Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

Chủ nghĩa duy vật biện chứng hạt nhân lý luận của thế giới quan khoa học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (256.53 KB, 16 trang )

BỘ NỘI VỤ
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
--------

TIỂU LUẬN

ĐỀ TÀI:
CHỦ NGHĨA DUY VẬT BIỆN CHỨNG –
HẠT NHÂN LÝ LUẬN CỦA THẾ GIỚI QUAN KHOA HỌC
Họ và tên sinh viên

: Trần Minh Huyền

Lớp

: HC22B7

Niên khóa

: 2017- 2019

Môn học

: Triết học

Giảng viên

: TS. Lê Thị Hằng
PGS. TS. Trương Quốc Chính

Hà Nội, tháng 3 năm 2018




MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU
CHƯƠNG 1: THẾ GIỚI QUAN VÀ THẾ GIỚI QUAN KHOA HỌC
1.1.
Khái quát về thế giới quan
1.1.1. Khái niệm thế giới quan
1.1.2. Những hình thức cơ bản của thế giới quan
1.2.
Thế giới quan duy vật và lịch sử phát triển thế giới
1.2.1. Thế giới quan duy tâm và thế giới quan duy vật
1.2.2. Lịch sử phát triển của thế giới quan duy vật

quan duy vật

CHƯƠNG 2: NỘI DUNG, BẢN CHẤT CỦA CHỦ NGHĨA DUY VẬT
BIỆN CHỨNG LÀ HẠT NHÂN CỦA THẾ GIỚI QUAN KHOA HỌC
2.1. Nội dung của chủ nghĩa duy vật biện chứng
2.1.1. Quan điểm duy vật về thế giới
2.1.2. Quan điểm duy vật về xã hội
2.2. Bản chất của chủ nghĩa duy vật biện chứng
2.3. Quan điểm của chủ nghĩa duy vật về vật chất, ý thức và mối quan hệ
giữa vật chất và ý thức
2.3.1. Khái niệm vật chất, ý thức
2.3.2. Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức
2.3.3. Ý nghĩa phương pháp luận
CHƯƠNG 3: VẬN DỤNG Ý NGHĨA PHƯƠNG PHÁP LUẬN VÀO SỰ
NGHIỆP CÁCH MẠNG Ở VIỆT NAM GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
3.1. Vi phạm ý nghĩa phương pháp luận trước đây dẫn đến những sai lầm

3.2. Vận dụng ý nghĩa phương pháp luận


LỜI MỞ ĐẦU
Triết học ra đời ở cả phương Đông và phương Tây gần như cùng một thời
gian tại một số trung tâm văn minh cổ đại của nhân loại. Triết học nghiên cứu
thế giới bằng phương pháp của riêng mình khác với mọi khoa học cụ thể, nó
xem xét thế giới như một chỉnh thể và tìm cách đưa ra một hệ thống các quan
niệm về chỉnh thể đó. Và triết học có hai vấn đề cơ bản đó là giữa vật chất và ý
thức cái nào có trước, cái nào có sau, cài nào quyết định. Lịch sử của triết học
cho thấy, mặc dù có nhiều cách trả lời khác nhau về vấn đề này, nhưng suy cho
cùng đều quy về hai quan điểm chính đối lập nhau là biện chứng và siêu hình.
Trong đó, qua từng thời kì phát triển của triết học ta đã thấy được rằng chủ nghĩa
duy vật biện chứng nghiên cứu những quy luật phổ biến của sự vận động và phát
triển của tự nhiên, của xã hội loài người và của tư duy, nó cung cấp phương
pháp luận khoa học cho con người nhận thức và cải tạo thế giới, vì lợi ích của
mình.
Những lý thuyết về phép biện chứng duy vật không chỉ giúp ta nắm vững
những nguyên tắc phương pháp luận của các khoa học triết học, mà còn cung
cấp vũ khí luận sắc bén cho giai cấp vô sản chiến thắng kẻ thù của chủ nghĩa xã
hội. Chính nhờ vậy mà Đảng và Nhà nước ta luôn trung thành với những nguyên
lý, lý luận của chủ nghĩa Mác- Lê nin nói chung và triết học Maco Lê nin nói
riêng, để vận dụng nó vào thực tiễn cách mạng Việt Nam.
Hiên nay, nước Việt Nam ta đang tiếp tục thực hiện kế hoạch hiện đại hóa
công nghiệp hóa đất nước theo định hướng Xã hội chủ nghĩa, vì vậy việc nghiên
cứu chủ nghĩa duy vật biện chứng, nhất là nắm vững bản chất của phép biện
chứng duy vật là một đòi hỏi cần thiết và quan trọng. Chính vì vậy, em đã chọn
đề tài: “ Chủ nghĩa duy vật biện chứng - hạt nhân lý luận của thế giới quan
khoa học” làm đề tài cho tiểu luận này để vận dụng lý luận của chủ nghĩa duy
vật biện chứng đối với thực tiễn nước ta qua giai đoạn hiện nay.



CHƯƠNG 1: THẾ GIỚI QUAN VÀ THẾ GIỚI QUAN KHOA HỌC
1.1.
1.1.1.

Khái quát về thế giới quan
Khái niệm thế giới quan
Thế giới quan là sản phẩm, là một bộ phận của thế giới, con người có nhu

cầu phải nhận thức về thế giới cũng như phải nhận thức về bản thân mình trong
mối quan hệ với thế giới để điều chỉnh hoạt động của mình. Kết quả của quá
trình nhận thức ấy tạo nên thế giới quan.
Như vậy, thế giới quan là toàn bộ những quan điểm, quan niệm của con
người về thế giới , về bản thân con người, về cuộc sống và vị trí của con người
trong thế giới ấy.
Về nội dung, thế giới quan phản ánh thế giới ở ba góc độ:
Thứ nhất, các đối tượng bên ngoài chủ thể.
Thứ hai, bản thân chủ thể.
Thứ ba, mối quan hệ giữa chủ thể với các đối tượng bên ngoài chủ thể.
Về hình thức, thế giới quan có thể biểu hiện dưới dạng các quan điểm,
quan niệm rời rạc, cũng có thể biểu hiện dưới dạng hệ thống lý luận chặt chẽ.
Về cấu trúc, là hiện tượng tinh thần, thế giới quan có cấu trúc phức tạp và
được tiếp cận từ nhiều góc độ khác nhau, song hai yếu tố cơ bản của thế giới
quan là tri thức và niềm tin. Tri thức là cơ sở trực tiếp cho sự hình thành thế giới
qan, song tri thức chủ gia nhập vào thế giới quan khi nó đã trở thành niềm tin để
hình thành lý tưởng, động cơ thôi thúc con người hành động. Như vậy, một thế
giới quan nhất quán là một thế giới quan có tri thức và niềm tin thống nhất với
nhau tạo nên cơ sở vững chắc cho con người tiếp tục tìm hiểu thế giới, cho con
người xác định thái dộ, cách thức hoạt động, cách thức sống nói riêng và xác lập

nhân sinh quan nói chung.
Chính vai trò là cơ sở để con người xác định những vấn đề then chốt của
cuộc sống, thế giới quan có các chức năng như: chức năng nhận thức, chức năng
xác lập giá trị, chức năng bình xét, đánh gía, chức năng điều chỉnh hành vi… mà
khái quát lại, chức năng bao trùm của thế giới quan là chức năng định hướng
cho toàn bộ hoạt động sống của con người.


1.1.2.

Những hình thức cơ bản của thế giới quan
Thế giới quan là kết quả trực tiếp của quá trình nhận thức, thế giới quan

phát triển theo sự phát triển nhận thức con người. Cho đến nay, sư phát triển của
thế giới quan đã được thể hiện dưới ba hình thức cơ bản: thế giới quan huyền
thoại, thế giới quan tôn giáo và thế giới quan triết học.
Thế giới quan huyền thoại là thế giới quan có nội dung pha trộn một cách
không tự giác giữa thực và ảo. Thế giới quan huyền thoại đặc trưng cho “tư duy
nguyên thủy”, được thể hiện rõ nét qua các chuyện thần thoại, phản ánh nhận
thức về thế giới của con người trong xã hội công xã nguyên thủy.
Thế giới quan tôn giáo là hế giới quan có niềm tin mãnh liệt vào sức
mạnh của lực lượng siêu nhiên đối với thế giới, đối với con người, được thể hiện
qua các hoạt động tổ chức để suy tôn, sung bái lực lượng siêu nhiên ấy.
Thế giới quan triết học là thế giới quan được thể hiện bằng hệ thống lý
luận thông qua hệ thống các khái niệm, các phạm trù, các quy luật. Nó không
chỉ nêu ra các quan điểm, quan niệm của con người về thế giới và về bản thân
bằng con người mà còn chứng minh các quan điểm, quan niệm đó bằng lý luận.
1.2.
1.2.1.


Thế giới quan duy vật và lịch sử phát triển thế giới quan duy vật
Thế giới quan duy tâm và thế giới quan duy vật
Thế giới quan duy tâm là thế giới quan thừa nhận bản chất của thế giới là

tinh thần và thừa nhận vai trò quyết định của các yếu tố tinh thần đối với thế giới
vật chất nói chung, đối với con người, xã hội loài người nói riêng. Thế giới quan
duy tâm thể hiện rất đa dạng dưới nhiều cấp độ khác nhau, phụ thuộc vào trình
độ nhận thức của con người và tương ứng với trình độ nhận thức ấy, thế giới
quan duy tâm được thể hiện dưới hình thức thô sơ, tôn giáo hay triết học.
Thế giới quan duy vật là thế giới quan thừa nhận bản chất của thế giới là
vật chất, thừa nhận vai trò quyết đinh của vật chất đối với các biểu hiện của đời
sống tinh thần và thừa nhận vị trí, vai trò của con người trong cuộc sống hiện
thực. Thế giới quan duy vật thừa nhận sự tồn tại của các hiện tượng tinh thần,
song mọi quan niệm mọi biểu hiện của tinh thần đều có nguồn gốc từ vật chất, vì
vậy trong mối quan hệ giữa vật chất và tinh thần thì vật chất là cái có trước, tinh
thần có sau và bj vật chất quyết định.


1.2.2.

Lịch sử phát triển của thế giới quan duy vật
Kể từ khi triết học ra đời, sự phát triển của thế giới quan duy vật gắn liền

với sự phát triển của chủ nghĩa duy vật. Tương ứng với ba hình thức cơ bản của
chủ nghĩa duy vật là chủ nghĩa duy vật chất phác, chủ nghĩa duy vật siêu hình,
chủ nghĩa duy vật biện chứng là ba hình thức cơ bản của thế giới quan: thế giới
quan duy vật chất phác, thế giới quan duy vật siêu hình và thế giới quan duy vật
biện chứng.
Thế giới quan duy vật chất phác là thế giới quan thể hiện trình độ nhận
thức ngây thơ, chất phác của những nhà duy vật. Thế giới quan duy vật chất

phác thể hiện rõ nét ở thời cổ đại, xuất hiện trong chế độ chiếm hữu nô lệ như ở
Ấn Độ, Trung Hoa, Hy Lạp. Đây là thời kỳ con người đã thoát khỏi trạng thái
mông muội nhưng mọi mặt của đời sống xã hội còn ở trình độ rất thấp.
Thế giới quan duy vật siêu hình biểu hiện rõ nét vào thế kỷ thứ XVII –
XVIII ở các nước Tây Âu. Siêu hình là thuật ngữ triết học phản ánh khuynh
hướng phát triển của triết học duy vật từ thời kỳ phục hưng đến thời cận đại, còn
được gọi là triết học tự nhiên. Triết học duy nhất thời kỳ này đại diện cho những
tư tưởng của giai cấp tư sản tiến bộ, họ đã tiến hành đấu tranh chống chủ nghĩa
kinh viện, nhà thờ trung cổ.
Thế giới quan duy vật biện chứng được C. Mác và Ph. Ăng ghen xây
dựng vào giữa thế kỷ thứ XIX, V.I.Lê nin và những người kế tục phát triển. Sự
ra đời của thế giới quan duy vật biện chứng là kết quả kế thừa tinh hoa các quan
điểm về thế giới trước đó, trực tiếp là những quan điểm duy vật của Phoiobac và
phép biện chứng của Hê ghen; là kết quả sử dụng tối ưu thành tựu của khoa học,
trước hết là thành tựu của Vật lý và Sinh học. PH. Ăng ghen nhận định thời gian
này vào giữa thế kỷ thứ XIX, khoa học tự nhiên đã phát triển và đạt được những
kết quả rực rỡ, đã cung cấp những tài liệu mới với số lượng chưa từng có, đến
mức làm cho người ta không những có thể khắc phục hoàn toàn tính siêu hình
máy móc của thế kỷ XVIII , mà ngay bản thân khoa học tự nhiên, nhờ chứng
minh được những mối liên hệ tồn tại trong bản thân giới tự nhiên mà biến từ
khoa học kinh nghiệm chủ nghĩa thành khoa học lý luận và nhờ tổng hợp những
kết quả đã đạt được mà đã trở thành một hệ thống nhận thức duy vật về thế giới
trong sự vận động, biến đổi không ngừng của nó.


CHƯƠNG 2: NỘI DUNG, BẢN CHẤT CỦA CHỦ NGHĨA DUY VẬT
BIỆN CHỨNG LÀ HẠT NHÂN CỦA THẾ GIỚI QUAN KHOA HỌC
2.1. Nội dung của chủ nghĩa duy vật biện chứng
2.1.1. Quan điểm duy vật về thế giới
Bản chất của thế giới là vật chất, thế giới thông nhất ở tính vật chất và vật

chất là thực tại khách quan, tồn tại độc lập đối với ý thức, quyết định ý thức và
được ý thức phản ánh.
Tính thống nhất đó của thế giới được thể hiện:
Một là chỉ có một thế giới duy nhất và thống nhất là thế giới vật chất. Thế
giới vật chất tồn tại khách quan, có trước và độc lập với ý thức con người.
Hai là thế giới vật chất tồn tại khách quan, tồn tại vĩnh viễn, vô tận, vô hạn,
không sinh ra và không mất đi.
Ba là tất cả các sự vật hiện tượng trên thế giới đều là những dạng tồn tại cụ
thể của vật chất hay thuộc tính của vật chất. Thế giới không có gì khác ngoài vật
chất đang vận động.
Bốn là mọi sự vật, hiện tượng trong thế giới vật chất đều có mối liên hệ
thống nhất chặt chẽ với nhau, cùng vận động phát triển theo các quy luật khách
quan, phổ biến của thế giới vật chất. Trong thế giới không có gì khác ngoài
những quá trình vật chất đang biến đổi và có mối liên hệ hữu cơ và thống nhất
với nhau, là nguồn gốc là nguyên nhân và kết quả của nhau.
Năm là ý thức là một đặc tính của bộ não người, là sự phản ánh hiện thực
khách quan vào bộ não người.
Những nội dung trên không phải là sáng tạo thuần túy từ tư duy của các nhà
duy vật biện chứng mà nó là sự khái quát các thành tựu của khoa học tự nhiên.
2.1.2. Quan điểm duy vật về xã hội
Xã hội theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, là tổng hợp những
con nguời hiện thực cùng tất cả các hoạt động, các quan hệ của họ.
Đối với quá trình hình thành quan điểm duy vật về xã hội và cơ sở để xác
định quan điểm duy vật về xã hội, V.I. Leenin viết: “Trong khi ghiên cứu sâu và
phát triển chủ nghĩa duy vật triết học, Mác đã đưa học thuyết đó tới chỗ hoàn bị


và mở rộng học thuyết ấy từ chỗ nhận thức giới tự nhiên đến chỗ nhận thức xã
hội loài người”. C. Mác và Ph. Ăng ghen nhận thấy rằng, cũng như mọi hiện
tượng trong giới tự nhiên đều có nguyên nhân vật chất, sự phát triển của xã hội

loài người cũng do sự phát triển của lực lượng vật chất quyết định.
Nội dung cơ bản quan điểm duy vật về xã hội thể hiện:
Xã hội là một bộ phận đặc thù của tự nhiên.
Sản xuất vật chất là cơ sở của đời sống xã hội, phương thức sản xuất quyết
định quá trình sinh hoạt xã hội, chính trị và tinh thần nói chung, tồn tại xã hội
quyết định ý thức xã hội.
Sự phát triển của xã hội là một quá trình lịch sử tự nhiên.
Quần chúng nhân dân là chủ thể chân chính sáng tạo ra lịch sử.
Như vậy, quan điểm duy vật về xã hội là một hệ thống quan điểm thống nhất
chặt chẽ với nhau, về sự ra đời, tồn tại, vận động phát triển của xã hội và các lực
lượng thực hiện những nhiệm vụ lịch sử đặt ra trong sự vận động và phát triển
ấy.
2.2. Bản chất của chủ nghĩa duy vật biện chứng
Bản chất của chủ nghĩa duy vật biện chứng được thể hiện ở việc giải quyết
đúng đắn vấn đề cơ bản của triết học trên quan điểm thực tiễn, ở sự thống nhất
hữu cơ giữa thế giới quan duy vật với phép biện chứng, ở quan niệm duy vật
triệt để và ở tính thực tiễn – cách mạng của nó.
Giải quyết đúng đắn vấn đề cơ bản của triết học trên quan điểm thực tiễn
Vấn đề cơ bản của triết học là mối quan hệ giữa tư duy và tồn tại. Ở đây mối
quan hệ này được hiểu là mối quan hệ giữa ý thức và vật chất. Thực tiễn lại là
mắt khâu trung gian trong mối quan hệ giữa ý thức của con người với thế giới
vật chất. Thông qua thực tiễn, ý thức con người được vật chất hóa, tư tưởng trở
thành hiện thực. Thông qua thực tiễn, ý thức con người không chỉ phản ánh thế
giớ mà còn sáng tạo ra thế giới. Bằng việc đưa quan điểm thực tiễn vào hoạt
động nhận thức, đặc biệt việc thấy vai trò quyết định của hoạt động sản xuất vật
chất đối với sự tồn tại và phát triển của xã hội, các nhà duy vật biện chứng đã


khắc phục được hạn chế của chủ nghĩa duy vật trước đó để giải quyết thỏa đáng
vấn đề cơ bản của triết học.

Sự thống nhất hữu cơ giữa thế giới quan duy vật với phép biện chứng
Kế thừa những thành tựu tư tưởng hợp lý của các học thuyết trước đó, với
việc tổng kết thành tựu các khoa học của xã hội đương thời, C. Mác và Ph. Ăng
ghen đã giải thoát thế giới quan duy vật khỏi hạn chế siêu hình và cứu phép biện
chứng khỏi tính chất duy tâm thần bí để hình thành nên chủ nghĩa duy vật biện
chứng với sự thống nhất hữu cơ giữa thế giới quan duy vật với phép biện chứng.
Sự thống nhất này đã đem lại cho con người một quan niệm hoàn toàn mới về
thế giới – quan niệm thế giới là một quá trình với tính cách là vật chất không
ngừng vận động, chuyển hóa và phát triển.
Quan niệm duy vật triệt để
Khẳng định là nguồn gốc vật chất của xã hội; khẳng định sản xuất vật chất là
cơ sở của đời sống xã hội, phương thức sản xuất quyết định quá trình sinh hoạt
xã hội, chính trị và tinh thần nói chung, tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội
và coi sự phát triển của xã hội loài người là một quá trình lịch sử - tự nhiên, chủ
nghĩa duy vật biện chứng đã khắc phục được tính không triệt để của chủ nghĩa
duy vật cũ. V.I. Lê nin nhận định rằng: “Trong khi nhận thức sâu và phát triển
chủ nghĩa duy vật triết học, Mác đã đưa học thuyết đó tới chỗ hoàn bị và mở
rộng học thuyết ấy từ chỗ nhận thức giới tự nhiên đến chỗ nhận thức xã hội loài
người. Chủ nghĩa duy vật lịch sử của Mác là thành tựu vĩ đại nhất của tư tưởng
khoa học”.
Tính thực tiễn – cách mạng
Tính thực tiễn – cách mạng của chủ nghĩa duy vật biện chứng trước hết thể
hiện ở:
Thứ nhất, chủ nghĩa duy vật biện chứng là vũ khí lý luận của giai cấp vô sản.
Thứ hai, chủ nghĩa duy vật biện chứng không chỉ giải thích thế giới mà còn
đóng vai trò cải tạo thế giới.
Thứ ba, chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định sự tất thắng của cái mới.


Nội dung, bản chất của chủ nghĩa duy vật biện chứng thể hiện phong phú, đa

dạng qua mỗi luận điểm của nó song có thể khái quát thành tư tưởng cơ bản là:
Chỉ có một thế giới duy nhất và thông nhất là thế giới vật chất; trong thế giới
vật chất, vật chất là nguồn gốc của ý thức, quyết định ý thức song ý thức có thể
tác động trở lại vật chất thông qua hoạt động thực tiễn của con người.
Nội dung, bản chất của chủ nghĩa duy vật biện chứng không phải là kết quả
của sự tự biện mà là thành tựu hoạt động thực tiễn, thành tựu tư duy khoa học
của nhân loại trong quá trình phản ánh thế giới. Trên tinh thần ấy có thể khẳng
định chủ nghĩa duy vật biện chứng là cơ sở lý luận của thế giới quan khoa học.
2.3. Quan điểm của chủ nghĩa duy vật về vật chất, ý thức và mối quan hệ
giữa vật chất và ý thức
2.3.1. Khái niệm vật chất, ý thức
Theo định nghĩa về vật chất của V.I.Lê nin: “Vật chất là một phạm trù triết
học dung để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác,
được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh và tồn tại không lệ
thuộc vào cảm giác”.
Định nghĩa vật chất của V.I.Lê nin có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát
triển của chủ nghĩa duy vật và nhận thức khoa học:
Một là, với việc tìm ra thuộc tính quan trọng nhất của vật chất là thuộc
tính khách quan, V.I.Lê nin đã phân biệt sự khác nhau giữa vật chất và vật thể,
khắc phục được sự hạn chế trong quan niệm về vật chất của chủ nghĩa duy vật
cũ, cung cấp căn cứ nhận thức khoa học cho sự phát triển của triết học và các
khoa học khác và là cơ sở lý luận cho việc xây dựng quan điểm duy vật về lịch
sử.
Hai là V.I.Lê nin khẳng định vật chất là tính thứ nhất, ý thức là tính thứ
hai đồng thời thừa nhận khả năng của con người có thể nhận thức được thực tại
khách quan.
Quan điểm duy vật biện chứng cho rằng ý thức ra đời là kết quả của quá
trình tiến hóa lâu dài của tự nhiên và xã hội, đó là kết quả sự tiến hóa của bộ não
và thuộc tính phản ánh của nó và là lao động, ngôn ngữ.



Ý thức là sự phản ánh năng động, sáng tạo thế giới khách quan vào trong
đầu óc con người, là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan. Ý thức bao
gồm: tri thức, tỉnh cảm, ý chí, trong đó tri thức là nhân tố quan trọng nhất.
2.3.2. Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức
Vai trò của vật chất đối với ý thức:
Vật chất là cái có trước, ý thức là cái có sau, là cái quyết định nội dung, hình
thức biểu hiện lẫn mọi sự thay đổi của ý thức bởi vì:
Thứ nhất, do vật chất là nguồn gốc của ý thức, ý thức chỉ là sản phẩm của bộ
óc người nên chỉ khi có con người mới có ý thức, còn con người là kết quả phát
triển lâu dài của thế giới vật chất.
Thứ hai, do ý thức là sự phản ánh thế giới vật chất, là hình ảnh chủ quan về
thế giới vật chất nên nội dung của ý thức được quyết định bởi vật chất.
Vai trò của ý thức đối với vật chất:
Trong mối quan hệ với vật chất, ý thức có thể tác động trở lại vật chất thông
qua hoạt động thực tiễn của con người.
Nếu con người nhận thức đúng, có tri thức khoa học, có nghị lực, ý chí, hành
động hợp quy luật khách quan thì có tác dụng thúc đẩy hoạt động thực tiễn, cải
tạo được thế giới, đạt mục đích của mình.
Nếu ý thức phản ánh sai hiện thực khách quan, khiến cho hành động của con
người đi ngược lại quy luật khách quan thì những tác động ấy sẽ mang lại tác
động tiêu cực đối với hoạt động thực tiễn, kìm hãm sự phát triển xã hội.
Chính vì thế, trong hoạt động thực tiễn, ngoài việc nhận thức đúng quy luật
khách quan, còn cần phải phát huy cao độ tính năng động chủ quan, đồng thời
chống lại mọi biểu hiện của chủ nghĩa chủ quan, duy ý chí, chống lại những tư
tưởng lạc hậu, phản động, phản khoa học.
2.3.3. Ý nghĩa phương pháp luận
Trên cơ sở quan điểm về bản chất của thế giới vật chất của thế giới, bản chất
năng động, sáng tạo của ý thức và mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý
thức có thể rút ra ý nghĩa phương pháp luận là:



Trong mọi hoạt động nhận thức và thực tiễn đòi hỏi phải xuất phát từ thực tế
khách quan là xuất phát từ tính khách quan của vật chất, có thái độ tôn trọng
hiện thực khách quan mà căn bản là tôn trọng quy luật, nhận thức và hành động
theo quy luật khách quan. Trong nhận thức và hành động con người phải xuất
phát từ thực tế khách quan để xác định mục đích, đề ra đường lối, chủ trương,
chính sách, kế hoạch, biện pháp; phải lấy thực tế khách quan làm cơ sở, phương
tiện; phải tìm ra những nhân tố vật chất, tổ chức những nhân tố ấy thành lực
lượng vật chất để hành động.
Phát huy tính năng động chủ quan là phát huy vai trò tích cực, năng động,
sáng tạo của ý thức và nhân tố con người trong việc vật chất hóa tính tích cực,
năng động, sáng tạo ấy. Điều này đòi hỏi con người phải tôn trọng tri thức khoa
học, mặt khác phải tích cực học tập, nghiên cứu để làm chủ tri thức khoa học
đồng thời phải tu dưỡng rèn luyện bản thân mình về đạo đức, ý chí, nghị lực.
Đảm bảo nguyên tắc tính thống nhất biện chứng giữa tôn trọng khách quan
và phát huy năng động chủ quan trong hoạt động thực tiễn đòi hỏi phải khắc
phục bệnh chủ quan duy ý chí, chủ nghĩa kinh nghiệm, coi thường tri thức khoa
học… trong hoạt động nhận thức và thực tiễn.


CHƯƠNG 3: VẬN DỤNG Ý NGHĨA PHƯƠNG PHÁP LUẬN VÀO SỰ
NGHIỆP CÁCH MẠNG Ở VIỆT NAM GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
3.1. Vi phạm ý nghĩa phương pháp luận trước đây dẫn đến những sai lầm
Công nghiệp hóa trước thời kỳ đổi mới: chúng ta đã mắc những sai lầm
nghiêm trọng trong việc xác định mục tiêu, bước đi về cơ sở vật chất, kỹ thuật,
bố trí cơ cấu sản xuất, cơ cấu đầu tư… Đó là những sai lầm xuất phát từ chủ
quan duy ý chí trong nhận thức và chủ trương công nghiệp hóa.
Trong quá trình đổi mới nhận thức về kinh tế thị trường: Không thừa nhận
trên thực tế sự tồn tại của nền kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ, lấy

kinh tế quốc danh và tập thể là chủ yếu, muốn nhanh chống xóa sở hữu tư nhân
và kinh tế cá thể tư nhân; xây dựng nền kinh tế khép kín. Vì vậy, kìm hãm tiến
bộ khoa học – công nghệ, triệt tiêu động lực kinh tế đối với người lao động,
không kích thích năng động, sáng tạo của các đơn vụ sản xuất kinh doanh.
3.2. Vận dụng ý nghĩa phương pháp luận
Sau độc lập, nền kinh tế nước ta còn gặp vô vàn khó khăn do thói quen
lao động tự cung tự cấp, nền sản xuất nhỏ lẻ, trình độ phát triển kém, đời sống
xã hội còn khó khăn… Với hoàn cảnh mới, để đưa đất nước tiến lên chủ nghĩa
xã hội là mục tiêu cách mạng lớn lao nhất và quan trọng nhất của Đảng và nhân
dân ta vào thời kì đổi mới.
Từ đòi hỏi cũng như thực tế hiện nay thì sự ra đời và phát triển của nền
kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường là đường lối chiến
lược sáng suốt của Đảng và nhà nước ta. Đó là một tất yếu khách quan khi ở vào
thời kỳ quá độ như ở nước ta hiện nay. Bên cạnh việc thừa nhận sự tồn tại của
kinh tế tư bản tư nhân, đương nhiên phải thường xuyên đấu tranh với xu hướng
tự phát tự chù nghĩa và nhưng mặt tiêu cực trong các thành phần kinh tế, giải
quyết mâu thuẫn tồn tại tròn sản xuất giữa chúng. Mặc dù có những khiếm
khuyết không thể tránh khỏi song chúng ta luôn đi đúng hướng trong cải tạo
thực tiễn, phát triển kinh tế, từng bước đưa đất nước ta tiến kịp trình độ các nước
trong khu vực và thế giới về mọi mặt. Chính những thành tựu của xây dựng chủ
nghĩa xã hội và qua mười nưm đổi mới là minh chứng xác đáng cho vấn đề nêu


trên. Hoạt động nhận thức và cải tạo thực tiễn cùng với sự nắm bắt các quy luật
khách quan trong vận hành nền kinh tế ở nước ta là một vấn đề còn nhiều xem
xét và tranh cãi, nhất là trong nền kinh tế ở nước ta là một vấn đề còn nhiều xem
xét và thanh cãi, nhất là trong nền kinh tế Việt Nam hiện nay phát triển. Đảng và
nhà nức ta đã đạt được những thành tựu.
-Văn hóa, xã hội có những tiến bộ, đời sống của nhân dân tiếp tục được cải
thiện. Mức tiêu dùng bình quân đầu người tang gấp đôi.

- Tình hình chính trị - xã hội cơ bản ổn định, quốc phòng an ninh được tang
cường.
- Hệ thống chính trị được tiếp tục củng cố. Cuộc bầu cử Quốc hội khóa X được
tiến hành dân chủ và sôi nổi trong toàn quốc.
- Quan hệ đối ngoại và việc chủ động hội nhập kinh tế quốc tế được mở rộng và
đạt được nhiều kết quả…
Tóm lại, đổi mới tư duy chỉ đạo trong sự nghiệp đổi mới chung là một bộ
phận không thể thiếu được của sự phát triển xã hội cũng như sự phát triển kinh
tế xã hội của nước ta hiện nay. Vì vậy, “ vận dụng ý nghĩa của phương pháp luận
vào sự nghiệp cách mạng ở Việt Nam giai đoạn hiện nay” :
-

Bài học tôn trọng quy luật khách quan
Chống thụ động, bảo thủ, trì trệ, chống chủ quan, duy ý chí
Xử lý đúng đắn mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế- xã hội với đổi mới tư

-

duy, giữa đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị.
Chủ trương coi giáo dục cùng với khoa học, công nghệ là quốc sách hàng

-

đầu, thực hiện xã hội hóa giáo dục và xây dựng xã hội học tập.
Coi phát triển kinh tế là nhiệm vụ trọng tâm, xây dựng Đảng là then chốt,

-

phát trển văn hóa tạo nền tảng tinh thần của xã hội.
Xây dựng các chính sách kinh tế chủ yếu dựa trên cơ sở động lực lợi ích

vật chất, kết hợp hài hòa lợi ích cá nhân, tập thể, xã hội.

KẾT LUẬN


Tóm lại, tìm hiểu sâu và kĩ hơn về triết học Mác – Lê nin, hay
chính là hiểu rõ hơn về nhận định chủ nghĩa duy vật biện chứng là cơ sở
lý luận của thế giới quan khoa học là điều thực sự quan trọng và cần thiết.
Cụ thể hơn là mối quan hệ biện chứng giữa vật chất với ý thức sẽ giúp
Đảng và Nhà nước ta nhìn nhận mọi mặt sáng suốt hơn. Đó là, mọi sách
lược, chiến lược cách mạng của chúng ta phải được xuất phát từ thực tế
khách quan, phát huy được tính năng động chủ quan và đồng thời chống
chủ quan duy ý chí. Đây được coi là một vấn đề hết sức quan trọng, bởi
nó quyết định sự thành công hay thất bại trên con đường đi tới chủ nghĩa
xã hội ở nước ta.


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

Giáo trình triết học, nxb lý luận chính trị



×