Tải bản đầy đủ (.pdf) (110 trang)

Pháp luật ưu đãi tài chính đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài tại việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.15 MB, 110 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

PHẠM THỊ BÍCH LIÊN

PHÁP LUẬT ƯU ĐÃI TÀI CHÍNH
ĐỐI VỚI ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Chuyên ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 60380107

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Nguyễn Thị Ánh Vân

HÀ NỘI - NĂM 2016


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng đây là công trình nghiên cứu của tôi, có sự hỗ trợ
từ Giáo viên hướng dẫn là PGS.TS Nguyễn Thị Ánh Vân. Các nội dung nghiên cứu
và kết quả trong đề tài này là trung thực. Những số liệu phục vụ cho việc phân tích,
nhận xét, đánh giá được chính tác giả thu thập từ các nguồn khác nhau có ghi rõ
trong phần tài liệu tham khảo. Ngoài ra, đề tài còn sử dụng một số nhận xét, đánh
giá cũng như số liệu của các tác giả, cơ quan tổ chức khác và cũng thể hiện trong
phần tài liệu tham khảo. Nếu phát hiện có bất cứ sự gian lận nào, tôi xin hoàn toàn
chịu trách nhiệm trước hội đồng cũng như kết quả luận văn của mình.
Hà Nội, ngày 5 tháng 08 năm 2016
Tác giả



Phạm Thị Bích Liên
XÁC NHẬN CỦA GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN
………………………………………………………………………………….……
…………………………………………………………………………….…………
……………………………………………………………………….………………
………………………………………………………………….……………………
…………………………………………………………….


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài...............................................................................1
2. Tình hình nghiên cứu đề tài.........................................................................1
3. Đối tượng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu của luận văn………………2
4. Mục tiêu nghiên cứu của luận văn………………………………………..2
5. Các câu hỏi nghiên cứu của luận văn…………………………………….3
6. Các phương pháp nghiên cứu áp dụng để thực hiện luận văn………….3
7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn…………………………….3
8. Bố cục của luận văn………………………………………………………..3
PHẦN NỘI DUNG
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁP LUẬT ƯU ĐÃI TÀI
CHÍNH ĐỐI VỚI ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI……………………...5
1.1. Khái niệm và đặc điểm của ưu đãi tài chính đối với đầu tư trực tiếp
nước ngoài…………………………………………………………………………..5
1.1.1. Khái niệm ưu đãi tài chính đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài……...5
1.1.2. Đặc điểm của ưu đãi tài chính đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài...12
1.2. Khái niệm, đặc điểm và vai trò của pháp luật ưu đãi tài chính đối với
đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam……………………………………….15
1.2.1. Khái niệm pháp luật ưu đãi tài chính đối với đầu tư trực tiếp nước

ngoài tại Việt Nam………………………………………………………………...15
1.2.2. Đặc điểm của pháp luật ưu đãi tài chính đối với đầu tư trực tiếp nước
ngoài tại Việt Nam…………………………………………………………….......16
1.2.3. Vai trò của pháp luật ưu đãi tài chính đối với đầu tư trực tiếp nước
ngoài……………………………………………………………………………….20
Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN THI HÀNH PHÁP
LUẬT VỀ ƯU ĐÃI TÀI CHÍNH ĐỐI VỚI ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC
NGOÀI TẠI VIỆT NAM………………………………………………………....26
2.1. Thực trạng pháp luật về ưu đãi tài chính đối với đầu tư trực tiếp
nước ngoài tại Việt Nam………………………………………………………….26
2.1.1. Những thành công của pháp luật ưu đãi tài chính đối với đầu tư trực
tiếp nước ngoài tại Việt Nam……………………………………………………...26
2.1.2. Những bất cập của pháp luật ưu đãi tài chính đối với đầu tư trực tiếp
nước ngoài………………………………………………………………….……...50
2.2. Thực tiễn thi hành pháp luật ưu đãi tài chính đối với đầu tư trực tiếp
nước ngoài tại Việt Nam………………………………………………………….61


2.2.1. Doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam đang
được hưởng ưu đãi tài chính vượt quá mức cần thiết……………………………61
2.2.2. Trên thực tế, nhiều doanh nghiệp đang lợi dụng một số hình thức ưu
đãi tài chính đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài để trốn thuế, chuyển giá……..64
Chương 3: GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ
THỰC THI CÁC QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ ƯU ĐÃI TÀI CHÍNH ĐỐI
VỚI ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM…….......………68
3.1. Sự cần thiết phải hoàn thiện pháp luật về ưu đãi tài chính đối với đầu
tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam……………………………………………68
3.2. Nguyên tắc hoàn thiện các quy định pháp luật về ưu đãi tài chính đối
với đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam…………………………………...69
3.2.1. Quán triệt những quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về hội nhập

kinh tế quốc tế …………………………………………………………………….69
3.2.2. Hoàn thiện pháp luật về ưu đãi tài chính đối với đầu tư trực tiếp nước
ngoài phải phù hợp với quy định của Hiến pháp và các đạo luật khác…………70
3.2.3. Đảm bảo pháp luật về ưu đãi tài chính đối với đầu tư trực tiếp nước
ngoài tại Việt Nam vừa thu hút đầu tư nước ngoài, vừa kích thích đầu tư sản
xuất trong nước………………..…………………………………………………..70
3.3. Các giải pháp hoàn thiện quy định pháp luật và nâng cao hiệu quả
thực thi về ưu đãi tài chính đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam.71
3.3.1. Giải pháp hoàn thiện pháp luật ưu đãi tài chính đối với đầu tư trực
tiếp nước ngoài tại Việt Nam……………………………………………………...71
3.3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật ưu đãi tài chính đối
với đầu tư trực tiếp nước ngoài…………………………………………………...83
KẾT LUẬN……………………………………………………………….…87
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Việt Nam hiện nay đang ở giai đoạn bản lề trong quá trình phát triển và hiện
đại hóa, phấn đấu trở thành nước công nghiệp vào năm 2020. Cho đến nay, chiến
lược của Việt Nam có tác dụng tương đối tốt trong việc thu hút các dòng đầu tư trực
tiếp nước ngoài quy mô lớn, mang lại cho đất nước nguồn vốn nước ngoài dồi dào
cũng như bước đầu tiếp xúc với công nghệ và bí quyết mới, kỹ năng quản lý và tổ
chức, thông tin thị trường và tiếp cận thị trường. Đầu tư trực tiếp nước ngoài đã đạt
được những thành tựu quan trọng, đóng góp ngày càng lớn vào tăng trưởng kinh tế,
thúc đẩy việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa,
mở rộng thị trường xuất khẩu, tạo việc làm và tăng nguồn thu cho ngân sách nhà

nước. Kể từ khi Luật đầu tư nước ngoài 1987 được ban hành, hoạt động đầu tư trực
tiếp nước ngoài ở Việt Nam đã trải qua những giai đoạn phát triển kế tiếp nhau,
song song với đó, các biện pháp ưu đãi tài chính đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài
cũng được thay đổi phù hợp để đảm bảo đáp ứng các mục đích thu hút đầu tư, phục
vụ công cuộc phát triển kinh tế xã hội và hội nhập quốc tế.
Để đạt được những thành tựu thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trong
thời gian qua, pháp luật ưu đãi tài chính đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài đóng
vai trò không nhỏ. Pháp luật ưu đãi tài chính đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài đã
tạo khung pháp lý cơ bản, điều chỉnh hoạt động ưu đãi tài chính đối với đầu tư trực
tiếp nước ngoài phù hợp với đường lối, chính sách của Đảng về mở cửa và hội nhập
kinh tế quốc tế, đáp ứng yêu cầu thực tiễn cũng như ngày càng phù hợp với thông lệ
quốc tế, có sức hấp dẫn với các nhà đầu tư nước ngoài.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đã đạt được, trong quá trình thực thi,
pháp luật ưu đãi tài chính đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài cũng đã lộ ra những
bất cập nhất định, đặt ra nhiệm vụ phải tiếp tục hoàn thiện pháp luật ưu đãi tài chính
đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài. Vì vậy, việc nghiên cứu đề tài: “Pháp luật ưu
đãi tài chính đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam” hiện nay mang
tính cấp thiết, không những về mặt lý luận, mà còn là đòi hỏi của thực tiễn nhằm
nâng cao hiệu quả hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài:
Trong thời gian qua, đã có một số tác giả có các công trình nghiên cứu về đầu tư


2

trực tiếp nước ngoài cũng như các ưu đãi đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài như: tác
giả Nguyễn Thị Ánh Vân có bài đăng trên Tạp chí luật học số 6 năm 1998 về “Ưu đãi
về thuế và vấn đề thu hút đầu tư nước ngoài tại Việt Nam”, tác giả Nguyễn Khắc
Định có Luận án Tiến sĩ Luật học năm 2003 về “Hoàn thiện pháp luật về đầu tư trực
tiếp nước ngoài trong xu hướng nhất thể hóa pháp luật về đầu tư ở Việt Nam”, tác

giả Vũ Văn Cương có Luận văn Thạc sĩ Luật học năm 2003 về “Hoàn thiện pháp luật
thuế đối với hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài của nhà đầu tư nước ngoài tại
Việt Nam”, tác giả Lương Thị Kim Dung có Luận văn Thạc sĩ Luật học năm 2004 về
“Hoàn thiện pháp luật về khuyến khích đầu tư nước ngoài khi Việt Nam gia nhập tổ
chức thương mại thế giới”, tác giả Đỗ Phương Hiền có Luận văn Thạc sĩ Luật học
năm 2014 về “Pháp luật hiện hành về đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt NamThực trạng và giải pháp hoàn thiện”… Tuy nhiên, những công trình này hoặc viết
đã lâu, hoặc chỉ đề cập đến pháp luật về đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam.
Chưa có công trình nào nghiên cứu một cách có hệ thống về ưu đãi tài chính đối với
đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam trong thời gian gần đây.
3. Đối tượng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu của luận văn:
Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu các quy định pháp luật về ưu đãi tài chính đối với đầu tư
trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu dưới góc độ luật tài chính, trong đó, “ưu đãi tài chính”
trong luận văn này được hiểu chủ yếu là (1) các ưu đãi về thuế (thuế thu nhập doanh
nghiệp, thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu); bên cạnh đó là (2) một số ưu đãi tài chính
khác (chuyển lỗ, khấu hao tài sản). Về thời gian, luận văn nghiên cứu những vấn đề
pháp luật về ưu đãi tài chính đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài từ năm 1975 đến
nay.
4. Mục tiêu nghiên cứu của luận văn:
Mục tiêu nghiên cứu của luận văn là trên cơ sở nghiên cứu một cách có hệ
thống pháp luật về ưu đãi tài chính đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam
từ khi hình thành và phát triển đến nay, đánh giá đúng thực trạng pháp luật, thực
tiễn thi hành pháp luật và kiến nghị các giải pháp hoàn thiện và nâng cao hiệu quả
thực thi các quy định pháp luật về ưu đãi tài chính đối với đầu tư trực tiếp nước


3


ngoài tại Việt Nam trong thời gian tới.
5. Các câu hỏi nghiên cứu của luận văn:
Luận văn tập trung trả lời các câu hỏi nghiên cứu sau:
- Ưu đãi tài chính đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài là gì? Pháp luật ưu đãi
tài chính đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam là gì?
- Thực trạng pháp luật về ưu đãi tài chính đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài
tại Việt Nam có những thành công và bất cập nào? Thực tiễn thi hành pháp luật ưu
đãi tài chính đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam như thế nào?
- Vì sao phải hoàn thiện pháp luật về ưu đãi tài chính đối với đầu tư trực tiếp
nước ngoài tại Việt Nam? Nguyên tắc hoàn thiện các quy định pháp luật này như
thế nào? Có những giải pháp nào để hoàn thiện pháp luật cũng như nâng cao hiệu
quả thực thi pháp luật ưu đãi tài chính đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt
Nam?
6. Các phương pháp nghiên cứu áp dụng để thực hiện luận văn:
Trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của Triết
học Mác – Lê nin, luận văn sử dụng các phương pháp phân tích, tổng hợp, hệ thống,
so sánh pháp luật, dự báo để nghiên cứu những vấn đề về pháp luật ưu đãi tài chính
đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam trong thời gian qua.
7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn:
Thông qua những kết quả nghiên cứu, những kiến nghị được đặt ra của luận
văn, tác giả mong muốn đóng góp một phần nhỏ bé của mình vào sự phát triển của
kho tàng lý luận và thực tiễn về hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài nói chung và
pháp luật ưu đãi tài chính đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài nói riêng. Với việc
đưa ra các số liệu chính xác, đề xuất các giải pháp cụ thể, tác giả hi vọng sẽ góp
phần làm sáng tỏ cơ sở khoa học cho việc nghiên cứu, đổi mới pháp luật ưu đãi tài
chính đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam. Vì vậy, luận văn có thể
được sử dụng làm tài liệu tham khảo trong việc nghiên cứu về ưu đãi tài chính đối
với đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam.
8. Bố cục của luận văn:



4

Nội dung luận văn gồm phần mở đầu; 03 chương; kết luận; danh mục tài liệu
tham khảo và 01 phụ lục.
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về pháp luật ưu đãi tài chính đối với đầu tư
trực tiếp nước ngoài
Chương 2: Thực trạng pháp luật và thực tiễn thi hành pháp luật về ưu đãi tài
chính đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam
Chương 3: Các giải pháp hoàn thiện và nâng cao hiệu quả thực thi các quy
định pháp luật về ưu đãi tài chính đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam


5

PHẦN NỘI DUNG
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁP LUẬT ƯU ĐÃI TÀI CHÍNH
ĐỐI VỚI ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI
1.1. Khái niệm và đặc điểm của ưu đãi tài chính đối với đầu tư trực tiếp
nước ngoài
1.1.1. Khái niệm ưu đãi tài chính đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài
1.1.1.1. Đầu tư trực tiếp nước ngoài và ưu đãi đầu tư trực tiếp nước ngoài
Đầu tư trực tiếp nước ngoài không phải là một khái niệm mới. Sự xuất hiện
của thuật ngữ “đầu tư” lần đầu tiên có thể được tìm thấy ở Hiến chương Tổ chức
thương mại quốc tế ITO được thông qua tại Hội nghị thương mại và việc làm của
Liên hiệp quốc tại Havana năm 1948, nhưng Hiến chương này không đưa ra một
định nghĩa nào về đầu tư. Trong Bản án liên quan đến Barcelona Traction, Light,
and Power Company, Ltd vào ngày 5 tháng 2 năm 1970, Tòa án công lý quốc tế đã
sử dụng thuật ngữ này mà không đưa ra định nghĩa. Từ phán quyết của thẩm phán

Gros xét xử vụ việc này, có thể hiểu “đầu tư” bao gồm một quyết định giao tài sản
cho một hoạt động sản xuất diễn ra ở nước ngoài, qua đó chủ tài sản rất dễ bị tổn
thất khi tịch thu mà không được bồi thường1.
Tuy vậy, thuật ngữ “đầu tư trực tiếp nước ngoài” không được sử dụng nhiều
cho đến mãi thập kỷ 80 của thế kỷ XX, khi xu thế toàn cầu hóa các hoạt động kinh
tế - thương mại - đầu tư ngày càng phát triển mạnh mẽ thì thuật ngữ “đầu tư trực
tiếp nước ngoài” mới thực sự trở nên phổ biến. Luật đầu tư nước ngoài của Liên
bang Nga ban hành ngày 4 tháng 7 năm 1991 định nghĩa: “Đầu tư trực tiếp nước
ngoài là tất cả những hình thức giá trị tài sản hay giá trị tinh thần mà người nước
ngoài đầu tư vào các đối tượng của hoạt động kinh doanh và các hoạt động khác
nhắm mục đích thu lợi nhuận”. Định nghĩa này được một số chuyên gia pháp lý cho
là tương đối đầy đủ, nêu được bản chất của hoạt động đầu tư nước ngoài là vì mục
đích lợi nhuận nhưng lại có hạn chế khi coi công cụ đầu tư chỉ là “giá trị tài sản”,
tức là, việc chuyển công nghệ, kỹ năng quản lý, nhãn hiệu, thương hiệu… (các loại

1

Todd Weiler (2005), International Investment Law and Arbitration: Leading Cases from the ICSID,
NAFTA, Bilateral Treaties and Customary International Law, Cameron May Publisher, London, page 48.


6

tài sản hữu hình) ra nước ngoài để nhằm mục đích lợi nhuận không phải là hoạt
động đầu tư nước ngoài của chủ thể đã thực hiện các hoạt động này2.
Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), trong Báo cáo cán cân thanh toán hàng năm, bản
in thứ 6 năm 2009 đã định nghĩa đầu tư trực tiếp nước ngoài như một sự “đầu tư
qua biên giới”, trong đó một nhà đầu tư là “cư dân trong một nền kinh tế (có) kiểm
soát hoặc có một mức độ ảnh hưởng đáng kể đến việc quản lý của một doanh
nghiệp là cư dân trong nền kinh tế khác”3. Hoạt động trực tiếp quản lý đầu tư của

đầu tư trực tiếp nước ngoài là cách thức phân biệt với một hình thức hoạt động khác
của đầu tư là đầu tư gián tiếp (không trực tiếp quản lý).
Theo Tổ chức Hợp tác và phát triển kinh tế (OECD) thì đầu tư trực tiếp nước
ngoài “phản ánh mục tiêu thu về một lợi ích lâu dài của một thực thể trong một nền
kinh tế (“nhà đầu tư trực tiếp”) vào một thực thể (“doanh nghiệp được đầu tư trực
tiếp”) trong nền kinh tế khác ... Sự quan tâm lâu dài ngụ ý sự tồn tại của một mối
quan hệ lâu dài giữa các nhà đầu tư trực tiếp với các doanh nghiệp được đầu tư và
có một mức độ ảnh hưởng đáng kể đến việc quản lý của doanh nghiệp. Đầu tư trực
tiếp liên quan đến cả các giao dịch ban đầu giữa hai thực thể và tất cả các giao
dịch vốn tiếp theo giữa họ và giữa các doanh nghiệp trực thuộc…” 4
Như vậy, có thể thấy, dưới góc độ kinh tế, đầu tư trực tiếp nước ngoài là một
hình thức đầu tư quốc tế được đặc trưng bởi sự dịch chuyển tài sản như vốn, công
nghệ, kỹ năng quản lý từ quốc gia này sang quốc gia khác để sản xuất, kinh doanh
nhằm thu lợi nhuận cao. Dưới góc độ pháp lý, đầu tư trực tiếp nước ngoài là hoạt
động kinh doanh quốc tế dựa trên cơ sở quá trình di chuyển tư bản giữa các quốc
gia, chủ yếu do pháp nhân và chủ đầu tư tham gia trực tiếp vào quá trình đầu tư.
Trong pháp luật Việt Nam, Khoản 1 điều 3 Luật đầu tư 2005 quy định về việc
đầu tư là “việc nhà đầu tư bỏ vốn, tài sản theo các hình thức và cách thức do pháp
luật quy định để thực hiện hoạt động nhằm mục đích lợi nhuận hoặc lợi ích kinh tế,
xã hội khác”. Có thể thấy định nghĩa đầu tư trong Luật đầu tư 2005 khá rộng, bao
gồm nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội. Luật đầu tư 2014 không định nghĩa về toàn
bộ hoạt động đầu tư mà chỉ đưa ra định nghĩa về hoạt động đầu tư kinh doanh. Theo
Khoản 5 Điều 3 Luật đầu tư 2014: “Đầu tư kinh doanh là việc nhà đầu tư bỏ vốn
2

Somphon Sathavone (2015), Các biện pháp khuyến khích đầu tư theo Luật đầu tư Việt Nam và kinh nghiệm
đối với xây dựng pháp luật của CHDCND Lào. Luận văn Thạc sĩ Luật học, Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội,
trang 8.
3
truy cập ngày 20/06/2016.

4
OECD Detailed Benchmark definition of foreign direct investment. Third edition, reprinted 1999, trang 7


7

đầu tư để thực hiện hoạt động kinh doanh thông qua việc thành lập tổ chức kinh tế;
đầu tư góp vốn, mua cổ phần, phần vốn góp của tổ chức kinh tế; đầu tư theo hình
thức hợp đồng hoặc thực hiện dự án đầu tư”. Với việc thu hẹp khái niệm theo Luật
đầu tư 2014, khái niệm đầu tư kinh doanh đã được quy định cụ thể, chi tiết và khái
quát được hết các nội hàm đầu tư thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật đầu tư 2014.
Pháp luật đầu tư của Việt Nam hiện hành cũng không quy định thế nào là đầu tư
nước ngoài mà chỉ quy định làm rõ thuật ngữ “nhà đầu tư nước ngoài”. Theo đó,
Luật đầu tư năm 2014 quy định: “Nhà đầu tư nước ngoài là cá nhân có quốc tịch
nước ngoài, tổ chức thành lập theo pháp luật nước ngoài thực hiện hoạt động đầu
tư kinh doanh tại Việt Nam”.
Căn cứ vào mức độ tham gia quản lý của nhà đầu tư vào đối tượng được góp
vốn, đầu tư được chia ra hai cách thức đầu tư sau: đầu tư trực tiếp và đầu tư gián
tiếp. Đầu tư trực tiếp là hình thức đầu tư do nhà đầu tư bỏ vốn đầu tư và tham gia
quản lý hoạt động đầu tư. Đầu tư gián tiếp là hình thức đầu tư thông qua việc mua
cổ phần, cổ phiếu, trái phiếu, các giấy tờ có giá khác, quỹ đầu tư chứng khoán và
thông qua các định chế tài chính trung gian khác mà nhà đầu tư không trực tiếp
tham gia quản lý hoạt động đầu tư5. Căn cứ vào nguồn gốc vốn và quốc tịch của nhà
đầu tư, đầu tư được chia thành đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài.
Từ khái niệm đầu tư và quy định về nhà đầu tư nước ngoài nêu trên, có thể
hiểu: Đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam là việc cá nhân có quốc tịch nước
ngoài, tổ chức thành lập theo pháp luật nước ngoài thực hiện hoạt động bỏ vốn đầu
tư thông qua việc thành lập tổ chức kinh tế; đầu tư góp vốn, mua cổ phần, phần vốn
góp của tổ chức kinh tế và tham gia trực tiếp vào hoạt động kinh doanh theo hình
thức hợp đồng hoặc thực hiện dự án đầu tư kinh doanh tại Việt Nam.

Về “ưu đãi đầu tư”, cho đến nay, không có một văn bản pháp lý nào định
nghĩa chính xác cụm từ này6. Khái niệm “ưu đãi đầu tư” có thể rất rộng, bao trùm
hầu hết những sự trợ giúp được cung cấp bởi một quốc gia cho các nhà đầu tư, hoặc
nó có thể hẹp hơn, chỉ bao gồm một số loại hỗ trợ cụ thể nhất định cho các nhà đầu
tư. Tuy nhiên, các hiệp định thương mại hay đầu tư quốc tế đều có những định
nghĩa khác nhau về thuật ngữ này. Ví dụ, Hiệp định chung về Thương mại Dịch vụ

5
Somphon Sathavone (2015), Các biện pháp khuyến khích đầu tư theo Luật đầu tư Việt Nam và kinh nghiệm
đối với xây dựng pháp luật của CHDCND Lào. Luận văn Thạc sĩ Luật học, Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội
trang 8.
6
UNCTAD series on Issues in international investment agreement, page 5


8

(GATS) đề cập đến “trợ cấp” trong chương XV, hay Hiệp định Thương mại Tự do
Bắc Mỹ (NAFTA) có quy định về “các khoản trợ cấp hoặc tài trợ” trong các nguyên
tắc đối xử quốc gia và nguyên tắc tối huệ quốc.
Theo UNCTAD, ưu đãi đầu tư là “Việc cấp một lợi ích cụ thể phát sinh từ chi
tiêu công [một đóng góp tài chính] liên quan đến việc thành lập, mua lại, mở rộng,
quản lý, hoạt động, hay hành vi của một khoản đầu tư của các nước ký điều ước
hay không ký điều ước trong lãnh thổ của mình.”7
Ưu đãi đầu tư, theo tác giả Lê Thị Lệ Thu, có thể hiểu như là một công cụ
chính sách được luật hóa mang lại nhiều lợi ích cho nhà đầu tư. Trong mối quan hệ
này, Nhà nước chính là chủ thể đem lại các ưu đãi; nhà đầu tư là chủ thể được nhận
ưu đãi; khách thể của quan hệ này chính là các ưu đãi cụ thể như các khoản lợi về




11

do thiếu vốn, cần thu hút nguồn vốn đầu tư, nên các nhà đầu tư nước ngoài không
thể nhận được khoản cho vay ưu đãi hay bảo lãnh từ chính phủ mà chỉ có thể nhận
được khoản vay từ các tổ chức tín dụng.
Ưu đãi tài chính là một trong những công cụ phát triển và xúc tiến đầu tư
chiến lược cho đất nước. Theo các tác giả Rosario G. Manasan and Danileen Parel,
ưu đãi tài chính được định nghĩa “…như các ưu đãi, thường là dưới hình thức giảm
thuế, cho các dự án đầu tư có tiềm lực năng lực. Những người ủng hộ ưu đãi tài
chính cho rằng những ưu đãi tài chính là rất quan trọng trong việc thúc đẩy gia
tăng đầu tư, tạo ra việc làm mới và kết quả là lợi ích xã hội và kinh tế khác. Một số
chuyên gia cũng cho rằng các quốc gia cần khuyến khích tài chính để có thể cạnh
tranh với các nước láng giềng của mình. Trong trường hợp này, các ưu đãi tài
chính như một thiết bị truyền tín hiệu, thông báo những tín hiệu ưu đãi đến các
phần còn lại của thế giới rằng đây là một môi trường kinh doanh tốt, lại mở cửa
cho đầu tư…”13 Các ưu đãi tài chính về cơ bản chỉ áp dụng trực tiếp đầu tư nước
ngoài vì tác động của ưu đãi tài chính trong trường hợp đầu tư trong nước sẽ chỉ để
dịch chuyển sự đầu tư sang những khu vực/ngành được ưu tiên.
Là một phần của ưu đãi đầu tư, nên có thể hiểu, ưu đãi tài chính là các quy
định về ưu đãi đầu tư liên quan trực tiếp đến vấn đề tài chính công, thể hiện một
cách cụ thể cách thức mà Nhà nước dành những lợi ích nhất định cho các nhà đầu
tư, để thúc đẩy họ bỏ vốn, tài sản theo các cách thức và hình thức luật định để thực
hiện hoạt động kinh doanh nhằm mục đích lợi nhuận hoặc lợi ích kinh tế, xã hội
khác theo định hướng phát triển kinh tế - xã hội của Nhà nước.
Để hiểu rõ các dạng của ưu đãi tài chính đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài,
cần có sự phân loại ưu đãi theo các tiêu chí. Theo tiêu chí thời gian ưu đãi, ưu đãi
tài chính đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài gồm hai loại: ưu đãi tài chính có thời
hạn ngắn (đến 5 năm) và ưu đãi tài chính có thời hạn dài (trên 5 năm). Theo tiêu chí
các đối tượng được ưu đãi (theo quan niệm của UNCTAD đã nêu trên), ưu đãi tài

chính đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài gồm các loại: ưu đãi dựa trên lợi nhuận,
ưu đãi dựa trên sự đầu tư vốn, ưu đãi dựa trên lao động, ưu đãi dựa trên việc kinh
doanh, ưu đãi dựa trên việc nhập khẩu, ưu đãi dựa trên việc xuất khẩu, ưu đãi dựa
trên các chi phí đặc thù khác, ưu đãi dựa trên giá trị gia tăng và ưu đãi dựa trên việc
giảm thuế cho người nước ngoài. Theo tiêu chí điều kiện hưởng ưu đãi, ưu đãi tài
13

Rosario G. Manasan & Danileen Parel, The need (or not) for fiscal incentives,
truy cập ngày 20/06/2016


12

chính gồm những ưu đãi có điều kiện (chỉ những dự án đủ điều kiện mới được
hưởng) và ưu đãi không có điều kiện (dự án đầu tư nào cũng được hưởng ưu đãi).
Với đặc thù của nền kinh tế Việt Nam, ưu đãi tài chính được nhắc đến thường
bao gồm: ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp, ưu đãi về thuế xuất khẩu, thuế
nhập khẩu và vấn đề chuyển lỗ14. Luận văn này sẽ chỉ tập trung nghiên cứu hai loại
ưu đãi tài chính: chủ yếu là (1) các ưu đãi về thuế (thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế
xuất khẩu, thuế nhập khẩu); bên cạnh đó là (2) một số ưu đãi tài chính khác (chuyển
lỗ, khấu hao tài sản).
1.1.2. Đặc điểm của ưu đãi tài chính đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài
1.1.2.1. Ưu đãi tài chính không phải là yếu tố quan trọng nhất trong việc lựa
chọn địa điểm đầu tư của nhà đầu tư nước ngoài
Về mặt lý luận, nhiều công trình khoa học đã chỉ ra rằng ưu đãi tài chính
không phải là nhân tố quyết định trong việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Theo
những công trình khoa học này, những nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến quyết
định đầu tư gồm cơ sở hạ tầng tốt, nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú, nguồn
nhân lực dồi dào, chế độ chính trị, thủ tục cấp giấy phép đầu tư đơn giản, chính sách
bảo hộ đầu tư rõ ràng (không quốc hữu hóa, không xung công tài sản của nhà đầu

tư…)15.
Thực tế đã chỉ ra rằng, những quốc gia có ưu đãi tài chính hấp dẫn không có
nghĩa đó là một môi trường kinh doanh hấp dẫn. Ví dụ, Philippines là quốc gia cung
cấp các ưu đãi tài chính hào phóng nhất, nhưng quốc gia này không thực hiện tốt về
năng lực cạnh tranh tổng thể nên không thu hút đầu tư bằng các nước lân cận trong
khu vực. Điều này được minh họa trong biểu đồ sau, cho thấy lượng vốn đầu tư trực
tiếp nước ngoài của Philippines thấp hơn so với các nước láng giềng kể từ những
năm 1980.

14

truy cập ngày 20/06/2016
Nguyễn Thị Ánh Vân (1998), “Ưu đãi về thuế và vấn đề thu hút đầu tư nước ngoài tại Việt Nam”, Tạp chí
luật học số 6, trang 35-39
15


13

Hình 1: Biểu đồ so sánh nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài từ năm 1980
đến 2011 giữa các nước Indonesia, Malaysia, Philippines, Thái Lan, Việt Nam.
Nguồn: />Một môi trường đầu tư tổng thể, trong đó bao gồm sự hiện diện của cơ sở hạ
tầng, lao động giá rẻ, chính sách nhất quán và môi trường pháp lý ổn định được coi
là quan trọng hơn so với các quy định ưu đãi về tài chính. Thêm vào đó, các ưu đãi
tài chính có thể không giải quyết các yếu tố bên ngoài và thất bại thị trường. Khi ưu
đãi tài chính thành công trong việc tác động phân bổ các khoản đầu tư trong nước
vào các lĩnh vực/ ngành ưu đãi, thiếu hiệu quả kinh tế tổng thể có thể xảy ra. Các
yếu tố khác rất quan trọng trong việc thu hút đầu tư nước ngoài bao gồm các chế độ
chính sách thương mại, mở cửa thị trường quốc tế, chế độ chính sách đầu tư, và các
thể chế, thiết lập quản trị. Tóm lại, không thể phủ nhận vai trò của ưu đãi tài chính

đối với việc quyết định lựa chọn đầu tư, song ưu đãi tài chính “nếu có thì tốt, nhưng
không phải yếu tố quyết định”16.
1.1.2.2. Ưu đãi tài chính thường được nhiều chính phủ lựa chọn so với những
ưu đãi đầu tư khác
Mặc dù nói rằng ưu đãi tài chính không được các nhà đầu tư coi là một yếu tố
quan trọng để thu hút đầu tư, tại sao được ưu đãi tài chính vẫn được các chính phủ
lựa chọn để thu hút đầu tư nói chung và thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài nói

16
Paul Babour (2015), An Assessment of South Africa’s Investment Incentive Regime with a Focus on the
Manufacturing Sector, ESAU Working paper 14, Overseas Development Institue, London, trang 6.
truy cập ngày
20/06/2016.


14

riêng? Có ba câu trả lời đơn giản cho câu hỏi này, đặc biệt thích hợp cho các nước
đang phát triển như sau17:
Thứ nhất, ưu đãi tài chính là một cách dễ dàng để bù đắp những trở ngại khác
do chính phủ tạo ra trong môi trường kinh doanh18. Nói cách khác, các ưu đãi tài
chính như sự bù đắp của chính phủ cho thị trường đầu tư thua kém của mình. Xa
hơn nữa, do các nhà đầu tư sẽ phải đối mặt với rất nhiều những trở ngại như cơ sở
hạ tầng thấp, chi phí đầu tư quy định…, nên cách tốt nhất là nên cho họ một sự ưu
đãi, an ủi ngay từ đầu.
Thứ hai, ưu đãi tài chính không đòi hỏi một chi phí thực tế của quỹ hoặc trợ
cấp tiền mặt cho các nhà đầu tư. Các ưu đãi tài chính này rất được lòng các cơ quan
xúc tiến đầu tư của chính phủ, bởi nó không trực tiếp lấy tiền từ ngân sách nhà nước
mà vẫn thu hút được đầu tư nước ngoài.
Thứ ba, ưu đãi tài chính dễ được cung cấp cho nhà đầu tư hơn các quỹ tiền

mặt, bởi lẽ, ưu đãi tài chính được đặt ra bởi các nhà làm luật, lợi ích hay tác hại của
nó so với giá trị thật nhận được luôn là vấn đề gây tranh cãi. Do vậy, các Chính phủ
có thể dễ dàng sử dụng các ưu đãi tài chính, mà không sợ bị nghi ngờ hay chỉ chích
về tính hiệu quả. Còn các quỹ, với số tiền thật, với sự giám sát sẽ khó được sử dụng
hơn, có nhiều yêu cầu kiểm soát hơn.
1.1.2.3. Ưu đãi tài chính mang tính chất tạm thời, có thời hạn
Các ưu đãi tài chính thường mang tính tạm thời bởi vì, nếu giữ nguyên các ưu
đãi tài chính trong thời gian dài sẽ ảnh hưởng đến kinh tế quốc gia. Một nền kinh tế
muốn hoạt động với đầy đủ việc làm và hết công suất thì phải thông qua chính sách
tiền tệ. Trong khi đó, các ưu đãi tài chính sẽ không làm tăng sản lượng, chèn lấn các
hoạt động kinh tế khác khiến chính phủ phải thắt chặt chính sách tiền tệ nhằm kiềm
chế lạm phát. Sau một thời gian dài, nếu ưu đãi tài chính quá lâu, trong khi chi tiêu
của chính phủ vẫn tăng sẽ dẫn đến tình trạng mất cân đối, làm giảm ngân sách quốc
gia, kết quả đầu tư thấp hơn lợi nhuận thực tế thu được. Lúc này, chính ưu đãi tài
chính lại làm giảm tốc độ tăng trưởng kinh tế và thu nhập quốc gia trong tương lai.
17

OECD Detailed Benchmark definition of foreign direct investment. Third edition, reprinted 1999, trang 5
truy cập ngày 20/06/2016.
18
Paul Babour (2015), An Assessment of South Africa’s Investment Incentive Regime with a Focus on the
Manufacturing Sector, ESAU Working paper 14, Overseas Development Institue, London, trang 7
truy cập ngày
21/06/2016.


15

Ngoài ra, thâm hụt ngân sách dự kiến lớn hơn có xu hướng tạo áp lực lớn lên lãi
suất, dẫn đến hạn chế đầu tư và làm suy yếu xuất khẩu ròng. Vì vậy, ưu đãi tài chính

có tính chất tạm thời, có thời hạn thường được ưu tiên lựa chọn hơn.
1.2. Khái niệm, đặc điểm và vai trò của pháp luật ưu đãi tài chính đối với
đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam
1.2.1. Khái niệm pháp luật ưu đãi tài chính đối với đầu tư trực tiếp nước
ngoài tại Việt Nam
Do đầu tư trực tiếp nước ngoài có vai trò quan trọng đối với sự phát triển của
nền kinh tế quốc gia, đặc biệt ở những nước chậm phát triển và đang phát triển, nên
Chính phủ ở các quốc gia này thường dùng nhiều biện pháp thu hút đầu tư trực tiếp
nước ngoài. Các biện pháp được sử dụng thường là biện pháp tình thế, nghĩa là có
thể thay đổi theo từng giai đoạn cụ thể, gắn với nhu cầu và đặc thù của nền kinh tế
quốc gia ở từng giai đoạn. Ưu đãi tài chính để thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài là
một trong những biện pháp đó. Tuy nhiên, cũng như việc sử dụng các biện pháp ưu
đãi đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài nói chung, ưu đãi tài chính đối với đầu tư
trực tiếp nước ngoài cũng cần phải được luật hóa. Nói cách khác, các cơ quan nhà
nước có thẩm quyền không thể tùy tiện trong ưu đãi tài chính đối với với đầu tư trực
tiếp nước ngoài, mà chỉ được thực hiện việc ưu đãi trên cơ sở các quy định của pháp
luật. Toàn bộ những quy định pháp luật đó tạo thành pháp luật ưu đãi tài chính đối
với đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Là một phần của mảng pháp luật về ưu đãi đầu tư, pháp luật ưu đãi tài chính
đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài là tổng thể các quy phạm pháp luật do cơ quan
nhà nước của nhà nước Việt Nam ban hành hoặc từ các điều ước quốc tế song
phương hoặc đa phương mà Việt Nam là thành viên, cùng điều chỉnh các quan hệ
xã hội phát sinh trong lĩnh vực khuyến khích đầu tư ở góc độ tài chính công trên
lãnh thổ Việt Nam.
Các quan hệ pháp luật chủ yếu do pháp luật ưu đãi tài chính đối với đầu tư
trực tiếp nước ngoài điều chỉnh bao gồm:
Thứ nhất, quan hệ pháp luật hình thành trong quá trình cơ quan nhà nước có
thẩm quyền cấp phép đầu tư cùng những ưu đãi đầu tư cho nhà đầu tư nước ngoài.
Các cơ quan nhà nước là chủ thể đặc biệt tham gia quan hệ pháp luật ưu đãi tài
chính đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài với những quyền hạn và nghĩa vụ đặc thù.

Bản chất của quan hệ này là sự bất bình đẳng giữa các chủ thể, khi các cơ quan nhà


16

nước – những cơ quan công quyền đứng ở vị thế cao hơn, có quyền cho phép nhà
đầu tư được quyền đầu tư vào lĩnh vực ưu đãi.
Thứ hai, quan hệ hình thành giữa cơ quan nhà nước Việt Nam với doanh
nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài được hưởng ưu đãi tài chính trong quá
trình các doanh nghiệp này nhận ưu đãi tài chính. Bản chất của quan hệ này là mối
quan hệ hành chính công, quản lý nhà nước. Ở đây vừa có sự kiểm tra, giám sát
công từ phía các cơ quan nhà nước, vừa có sự thi hành, chịu trách nhiệm của các
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
1.2.2. Đặc điểm của pháp luật ưu đãi tài chính đối với đầu tư trực tiếp nước
ngoài tại Việt Nam
1.2.2.1. Pháp luật ưu đãi tài chính đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài ra đời
trước khi hoạt động đầu tư nước ngoài diễn ra ở Việt Nam
Từ năm 1975, đất nước Việt Nam hoàn toàn độc lập và thống nhất toàn vẹn
lãnh thổ, cách mạng nước ta chuyển sang giai đoạn mới: giai đoạn cả nước độc lập,
thống nhất và làm nhiệm vụ chiến lược duy nhất là tiến hành cách mạng xã hội chủ
nghĩa, tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội19. Tuy nhiên, thực
tế lúc bấy giờ, sau thời gian dài chiến tranh, nền kinh tế của nước ta đã bị tàn phá
nặng nề, chủ yếu là sản xuất nhỏ, mang nặng tính chất tự cấp tự túc. Cơ cấu kinh tế
mang đặc trưng của một nước nông nghiệp lạc hậu, mất cân đối nặng nề trên nhiều
mặt, chưa tạo được tích lũy dự trữ, còn lệ thuộc nhiều vào bên ngoài, chủ yếu là các
nước xã hội chủ nghĩa đặc biệt là Liên Xô. Cơ chế quản lý, tập trung quan liêu bao
cấp để lại nhiều hậu quả tiêu cực, nền kinh tế hoạt động với hiệu quả thấp.
Với thực trạng nền kinh tế xã hội như vậy, để thực hiện được nhiệm vụ khôi
phục và phát triển kinh tế xã hội, Đại hội Đảng lần thứ IV năm 1976 đã khẳng định:
“Phát triển quan hệ kinh tế với các nước khác trên cơ sở giữ vững độc lập, chủ

quyền và các bên cùng có lợi. Thông qua các quan hệ quốc tế mà tranh thủ kỹ thuật
tiên tiến.” Thực hiện chủ trương này của Đảng, ngày 18 tháng 4 năm 1977, Hội
đồng Chính phủ đã ban hành Nghị định số 115-CP kèm theo bản Điều lệ về đầu tư
của nước ngoài ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Đây là văn bản quy

19
Nghị quyết của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng Cộng sản Việt Nam, Hà Nội, ngày 20
tháng 12 năm 1976.


17

phạm pháp luật đầu tiên quy định về khuyến khích và điều chỉnh hoạt động đầu tư
trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam. Theo Điều 1 của Điều lệ đầu tư nước ngoài năm
1977, Chính phủ Việt Nam “hoan nghênh việc đầu tư của nước ngoài ở Việt Nam
trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền của Việt Nam và hai bên cùng có lợi”,
không phân biệt quốc tịch của nhà đầu tư. Trong bản Điều lệ ngắn gọn chỉ gồm 27
điều này, những ưu đãi tài chính đã được thể hiện rõ ràng tại Điều 10, Điều 11 và
Điều 12:
“Điều 10.- Bên nước ngoài đầu tư vào các xí nghiệp hoặc công ty hỗn hợp
hoặc các xí nghiệp tư doanh chuyên sản xuất hàng xuất khẩu, được hưởng những
quyền lợi sau đây:
… 4. Được chuyển nhượng về nước hoặc chuyển ra nước ngoài:
- Lợi nhuận ròng hàng năm sau khi đã nộp thuế và trích lập các quỹ dự trữ.
Các quỹ dự trữ này bằng 5% lợi nhuận hàng năm của xí nghiệp hoặc công ty và
không quá 25% tổng số vốn đầu tư.
- Vốn thu hồi trong trường hợp được phép chuyển nhượng, giải thể xí nghiệp,
hoặc do Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam mua lại.
5. Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khuyến khích việc
đầu tư lại ở Việt Nam. Vốn đầu tư lại ở Việt Nam được miễm giảm thuế lợi tức, tùy

theo mức độ đầu tư lại và tùy theo ngành đầu tư.
Điều 11.- Ngoài các quyền lợi ghi trong điều 10, bên nước ngoài đầu tư vào
các xí nghiệp hoặc công ty hỗn hợp được hưởng thêm những quyền lợi sau đây:
1. Được miễn giảm thuế lợi tức trong một số năm đầu kinh doanh, tùy theo
ngành kinh tế, tùy theo địa bàn hoạt động và tùy theo số vốn bỏ ra. Việc miễn hoặc
giảm thuế này sẽ do Bộ trưởng Bộ Tài chính nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam quyết định từng trường hợp và được ghi trong giấy phép đầu tư.
2. Có thể được miễn hoặc giảm thuế nhập khẩu một lần hoặc nhiều lần đối với
các thiết bị máy móc, dụng cụ, phụ tùng…nhập khẩu để trang bị cho xí nghiệp hỗn
hợp và đối với các nguyên liệu, vật liệu, v.v…. cần thiết cho hoạt động sản xuất của
xí nghiệp.
3. Có thể được miễn hoặc giảm thuế xuất khẩu đối với sản phẩm được phép
xuất khẩu của xí nghiệp.
4. Có thể được xét giảm thuế lợi tức trong trường hợp xí nghiệp gặp rủi ro
không lường trước được và không khắc phục nổi.


18

Điều 12.- Ngoài các quyền lợi ghi trong điều 10, bên nước ngoài đầu tư vào xí
nghiệp tư doanh chuyên sản xuất hàng xuất khẩu còn được hưởng các quyền lợi sau
đây :
… 3. Được hưởng chế độ nhập khẩu tạm thời, không phải nộp thuế đối với các
máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng, nguyên liệu, nhiên liệu, vật liệu,v.v… cần thiết
cho hoạt động sản xuất, kinh doanh của xí nghiệp.
4. Được miễn thuế xuất khẩu đối với sản phẩm của xí nghiệp bán ra nước
ngoài...”
Mặc dù thực tế, kể từ khi Điều lệ đầu tư nước ngoài năm 1977 có hiệu lực cho
đến khi Luật đầu tư nước ngoài năm 1987 ban hành, trong suốt 10 năm đó, nhà
nước ta không cấp được giấy phép đầu tư nào theo trình tự, thủ tục quy định trong

Điều lệ đầu tư năm 197720, song có thể coi Điều lệ này là những quy định pháp luật
đầu tiên về ưu đãi tài chính đối với đầu tư nước ngoài, tạo tiền đề cho việc xây dựng
Luật đầu tư nước ngoài năm 1987 – Đạo luật đầu tiên về đầu tư nước ngoài ở nước
ta, mở đường cho sự thu hút vốn đầu tư nước ngoài.
1.2.2.2. Pháp luật ưu đãi tài chính đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài là một
trong những quy phạm pháp luật đầu tiên ở Việt Nam hướng tới nền kinh tế thị
trường
Sự ra đời của Điều lệ đầu tư nước ngoài năm 1977 là một bước đột phá vào
nền kinh tế thị trường, đó là văn bản pháp lý đầu tiên trong hệ thống pháp luật Việt
Nam tạo hành lang pháp lý cho hoạt động đầu tư nước ngoài. Trong bối cảnh của
nền kinh tế kế hoạch tập trung, Điều lệ đầu tư năm 1977 đã tạo ra một môi trường
pháp lý đặc thù của một nền kinh tế tự do đối với hoạt động đầu tư nước ngoài tại
Việt Nam. Tại thời điểm năm 1977, hai năm sau ngày giải phóng miền nam, Đảng
và nhà nước ta bắt tay vào công cuộc củng cố và phát triển kinh tế, đội ngũ cán bộ
lúc bấy giờ chưa có kinh nghiệm làm kinh tế cũng như quản lý kinh tế, cộng thêm
cơ chế kinh tế quan liêu bao cấp, với một đường lối kinh tế chỉ công nhận hai thành
phần kinh tế, đó là thành phần kinh tế Nhà nước và kinh tế Hợp tác xã. Hơn nữa thể
chế chính trị nước ta là nhà nước xã hội chủ nghĩa, nên việc mạnh dạn đưa ra một

20
Theo số liệu của Tổng cục thống kê, dự án đầu tư nước ngoài đầu tiên được cấp phép ghi nhận từ năm
1988. Nguồn: truy cập ngày
19/06/2016.


19

khung pháp lý như vậy là một sự cố gắng rất cao, một “tầm nhìn xa trông rộng” hơn
nhiều so với một số nước xã hội chủ nghĩa khác. Điều này cho thấy, tuy chưa được
công nhận trong các văn kiện của Đảng, nhưng trên thực tế với Điều lệ đầu tư năm

1977 đã phần nào minh chứng cho tư duy lúc đó chúng ta đã nghĩ tới việc tận dụng
tư bản nước ngoài trong một khuôn khổ pháp lý nhất định để khôi phục và phát
triển kinh tế. Điều lệ đầu tư năm 1977 đã lường trước và đề cập đến mọi mặt của
quá trình kinh doanh, tạo ra được khung pháp lý ban đầu cho hoạt động đầu tư nước
ngoài. Đây là những tiền đề cho những ý tưởng và là cơ sở cho những bước cải cách
để sau này, Luật Đầu tư nước ngoài năm 1987 đã chủ yếu được xây dựng và hoàn
thiện trên cơ sở Điều lệ đầu tư năm 1977. Trong điều lệ này, nhà nước đã khuyến
khích, kêu gọi đầu tư nước ngoài vào mọi lĩnh vực của nền kinh tế trừ những ngành
bị cấm. Điều đó thể hiện chủ trương cởi mở, đa dạng hóa các lĩnh vực đầu tư của
nước ta. Luật đầu tư nước ngoài năm 1987 cũng có một số quy định đi trước so với
Hiến pháp năm 1980 như không quốc hữu hóa, thừa nhận kinh tế tư bản, tư nhân...
1.2.2.3. Pháp luật ưu đãi tài chính đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài có sự
giao thoa với những lĩnh vực pháp luật khác
Có quan điểm cho rằng, pháp luật đầu tư nước ngoài không thuộc một ngành
luật nào. Việc điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong hoạt động đầu tư nước
ngoài có sự tham gia của nhiều ngành luật, trong đó các ngành luật như Luật kinh
tế, Luật tư pháp quốc tế, Luật dân sự, Luật lao động, Luật đất đai… đóng vai trò rất
quan trọng. Nói cách khác, pháp luật đầu tư nước ngoài là nơi giao thoa của nhiều
ngành luật khác nhau như Luật kinh tế, Tư pháp quốc tế, Luật dân sự, Luật lao
động, Luật đất đai…21
Là một bộ phận của pháp luật đầu tư nước ngoài, pháp luật ưu đãi tài chính đối
với đầu tư trực tiếp nước ngoài cũng thừa hưởng đặc điểm này. Trong quá trình hội
nhập kinh tế quốc tế, pháp luật ưu đãi tài chính đối với nhà đầu tư nước ngoài
không thể tồn tại độc lập lâu dài, vì kể từ khi Luật đầu tư 2005 và tiếp đó là Luật
đầu tư 2014 có hiệu lực, đầu tư nước ngoài và đầu tư trong nước ngày càng xích lại
gần nhau, có mặt bằng pháp lý chung. Pháp luật ưu đãi tài chính đối với đầu tư trực
tiếp nước ngoài không chỉ thuần túy nằm trong pháp luật về đầu tư, mà còn có trong
21

Đỗ Nhất Hoàng (2002), Sự hình thành và phát triển của luật đầu tư nước ngoài trong hệ thống pháp luật

Việt Nam, Luận án Tiến sĩ Luật học, Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội.


20

các quy định của Luật Thuế giá trị gia tăng, Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp, Luật
Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu…
1.2.2.4. Nguồn của pháp luật ưu đãi tài chính đối với đầu tư trực tiếp nước
ngoài hết sức phong phú
Nguồn của pháp luật ưu đãi tài chính đối với hoạt động đầu tư trực tiếp nước
ngoài tại Việt Nam khá đa dạng. Ngoài các văn bản pháp luật quy định về đầu tư,
còn có các văn bản pháp luật thuế, pháp luật về xuất khẩu, nhập khẩu… chưa kể
những pháp luật chuyên ngành có liên quan đến ngành nghề được ưu đãi đầu tư.
Bên cạnh đó, pháp luật ưu đãi tài chính có một bộ phận cấu thành là một số lượng
lớn các điều ước quốc tế có liên quan trực tiếp đến đầu tư nước ngoài mà Việt Nam
kí kết hoặc gia nhập, như Hiệp định khung về khu vực đầu tư ASEAN, các Hiệp
định song phương về khuyến khích và bảo hộ đầu tư, Hiệp định tránh đánh thuế hai
lần, Hiệp định thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ… Các thỏa thuận trong các điều ước
quốc tế mà nhà nước Việt Nam ký kết, tham gia hay thừa nhận đều thể hiện ý chí
của nhà nước và khi áp dụng đối với việc ưu đãi tài chính với các nhà đầu tư trực
tiếp nước ngoài đều có giá trị bắt buộc thi hành như các quy phạm pháp luật trong
nước. Các ngành luật khác cũng có thể có bộ phận cấu thành là các điều ước quốc
tế, song ít ngành có được số lượng nhiều và phổ biến như pháp luật đầu tư nước
ngoài (trong đó có các quy định pháp luật ưu đãi tài chính đối với đầu tư trực tiếp
nước ngoài). Các nhà đầu tư nước ngoài coi các điều ước quốc tế này là cơ sở pháp
lý quan trọng để đảm bảo trước tiên là thực hiện quyền và nghĩa vụ của họ, sau đó
để chắc chắn rằng những ưu đãi họ được nhận sẽ được đảm bảo thực hiện chứ
không chỉ là lời hứa suông.
1.2.3. Vai trò của pháp luật ưu đãi tài chính đối với đầu tư trực tiếp nước
ngoài

Nhà nước ta là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, nên tính thượng tôn
pháp luật rất được đề cao trong cuộc sống. Pháp luật là phương tiện để thế chế hóa
những đường lối, chính sách của Đảng, đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng được thực
hiện có hiệu quả trên quy mô toàn xã hội. Pháp luật là phương tiện để nhà nước
quản lý mọi mặt của đời sống xã hội, thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của nhà
nước.


21

Pháp luật về ưu đãi tài chính là một bộ phận hợp thành của hệ thống pháp luật
Việt Nam, nên cũng có vai trò của pháp luật nói chung. Bên cạnh đó, do những đặc
điểm của pháp luật về ưu đãi tài chính đã phân tích ở trên, mà pháp luật về ưu đãi
đầu tư nói chung và ưu đãi tài chính nói riêng có những vị trí và vai trò quan trọng
nhất định mà những ngành luật khác không có. Pháp luật ưu đãi tài chính có vị trí
khác biệt như vậy, vừa do xuất phát từ nền kinh tế nhiều thành phần, có sự quản lý
của Nhà nước định hướng xã hội chủ nghĩa, vừa do yêu cầu khi hội nhập kinh tế
khu vực, hội nhập kinh tế quốc tế.
1.2.3.1. Pháp luật ưu đãi tài chính góp phần thúc đẩy việc thiết lập và phát
triển mối quan hệ hợp tác, hữu nghị giữa Việt Nam với các quốc gia, dân tộc khác
Sở dĩ nói pháp luật ưu đãi đầu tư nói chung và pháp luật ưu đãi tài chính nói
riêng có vai trò quan trọng trong việc thiết lập và phát triển mối quan hệ hữu nghị
giữa các quốc gia, dân tộc, bởi lẽ, bản thân việc đầu tư trực tiếp nước ngoài đã góp
phần vào quá trình mở rộng hợp tác kinh tế quốc tế. Đầu tư trực tiếp nước ngoài
đóng vai trò quan trọng trong việc gắn kết giữa các quốc gia đầu tư và quốc gia tiếp
nhận đầu tư. Cùng với xu thế hội nhập kinh tế khu vực và thế giới, hoạt động đầu tư
trực tiếp nước ngoài đã góp phần giúp Việt Nam mở rộng quan hệ kinh tế với các
nước, tạo điều kiện thuận lợi để nước ta gia nhập vào các tổ chức kinh tế khu vực và
toàn cầu như: gia nhập ASEAN, ký hiệp định khung với Liên minh châu Âu, Hiệp
định thương mại với Hoa Kỳ, Hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư với 62 quốc

gia/vùng lãnh thổ; Hiệp định đối tác kinh tế (EPA) với Nhật Bản hay mới đây nhất
là Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương TPP. Thông qua hợp tác đầu tư nước
ngoài, Việt Nam đã tăng cường mối quan hệ chính trị, đối ngoại, phát triển quan hệ
hữu nghị với nhiều quốc gia, vùng lãnh thổ, đối tác trên thế giới.
Trong bối cảnh “thế giới phẳng” hiện nay, phạm vi các mối quan hệ hợp tác
giữa các quốc gia, khu vực ngày càng đa dạng cả về phạm vi, tính chất lẫn hình
thức. Để có được sự hợp tác lâu dài giữa những quốc gia khác biệt về địa lý, thể
chế, tôn giáo, tất cả những mối quan hệ này phải được thiết lập dựa trên cơ sở pháp
luật, không chỉ pháp luật quốc tế mà còn pháp luật của mỗi quốc gia. Chính vì vậy,
hệ thống pháp luật của mỗi quốc gia hiện nay không chỉ là những quy phạm pháp
luật quy định và điều chỉnh các quan hệ xã hội có liên quan đến các chủ thể pháp
luật trong phạm vi lãnh thổ mình, mà còn là những quy phạm pháp luật quy định và
điều chỉnh các quan hệ có liên quan đến các cá nhân, tổ chức nước ngoài. Pháp luật


22

ưu đãi tài chính đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài điều chỉnh các quan hệ xã hội có
liên quan đến các tổ chức, cá nhân nước ngoài trực tiếp đầu tư tại Việt Nam. Pháp
luật đầu tư nói chung và pháp luật ưu đãi tài chính nói riêng là công cụ quan trọng
tạo ra môi trường pháp lý an toàn cho việc mở cửa nền kinh tế, tạo hành lang pháp
lý an toàn cho các tổ chức, cá nhân nước ngoài đầu tư tại Việt Nam. Pháp luật ưu
đãi tài chính là “sự hứa hẹn” được ghi nhận công khai, minh bạch trên các văn bản
pháp luật mà nhà nước Việt Nam dành cho các nhà đầu tư, tạo ra niềm tin, là cơ sở
để mở rộng mối quan hệ hữu nghị với các quốc gia, vùng lãnh thổ khác.
1.2.3.2. Pháp luật ưu đãi tài chính góp phần quan trọng vào việc nâng cao
hiệu quả hoạt động đầu tư nước ngoài tại Việt Nam
Mục tiêu thu hút vốn đầu tư nước ngoài ở nước ta chỉ có thể đi đúng hướng
nếu pháp luật ưu đãi đầu tư nói chung và pháp luật ưu đãi tài chính nói riêng phản
ánh đúng các quy luật kinh tế khách quan trong điều kiện mới của nền kinh tế nhiều

thành phần, vận động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của nhà nước. Pháp luật
ưu đãi tài chính có vai trò nhất định trong việc thúc đẩy nền kinh tế phát triển một
cách đồng bộ, vững chắc trong những năm qua.
Thứ nhất, pháp luật ưu đãi tài chính tạo cơ sở cho việc xác lập những nguyên
tắc pháp lý cơ bản bảo đảm cho sự vận hành của hoạt động đầu tư nước ngoài tại
Việt Nam có hiệu quả.
Có thể nói, đây là vai trò quan trọng, phản ánh những đòi hỏi khách quan của
sự phát triển các quan hệ đầu tư nước ngoài được thể chế hóa, hình thành những
nguyên tắc pháp lý xuyên suốt, chi phối sự vận hành của cơ chế quản lý đầu tư nước
ngoài cũng như đảm bảo sự phát triển có hiệu quả của các quan hệ đầu tư nước
ngoài. Mặc dù nền kinh tế thị trường có những nguyên tắc cơ bản như tự do kinh
doanh, khuyến khích cạnh tranh…, song với vị thế là một đất nước đang cần thu hút
vốn đầu tư, sự ưu đãi nhất định đối với các nhà đầu tư nước ngoài là cần thiết, sao
cho các bên cùng có lợi. Một khi những nguyên tắc, ưu đãi này được thể chế hóa
thành những vấn đề pháp lý thì nó trở thành những tiêu chí cho sự lựa chọn hệ
thống các giải pháp, công vụ để tác động lên hoạt động đầu tư nước ngoài, làm cho
hoạt động này không thoát ly trật tự hình mẫu mà mình đang vươn tới và đem lại
những kết quả khả quan cho hoạt động đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.


×