BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ TƯ PHÁP
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
TRẦN THỊ NGUYỆT LỆ
THỦ TỤC ĐĂNG KÝ DOANH NGHIỆP THEO
LUẬT DOANH NGHIỆP NĂM 2014 VÀ THỰC TIỄN THI HÀNH
TẠI THÀNH PHỐ HÀ NỘI
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - NĂM 2016
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ TƯ PHÁP
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
TRẦN THỊ NGUYỆT LỆ
THỦ TỤC ĐĂNG KÝ DOANH NGHIỆP THEO
LUẬT DOANH NGHIỆP NĂM 2014 VÀ THỰC TIỄN THI HÀNH
TẠI THÀNH PHỐ HÀ NỘI
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Chuyên ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 60380107
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Bùi Nguyên Khánh
HÀ NỘI - NĂM 2016
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của tôi, được thực hiện
dưới sự hướng dẫn của PGS.TS Bùi Nguyên Khánh. Các nội dung nghiên cứu
và kết quả trong đề tài này là trung thực. Những số liệu phục vụ cho việc phân
tích, nhận xét, đánh giá được chính tác giả thu thập từ các nguồn khác nhau có
ghi rõ trong phần tài liệu tham khảo.
Nếu phát hiện có bất cứ sự gian lận nào, tôi xin hoàn toàn chịu trách
nhiệm trước hội đồng cũng như kết quả luận văn của mình.
Hà Nội, ngày tháng
Xác nhận của Giảng viên hướng dẫn
năm 2016
Học viên
Trần Thị Nguyệt Lệ
LỜI CẢM ƠN
Lời đầu tiên, tôi xin được gửi lời cảm ơn sâu sắc đến PGS.TS Bùi
Nguyên Khánh đã tận tình giúp đỡ, hướng dẫn, chỉ bảo và tạo mọi điều kiện
cho tôi trong suốt quá trình thực hiện nghiên cứu Luận văn của mình.
Đồng thời, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành tới Ban giám hiệu, toàn
thể quý thầy cô, cán bộ trong Phòng Đào tạo, Khoa Sau đại học, Khoa Pháp
luật kinh tế và cán bộ Thư viện trường Đại học Luật Hà Nội đã tạo mọi điều
kiện thuận lợi cho tôi trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành
luận văn Thạc sĩ.
Cuối cùng, tôi xin gửi lời cảm ơn đến gia đình, người thân, bạn bè,
đồng nghiệp đã dành sự ủng hộ, quan tâm, động viên tôi trong quá trình học
tập và thực hiện đề tài nghiên cứu của mình.
Hà Nội, ngày tháng
năm 2016
Học viên
Trần Thị Nguyệt Lệ
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
ĐKDN
Đăng ký doanh nghiệp
ĐKKD
Đăng ký kinh doanh
CTCP
Công ty cổ phần
LDN
Luật Doanh nghiệp
TNHH
Trách nhiệm hữu hạn
TPP
Hiệp định thương mại đối tác xuyên Thái Bình
Dương (Trans-Pacific Partnership Agreement)
DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU, SƠ ĐỒ
1. Danh mục các bảng
Bảng 2.1:
Thống kê về hiện trạng số lượng nhân sự và bố trí nhân sự của
Phòng Đăng ký kinh doanh tại Hà Nội
Bảng 2.2:
Loại hình doanh nghiệp đã được tổ chức, cá nhân đăng ký thành
lập qua khảo sát
Bảng 2.3:
Các kênh nắm bắt thông tin về thủ tục đăng ký doanh nghiệp
Bảng 2.4:
Thời gian hoàn thiện hồ sơ, thủ tục ĐKDN của tổ chức, cá nhân
Bảng 2.5:
Phương thức nộp hồ sơ của tổ chức, cá nhân
Bảng 2.6:
Thời gian nhận giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp
Bảng 2.7:
Tình hình thực hiện đăng bố cáo nội dung đăng ký doanh nghiệp
Bảng 2.8:
So sánh số lượng doanh nghiệp được thành lập mới trên địa bàn
Hà Nội trong 02 năm 2015 và 2016
Bảng 2.9:
So sánh vốn đăng ký doanh nghiệp trong 02 năm 2015 và 2016
Bảng 2.10:
So sánh số lần đăng ký nội dung đăng ký doanh nghiệp trong 02
năm 2015 và 2016
2. Danh mục các biểu đồ
Biểu đồ 2.1:
Thu nhập bình quân đầu người (USD) của 05 thành phố trực thuộc
Trung ương
Biểu đồ 2.2:
Các kênh nắm bắt thông tin về thủ tục đăng ký doanh nghiệp
Biểu đồ 2.3:
Tỷ lệ về thời gian hoàn thiện hồ sơ, thủ tục đăng ký doanh nghiệp
Biểu đồ 2.4:
Tỷ lệ thời gian nhận giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp
Biểu đồ 2.5:
Tình hình thực hiện bố cáo nội dung đăng ký doanh nghiệp trên
cổng thông tin đăng ký doanh nghiệp quốc gia
Biểu đồ 2.6:
Số lượng hồ sơ đăng ký qua mạng tại 05 địa phương cao nhất cả
nước (2013 – 2016)
3. Danh mục các sơ đồ
Sơ đồ 2.1:
Quy trình các bước tiến hánh đăng ký doanh nghiệp
Sơ đồ 3.1:
Đề xuất mô hình hoạt động của Phòng đăng ký kinh doanh
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
1
PHẦN NỘI DUNG
8
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỦ TỤC ĐĂNG KÝ 8
DOANH NGHIỆP VÀ PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH THỦ TỤC ĐĂNG
KÝ DOANH NGHIỆP
1.1 Tổng quan về thủ tục đăng ký doanh nghiệp
8
1.1.1. Khái niệm doanh nghiệp, đăng ký doanh nghiệp và thủ tục đăng 8
ký doanh nghiệp
1.1.2. Đặc điểm của thủ tục đăng ký doanh nghiệp
13
1.1.3. Vai trò của thủ tục đăng ký doanh nghiệp
14
1.2. Pháp luật về thủ tục đăng ký doanh nghiệp
16
1.2.1. Khái niệm, đặc điểm của pháp luật về thủ tục đăng ký doanh nghiệp
16
1.2.2 Cấu trúc pháp luật về thủ tục đăng ký doanh nghiệp
17
1.2.3 Những nội dung cơ bản của pháp luật về thủ tục đăng ký doanh nghiệp
18
1.2.4 Mối liên hệ giữa pháp luật về thủ tục đăng ký doanh nghiệp với 19
các bộ phận khác của pháp luật doanh nghiệp
1.2.5. Các yếu tố ảnh hưởng tới pháp luật về thủ tục đăng ký doanh nghiệp
20
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1
23
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT DOANH 24
NGHIỆP NĂM 2014 VỀ THỦ TỤC ĐĂNG KÝ DOANH NGHIỆP VÀ
THỰC TIỄN THI HÀNH TẠI THÀNH PHỐ HÀ NỘI
2.1. Thực trạng các quy định của Luật Doanh nghiệp năm 2014 về thủ 24
tục đăng ký doanh nghiệp
2.1.1. Cơ quan có thẩm quyền đăng ký doanh nghiệp
24
2.1.2. Điều kiện về đăng ký doanh nghiệp
26
2.1.3. Hồ sơ đăng ký doanh nghiệp
34
2.1.4. Trình tự các bước tiến hành đăng ký doanh nghiệp
38
2.1.5. Đánh giá về thủ tục đăng ký doanh nghiệp theo Luật doanh 42
nghiệp năm 2014
2.2.Thực tiễn thi hành các quy định của Luật Doanh nghiệp năm 2014 48
về thủ tục đăng ký doanh nghiệp tại thành phố Hà Nội
2.2.1. Tổng quan các điều kiện về tự nhiên, kinh tế - xã hội của thành 48
phố Hà Nội có ảnh hưởng đến thủ tục đăng ký doanh nghiệp
2.2.2. Thực trạng về cơ quan đăng ký kinh doanh ở thành phố Hà Nội
51
2.2.3. Tình hình thực hiện những quy định của Luật doanh nghiệp năm 55
2014 trong lĩnh vực đăng ký doanh nghiệp của tổ chức, cá nhân trên địa bàn Hà Nội
2.2.4. Những kết quả đạt được trong việc thực thi các quy định của 60
Luật doanh nghiệp năm 2014 về thủ tục đăng ký doanh nghiệp trên địa bàn
Hà Nội
2.2.5. Đánh giá những thuận lợi và khó khăn về thủ tục đăng ký doanh 66
nghiệp tại thành phố Hà Nội
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2
70
CHƯƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ NHẰM TĂNG 71
CƯỜNG VIỆC THỰC THI CÁC QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ THỦ
TỤC ĐĂNG KÝ DOANH NGHIỆP THEO LUẬT DOANH NGHIỆP
NĂM 2014 TẠI THÀNH PHỐ HÀ NỘI
3.1. Các giải pháp nhằm tăng cường việc thực thi các quy định pháp 71
luật về thủ tục đăng ký doanh nghiệp theo Luật Doanh nghiệp 2014
3.1.1. Nhóm giải pháp về hoàn thiện và thi hành pháp luật về thủ tục 71
đăng ký doanh nghiệp
3.1.2. Nhóm giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của cơ 74
quan đăng ký kinh doanh trên địa bàn Hà Nội
3.1.3. Nhóm giải pháp tăng cường sự phối hợp giữa cơ quan đăng ký 82
kinh doanh và tổ chức, cá nhân khi tiến hành thủ tục đăng ký doanh nghiệp
3.1.4. Nhóm giải pháp tăng cường sư phối hợp giữa các sở, ban, ngành 82
trên địa bàn Hà Nội trong việc thực thi các vấn đề về thủ tục đăng ký doanh nghiệp
3.1.5. Nhóm giải pháp về tăng cường vai trò của các tổ chức nghề 83
nghiệp đóng trên địa bàn Hà Nội nhằm hỗ trợ tổ chức, cá nhân đăng ký
doanh nghiệp
3.2. Một số kiến nghị nhằm tăng cường việc thực thi các quy định pháp 83
luật về thủ tục đăng ký doanh nghiệp theo Luật Doanh nghiệp 2014
3.2.1. Kiến nghị đối với Chính phủ
83
3.2.2. Kiến nghị với Bộ Kế hoạch và Đầu tư
84
3.2.3. Kiến nghị với Bộ Tài chính
85
3.2.4. Kiến nghị với Các Bộ, Ban ngành khác
86
3.2.5. Kiến nghị với Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội
86
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3
88
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
89
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta, sự ra đời và
phát triển của các doanh nghiệp có vị trí đặc biệt quan trọng trong nền kinh tế.
Bởi vì doanh nghiệp là bộ phận chủ yếu tạo ra tổng sản phẩm trong nước, hoạt
động của doanh nghiệp góp phần không nhỏ vào việc giải phóng và phát triển
sức sản xuất, huy động và phát huy nội lực vào phát triển kinh tế xã hội, làm
tăng kim ngạch xuất khẩu, tăng thu ngân sách. Bên cạnh đó, sự lớn mạnh của
các doanh nghiệp còn có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc giải quyết các
vấn đề xã hội như tạo việc làm, xóa đói, giảm nghèo, nâng cao mức sống cho
người dân. Do vậy, việc thúc đẩy sự ra đời và phát triển các doanh nghiệp là
một trong những mục tiêu, chính sách được Đảng và Nhà nước đặt ra.
Hiến pháp năm 2013 đã khẳng định: “Mọi người có quyền tự do kinh
doanh trong những ngành nghề mà pháp luật không cấm” (Điều 33). Như vậy,
Hiến pháp 2013 đã thừa nhận quyền tự do kinh doanh là quyền con người và là
một trong những quyền cơ bản của công dân. Nhà nước cần tạo môi trường
kinh doanh thông thoáng, thuận lợi, nâng cao quyền tự chủ, linh hoạt cho các
doanh nghiệp tận dụng tối đa năng lực, tiềm lực và cơ hội kinh doanh để phát
triển. Để thực hiện được mục tiêu này, một trong những vấn đề đang thu hút
được sự quan tâm lớn của người dân, doanh nghiệp là thủ tục đăng ký doanh
nghiệp. Bởi lẽ, thủ tục đăng ký doanh nghiệp là một thủ tục bắt buộc đầu tiên
nhằm công khai hóa hoạt động của doanh nghiệp. Pháp luật Việt Nam đang
từng bước thay đổi, cải thiện thủ tục đăng ký doanh nghiệp nhằm tạo điều kiện
cho các doanh nghiệp được thành lập một cách nhanh chóng, thuận tiện và mau
chóng đi vào hoạt động. Thủ tục đăng ký doanh nghiệp cũng là một nội dung
quan trọng của pháp luật doanh nghiệp.
Đăng ký doanh nghiệp là cơ sở pháp lý đầu tiên ghi nhận sự ra đời của
doanh nghiệp trên thực tế. Nó có ý nghĩa quan trọng đối với doanh nghiệp bởi
lẽ, kể từ thời điểm được cấp giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp, doanh
nghiệp được pháp luật bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp đồng thời phải thực
hiện những nghĩa vụ với Nhà nước. Thông qua việc cấp giấy chứng nhận đăng
ký doanh nghiệp, cơ quan Nhà nước có thẩm quyền nắm được số lượng, loại
2
hình doanh nghiệp và các ngành nghề doanh nghiệp kinh doanh từ đó thực hiện
chức năng quản lý Nhà nước đối với doanh nghiệp.
Luật doanh nghiệp năm 2014 ra đời và có hiệu lực vào ngày 01 tháng 07
năm 2015 được xem là cuộc đột phá thể chế, thúc đẩy sự phát triển của doanh
nghiệp trong bối cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng của Việt Nam hiện nay, đặc
biệt với thủ tục đăng ký doanh nghiệp có nhiều nội dung thay đổi quan trọng so
với Luật doanh nghiệp năm 2005. Với những quy định cụ thể và tương đối phù
hợp này đã tạo điều kiện cho các doanh nghiệp trong nước thành lập, phát huy
nội lực, khai thác tiềm năng sẵn có và bước đầu tạo môi trường pháp lý thuận
lợi để thu hút đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên trong quá trình thực thi Luật doanh
nghiệp năm 2014, ở lĩnh vực đăng ký doanh nghiệp có nhiều quy định mới vì
vậy các tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp đã gặp phải nhiều khó khăn, bỡ ngỡ.
Hà Nội là thủ đô của Việt Nam, một trong những thành phố có nền kinh
tế phát triển của cả nước, trong bối cảnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội
nhập quốc tế sâu rộng, mới đây nhất là việc Việt Nam gia nhập Hiệp định
Thương mại Quốc tế xuyên Thái Bình Dương (TPP) vào ngày 04 tháng 02 năm
2016 đã mở ra nhiều triển vọng cho mọi ngành nghề kinh doanh tại Việt Nam.
Vì vậy, với vai trò là một trong những nền kinh tế đầu tàu của cả nước, Hà Nội
đã thu hút được nhiều vốn đầu tư trong và ngoài nước để phát triển, nhu cầu
thành lập doanh nghiệp ở nơi đây là rất lớn. Đứng trước bối cảnh Pháp luật về
doanh nghiệp nói chung và thủ tục đăng ký doanh nghiệp nói riêng có nhiều
thay đổi, đã tác động không nhỏ đến nhiều tổ chức, cá nhân có nhu cầu mở
doanh nghiệp để hoạt động tại Hà Nội.
Nhằm đánh giá về thực tiễn thi hành vấn đề thủ tục đăng ký doanh nghiệp
tại Hà Nội sau khi Luật doanh nghiệp năm 2014 có hiệu lực trên cơ sở đó tìm
những thuận lợi, khó khăn của tổ chức, cá nhân khi tiến hành thủ tục đăng ký
doanh nghiệp đồng thời đề xuất các giải pháp nhằm tăng cường hiệu quả thực
thi những quy định của Luật doanh nghiệp năm 2014 về thủ tục đăng ký doanh
nghiệp, tác giả lựa chọn đề tài “Thủ tục đăng ký doanh nghiệp theo Luật
doanh nghiệp năm 2014 và thực tiễn thi hành tại Hà Nội” làm Luận văn
Thạc sĩ của mình.
3
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Thủ tục đăng ký doanh nghiệp là một vấn đề không phải là mới. Đã có
không ít những bài viết, những nội dung nghiên cứu, các công trình khoa học
và các buổi hội thảo đề cập đến vấn đề này, tiêu biểu có thể kể đến như:
“Đăng ký thành lập doanh nghiệp theo Luật Doanh nghiệp năm 2014” –
Luận văn Thạc sĩ của Vũ Thị Thùy Dung (Trường Đại học Luật Hà Nội, 2015).
Luận văn đi sâu vào nghiên cứu các vấn đề lý luận về đăng ký thành lập doanh
nghiệp và pháp luật về đăng ký thành lập doanh nghiệp, sau đó phân tích các
nội dung về đăng ký thành lập doanh nghiệp theo Luật doanh nghiệp năm 2014
trong đó tác giả cũng đề cập tới trình tự, thủ tục đăng ký doanh nghiệp là một
nội dung quan trọng trong các nội dung về đăng ký thành lập doanh nghiệp. Từ
đó, tác giả đưa ra một số giải pháp cụ thể nhằm thực thi hiệu quả Luật doanh
nghiệp năm 2014.
“Cải cách thủ tục hành chính trong lĩnh vực đăng ký kinh doanh trên địa
bàn thành phố Hà Nội” – Luận văn Thạc sĩ của Phạm Thị Thu Hường (Khoa
Luật Đại học Quốc Gia Hà Nội, 2006). Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý
luận về thủ tục hành chính và cải cách thủ tục hành chính. Trên cơ sở đó, đánh
giá thực trạng cải cách thủ tục hành chính trong việc ĐKKD trên địa bàn thành
phố Hà Nội và đề xuất một số giải pháp cụ thể.
“Pháp luật về đăng ký kinh doanh ở Việt Nam – Thực trạng và phương
hướng hoàn thiện” – Luận văn Thạc sĩ của Trần Thị Tố Uyên (Khoa Luật Đại
học Quốc Gia Hà Nội, 2005). Luận văn nghiên cứu vấn đề lý luận về ĐKKD và
pháp luật về ĐKKD đồng thời phân tích những quy định của Luật doanh
nghiệp năm 2005 về ĐKKD. Qua đó đưa ra những phương hướng và giải pháp
nhằm hoàn thiện pháp luật về ĐKKD ở Việt Nam.
“Quy chế pháp lý về đăng ký doanh nghiệp và thực tiễn áp dụng ở Nghệ
An” – Luận văn Thạc sĩ của Lê Văn Đức (Đại học Luật Hà Nội, 2013). Luận
văn chú trọng nghiên cứu các vấn đề lý luận về đăng ký doanh nghiệp đặc biệt
là đối với đăng ký thành lập doanh nghiệp. Từ đó phân tích thực trạng, đưa ra
đánh giá việc thực hiện đăng ký thành lập doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh Nghệ
An và đề xuất giải pháp hoàn thiện pháp luật. Luận văn được thực hiện và đánh
giá thực trạng trên cơ sở Luật doanh nghiệp năm 2005 nên chưa đề cập tới
những thay đổi tích cực của Luật doanh nghiệp năm 2014 về vấn đề này.
4
Ngoài ra, còn có nhiều các cuộc hội thảo, các sách, báo, tạp chí nghiên
cứu về vấn đề đăng ký doanh nghiệp, điển hình như: “Các quy định pháp luật
thành lập doanh nghiệp và đăng ký kinh doanh” sách tham khảo, Nxb Thống
kê, 2006; Hội thảo “6 năm thi hành Luật doanh nghiệp năm 1999 - những vấn
đề nổi bật và bài học kinh nghiệm”, của Viện nghiên cứu Quản lý kinh tế trung
ương, năm 2006 đã vạch ra được nhiều bất cập trong công tác đăng ký kinh
doanh sau 6 năm thi hành Luật doanh nghiệp năm 1999; “Một số ý kiến về
công tác đăng ký kinh doanh năm 2012 – nhiệm vụ của năm 2013 và sửa đổi
Luật doanh nghiệp”- Báo cáo Hội nghị tổng kết ĐKDN năm 2012 của Ông Lê
Xuân Hiển, Trưởng phòng Đăng ký kinh doanh tỉnh Hải Dương; “Chương
trình cải cách đăng ký doanh nghiệp Quốc gia: một số kết quả đạt được và
phương hướng hoàn thiện trong thời gian tới” – báo cáo tổng kết hội nghị phát
triển doanh nghiệp Ông Lê Quang Mạnh, Cục trưởng Cục Quản lý Đăng ký
kinh doanh Bộ Kế hoạch và Đầu tư, “Cải cách thủ tục thành lập doanh nghiệp
ở Việt Nam trong chặng đường 10 năm hội nhập kinh tế quốc tế (2000 –
2010)” của tác giả Trần Huỳnh Thanh Nghị (Tạp chí Luật học số 8/2011);
“Những quy định về thủ tục thành lập doanh nghiệp cần được tiếp tục hoàn
thiện” của tác giả Nguyễn Thị Yến (Tạp chí Luật học số 9/2010).
Nhìn chung những công trình nghiên cứu này đã góp phần không nhỏ
trong việc phát triển pháp luật về đăng ký doanh nghiệp nói riêng và pháp luật
doanh nghiệp nói chung. Tuy nhiên, phần lớn các công trình này đều được
nghiên cứu, tiếp cận khi Luật doanh nghiệp năm 2014 chưa ra đời và có hiệu
lực, vì thế chưa đề cập đến những điểm mới, những quy định mang tính đột phá
của Luật doanh nghiệp năm 2014 về thủ tục đăng ký doanh nghiệp.
Trên cơ sở kế thừa những thành tựu nghiên cứu về đăng ký doanh nghiệp
của các công trình khoa học đã được công bố, luận văn đi sâu tìm hiểu về các
quy định về thủ tục đăng ký doanh nghiệp theo Luật doanh nghiệp năm 2014
và nghiên cứu dưới góc độ thực tiễn áp dụng các quy định này tại thành phố Hà
Nội, một thành phố với sự đô thị hóa, phát triển kinh tế mạnh mẽ, có nhiều các
cải cách quan trọng về thủ tục đăng ký doanh nghiệp; trên cơ sở đó tác giả đề
xuất một số giải pháp nhằm thực thi có hiệu quả Luật doanh nghiệp năm 2014 về
thủ tục đăng ký doanh nghiệp.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
5
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Tác giả tập trung nghiên cứu các quy định của Luật doanh nghiệp năm
2014 về thủ tục đăng ký doanh nghiệp được áp dụng trên địa bàn thành phố Hà
Nội; từ đó đưa ra một số giải pháp, kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật và
nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về thủ tục đăng ký doanh nghiệp.
3.2. Phạm vi nghiên cứu của luận văn
Luận văn nghiên cứu tình hình thực hiện thủ tục đăng ký doanh nghiệp
trên địa bàn thành phố Hà Nội
Phạm vi về thời gian: kể từ khi Luật doanh nghiệp năm 2014 có hiệu lực
thi hành (ngày 1/7/2015) cho đến tháng 7 năm 2016.
4. Mục tiêu nghiên cứu
4.1. Mục tiêu chung
Phân tích, đánh giá thực trạng các quy định pháp luật về thủ tục đăng ký
doanh nghiệp theo Luật doanh nghiệp năm 2014 và thực tiễn áp dụng trên địa
bàn thành phố Hà Nội. Trên cơ sở đó, đề xuất các phương hướng, giải pháp và kiến
nghị nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực thi Luật doanh nghiệp năm
2014.
4.2. Mục tiêu cụ thể
Với mục tiêu trên, trong quá trình triển khai nghiên cứu đề tài sẽ tập trung giải
quyết các mục tiêu cụ thể chủ yếu sau đây:
- Làm rõ vấn đề lý luận về đăng ký doanh nghiệp, thủ tục đăng ký doanh
nghiệp và pháp luật điều chỉnh thủ tục đăng ký doanh nghiệp
- Tìm hiểu thực trạng các quy định của Luật doanh nghiệp năm 2014 về
thủ tục đăng ký doanh nghiệp
- Nghiên cứu thực tiễn thi hành thủ tục đăng ký doanh nghiệp trên địa bàn
thành phố Hà Nội kể từ khi Luật doanh nghiệp năm 2014 có hiệu lực
- Đưa ra các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật và triển khai thực hiện
hiệu quả Luật doanh nghiệp năm 2014 về thủ tục đăng ký doanh nghiệp trên
địa bàn thành phố Hà Nội
5. Câu hỏi nghiên cứu
Trong luận văn, một số câu hỏi sau đây được tác giả đưa ra nghiên cứu,
xem xét:
6
- Thủ tục đăng ký doanh nghiệp theo Luật doanh nghiệp năm 2014 có
những điểm gì mới và tiến bộ so với Luật doanh nghiệp năm 2005? Bên cạnh
đó, các quy định của Luật doanh nghiệp năm 2014 về thủ tục đăng ký doanh
nghiệp còn tồn tại bất cập, hạn chế nào không?
- Thành phố Hà Nội đã thực thi các quy định về thủ tục đăng ký doanh
nghiệp theo Luật doanh nghiệp năm 2014 như thế nào ?
- Để hoàn thiện pháp luật và tăng cường thực thi có hiệu quả các quy định
của pháp luật về thủ tục đăng ký doanh nghiệp theo Luật doanh nghiệp năm
2014, cần có những giải pháp và kiến nghị gì?
6. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình thực hiện luận văn, tác giả có kết hợp, sử dụng đa dạng
các phương pháp nghiên cứu sau:
- Phương pháp mô tả: Phương pháp này được sử dụng để mô tả hệ thống
quy định hiện hành về thủ tục đăng ký doanh nghiệp
- Phương pháp phân tích và tổng hợp: Được sử dụng trong quá trình đánh
giá quy định của Luật doanh nghiệp năm 2014 về thủ tục đăng ký doanh nghiệp
và phân tích, tổng hợp các nguồn tư liệu, số liệu về thực trạng tình hình đăng
ký doanh nghiệp ở thành phố Hà Nội.
- Phương pháp so sánh: được sử dụng để so sánh, đối chiếu giữa các quy
định của Luật doanh nghiệp năm 2005 và Luật doanh nghiệp năm 2014 và giữa
quy định của pháp luật Việt Nam và pháp luật của một số nước trên thế giới.
- Phương pháp điều tra xã hội học: Điều tra bằng bảng hỏi, thu thập số
liệu có liên quan. Để hoàn thành luận án này, tác giả dự kiến sẽ tiến hành
nghiên cứu định lượng 50 phiếu điều tra dành cho các đối tượng là các tổ chức,
cá nhân đã tham gia thủ tục đăng ký doanh nghiệp trên địa bàn thành phố Hà
Nội
Đồng thời tác giả sử dụng phương pháp thống kê các kết quả nghiên cứu
từ các khảo sát, các dữ liệu của Tổng cục thống kê, Sở Kế hoạch và Đầu tư.
7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
7.1. Ý nghĩa khoa học
Luận văn thể hiện sự phân tích sâu sắc, có hệ thống các quy định của
Pháp luật hiện hành về thủ tục đăng ký doanh nghiệp. Luận văn cũng chỉ ra
7
những điểm mới, điểm tiến bộ cũng như những bất cập, hạn chế của Luật
doanh nghiệp năm 2014 về thủ tục đăng ký doanh nghiệp.
7.2. Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ góp phần hoàn thiện các quy định của
pháp luật về thủ tục đăng ký doanh nghiệp. Ngoài ra, thông qua việc nghiên
cứu và tìm hiểu về thực tiễn thi hành các quy định của Luật doanh nghiệp năm
2014, chỉ ra những thuận lợi và khó khăn về thủ tục đăng ký doanh nghiệp trên
địa bàn thành phố Hà Nội mà từ đó đề xuất các giải pháp nhằm thực thi có hiệu
quả Luật doanh nghiệp năm 2014 về thủ tục đăng ký doanh nghiệp để phù hợp
với tình hình phát triển kinh tế xã hội của thành phố Hà Nội.
8. Bố cục của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, kết cấu
của luận văn gồm 3 chương như sau:
Chương 1. Một số vấn đề lý luận về thủ tục đăng ký doanh nghiệp và
pháp luật điều chỉnh thủ tục đăng ký doanh nghiệp
Chương 2. Thực trạng các quy định của Luật doanh nghiệp năm 2014 về
thủ tục đăng ký doanh nghiệp và thực tiễn thi hành tại thành phố Hà Nội
Chương 3. Một số giải pháp và kiến nghị nhằm tăng cường việc thực thi
các quy định pháp luật về thủ tục đăng ký doanh nghiệp theo Luật doanh
nghiệp năm 2014 tại thành phố Hà Nội
8
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỦ TỤC ĐĂNG KÝ DOANH NGHIỆP VÀ
PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH THỦ TỤC ĐĂNG KÝ DOANH NGHIỆP
1.1. Tổng quan về thủ tục đăng ký doanh nghiệp
1.1.1. Khái niệm doanh nghiệp, đăng ký doanh nghiệp và thủ tục đăng
ký doanh nghiệp
1.1.1.1. Khái niệm doanh nghiệp
Doanh nghiệp là một trong những chủ thể kinh doanh chủ yếu của xã hội.
Trên phương diện lý thuyết có khá nhiều cách hiểu về doanh nghiệp ở những
khía cạnh khác nhau. Theo M.Francois Peroux, “doanh nghiệp là một đơn vị tổ
chức sản xuất mà tại đó người ta kết hợp các yếu tố sản xuất (có sự quan tâm
giá cả của các yếu tố) khác nhau do các nhân viên của công ty thực hiện nhằm
bán ra trên thị trường những sản phẩm hàng hóa hay dịch vụ để nhận được
khoản tiền chênh lệch giữa giá bán sản phẩm với giá thành của sản phẩm ấy.”.
Còn theo quan điểm phát triển, “doanh nghiệp là một cộng đồng người sản
xuất ra những của cải. Nó sinh ra, phát triển, có những thất bại, có những thành
công, có lúc vượt qua những thời kỳ nguy kịch và ngược lại có lúc phải ngừng sản
xuất, đôi khi tiêu vong do gặp phải những khó khăn không vượt qua được.” [36]
Dưới góc độ pháp lý, khái niệm “doanh nghiệp” ở Việt Nam đã được đề
cập lần đầu tiên trong Luật Công ty năm 1990 như sau: “Doanh nghiệp là một
đơn vị kinh doanh được thành lập nhằm mục đích chủ yếu là thực hiện các hoạt
động kinh doanh”. Khái niệm này có nội dung bao quát khá rộng vì theo đó,
các đơn vị kinh doanh có hoạt động kinh doanh thì sẽ được xem là doanh
nghiệp. Đến khi sự ra đời của Luật doanh nghiệp (LDN) năm 1999 và LDN
năm 2005 và hiện hành là LDN năm 2014 được ban hành thì khái niệm “doanh
nghiệp” đã được đưa ra một cách cụ thể và đầy đủ hơn. Khoản 7 Điều 4 LDN
năm 2014 định nghĩa: “Doanh nghiệp là tổ chức có tên riêng, có tài sản, có trụ
sở giao dịch, được đăng ký thành lập theo quy định của pháp luật nhằm mục
đích kinh doanh”. Như vậy, mặc dù có nhiều định nghĩa về doanh nghiệp ở các
góc độ khác nhau nhưng có thể thấy hình thức thể hiện phổ biến nhất của
doanh nghiệp là một tổ chức kinh tế và mục đích chủ yếu nhất của nó là kinh
doanh [11; tr4]. Các loại hình doanh nghiệp theo LDN năm 2014 bao gồm:
9
Doanh nghiệp tư nhân; Công ty trách nhiệm hữu hạn (TNHH) bao gồm Công
ty TNHH một thành viên và Công ty TNHH hai thành viên trở lên; Công ty
hợp danh; Công ty cổ phần (CTCP).
1.1.1.2. Khái niệm đăng ký doanh nghiệp
Trong giai đoạn phát triển nhanh chóng của nền kinh tế thị trường hiện
nay, đầu tư thành lập doanh nghiệp đang là xu hướng chung của các tổ chức, cá
nhân kinh doanh. Doanh nghiệp được coi là một công cụ kinh doanh an toàn,
hấp dẫn, tiềm năng cho các nhà đầu tư. Hơn nữa, Đảng và Nhà nước không
ngừng nỗ lực để tạo môi trường kinh doanh thuận lợi cho doanh nghiệp trở
thành động lực phát triển nền kinh tế, tạo ra những sản phẩm hàng hóa, dịch vụ
đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của thị trường. Hiến pháp năm 2013 khẳng
định: “Mọi người có quyền tự do kinh doanh trong những ngành nghề mà pháp
luật không cấm” (Điều 33). Quyền tự do kinh doanh là quyền con người và là
một trong những quyền cơ bản của công dân. Đồng thời, điều này thể hiện
đúng tinh thần mà một nhà nước pháp quyền hướng đến, đó là: Công dân được
phép làm những việc mà pháp luật không cấm. Bất kỳ một cá nhân, tổ chức nào
khi đủ điều kiện do pháp luật quy định, nếu có nhu cầu đều có thể tiến hành
hoạt động kinh doanh. Trong đó, quyền tự do thành lập doanh nghiệp là quyền
cơ bản, quan trọng trong hệ thống các quyền tự do kinh doanh. Tuy nhiên,
trước khi tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh và tổ chức quản lý hoạt
động, các chủ thể kinh doanh cần tiến hành hoạt động đăng ký với cơ quan nhà
nước có thẩm quyền. Điều này không có nghĩa là hạn chế quyền tự do kinh
doanh của công dân. Bởi lẽ, việc thực hiện đăng ký doanh nghiệp (ĐKDN) là
một hoạt động cần thiết giúp cho doanh nghiệp được thừa nhận tư cách pháp lý
và nhận được sự bảo hộ về quyền và lợi ích từ phía Nhà nước. Đồng thời thông
qua việc đăng ký thành lập doanh nghiệp của các chủ thể đầu tư, Nhà nước có
thể thực hiện tốt hơn hoạt động quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp, thực
hiện tốt chức năng định hướng, điều tiết nền kinh tế của nhà nước. Chính vì
vậy, thủ tục ĐKDN là một nội dung quan trọng trong pháp luật về doanh
nghiệp, cũng là hoạt động thực tiễn diễn ra phổ biến trong đời sống hiện tại ở
Việt Nam.
Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam, “đăng ký” được hiểu theo hai nội
dung: Một là, “đăng ký” là chính thức ghi vào văn bản của cơ quan pháp luật
10
những thông tin cần thiết về sự kiện làm cơ sở phát sinh hoặc chấm dứt những
mối quan hệ pháp lý nhất định; Hai là, “đăng ký” là bằng chứng công nhận bắt
đầu sự tồn tại hoặc chấm dứt một sự kiện hoặc hiện tượng pháp luật [3, tr7].
Như vậy, xét về bản chất của ĐKDN là: doanh nghiệp kinh doanh cái gì, ở đâu,
vốn là bao nhiêu thì chỉ cần đăng ký và nếu mọi điều kiện đúng pháp luật thì
đương nhiên sẽ được chấp thuận, doanh nghiệp không phải “xin” ai và cũng
không ai có quyền “cho phép” thành lập doanh nghiệp. Hay nói cách khác,
đăng ký thành lập doanh nghiệp là sự công khai hóa các nội dung về kinh
doanh của chủ thể có nhu cầu thành lập doanh nghiệp và được thừa nhận bởi
Nhà nước. Việc ĐKDN chỉ nhằm xác định tư cách pháp lý của doanh nghiệp
trước khi doanh nghiệp, chủ doanh nghiệp thực hiện quyền tự do kinh doanh.
Đồng thời ĐKDN cũng được phân biệt với đăng ký kinh doanh (ĐKKD).
LDN năm 2005 vẫn sử dụng cụm từ ĐKKD, tuy nhiên kể từ khi Nghị định số
43/2010/NĐ-CP ngày 15 tháng 04 năm 2010 của Chính phủ về đăng ký doanh
nghiệp ra đời đã chính thức thay thế cụm từ ĐKKD bằng cụm từ ĐKDN.
Khoản 1 Điều 3 Nghị định số 43/2010/NĐ-CP quy định: “ĐKDN quy định tại
Nghị định này bao gồm nội dung về ĐKKD và đăng ký thuế đối với các loại
hình doanh nghiệp thành lập theo quy định của LDN. ĐKDN bao gồm đăng ký
thành lập mới doanh nghiệp và đăng ký thay đổi nội dung ĐKDN”. Theo đó,
khái niệm ĐKDN rộng hơn khái niệm ĐKKD, ĐKDN bao gồm hai nội dung là
ĐKKD và đăng ký thuế đối với các loại hình doanh nghiệp thành lập theo LDN
năm 2005. Trước đây, để thành lập doanh nghiệp, các tổ chức, cá nhân cần làm
thủ tục ĐKKD tại Cơ quan ĐKKD để được cấp Giấy chứng nhận ĐKKD, sau
đó sang cơ quan thuế để đăng ký mã số thuế, cơ quan Thuế cấp Giấy chứng
nhận đăng ký thuế. Từ khi Nghị định số 43/2010/NĐ-CP được ban hành và cho
đến nay là quy định của LDN năm 2014 và các văn bản hướng dẫn thi hành thì
các tổ chức, cá nhân muốn thành lập doanh nghiệp không cần phải tiến hành
thủ tục tại hai cơ quan như trên nữa mà chỉ cần làm một thủ tục tại cơ quan đầu
mối là Phòng ĐKKD thuộc Sở Kế hoạch và Đầu tư. Cơ quan này có trách
nhiệm phối hợp với các cơ quan Thuế bằng biện pháp nghiệp vụ thực hiện qua
Hệ thống thông tin ĐKDN quốc gia, để cấp Giấy chứng nhận ĐKDN, trong đó
thống nhất mã số doanh nghiệp đồng thời là mã số thuế.
11
Doanh nghiệp sử dụng mã số doanh nghiệp để kê khai nộp tất cả các loại
thuế trên lãnh thổ Việt Nam. Trường hợp doanh nghiệp di dời trụ sở sang địa
bàn tỉnh/thành phố khác để hoạt động thì doanh nghiệp vẫn được sử dụng mã
số này.[18]
Nghị định số 43/2010/NĐ-CP đã tạo ra một bước ngoặt mới trong tiến
trình cải cách thủ tục hành chính công tác ĐKDN, khắc phục được nhược điểm
của quá trình thành lập doanh nghiệp ở thời gian trước theo kiểu: “ngày vui
ĐKKD thì ngắn, mà những ngày tháng xin con dấu, mã số thuế đến chiều lòng
quan chức thì dài”.[19]
Nghị định số 78/2015/NĐ-CP ngày 14 tháng 09 năm 2015 của Chính phủ
về đăng ký doanh nghiệp quy định một cách cụ thể hơn về khái niệm ĐKDN
tại khoản 1 Điều 3, cụ thể là:“ĐKDN là việc người thành lập doanh nghiệp
đăng ký thông tin về doanh nghiệp dự kiến thành lập, doanh nghiệp đăng ký
những thay đổi hoặc dự kiến thay đổi trong thông tin về ĐKDN với cơ quan
ĐKKD và được lưu giữ tại Cơ sở dữ liệu quốc gia về ĐKDN. ĐKDN bao gồm
đăng ký thành lập doanh nghiệp, đăng ký thay đổi nội dung ĐKDN và các
nghĩa vụ đăng ký, thông báo khác theo quy định của Nghị định này.”
Như vậy, dưới góc độ pháp lý, có thể hiểu đăng ký doanh nghiệp là tổng
hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh giữa cơ
quan ĐKKD với cá nhân, tổ chức đăng ký thành lập mới doanh nghiệp hoặc
các doanh nghiệp đăng ký thay đổi nội dung của doanh nghiệp.
Theo định nghĩa nêu trên, ĐKDN bao gồm cả việc đăng ký thành lập
doanh nghiệp và đăng ký thay đổi nội dung ĐKDN. Điều này hoàn toàn phù
hợp với thực tiễn hoạt động của doanh nghiệp. Bởi vì sau khi đăng ký thành lập
doanh nghiệp, được cấp mã số doanh nghiệp thì trong quá trình hoạt động có
thể phát sinh những thay đổi liên quan đến hồ sơ ĐKDN đã đăng ký. Việc thay
đổi này cũng cần phải đăng ký thay đổi hoặc thông báo với cơ quan ĐKKD.
1.1.1.3. Khái niệm thủ tục đăng ký doanh nghiệp
Tại rất nhiều quốc gia, doanh nghiệp muốn được thừa nhận là một pháp
nhân, tham gia hoạt động kinh doanh và chịu trách nhiệm bằng tài sản của
mình thì đều phải đăng ký một cách hợp pháp. Ở Việt Nam, doanh nghiệp phải
được thành lập theo những thủ tục do pháp luật quy định mới được Nhà nước
thừa nhận tư cách pháp lý và bảo hộ quyền, lợi ích chính đáng của doanh
12
nghiệp. Như vậy, một doanh nghiệp được coi là thành lập hợp pháp khi thực
hiện đúng các thủ tục về ĐKDN theo quy định của pháp luật.
Theo Từ điển Tiếng Việt, thủ tục là “cách thức tiến hành một công việc
với nội dung, trình tự nhất định, theo quy định của Nhà nước”. [33]
Mặt khác, ĐKDN là việc nhà nước ghi nhận về mặt pháp lý sự ra đời của
doanh nghiệp. Kể từ thời điểm ĐKDN, các chủ thể kinh doanh có đầy đủ năng
lực pháp luật để tiến hành hoạt động kinh doanh theo quy định của pháp luật.
Thủ tục ĐKDN được xem như là một thủ tục hành chính theo đó việc đăng ký
thực hiện thông qua thủ tục “hai chiều”, tức là chủ thể kinh doanh khi muốn
thành lập doanh nghiệp phải nộp hồ sơ đăng ký với cơ quan nhà nước có thẩm
quyền về ĐKDN. Sau đó, nếu như đáp ứng đầy đủ các điều kiện thành lập theo
quy định của pháp luật thì cơ quan nhà nước có thẩm quyền đó sẽ cấp Giấy
chứng nhận ĐKDN, Trong suốt quá trình tiến hành hoạt động kinh doanh. Giấy
chứng nhận ĐKDN đó được coi là một bằng chứng pháp lý ghi nhận tư cách
chủ thể, tính hợp pháp của hoạt động kinh doanh và khẳng định sự bảo hộ của
Nhà nước với chủ thể kinh doanh. Ngoài ra, khi thay đổi bất kỳ một nội dung
nào được ghi nhận trong Giấy chứng nhận ĐKDN thì chủ thể kinh doanh cần
phải làm hồ sơ thông báo lên Cơ quan quản lý nhà nước về kinh doanh.
Pháp luật Việt Nam coi các thủ tục này là một dạng của thủ tục hành
chính nhằm đảm bảo sự quản lý của nhà nước đối với hoạt động kinh doanh,
đồng thời đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp cho các chủ thể kinh doanh
Định nghĩa về thủ tục hành chính được quy định tại Khoản 1, Điều 3,
Nghị định 63/2010/NĐ-CP của Chính phủ ngày 08 tháng 06 năm 2010 về kiểm
soát thủ tục hành chính. Theo đó, thủ tục hành chính là trình tự, cách thức thực
hiện, hồ sơ và yêu cầu, điều kiện do cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền
quy định để giải quyết một công việc cụ thể liên quan đến cá nhân, tổ chức.
Như vậy, có thể hiểu thủ tục ĐKDN là trình tự, cách thức thực hiện, hồ sơ
và yêu cầu, điều kiện do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định để giải
quyết việc đăng ký thành lập mới doanh nghiệp của cá nhân, tổ chức hay thay
đổi nội dung ĐKDN của doanh nghiệp.
13
1.1.2. Đặc điểm của thủ tục đăng ký doanh nghiệp
Thứ nhất, thủ tục ĐKDN do pháp luật quy định
Hệ thống pháp luật Việt Nam hiện nay rất đa dạng, điều chỉnh nhiều quan
hệ xã hội như: dân sự, hình sự, quốc tế, kinh tế, thương mại, hôn nhân, đất
đai, ... Pháp luật về doanh nghiệp là một bộ phận trong hệ thống pháp luật Việt
Nam. Các quy định về thủ tục ĐKDN là một bộ phận trong pháp luật doanh
nghiệp, được quy định cụ thể trong LDN và các văn bản hướng dẫn thi hành
LDN. Để được cấp giấy chứng nhận ĐKDN hay giấy xác nhận thay đổi nội
dung ĐKDN, chủ thể kinh doanh phải luân thủ những trình tự, thủ tục về
ĐKDN theo luật định từ việc hoàn thiện hồ sơ theo biểu mẫu, trình tự các bước
thực hiện thủ tục ĐKDN, quyền và nghĩa vụ của các chủ thể đều được pháp
luật quy định cụ thể, đòi hỏi các cá nhân, tổ chức và cơ quan nhà nước có thẩm
quyền phải tuân theo. Trong phạm vi thẩm quyền, cơ quan nhà nước đó có
nghĩa vụ tiếp nhận hổ sơ, đối chiếu với các điều kiện do pháp luật quy định để
cấp hoặc từ chối cấp giấy chứng nhận ĐKDN. Như vậy, có thể thấy rằng thủ
tục ĐKDN là bắt buộc khi chủ thể có ý định thành lập doanh nghiệp hoặc các
doanh nghiệp muốn thay đổi các nội dung trong hồ sơ ĐKDN. Việc thực hiện
các thủ tục này cần phải tuân theo các quy định của pháp luật chứ không phải
do bất kì chủ thể nào khác đặt ra.
Mục đích chủ yếu của việc quy định các thủ tục ĐKDN là để đảm bảo các
lợi ích của chủ thể kinh doanh, đồng thời vì lợi ích của Nhà nước và lợi ích
chung của toàn xã hội; đảm bảo cho các chủ thể kinh doanh tránh khỏi sự lừa
đảo, gian dối trong hoạt động kinh doanh, bình đẳng với nhau trong kinh doanh
và đảm bảo cho Nhà nước quản lý được hoạt động sản xuất kinh doanh trong
xã hội.[31]
Thứ hai, thủ tục ĐKDN mang đặc điểm của thủ tục hành chính
Thủ tục ĐKDN có đặc điểm là một thủ tục hành chính bắt buộc trong đó
chủ thể kinh doanh đăng ký với cơ quan nhà nước có thẩm quyền và công khai
hóa về sự ra đời cũng như hoạt động kinh doanh của mình. Cơ quan nhà nước
có thẩm quyền ĐKDN có nghĩa vụ xem xét các điều kiện và cấp Giấy chứng
nhận ĐKDN cho chủ thể kinh doanh theo quy định của pháp luật. Trong suốt
quá trình tiến hành hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp thì Giấy chứng
nhận ĐKDN được coi là một bằng chứng pháp lý ghi nhận tư cách chủ thể, tính
14
hợp pháp của hoạt động kinh doanh và khẳng định sự bảo hộ của Nhà nước đối
với chủ thể kinh doanh. Và khi có bất cứ sự thay đổi nào về những nội dung
doanh nghiệp đã đăng ký với cơ quan nhà nước như: Tên công ty, vốn điều lệ,
địa chỉ trụ sở chính, người đại diện theo pháp luật....thì phải thực hiện thông
báo lên Cơ quan nhà nước có thẩm quyền ĐKDN.
Thứ ba, thủ tục ĐKDN được tiến hành bởi cơ quan ĐKKD
Cơ quan ĐKKD có trách nhiệm tiếp nhận hồ sơ ĐKDN, xem xét tính hợp
lệ của hồ sơ và cấp Giấy chứng nhận ĐKDN cho chủ thể kinh doanh theo quy
định của pháp luật. Theo khoản 1 Điều 17 LDN năm 2014, cơ quan ĐKKD
không có quyền yêu cầu người thành lập doanh nghiệp nộp thêm giấy tờ khác
trái với quy định của Luật này; gây chậm trễ, phiền hà, cản trở, sách nhiễu
người thành lập doanh nghiệp và hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Cơ
quan ĐKKD có trách nhiệm xem xét tính hợp lệ của hồ sơ ĐKDN và cấp Giấy
chứng nhận ĐKDN trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày nhận hồ sơ.
Trường hợp từ chối cấp Giấy chứng nhận ĐKDN thì phải thông báo bằng văn
bản cho người thành lập doanh nghiệp biết. Thông báo phải nêu rõ lý do và các
yêu cầu sửa đổi, bổ sung hồ sơ (Theo khoản 2 Điều 27 của LDN năm 2014).
Do đó, ta thấy cơ quan ĐKKD là cơ quan nhà nước có thẩm quyền tiến hành
các thủ tục ĐKDN cho các cá nhân, tổ chức có nhu cầu. Tuy nhiên, các cơ
quan này cần tiến hành theo đúng quy định của pháp luật về thủ tục ĐKDN,
tránh sự lạm quyền, tùy tiện trong các quyết định của mình. Hồ sơ, điều kiện
ĐKDN đều phải được xem xét trên quy định của pháp luật để đảm bảo quyền
lợi, sự bình đẳng trước pháp luật của các chủ thể kinh doanh.
1.1.3. Vai trò của thủ tục đăng ký doanh nghiệp
Thủ tục ĐKDN có vai trò quan trọng đối với nhà nước; các chủ thể kinh
doanh và đối với xã hội, cụ thể:
Thứ nhất, đối với nhà nước:
Thủ tục ĐKDN là một trong những công cụ để Nhà nước thực hiện chức
năng quản lý đối với toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Trong nền kinh tế thị trường,
doanh nghiệp đóng vai trò trung tâm trong các hoạt động kinh doanh và số
lượng doanh nghiệp ngày càng tăng. Do vậy, quản lý nhà nước về doanh
nghiệp là yêu cầu tất yếu
15
Việc đăng ký thành lập doanh nghiệp là thể hiện sự bảo hộ của Nhà nước
bằng pháp luật đối với các chủ thể hoạt động kinh doanh nói chung và các
doanh nghiệp nói riêng. Thông qua việc ĐKDN, nhà nước sẽ quản lý được số
lượng, hình thức, ngành nghề kinh doanh dựa trên địa bàn. Trên cơ sở đó, nhà
nước sẽ nắm bắt được thực trạng kinh tế của địa phương, điều chỉnh cơ cấu
ngành nghề, cơ cấu đầu tư kinh doanh để tìm ra các biện pháp quản lý thích
hợp, đồng thời giám sát chủ thể kinh doanh hoạt động theo đúng pháp luật,
thực hiện tốt nhiệm vụ cơ bản, phát huy được vai trò của họ trong nền kinh tế
[35, tr 8].
Thứ hai, đối với chủ thể kinh doanh: Thông qua thủ tục ĐKDN, doanh
nghiệp sẽ chính thức hóa hoạt động kinh doanh của mình. Sau khi được cấp
giấy chứng nhận ĐKDN, doanh nghiệp được thừa nhận về mặt pháp lý, có
quyền tiến hành các hoạt động kinh doanh dưới sự bảo hộ của pháp luật (tức là
tư cách chủ thể của doanh nghiệp được xác lập). Thủ tục ĐKDN là cơ sở pháp
lý chắc chắn nhất để một doanh nghiệp yêu cầu cơ quan nhà nước bảo vệ các
quyền, lợi ích và tài sản hợp pháp của mình trong quá trình doanh nghiệp tiến
hành hoạt động kinh doanh. [31, tr 15]
Ngoài ra, ĐKDN thể hiện sự công khai hóa của các chủ thể kinh doanh
trước công chúng, khẳng định được việc thành lập và hoạt động của họ là có
thực, tránh tình trạng lừa đảo, lạm dụng gây tổn hại tới lợi ích của bên thứ ba.
Khi nhà nước giám sát quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của các chủ thể
từ khi thành lập tới khi giải thể hoặc phá sản cũng giúp cho việc ngăn ngừa
hoạt động kinh doanh trái pháp luật, bảo vệ quyền và lợi ích cho các chủ thể
khác trong trường hợp họ phá sản hoặc giải thể.
Thứ ba, đối với xã hội: Việc ra đời của các doanh nghiệp có ý nghĩa quan
trọng trong việc cung cấp các sản phẩm, dịch vụ đa dạng phục vụ đời sống và
sản xuất kinh doanh trong xã hội. Trong những năm gần đây, sự tăng trưởng
mạnh mẽ về số lượng và chất lượng doanh nghiệp đã tạo ra khối lượng hàng
hóa và dịch vụ lớn hơn, phong phú hơn với chất lượng tốt hơn cho đất nước,
thay thế được nhiều mặt hàng phải nhập khẩu, góp phần quan trọng cải thiện,
nâng cao mức tiêu dùng trong nước và tăng xuất khẩu ra các nước trên thế giới,
qua đó góp phần giữ cho nền kinh tế được ổn định và phát triển trong những
năm qua.
16
Không những thế, việc thành lập doanh nghiệp còn giúp giải quyết vấn đề
việc làm, nâng cao thu nhập và đời sống cho người lao động. Trong những năm
trở lại đây, số doanh nghiệp tăng nhanh đã giải quyết được nhiều việc làm với
thu nhập cao cho người lao động. Đồng thời, tuy chiếm tỷ trọng không cao
trong tổng lao động toàn xã hội, nhưng lao động trong khu vực doanh nghiệp
lại là lực lượng chủ yếu tạo ra nguồn thu cho ngân sách nhà nước và đóng góp
lớn cho tăng trưởng GDP.
Bên cạnh đó, sau khi được thành lập, với nguồn lợi nhận thu được từ hoạt
động sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp sẽ có vai trò quan trọng trong việc
thực hiện an sinh xã hội, hỗ trợ cộng đồng, hướng đến sự tăng trưởng bền vững
của nền kinh tế đất nước.
Như vậy, việc thành lập doanh nghiệp không chỉ có ý nghĩa quan trọng
đối với việc bảo đảm quyền lợi cho bản thân các doanh nghiệp mà còn có ý
nghĩa đối với hoạt động quản lý nhà nước và hướng đến bảo vệ lợi ích chung
cho các chủ thể khác trong toàn xã hội. Chính vì vậy, quan tâm xây dựng các
chính sách đúng đắn phát triển kinh tế - xã hội và đẩy nhanh hoạt động cải cách
thủ tục hành chính là một nhiệm vụ quan trọng mà Đảng và Nhà nước đề ra, để
không ngừng mở rộng quyền tự do kinh doanh, thúc đẩy việc thành lập doanh
nghiệp, tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức, cá nhân khi thành lập doanh
nghiệp để hoạt động kinh doanh. [3, tr 10]
1.2. Pháp luật về thủ tục đăng ký doanh nghiệp
1.2.1. Khái niệm, đặc điểm của pháp luật về thủ tục đăng ký doanh
nghiệp
1.2.1.1. Khái niệm pháp luật về thủ tục đăng ký doanh nghiệp
Theo hiểu biết chung, pháp luật về thủ tục ĐKDN là một bộ phận quan
trọng của pháp luật về doanh nghiệp nhằm điều chỉnh các quan hệ pháp luật
trong quá trình thực hiện ĐKDN. Theo đó, pháp luật về thủ tục ĐKDN được
hiểu là tổng thể các quy phạm pháp luật điều chỉnh mối quan hệ phát sinh giữa
một bên chủ thể là cơ quan Nhà nước có thẩm quyền về ĐKDN và một bên là
các cá nhân, tổ chức có liên quan về việc đăng ký thành lập, thay đổi nội dung
ĐKDN.
1.2.1.2. Đặc điểm của pháp luật về đăng ký doanh nghiệp
Thứ nhất, pháp luật về thủ tục ĐKDN mang tính chất lãnh thổ sâu sắc