Tải bản đầy đủ (.pdf) (96 trang)

Pháp luật lao động giúp việc gia đình và thực tiễn thi hành tại thành phố hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.07 MB, 96 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN THỊ VIỆT ANH

PH¸P LUËT LAO §éNG GIóP VIÖC GIA §×NH Vµ
THùC TIÔN THI HµNH T¹I THµNH PHè Hµ NéI

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2015



ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN THỊ VIỆT ANH

PH¸P LUËT LAO §éNG GIóP VIÖC GIA §×NH Vµ
THùC TIÔN THI HµNH T¹I THµNH PHè Hµ NéI
Chuyên ngành: Luật kinh tế
Mã số: 60 38 01 07

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC


Cán bộ hướng dẫn khoa học: PGS.TS LÊ THỊ HOÀI THU

HÀ NỘI - 2015


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong
bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã
hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.

Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN

Nguyễn Thị Việt Anh


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan

Mục lục
Danh mục các chữ viết tắt
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ LAO ĐỘNG GIÚP VIỆC
GIA ĐÌNH VÀ SỰ ĐIỀU CHỈNH CỦA PHÁP LUẬT................ 8
1.1.

Quan niệm về lao động giúp việc gia đình ..................................... 8

1.1.1.

Định nghĩa về lao động giúp việc gia đình ........................................ 8


1.1.2.

Đặc điểm của lao động giúp việc gia đình ...................................... 13

1.1.3.

Phân loại lao động giúp việc gia đình ............................................. 19

1.2.

Sự điều chỉnh của pháp luật đối với lao động giúp việc gia đình ... 23


1.2.1.

Khái niệm và vai trò của pháp luật về lao động giúp việc gia đình ...... 23

1.2.2.

Nguyên tắc điều chỉnh pháp luật đối với lao động giúp việc gia đình ... 26

1.2.3.

Nội dung pháp luật đối với lao động giúp việc gia đình ................. 32


Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT LAO ĐỘNG GIÚP VIỆC
GIA ĐÌNH VÀ THỰC TIỄN THI HÀNH TẠI THÀNH
PHỐ HÀ NỘI ................................................................................. 43
2.1.

Thực trạng quy định của pháp luật về lao động giúp việc
gia đình ........................................................................................... 43

2.1.1.

Về hợp đồng lao động đối với lao động giúp việc gia đình ............ 43


2.1.2.

Về tạm hoãn, chấm dứt hợp đồng lao động đối với lao động
giúp việc gia đình............................................................................. 51

2.1.3.

Về giải quyết tranh chấp đối với lao động giúp việc gia đình ......... 52


2.1.4.


Về đào tạo và quản lý lao động giúp việc gia đình ......................... 54

2.2.

Thực tiễn thi hành của quy định pháp luật về lao động giúp
việc gia đình tại thành phố Hà Nội............................................... 58

2.2.1.

Tình hình lao động giúp việc gia đình tại thành phố Hà Nội .......... 58


2.2.2.

Một số nhận xét về thực tiễn áp dụng các quy định pháp luật về
lao động giúp việc gia đình.............................................................. 60

Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ NHẰM NÂNG
CAO HIỆU QUẢ THỰC THI PHÁP LUẬT VỀ LAO ĐỘNG
GIÚP VIỆC GIA ĐÌNH TỪ THỰC TIỄN THI HÀNH TẠI
THÀNH PHỐ HÀ NỘI .................................................................. 70
3.1.

Một số giải pháp về tổ chức thực hiện nhằm nâng cao hiệu

quả thực thi pháp luật về lao động giúp việc gia đình ............... 71

3.2.

Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả thực thi pháp
luật về lao động giúp việc gia đình ............................................... 76

3.2.1.

Kiến nghị hoàn thiện các quy định pháp luật .................................. 76

3.2.2.


Về tổ chức thực hiện ........................................................................ 78

3.2.3.

Từ thực tiễn tại thành phố Hà Nội ................................................... 80

KẾT LUẬN .................................................................................................... 85
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 87


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

BHXH:

Bảo hiểm Xã hội

BHYT:

Bảo hiểm Y tế

GFCD:

Trung tâm nghiên cứu Giới, Gia đình và
phát triển Cộng đồng


GVGĐ:

Giúp việc gia đình

IFGS:

Viện nghiên cứu gia đình và giới

ILO:

Tổ chức lao động quốc tế


LĐGVGĐ: Lao động Giúp việc gia đình
NGV:

Người giúp việc

NLĐ:

Người lao động

NSDLĐ:


Người sử dụng lao động


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Sau gần ba thập kỉ đổi mới, cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị
trường, trật tự xã hội được thiết lập ổn định, chất lượng cuộc sống cả về vật
chất và tinh thần của người dân Việt Nam đều đã được nâng lên rõ rệt. Số
lượng các gia đình có mức thu nhập ổn định và khá giả ngày càng gia tăng.
Đặc biệt ở khu vực thủ đô Hà Nội - trung tâm phát triển kinh tế, văn hóa, xã
hội của đất nước, với tốc độ phát triển nhanh chóng cùng với quan niệm về sự
bình quyền trong các mối quan hệ, phụ nữ cũng như nam giới cũng phải đảm

nhận nhiều các công việc xã hội dẫn đến quỹ thời gian dành cho gia đình bị
thu hẹp, và người phụ nữ trong gia đình thường xuyên không có nhiều thời
gian dành cho việc chăm sóc con cái, phụng dưỡng người lớn tuổi như trước
đây và đặc biệt là việc dọn dẹp nhà cửa. Điều nay đã hình thành nên một thị
trường lao động không còn mới nhưng ngày càng phát triển trong xã hội ngày
nay; chủ yếu dành cho đối tượng lao động là phụ nữ từ nông thôn. Đó chính là
thị trường lao động giúp việc gia đình tại Việt Nam. Vai trò của lực lượng lao
động giúp việc gia đình (LĐGVGĐ) trong xã hội ngày càng được khẳng định.
Họ đã góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống, giải phóng phụ nữ làm việc
ngoài xã hội với cường độ cao khỏi gánh nặng công việc trong gia đình, có
nhiều thời gian hơn dành cho sự nghiệp, học hành, nghỉ ngơi, giải trí..., bên
cạnh đó, nghề GVGĐ còn mang lại thu nhập tương đối ổn định cho nhiều lao

động là người nông dân đang gặp nhiều khó khăn, giải quyết tình trạng thiếu
việc làm ở một bộ phận lao động ở nông thôn.
Trước đây, LĐGVGĐ vẫn chưa được coi là một nghề và những người
làm công việc ngày cũng không được tôn trọng như những người làm nghề
khác. Trước năm 2012, quy định về “lao động giúp việc gia đình” đã có nhưng

1


còn hạn chế và chỉ được đề cập tại một số điều như tại điều 5, điều 28, điều
139 Bộ luật lao động (BLLĐ) năm 1994 về vấn đề hợp đồng lao động, quy
định về thời gian còn chung chung chưa có hướng dẫn cụ thể. Song qua nhiều

lần sửa đổi, bổ sung, dến BLLĐ năm 2012 có hiệu lực kể từ ngày 01/5/2013,
lần đầu tiên GVGĐ được công nhận như một nghề chính thức, được quy định
thành một mục riêng tại mục 5 Chương XI gồm 5 điều từ điều 179 đến điều
183 BLLĐ năm 2012 và được hướng dẫn thực hiện tại Nghị định 27/2014/NĐCP ngày 07/4/2014 quy định chi tiết thi hành một số điều của BLLĐ về lao
động là người giúp việc gia đình và Thông tư số 19/2014/TT-BLĐTBXH của
Bộ Lao động thương binh và Xã hội, hướng dẫn thi hành một số điều của
Nghị định 27/2014/NĐ-CP. (Sau đây viết là Nghị định 27/NĐ-CP; Thông tư
19/TT-BLĐTBXH). Đây là một bước tiến tích cực trong việc xây dựng khung
pháp lý về GVGĐ cũng như từng bước đưa GVGĐ trở thành một nghề trong
thị trường lao động. Việc luật hóa vấn đề lao động GVGĐ đã cải thiện điều
kiện và chế độ làm việc, đảm bảo sự bình đẳng giới và bảo vệ những đối
tượng lao động dễ bị tổn thương này.

LĐGVGĐ mang đậm nét đặc trưng về giới với 98,7% lực lượng lao
động là phụ nữ, xuất thân chủ yếu từ nông thôn, gia cảnh khó khăn, nghề
nghiệp không ổn định, một số lớn tuổi không có chồng, bị góa hoặc ly hôn.,
thuộc những đối tượng có trình độ thấp, ít hiểu biết xã hội và hầu như chưa
qua đào tạo nghề. Bên cạnh đó, môi trường làm việc của người GVGĐ
thường khép kín trong không gian nhà của người sử dụng lao động (gia chủ)
và quan niệm xã hội ít nhiều còn thiếu sự tôn trọng đối với NGV. Chính vì
những đặc thù này, LĐGVGĐ dễ phải đối mặt các nguy cơ như bị mắng chửi,
đánh đập, đe dọa, bị lạm dụng sức lao động, lạm dụng tình dục... nguy cơ
không được gia chủ thực hiện đúng thỏa thuận ban đầu về công việc, thời
gian, tiền lương... hoặc các quyền lợi của họ không được đảm bảo, ví dụ như
quyền được chi trả một phần bảo hiểm y tế (BHYT), bảo hiểm xã hội

2


(BHXH).Thực tế tại thành phố Hà nội đã chỉ ra loại hình lao động này đang
nảy sinh nhiều vấn đề xã hội phức tạp làm ảnh hưởng đến trật tự, an toàn xã
hội cũng như lợi ích của các bên liên quan trong mối quan hệ này. Tình trạng
NSDLĐ GVGĐ và NLĐ không ký hợp đồng lao động, chủ yếu thỏa thuận
miệng, không đóng bảo hiểm xã hội, vi phạm về thời gian làm việc, thời gian
nghỉ ngơi về an toàn vệ sinh lao động, sự vi phạm về việc đăng ký tạm trú cho
NGV, nhiều trường hợp NGV bị đối xử thậm tệ hay nhiều gia đình bị NGV
lấy trộm tài sản, tự ý bỏ việc làm đảo lộn cuộc sống của gia đình NSDLĐ xảy
ra rất phổ biến. Những vấn đề này ngày càng gây bức xúc dư luận và chính sự

lỏng lẻo trong mối quan hệ giữa NLĐ và NSDLĐ trong loại hình lao động
này là nguyên nhân khiến cho thị trường LĐGVGĐ thiếu tính chuyên nghiệp,
mặc dù đã có những quy định hướng dẫn chi tiết khi thi hành. Chính vì những
lý do trên nên em lựa chọn: “Pháp luật lao động giúp việc gia đình và thực
tiễn thi hành tại thành phố Hà Nội” làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình. Luận
văn đi vào nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực trạng thực hiện các quy
định đối với lao động giúp việc gia đình ở nước ta nói chung và trên địa bàn
Hà Nội nói riêng. Từ đó thấy được những thuận lợi và khó khăn trong thực
tiễn để đề xuất một số kiến nghị cụ thể nhằm góp phần hoàn thiện pháp luật
lao động giúp việc gia đình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Thị trường LĐGVGĐ ngày càng phát triển và có có ảnh hưởng lớn đến

một bộ phận người lao động là phụ nữ và trẻ em từ các vùng nông thôn nên
đô thị để tham gia vào thị trường này. Việc nghiên cứu về loại hình lao động
này trên nhiều phương diện, dưới nhiều khía cạnh đã và đang thu hút sự quan
tâm của nhiều nhà khoa học, nhà quản lý như:
- Dự án “Bảo vệ quyền của LĐGVGĐ tại Việt Nam” với mục tiêu “Bảo
vệ quyền của LĐGVGĐ thông qua tham vấn xây dựng chính sách và tạo điều
kiện hỗ trợ cho việc thực hiện chính sách” của Trung tâm Nghiên cứu Giới,
3


Gia đình và Phát triển cộng đồng (GFCD), năm 2011, với sự hỗ trợ tài chính
và kỹ thuật của Oxfam Novib và Rosa Luxemburg Stiftung. GFCD đã tiến

hành rà soát pháp luật, chính sách liên quan đến LĐGVGĐ và thực hiện các
nghiên cứu ở 05 tỉnh/thành phố: Hà Nội, Hồ Chí Minh, Nam Định, Khánh
Hòa và Vĩnh Long cũng như tham khảo kinh nghiệm thực tiễn về quản lý
LĐGVGĐ của một số quốc gia trong khu vực và trên thế giới. Trên cơ sở
những phát hiện chính của các nghiên cứu và tham khảo báo cáo rà soát pháp
luật trong nước và quốc tế, GFCD xây dựng “Báo cáo tổng quan về tình hình
LĐGVGĐ tại Việt Nam từ năm 2007 đến nay”. Báo cáo là bức tranh tổng thể
về thực trạng, những bất cập và xu hướng phát triển của một loại hình lao
động vốn đã tồn tại từ lâu trong xã hội Việt Nam- LĐGVGĐ.
- “Việc làm bền vững đối với lao động GVGĐ” của tác giả Hà Thị
Minh Khương trên tạp chí nghiên cứu gia đình và giới- Viện gia đình và giới
số 05/2012.

- “Thực trạng lao động là người LĐGVGĐ ở Việt Nam và một số kiến
nghị” của tác giả Nguyễn Thị Lam;
- “Một số vấn đề xã hội của lao động GVGĐ ở đô thi hiện nay” của tác
giả Trần Thị Hồng trên tạp chí nghiên cứu gia đình và giới- Viện gia đình và
giới số 02/2011.
- “Trẻ em là thuê giúp việc gia đình ở Hà Nội” của nhóm tác giả do
Nguyễn Thị Vân Anh và Lê Khanh (chủ biên), NXB Chính trị Quốc Gia, Hà
Nội, 2000: Các tác giả tập trung nghiên cứu, làm rõ một số vấn đề chung liên
quan đến trẻ em, trong đó quyền trẻ em được coi là cơ sở, nền tảng pháp lý
cho việc nghiên cứu về lao động trẻ em, đồng thời trình bày phương pháp tiếp
cận nghiên cứu lao động trẻ em làm thuê giúp việc tại các gia đình ở Hà Nội.
Nhóm nghiên cứu đã mô tả các đặc điểm về gia đình, lứa tuổi trình độ học

vấn và chỉ ra một số đặc điểm về phẩm chất tâm lý của trẻ em giúp việc. Từ
đó, nhóm nghiên cứu đã chỉ ra được những khía cạnh về chăm sóc và bảo vệ
4


sức khỏe, quyền học tập của trẻ em giúp việc làm căn cứ đưa ra một số giải
pháp kiến nghị đối với việc nâng cao nhận thúc về quyền trẻ em;
- “Điều kiện sống và làm việc của trẻ em gái từ nông thôn ra Hà Nội
làm nghề giúp việc gia đình” của tác giả Đặng Bích Thủy trên tạp chí Khoa
học về phụ nữ số 6/2001: Trên cơ sơ phân tích điều kiện sống, điều kiện làm
việc, chế độ nghỉ ngơi của trẻ em giúp việc gia đình thấy rằng trẻ em làm giúp
việc gia đình sống trong môi trường khép kín, không được giao tiếp với thế

giới bên ngoài. Từ đó tác giả đề xuất một số ý kiến kiến nghị nhằm nâng cao
nhận thức về quyền trẻ em qua hệ thống truyền thông đại chúng và tuyên
truyền sâu rộng pháp luật liên quan đến việc bảo vệ trẻ em và nhấn mạnh đến
việc hỗ trợ, quan tâm từ Nhà nước đối với các gia đình có hoàn cảnh khó khăn.
- “Một số loại hình giúp việc gia đình ở Hà Nội hiện nay và các giải
pháp quản lý” do TS Ngô Thị Ngọc Anh chủ biên, NXB lao động (Hà Nội),
2010: Đề tài nêu bật dược đặc điểm của người lao động giúp việc gia đình và
các hộ sử dụng lao động giúp việc gia đình, đồng thời nêu lên các loại hình
lao động giúp việc gia đình ở Hà Nội và thực trạng hoạt động của các loại
hình lao động giúp việc gia đình. Từ đó đề xuất một số giải pháp phù hợp đối
với các loại hình lao động giúp việc gia đình trên địa bàn Hà Nội.
- Luận văn thạc sĩ: “Lao động là người giúp việc gia đình theo Bộ luật lao

động năm 2012”, Nguyễn Hữu Long, 2014. Tác giả đã nghiên cứu những vấn đề
mang tính pháp lý về lao động giúp việc gia đình theo Bộ luật lao động năm 2012,
tìm hiểu việc thực hiện những quy định này trong thực tế và đưa ra một số kiến
nghị nhằm nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật về lao động giúp việc gia đình.
Các công trình nói trên của các tác giả đã tiếp cận nghiên cứu về lao
động GVGĐ từ nhiều góc độ khác nhau và đó là nguồn tài liệu quý giá cho
tác giả sau này trong quá trình nghiên cứu. Tuy nhiên các nghiên cứu này mới
chỉ chú ý vào tìm hiểu nguyên nhân, đặc điểm về lao động GVGĐ trên
phương diện xã hội, đời sống. Những vấn đề pháp lý liên quan đến các chủ
5



thể trong mối quan hệ lao động này dường như chưa được chú trọng. Hiện
nay các nghiên cứu về lao động GVGĐ theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn
thi hành một cách đầy đủ và toàn diện chưa nhiều. Chính vì vậy, việc nghiên
cứu đề tài “Pháp luật lao động giúp việc gia đình từ thực tiễn thi hành tại
thành phố Hà Nội” là hết sức cần thiết, nhằm đưa pháp luật về lao động
GVGĐ vào đời sống một cách có hiệu quả trong tương lai gần.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích
Mục đích của luận văn là nghiên cứu những vấn đề mang tính pháp lý
về lao động GVGĐ và thực tiễn áp dụng các quy định này tại thành phố Hà
Nội, từ đó đưa ra những kiến nghị giải pháp nhằm khắc phục những tồn tại và
nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật trên thực tế.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Khái quát lý luận về pháp luật lao động GVGĐ;
- Phân tích, đánh giá thực trạng thực hiện pháp luật về lao động GVGĐ
tại thành phố Hà Nội.
- Đề xuất một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về lao động giúp
việc gia đình và nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật trên thực tế.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là các quy định của pháp luật Việt Nam về lao
động GVGĐ theo Bộ luật lao động năm 2012 và thực trạng thi hành pháp luật
trên thực tiễn tại thành phố Hà Nội.
4.2. Phạm vi nghiên cứu

Lao động là người giúp việc gia đình có thể được nghiên cứu ở nhiều
góc độ khác nhau. Song, trong luận văn này, tác giả tập trung nghiên cứu vấn
đề mang tính pháp lý về lao động GVGĐ và thực tiễn thực hiện các quy định
của pháp luật tại thành phố Hà Nội.
6


5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện trên cơ sở quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lê
nin, phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử. Quan điểm của
Đảng, nhà nước và tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật.
Đồng thời trong quá trình nghiên cứu, tác giả còn sử dụng các phương

pháp nghiên cứu khoa học truyền thống như phương pháp phân tích, phương
pháp so sánh, phương pháp thống kê, điều tra xã hội học, tổng hợp, đánh giá…
6. Ý nghĩa của việc nghiên cứu
Về mặt lý luận: Luận văn góp phần làm rõ hơn các quy định của pháp
luật Việt Nam về lao động giúp việc gia đình;
Về mặt thực tiễn của đề tài: từ việc đánh giá thực tiễn việc thực hiện
các quy định của pháp luật về lao động giúp việc gia đình tại thành phố Hà
Nội đưa ra những giải pháp, phương hướng và kiến nghị góp phần hoàn thiện
pháp luật về lao động GVGD.
Các kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ giúp các cơ quan lập pháp có
thêm tư liệu tham khảo cho công tác hoàn thiện pháp luật. Đồng thời đề tài
cũng phục vụ cho các công trình nghiên cứu, giảng dạy và học tập pháp luật

lao động sau này.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, Kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, Luận
văn bao gồm 03 chương:
Chương 1: Khái quát chung về lao động giúp việc gia đình và sự điều
chỉnh của pháp luật.
Chương 2: Thực trạng pháp luật về lao động giúp việc gia đình và thực
tiễn tại thành phố Hà Nội.
Chương 3: Một số giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả thực
thi pháp luật về lao động giúp việc gia đình từ thực tiễn thi hành tại thành phố
Hà Nội.
7



Chương 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ LAO ĐỘNG GIÚP VIỆC GIA ĐÌNH
VÀ SỰ ĐIỀU CHỈNH CỦA PHÁP LUẬT
1.1. Quan niệm về lao động giúp việc gia đình
1.1.1. Định nghĩa về lao động giúp việc gia đình
Lao động giúp việc gia đình (GVGĐ) là một loại hình lao động đã xuất
hiện từ rất lâu đời. Trên thế giới, loại hình lao động này có mặt từ thời kỳ
chiếm hữu nô lệ nhưng cho đến nay vẫn chưa có một định nghĩa thống nhất
về lao động GVGĐ. Các nước khác nhau đang áp dụng những cách tiếp cận
chính sách, pháp luật khác nhau và sử dụng thuật ngữ “lao động GVGĐ” để

chỉ rất nhiều loại công việc khác nhau.
Định nghĩa đầu tiên về người lao động giúp việc gia đình trên thế giới
được đưa ra tại cuộc họp các chuyên gia do ILO tổ chức năm 1951. Theo đó,
người giúp việc gia đình được định nghĩa là “người làm công việc tại nhà
riêng, theo các hình thức và thời gian thanh toán tiền công khác nhau. Người
này có thể do một hoặc nhiều người thuê và người chủ không được tìm kiếm
lợi nhuận từ công việc này” [29, tr.11].
Với cách định nghĩa như vậy thì lao động GVGĐ được nhận biết bởi
hai tiêu chí cơ bản: một là công việc của lao động GVGĐ được thực hiện
trong “hộ gia đình”, hai là NSDLĐ không được tìm kiếm lợi nhuận từ công
việc của người lao động.
Đến năm 2011, theo Điều 1 của Công ước số 189 về “Việc làm bền vững

cho lao động GVGĐ” thì “công việc giúp việc gia đình” được quy định là công
việc được thực hiện trong một hoặc nhiều hộ gia đình; còn “người lao động giúp
việc gia đình” là người thực hiện công việc gia đình trong mối quan hệ lao động
việc làm. “Người thỉnh thoảng hoặc không thường xuyên thực hiện công việc gia

8


đình và không làm việc đó như một nghề nghiệp thì không phải là người lao
động GVGĐ” [29, tr. 11].
Như vậy theo Công ước 189, bổ sung thêm một tiêu chí đó là tính chất
công việc của lao động GVGĐ phải thường xuyên tức là đều đặn, không bị

gián đoạn; còn tính chất nghề nghiệp thì có thể hiểu là tính cố định, công việc
đấy là nghề để mưu sinh. Để được gọi là một người GVGĐ thì bản thân người
lao động đó phải thực hiện và coi GVGĐ là công việc ổn định, lâu dài, là
công việc mang lại nguồn thu nhập chính cho bản thân.
Theo luật Việc làm của Singapore (2008) “người GVGĐ là người được thuê
để làm việc nhà, làm vườn hoặc lái xe phục vụ mục đích cá nhân và không được coi
là người lao động được điều chỉnh bởi luật Việc làm” (Điều 2) [4, tr.78].
Đạo luật về việc làm số 265 năm 1955 của Malaysia đưa ra định nghĩa
về người GVGĐ hay người phục vụ trong gia đình theo cách gọi của nước
này (domestic servant) là: người được thuê lại để làm những công việc trong
gia đình, không liên quan tới bất kì hoạt động thương mại, kinh doanh hoặc
nghề nghiệp của người chủ gia đình. Họ có thể là người nấu cơm, lau dọn nhà

cửa, quản gia, chăm sóc trẻ, chăm sóc người bệnh, chăm sóc người già, lái xe,
làm vườn và các công việc khác cho hộ gia đình”.
Bộ luật Lao động của Philippin (1998) sử dụng thuật ngữ “phục vụ
trong nhà hoặc cho hộ gia đình” (domestic/ household service) nghĩa là “dịch
vụ GVGĐ hoặc hộ gia đình” là loại hình dịch vụ mà thông thường người sử
dụng lao động thuê người lao động vì nhu cầu hoặc mong muốn được thỏa
mãn nhu cầu tiện lợi cá nhân của người sử dụng lao động hoặc thành viên gia
đình họ, bao gồm cả dịch vụ lái xe riêng gia đình [4, tr. 53].
Luật lao động của Camphuchia (1997) quy định “Người giúp việc trong
gia đình” là những người lao động tham gia vào công việc chăm sóc chủ nhà
hay trông nom tài sản của chủ nhà để nhận thù lao” (Điều 4), [4, tr. 78].


9


Còn theo Luật lao động của Brunei (2002) “Người GVGĐ là bất kỳ
người nào dọn dẹp nhà cửa, chuồng trại hoặc làm vườn hoặc lái xe hoặc
liên quan đến các công việc của bất kỳ nhà ở, nhà ăn, câu lạc bộ hoặc tổ
chức nhà nước hoặc tư nhân” (Điều 2) [4, tr.78]. Với định nghĩa này ta
thấy: cách tiếp cận chính sách và pháp luật của Brunei khác với cách tiếp
cận chính sách và pháp luật của Campuchia. Nếu như Luật lao động của
Camphuchia quy định phạm vi làm việc của lao động GVGĐ chỉ giới hạn
trong hộ gia đình thì Luật lao động của Brunei quy định nơi làm việc của lao
động GVGĐ không chỉ trong hộ gia đình mà còn ở cả nhà ăn, câu lạc bộ hoặc

các tổ chức tư nhân hay nhà nước.
Tại Việt Nam, nghề giúp việc tại các gia đình

xuất hiện từ thời kỳ

phong kiến. Trước đây, vào khoảng năm 1401, trong cải cách chế độ của Hồ
Quý Ly có một quy định đó là hạn chế số lượng gia nô trong nhà quan. Gia nô
là kẻ làm các công việc từ đồng áng đến việc nhà và gần như không có quyền
tự do. Khi thực dân Pháp chiếm Hà Nội, đô thị này xuất hiện nghề giúp việc
cho các gia đình người Pháp và cả những gia đình người Việt ở tầng lớp trung
lưu, từ đó xuất hiện những cái tên "anh xe", "con sen", "u già"...Thương mại
phát triển, nhiều người Việt trở nên giàu có và họ cũng có nhu cầu thuê người

giúp việc, thế nên đầu thế kỷ XX, số người giúp việc tăng lên đáng kể, nhiều
gia đình mua xe tay và nuôi anh xe khỏe mạnh trong nhà để đưa ông chủ, bà
chủ đi chơi, công việc, đưa con cái họ đi học... Cũng như con sen, chị khâu, u
già... họ ở dãy nhà ngang của gia chủ và được trả lương theo tháng. Đến thời
kỳ đổi mới thì quan niệm về người giúp việc không còn nặng nề như thời bao
cấp. Các gia đình có điều kiện nhưng neo người đã thuê người ở nông thôn
giúp việc cho gia đình. Như vậy cho thấy LĐGVGĐ đã thực sự tồn tại trong
xã hội Việt Nam từ rất lâu nhưng phải đến Bộ luật Lao động năm 1994 mới
đề cập chính thức tới thuật ngữ giúp việc gia đình, tại Điều 2 quy định: “Bộ

10



luật này cũng được áp dụng đối với người học nghề, người giúp việc gia đình
và một số loại lao động khác được quy định tại Bộ Luật này và có những tính
chất đặc thù của loại hình lao động này tại các điều 28, điều 139 BLLĐ” [24].
Mặc dù có đề cập đến lao động giúp việc nhưng còn rất chung chung,
không có hướng dẫn cụ thể và chế tài đi kèm, do đó Bộ luật Lao động năm
2012 đã ra đời. Lần đầu tiên giúp việc gia đình được công nhận là một nghề
và được luật hóa, đây được đánh giá là bước tiến dài khi thông qua việc dành
một mục riêng (Mục 5 của Chương XI) gồm 5 điều (từ điều 179 đến điều
183) để điều chỉnh đối với LĐGVGĐ. Trong năm 2014, các quy định về lao
động giúp việc cũng ngày càng cụ thể hơn với Nghị định số 27/2014/NĐ-CP
và Thông Tư số 19/2014/TT-BLĐTBXH. Các quy định của các văn bản

pháp luật này đã nâng cao vị thế của lao động giúp việc trên thị trường lao
động và làm nhiều người trong xã hội có cái nhìn khác về những người hành
nghề giúp việc.
Theo qui định tại Điều 179, Bộ luật Lao động 2012 và tại Điều 3 nghị
định số 27/2014/NĐ-CP qui định chi tiết thi hành một số điều của Bộ luật Lao
động về lao động là giúp việc gia đình, lao động là người GVGĐ được xác
định là người lao động làm thường xuyên các công việc trong gia đình (là các
công việc trong hợp đồng lao động được lặp đi lặp lại theo một khoảng thời
gian nhất định (hằng giờ, hằng ngày, hằng tuần hoặc hằng tháng) của một
hoặc nhiều hộ gia đình. Các công việc trong gia đình bao gồm công việc nội
trợ, quản gia, chăm sóc trẻ, chăm sóc người bệnh, chăm sóc người già, lái xe,
làm vườn và các công việc khác cho hộ gia đình nhưng không liên quan đến

hoạt động thương mại. Trong đó, bao gồm người lao động sống tại gia đình
người sử dụng lao động và người lao động không sống tại gia đình người sử
dụng lao động [24].
Điều luật đã nêu rõ các công việc trong gia đình phải “không liên quan

11


đến hoạt động thương mại” và “người làm công việc giúp việc gia đình theo
hình thức khoán việc thì không thuộc đối tượng áp dụng của Bộ Luật”.
Nhìn chung, quan niệm của Việt Nam về lao động giúp việc gia đình có
cùng xu hướng với các nước trên thế giới. Các quốc gia khác nhau có cách

định nghĩa lao động GVGĐ có thể giống hoặc không giống nhau nhưng tựu
chung lại, định nghĩa đều đề cập đến 04 dấu hiệu đặc trưng liên quan đến lao
động GVGĐ:
Thứ nhất, phạm vi làm việc, đây là một tiêu chí cơ bản của công việc
LĐGVGĐ. Hầu hết các nước quy định phạm vi làm việc được thực hiện
trong: “Hộ gia đình”. Tuy nhiên có một số quốc gia thì quy định không chỉ
trong hộ gia đình. Ví dụ: Brunei; Tây Ban Nha.
Thứ hai, đó là LĐGVGĐ là loại hoạt động không liên quan đến hoạt
động thương mại. Ở Argentina (Nghị định No. 7.979/56) và Malaysia, pháp
luật liên quan loại trừ các hình thức lao động gắn với kinh doanh thương mại
hoặc chuyên môn được một người sử dụng lao động thực hiện tại nhà của
mình ra khỏi phạm vi của LĐGVGĐ. Brazin loại trừ công việc được thực

hiện vì mục đích phi lợi nhuận (Điều 1 của Đạo luật No. 5859 ngày 11 tháng
12 năm 1972). Ở điều 161 Bộ luật lao động của Guatemala đã loại những
công việc đem lại lợi nhuận hoặc vì mục đích kinh doanh của người sử dụng
lao động ra khỏi định nghĩa LĐGVGĐ [30].
Tuy nhiên ở Uruguay (Đạo luật số 18.065) liên quan đến những tiêu
chuẩn về lao động GVGĐ lại tập trung vào các nhiệm vụ dẫn đến “lợi ích
kinh tế trực tiếp” của người lao động GVGĐ. Như vậy cho thấy việc đòi hỏi
những kỹ năng của người lao động GVGĐ phải được đào tạo và có thể đem
lại lợi ích vật chất cho gia đình và cho cả nền kinh tế ở phạm vi rộng hơn.
Pháp, Thụy sĩ cũng có cách tiếp cận như vậy.
Thứ ba, về công việc của người lao động GVGĐ. Chủ yếu các quốc gia


12


quy định công việc của lao động GVGĐ liên quan đến hai lĩnh vực quan trọng
là chăm sóc gia đình và công việc gia đình. Một số nước có quy định thêm cả
bảo vệ, lái xe, người làm vườn là lao động GVGĐ (Tây Ban Nha, Nam phi…).
Thứ tư, là về tính chất thường xuyên của công việc. Hầu hết các quốc
gia quy định người lao động GVGĐ phải thực hiện công việc một cách
thường xuyên nghĩa là lặp đi lặp lại theo một khoảng thời gian nhất định
(hằng giờ, hằng ngày, hằng tuần hoặc hằng tháng) của một hoặc nhiều hộ gia
đình (ví dụ như tại Việt nam).
Như vậy, lao động GVGĐ là người lao động làm các công việc trong

một hoặc nhiều hộ gia đình từ chăm sóc gia đình và công việc gia đình một
cách thường xuyên, họ không phải là thành viên trong hộ gia đình sử dụng
người lao động, là người được thuê và được trả công trên cơ sơ thỏa thuận để
đáp ứng như cầu của người sử dụng lao động.
1.1.2. Đặc điểm của lao động giúp việc gia đình
Lao động GVGĐ cũng mang đầy đủ các yếu tố về năng lực pháp lý và
năng lực hành vi như các đối tượng lao động khác. Tuy nhiên do loại hình lao
động này có tính đặc thù riêng nên bên cạnh những đặc điểm chung của lao
động làm thuê, lao động GVGĐ còn có những đặc điểm đặc trưng riêng:
Thứ nhất, Lao động GVGĐ chủ yếu người lao động là nữ giới, có
trình độ học vấn thấp, có xuất thân từ các vùng nông thôn, có hoàn cảnh đặc
biệt, độ tuổi tầm trung niên là phổ biến.

- Về giới tính:
Ở Việt Nam, chưa có một thống kê quy mô toàn quốc về tỷ lệ tham gia
GVGĐ nhưng các nghiên cứu thường chỉ đề cập đến hai đối tượng chính là trẻ
em và phụ nữ. Lao động giúp việc gia đình là lĩnh vực có sự tham gia của lao
động chưa thành niên, trong đó cũng chủ yếu là nữ giới. Theo kết quả nghiên
cứu của ILO và GFCD cho biết: (98,7%) NGV là phụ nữ. Điều này phù hợp với

13


lý thuyết phân công lao động theo giới cũng như quan niệm của nhiều người
hiện nay trong xã hội vẫn coi công việc nội trợ là công việc của phụ nữ.

- Về độ tuổi:
Nhận thấy rằng, lao động GVGĐ có ở tất cả các nhóm tuổi từ 15 đến 60
tuổi, tuy nhiên tập trung yếu ở độ tuổi trung niên (36-55 tuổi), đặc biệt từ 40
tuổi trở đi Theo kết quả điều tra của IFGS 2011, có 61,5% người lao động
GVGĐ ở độ tuổi 36-55, 23,8% người lao động ở độ tuổi 35 trở xuống. Bởi lẽ
ở độ tuổi này phần lớn họ đã có con cái lớn và đến tuổi lao động, do đó họ có
điều kiện thoát ly gia đình để đi làm xa, hơn nữa, nhiều gia đình cũng thích
thuê những lao động ở độ tuổi này vì họ có thể ở lại với gia đình lâu hơn và
có kinh nghiệm làm việc gia đình cũng như chăm sóc các thành viên trong gia
đình tốt hơn. Bên cạnh đó, có một bộ phận là những người ở ngoài độ tuổi lao
động (trên 55 tuổi) tham gia vào thị trường lao động này, theo nghiên cứu có
khoảng 14,8% người lao động ở độ tuổi 56 trở lên nhưng NLĐ ở độ tuổi này

thường không được “ưa chuộng” vì nhóm phụ nữ này thường yếu, nắm bắt
công việc chậm không làm được công việc nặng nên nhiều hộ gia đình có tâm
lý ngại thuê người già vì hay đau ốm và bất tiện khi để người già chăm sóc,
phục vụ gia đình.
Chỉ có khoảng 3% ở độ tuổi 16-18, sở dĩ số lao động này còn khiêm tốn
bởi ở độ tuổi này ở nông thôn đa phần các em gái thường không còn đi học,
nên khi gia đình khó khăn thì để có thêm thu nhập thì các em tranh thủ ra thủ
đô làm thêm nghề GVGĐ, đối tượng này có có hội tham gia loại hình lao
động bởi dễ bảo, học việc nhanh và có thể chơi và trông em nhỏ, tuy nhiên
nhóm này thường trở lại quê nhà lập gia đình hoặc có mong muốn tìm kiếm
một công việc khác khi đến 19-20 tuổi nên tâm lý nhiều gia chủ không muốn
thuê đối tượng này vì tính ổn định thấp và dễ phát sinh nhiều vấn đề phức tạp

vì chưa đến tuổi trưởng thành như trộm cắp, dễ bị kẻ xấu lợi dụng xúi giục,
quan hệ bất chính với chủ nhà…
14


Như vậy, nhóm lao động phụ nữ ở độ tuổi 40-55 là nguồn tiềm năng
cho nhu cầu lao động GVGĐ ở thành thị.
- Về trình độ học vấn:
Ở một số nước, LĐGVGĐ được coi là công việc thấp hèn và thường
chỉ có những người sống ở nông thôn và có trình độ học vấn thấp làm công
việc này (Tersia S. Wessels, 2006). Do những quan niệm về nghề GVGĐ chỉ
dành cho người nông thôn và có học vấn thấp nên người dân sống ở thành thị

không có mong muốn làm công việc này và học vấn thấp và kỹ năng giao tiếp
hạn chế là những điểm khá đặc trưng của phần lớn NGV (Wang Zhuqing,
2009). Trong nghiên cứu của Viện Nghiên cứu xã hội của trường Đại học
Chulalongkom năm 2008, chủ yếu người LĐGVGĐ là phụ nữ và chủ yếu có
trình độ học vấn bậc tiểu học. Điều đáng nói là trong mẫu nghiên cứu có 4,8%
người GVGĐ có trình độ cao đẳng và 3,9% có trình độ đại học [30].
Theo kết quả điều tra tại Hà Nội và TP. HCM của IFGS, 2011 có
85,7% người lao động có trình độ học vấn trung học cơ sở trở xuống; trình độ
tiểu học trở xuống là 31,8%. Tỷ lệ tương ứng theo điều tra của GFCD, 2012 là
84,6% và 22%. Hiện nay trong xã hội cũng xuất hiện thêm một số người
LĐGVGĐ có trình độ cao như sinh viên đại học đi làm GVGĐ theo giờ tại
các gia đình người nước ngoài tại Việt Nam, tuy nhiên mới chỉ có một số

lượng ít nhưng có thể thấy đây cũng là một công việc đem lại thu nhập cao so
với nhiều nghề khác và hứa hẹn có nhiều thành phần lao động ở nhiều trình
độ khác nhau muốn gia nhập.
- Về điều kiện gia đình
Thực tế cho thấy đa số người lao động lựa chọn nghề giúp việc là do
kinh tế khó khăn. Họ đi làm để có thêm thu nhập vì tiền công nhận được từ
hoạt động lao động GVGĐ tương đối ổn định giúp họ trang trải các nhu cầu
của gia đình và cá nhân. Theo điều tra của IFGS, 2011, trước khi tham gia vào

15



thị trường lao động giúp việc gia đình, phần lớn người lao động làm nông
nghiệp hoặc các nghề nghiệp tự do (như phụ xây, buôn bán,…) ở địa phương.
Theo nhận định của người lao động, so với các gia đình xung quanh ở địa
phương, 47,3% người nhận định mức sống của gia đình mình thuộc mức
nghèo; 50,4% tự nhận mức sống gia đình ở mức trung bình.
Những phụ nữ này có gia cảnh khó khăn, đông con, cha mẹ già yếu, bệnh
tật, nghề nghiệp không ổn định, trình độ học vấn thấp; một số phụ nữ lớn tuổi
không có chồng, góa, ly thân, ly hôn (chiếm tới 20,7%). Có 65,7% người lao
động đi làm giúp việc gia đình vì lý do muốn có thêm thu nhập cho cuộc sống
bản thân và gia đình. Một số lý do khác được đưa ra là thấy bản thân phù hợp
với nghề giúp việc gia đình (9%), không tìm được việc làm khác (5,7%), không
biết làm nghề nào khác (5,7%), muốn thoát ly nghề nông (5,7%).

Đối với trẻ em đi làm GVGĐ cho các gia đình ở Hà Nội đều xuất thân
trong các gia đình nghèo, nhiều em có hoàn cảnh éo le (bố hoặc mẹ mất sớm,
bố mẹ ly thân hoặc bệnh tật…) [2, 7]. Trẻ em LĐGVGĐ chủ yếu xuất thân từ
nông thôn và trong một nghiên cứu cụ thể thì có tới 80% các em làm công
việc này có cha mẹ làm nghề nông; còn lại là làm công nhân, nội trợ hoặc
buôn bán nhỏ [26, 27, 32].
Tóm lại, đa phần là NLĐGVGĐ ở các quốc gia đều có những đặc điểm
chung về độ tuổi, đặc trưng về giới, có trình độ văn hóa không cao, có hoàn
cảnh xuất thân đặc biệt. Chính những đặc thù này đã tạo nên nét đặc trưng
trong đối tượng lao động cần được bảo vệ này.
Thứ hai, đa phần LĐGVGĐ chưa qua đào tạo kĩ năng nghề nghiệp,
chưa có kiến thức kỹ năng chuyên nghiệp.

Phần lớn lao động giúp việc gia đình tại Việt Nam chưa qua đào tạo
nghề. Theo nghiên cứu” Việc làm bền vững đối với LĐGVGĐ ở Việt Nam”
năm 2011 của ILO cho thấy chỉ có 16/600 (2,8%) được đào tạo về GVGĐ

16


trước khi đi làm. Còn đa phần những trường hợp được đào tạo để đi giúp việc
gia đình ở nước ngoài.
Thực trạng trên là do hai nguyên nhân: thứ nhất là do người lao động
chủ yếu xuất thân từ nông thôn, trình độ thấp, hiểu biết ít nên không nhận
thức được về giá trị của công việc phục vụ gia đình. Thứ hai là do các gia

đình thuê lao động quá bận với công việc của họ, họ không có thời gian để lựa
chọn người phục vụ nên tâm lý là thường khi phát sinh nhu cầu phải có người
giúp việc là nhận về gia đình làm việc ngay, người lao động không biết cái gì
thì sẽ bảo cái đấy sau.
Điều này gây ra một hệ quả trong quá trình người lao động làm việc tại
gia đình nhà chủ. Người lao động không biết cách đáp ứng những yêu cầu
công việc của gia đình người chủ, chẳng hạn có người nhà chủ dạy mãi nhưng
vẫn không biết sử dụng những đồ dùng phục vụ sinh hoạt hằng ngày như lò vi
sóng, điều hòa, máy giặt… một số người không biết nấu ăn, trong quan hệ
ứng xử với các thành viên của nhà chủ thì rất nhiều lao động không biết giao
tiếp, có trường hợp một phụ nữ trung niên đến làm phục vụ trong một gia đình
nhưng lại vẫn giữ nguyên cách giao tiếp như khi còn ở nhà mình: xưng mày,

tao với các con của chủ nhà… khi nấu ăn thì thích thế nào làm thế ấy vì cho
rằng mình là người nhiều tuổi hơn nên “ khôn” hơn.
Những biểu hiện này cho thấy tính thiếu chuyên nghiệp của phần lớn
những người đang làm công việc phục vụ gia đình hiện nay mà nguyên nhân
chính là họ không được đào tạo một cách bài bản. Điều này làm cho họ liên
tục bị mất việc và ảnh hưởng trực tiếp đến thu nhập của người lao động. Yêu
cầu đặt ra là cần chuyên môn hóa đào tạo nghề giúp việc gia đình trong thời
gian sớm nhất.
Thứ ba, phương thức tìm việc làm của người lao động, người tuyển
dụng lao động GVGĐ.

17



- Kênh tìm việc làm của đa số LĐGVGĐ chủ yếu thông qua họ
hàng/người quen, tỷ lệ người lao động tìm việc làm qua cơ sở giới thiệu việc
làm là rất thấp. Kết quả khảo sát ý kiến người giúp việc tại Hà Nội, TP. Hồ
Chí Minh 2012 của GFCD cho thấy, tỷ lệ số người tìm được công việc này
qua các trung tâm giới thiệu việc làm là 6,2%; qua bà con, họ hàng, bạn bè,
người quen là 68,9 % và tự tìm được là 10,3 % [19].
- Cũng giống như người lao động, kênh tìm người giúp việc của các gia
đình hiện nay phổ biến là thông qua bà con, họ hàng hay bạn bè, người quen
biết. Tỷ lệ ý kiến cho biết họ đã từng tìm NGV qua các trung tâm giới thiệu
việc làm chỉ chiếm 15,3 %. Tâm lý chung của các gia chủ là muốn có được

nguồn giới thiệu người giúp việc tin cậy, muốn biết những thông tin chính xác
về gia cảnh, địa chỉ sinh sống của người giúp việc. Thông qua người quen, họ
hàng giúp gia chủ có thể yên tâm về điều này trong khi các trung tâm giới
thiệu việc làm lại chưa đáp ứng được nhu cầu đó của các gia chủ.
Như vậy, GVGĐ là công việc đã có từ lâu ở Việt Nam. Cho đến nay
công việc này vẫn được đảm nhiệm bởi một bộ phận phụ nữ có trình độ học
vấn thấp hơn và mức sống nghèo hơn trong xã hội, hay có gia cảnh khó khăn.
LĐGVGĐ đang phải đối mặt với những trở ngại về tâm lý, kiến thức pháp
luật và kỹ năng làm việc. Trải qua thời gian, thái độ xã hội đã bớt đi sự kỳ thị,
coi thường đối với công việc GVGĐ và những người lao động thực hiện công
việc này. Song tình trạng thiếu tôn trọng LĐGVGĐ cũng như công việc của
họ vẫn còn tồn tại khiến cho không ít NGV phải giấu diếm nghề nghiệp của

mình. Bên cạnh đó, hiểu biết của người lao động về các quy định pháp luật
liên quan đến LĐGVGĐ còn hạn chế. Một bộ phận đáng kể NGV chưa nắm
được quyền và nghĩa vụ của mình cũng như của gia chủ. Đại đa số NGV
không qua đào tạo nghề. Những kiến thức, kỹ năng mà họ chuẩn bị cho công
việc chỉ dựa trên những kinh nghiệm cá nhân trong cuộc sống hàng ngày.

18


Những trở ngại này có thể đưa NGV đến nhiều nguy cơ bị lạm dụng, bóc lột
sức lao động. Tình trạng LĐGVGĐ cũng như người sử dụng lao động tự tìm
kiếm việc làm thông qua các mạng lưới những người họ hàng/thân quen diễn

ra khá phổ biến. Hoạt động giới thiệu cung ứng việc làm GVGĐ của các cơ sở
giới thiệu việc làm không được quản lý, giám sát dẫn đến tình trạng cung ứng
dịch vụ thiếu chất lượng.
1.1.3. Phân loại lao động giúp việc gia đình
Một là, lao động theo công việc được đảm nhiệm như: chăm sóc người
già, chăm sóc trẻ em, chăm sóc gia đình… lau dọn nấu bếp, trông trẻ, chăm
sóc người già, làm vườn, quản gia, bảo vệ.
Định nghĩa trên của ILO năm 2011 thì thuật ngữ “lao động giúp việc
gia đình” dùng để chỉ rất nhiều loại công việc khác nhau liên quan đến 2 lĩnh
vực quan trọng là: chăm sóc gia đình và công việc gia đình. Danh sách công
việc cụ thể mà người lao động GVGĐ đảm nhận thuộc các nhóm công việc:
Quản gia, nấu ăn, chăm sóc trẻ em, chăm sóc thành viên trong gia đình, bảo

vệ, trông coi nhà cửa, làm vườn [30, tr. 2].
Ở Mỹ, Quy chế tiền lương của bang California đưa ra những ví dụ về
những nghề trong hộ gia đình” (bầu bạn, nấu ăn, dọn dẹp nhà cửa, bảo mẫu,
chăm sóc bệnh nhân..vv), trong khi “người phục vụ cá nhân” là những người
được một chủ hộ gia đình hoặc người sử dụng lao động của bên thứ ba được
pháp luật công nhận trong ngành công nghiệp chăm sóc thuê để làm việc
trong hộ gia đình nhằm hỗ trợ người già hoặc những người khuyết tật vận
động hoặc tinh thần cần được giám sát.
Pháp luật ở một số nước quy định những danh mục các nhiệm vụ mà
người LĐGVGĐ có thể thực hiện, mà không liệt kê chúng trong các phân
nhóm nghề riêng biệt. Costa Rica. Điều 139 của Nghị định No. 1910-G of 1999
liệt kê dọn dẹp, nấu ăn, là quần áo, giặt giữ và trợ giúp. Italy. CCN. Điều 10,


19


×