch HPN định hướng dư luận cho hội viên,
chủ tịch công đoàn định hướng DLXH cho công nhân…Những người đứng đầu tổ
chức, đơn vị thường có vai trò định hướng rất rõ đối với các thành viên thuộc tổ chức
của mình vì vậy việc trang bị cho người định hướng những thông tin có định hướng rõ
ràng, chính xác, đầy đủ ý nghĩa về nội dung một thông điệp nào đó đặc biệt trong lĩnh
vực tư tưởng là rất quan trọng.
Bên cạnh đó cũng cần đánh giá đúng mức mối quan hệ giữa những thành viên
với thiết chế nhóm vì mỗi thành viên có thể tham gia vào nhiều nhóm trong cùng một
thời điểm, những nhóm có lợi ích cơ bản và chủ yếu thường được ưu tiên tham gia
nhiều hơn và nhiệt tình hơn trong kế hoạch hoạt động của cá nhân so với những nhóm
khác.
c) Cấp độ định hướng cộng đồng (xã hội)


Định hướng cộng đồng có phạm vi tác động rộng hơn định hướng nhóm xã hội,
là hoạt động định hướng mang tính chất liên nhóm, các thông điệp đưa vào quá trình
định hướng thường mang lợi ích chung của cộng đồng, vì một mục đích chung liên
quan đến cộng đồng. Phương tiện chủ đạo tham gia vào quá trình định hướng cộng
đồng thường là báo chí và các phương tiện truyền thông đại chúng, đây cũng là những
phương tiện phổ biến có sức lan toả nhanh, có tác động trên diện rộng và trực tiếp đến
các nhóm đối tượng khác nhau. Trong điều kiện hiện nay, sự phát triển đa dạng của

các loại hình truyền thông đại chúng, các loại ấn phẩm, xuất bản phẩm đang tạo ra
những điều kiện rất thuận lợi cho công tác định hướng dư luận xã hội, những nội dung
cần định hướng được chuyển tải dễ dàng hơn, dưới nhiều hình thức phong phú hơn
nhưng bên cạnh đó cũng tạo ra những khó khăn nhất định đặc biệt trong công tác quản
lý, giám sát hoạt động của quá trình truyền thông vì nếu sản phẩm truyền thông mang
nội dung định hướng dư luận tốt sẽ tạo ra sự đồng thuận, nhất trí cao trong các tầng
lớp nhân dân thực hiện thắng lợi chủ trương đường lối của Đảng, chính sách, pháp
luật của nhà nước.
Ngược lại nếu nội dung các sản phẩm truyền thông không mang tính định hướng
rõ ràng hoặc tính định hướng về tư tưởng, về giá trị không cao sẽ có thể phản tác dụng
việc định hướng dư luận thậm chí tạo ra những tâm trạng hoang mang, lo lắng trong
dư luận xã hội vì vậy việc giám sát hoạt động truyền thông đang là vấn đề hết sức
quan trọng hiện nay.
3. Nâng cao hiệu quả của công tác định hướng dư luận xã hội
Hiệu quả của việc định hướng dư luận xã hội phụ thuộc vào việc nhóm định
hướng nắm bắt và làm chủ dư luận xã hội, chủ động đến các sự kiện xã hội và dự báo
được xu thế phát triển của các sự kiện xã hội đó (bao gồm các sự kiện xã hội đã, đang
và sẽ nảy sinh). Vì vậy nhiệm vụ đánh giá đúng đắn cường độ, phạm vi tác động của
các sự kiện xã hội đến các nhóm lợi ích có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với công tác
định hướng dư luận, nó giúp cho nhóm định hướng đưa ra những phương pháp định
hướng phù hợp và có hiệu quả cao.


Công tác tuyên giáo và công tác định hướng dư luận xã hội ở nước ta hiện nay
đang có nhiều thuận lợi thể hiện ở chỗ bầu không khí dân chủ mở rộng ngày càng
được nâng cao, sự đồng lòng, nhất trí trong các tầng lớp nhân dân đối với các chủ
trương, đường lối của đảng, chính sách pháp luật của nhà nước được thể hiện rất rõ
nét, những thành tựu tăng trưởng và phát triển kinh tế - xã hội, giáo dục, y tế, ngoại
giao, khoa học kỹ thuật đang tạo ra những động lực mới cho sự phát triển toàn diện,
vai trò của các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức đoàn thể quan trọng hơn, có uy

tín ngày càng cao trong đời sống nhân dân. Báo chí, các phương tiện truyền thông đại
chúng, các ấn phẩm, xuất bản phẩm ngày càng đa dạng, phong phú tạo điều kiện chủ
động thông tin cho mọi người dân trong quá trình học tập, lao động và sản xuất.
Bên cạnh đó công tác định hướng dư luận xã hội trong giai đoạn hiện nay cũng
gặp không ít những khó khăn, đặc biệt dưới sự tác động của kinh tế thị trường, lối
sống cá nhân ích kỉ, vụ lợi xuất hiện và đang len lỏi, thâm nhập vào các cá nhân, các
nhóm xã hội. Sự phân tán về tư tưởng có dấu hiệu gia tăng, sự phân hoá về mức sống,
về quan điểm, tư tưởng trong các nhóm xã hội, các giai tầng xã hội đang là nguyên
nhân tạo ra sự khác biệt trong nội bộ các nhóm, các tổ chức xã hội.
Xét dưới góc độ của công tác tuyên giáo, việc sử dụng đội ngũ công tác viên,
thông tin viên, tuyên truyền viên, báo cáo viên và những người có uy tín trong cộng
đồng trong những năm qua đã đạt được những kết quả rất quan trọng song vẫn còn
nhiều điểm hạn chế về cơ chế đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ chuyên môn, bản lĩnh
chính trị; về chất lượng và hiệu quả của công tác thông tin tuyên truyền; về trình độ,
năng lực và kinh nghiệm trong quá trình nắm bắt, phản ánh, định hướng các luồng dư
luận xã hội cũng đang là những vấn đề cần xem xét, đối mới cho phù hợp với thực
tiễn hơn.
Trong công tác tuyên giáo hiện nay, việc nâng cao hiệu quả công tác thông tin,
định hướng dư luận xã hội là rất quan trọng và cần thiết. Để làm được điều đó,công
tác định hướng dư luận cần phải chú trọng đến những vấn đề sau:


Thứ nhất: Lãnh đạo các tổ chức, đơn vị trước hết phải nắm bắt kịp thời các sự
kiện, hiện tượng mang tính thời sự liên quan đến tổ chức, đơn vị mình, các sự kiện,
hiện tương liên quan đến lợi ích của giai cấp, quốc gia dân tộc cũng như nắm bắt và
làm chủ được dư luận xã hội về sự kiện, hiện tượng đó để làm cơ sở cho việc định
hướng dư luận xã hội.
Thứ hai: Đánh giá khách quan hệ quả và sự tác động của báo chí, các phương
tiện truyền thông đại chúng đối với các nhóm công chúng và dự báo được những phát
sinh từ hệ quả tác động của báo chí. Những tình huống có thể phát sinh bao gồm cả

những phản ánh tích cực hay phản ánh tiêu cực, đồng thuận hay không đồng thuận,
ủng hộ hay phản đối … về một nôi dung thông tin nào đó được cung cấp đến công
chúng .
Thứ 3: Đẩy mạnh công tác nghiên cứu, nắm bắt dư luận xã hội, trong đó việc
nghiên cứu cần phải làm rõ tính quy luật và những nhân tố ảnh hưởng đến quá trình
phát sinh các luồng ý kiến khác nhau cũng như cơ sở khoa học để đánh giá, phán xét
một luồng ý kiến nào đó, nâng cao vai trò chức năng dự báo, chức năng phản biện xã
hội trong các nghiên cứu dư luận xã hội. Việc nắm bắt dư luận xã hội cần tuân thủ
chặt chẽ các khâu, các công đoạn, các yêu cầu kỹ thuật và phương pháp nghiên cứu
đảm bảo tính khách quan và khoa học trong quá trình thu thập thông tin.
Thứ 4: Định hướng dư luận xã hội cũng là việc minh bạch hoá các nguồn thông
tin, hạn chế nhận thức sai lệch và loại bỏ tin đồn thất thiệt trong xã hội. Điều này cũng
đòi hỏi đội ngũ công tác viên, thông tin viên, tuyên truyền viên, báo cáo viên và
những người có uy tín trong cộng đồng phải có năng lực nhất định trong việc phân
tích đánh giá, phán xét các sự kiện xã hội, phân biệt rõ giữa DLXH và tin đồn cũng
như những tác động tiêu cực của tin đồn trong đời sống xã hội. Nâng cao khả năng dự
báo, tham mưu trong quá trình nghiên cứu nắm bắt dư luận xã hội./.
2. Quan điểm chỉ đạo của Đảng về công tác nghiên cứu, nắm bắt dư luận xã
hội.


Đảng Cộng sản Việt Nam, ngay từ khi mới thành lập đã coi việc nắm bắt lòng
dân (tâm tư, nguyện vọng, ý chí của nhân dân) là một trong những công việc quan
trọng hàng đầu nhằm đề ra các chủ trương, đường lối cách mạng phù hợp lòng dân.
Đúng như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: “Dân chúng đồng lòng, việc gì cũng làm
được. Dân chúng không ủng hộ, việc gì làm cũng không nên”.
Nhiều văn bản, quyết định của các cơ quan lãnh đạo Đảng đã khẳng định điều
này. Năm 1982, Ban Bí thư đã quyết định thành lập Viện nghiên cứu dư luận xã hội
thuộc Ban Tuyên giáo Trung ương Đảng, trong đó có quy định nhiệm vụ và quyền hạn
như: “Viện nghiên cứu dư luận xã hội có nhiệm vụ tổ chức việc nghiên cứu dư luận

nhân dân đối với những vấn đề cơ bản của đất nước và những vấn đề cơ bản có tính
thời sự theo quan điểm Mác – Lênin; tổng hợp, phân tích dư luận xã hội đẻ báo cáo
với các cơ quan Đảng và Nhà nước; tổ chức, đào tạo, bồi dưỡng độ ngũ thông tin
viên, cộng tác viên của Viện về lý luận, nghiệp vụ. Viện được trực tiếp quan hệ với
các cấp ủy đảng, các ngành, các đoàn thể quần chúng đã tổ chức nghiên cứu dư luận
xã hội”.
Những năm đầu đổi mới và đặc biệt là thời gian gần đây, Đảng ta tiếp tục có
những sự chỉ đạo nhằm tăng cường công tác điều tra xã hội học, nắm bắt dư luận xã
hội. Ví dụ, trong văn kiện Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương Đảng
(khóa VII) đã nêu ra nhiệm vụ đối với công tác tư tưởng sau đây: “Nâng cao chất
lượng thông tin nội bộ và công tác tuyên truyền, coi trọng biện pháp điều tra dư luận
xã hội”.
Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành trung ương Đảng khóa VII tiếp tục yêu cầu:
“Tổ chức điều tra dư luận xã hội về những vấn đề cần thiết cho công tác lãnh đạo,
quản lý Nhà nước. Xây dựng luật về trưng cầu dân ý”.
Gần đây nhất, Nghị quyết Trung ương 5 (khóa X) về công tác tư tưởng, lý luận
và báo chí trước yêu cầu mới, tiếp tục nhấn mạnh: “Chú trọng công tác nghiên cứu,
điều tra xã hội học, nắm bắt dư luận xã hội phục vụ công tác tư tưởng”.
3. Các nhiệm vụ của công tác nghiên cứu, nắm bắt dư luận xã hội.


Các nhiệm vụ của Viện nghiên cứu dư luận xã hội, Ban Tuyên giáo Trung ương:
1. Nắm bắt, phân tích, tổng hợp và phản ánh nhanh dư luận của các tầng lớp cán
bộ, đảng viên và nhân dân trước những vấn đề, sự kiện quan trọng trong nước và trên
thế giới, đặc biệt là các chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước.
2. Tiến hành các cuộc điều tra xã hội học về dư luận xã hội phục vụ quá trình
hình thành, hoàn thiện và thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách quan trọng của
Đảng và Nhà nước; định kỳ điều tra dư luận xã hội và hiệu quả hoạt động của hệ
thống chính trị.
3. Đề xuất các biện pháp định hướng, hình thành dư luận xã hội tích cực, tạo sự

thống nhất về nhận thức, ý chí và hành động trong xã hội, thúc đẩy quá trình thực hiện
các chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước; tham gia đấu tranh
chống thông tin và quan điểm sai trái, thù địch.
4. Trên cơ sở tổng kết thực tiễn nghiên cứu dư luận xã hội của Việt Nam, tiếp thu
các thành tựu nghiên cứu dư luận xã hội của thế giới, phát triển khoa học nghiên cứu
và tác động dư luận xã hội, khoa học nghiệp vụ dư luận xã hội của Việt Nam; đào tạo,
bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ công tác nghiên cứu dư luân xã hội và cán bộ làm
công tác tuyên giáo các cấp; đào tào sau đại học chuyên ngành xã hội học, tâm lý học
xã hội về dư luận xã hội.
5. Quan hệ, hợp tác với các cơ quan điều tra, nghiên cứu dư luận xã hội của các
nước để học hỏi kinh nghiệm, các kỹ năng, kiến thức mới trong lĩnh vực điều tra,
nghiên cứu dư luận xã hội nhằm nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của Viện.
6. Tổ chức công tác thông tin – tư liệu trên lĩnh vực dư luận xã hội; lưu giữ các
dữ liệu, thông tin dư luận xã hội theo đúng các quy định hiện hành; xuất bản các ấn
phẩm về dư luận xã hội.
7. Phối hợp với các cơ quan chức năng giám sát an ninh tư tưởng, chính trị của
các cuộc thăm dò dư luận xã hội do tổ chức, cá nhân trong nước và nước ngoài tiến
hành trên lãnh thổ Việt Nam.


Các nhiệm vụ chủ yếu của các đầu mối nghiên cứu, nắm bắt dư luận xã hội ở các
ban, ngành, đoàn thể và các địa phương.
1. Nắm bắt, phân tích, tổng hợp và phản ánh nhanh dư luận của các tầng lớp
nhân dân trước những sự kiện, hiện tượng, vấn đề xã hội quan trọng trong nước, trong
ngành, tại địa phương và trên thế giới, đặc biệt là các chủ trương, chính sách của cấp
ủy đảng và chính quyền các cấp.
2. Tiến hành các cuộc điều tra xã hội học về dư luận xã hội phục vụ quá trình
hình thành, hoàn thiện và thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách quan trọng của
cấp ủy đảng, chính quyền ngành và địa phương; định kỳ điều tra dư luận xã hội và
hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị của địa phương.

3. Đề xuất các biện pháp định hướng, hình thành dư luận xã hội tích cực, tạo sự
thống nhất về nhận thức, ý chí và hành động trong xã hội, thúc đẩy quá trình thực hiện
các chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước và của ngành, địa
phương; tham gia đấu tranh chống thông tin và quan điểm sai trái, thù địch.
4. Phối hợp với các cơ quan chức năng giám sát an ninh tư tưởng, chính trị của
các cuộc thăm dò dư luận xã hội do tổ chức, cá nhân trong nước và nước ngoài tiến
hành trên địa bàn ngành, địa phương.



×