Tải bản đầy đủ (.pdf) (98 trang)

Thủ tục gia nhập thị trường của doanh nghiệp theo pháp luật việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (812.74 KB, 98 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

HÀ VIỆT THU

THỦ TỤC GIA NHẬP THỊ TRƯỜNG CỦA DOANH NGHIỆP
THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - NĂM 2016


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

HÀ VIỆT THU

THỦ TỤC GIA NHẬP THỊ TRƯỜNG CỦA DOANH NGHIỆP
THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Chuyên ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 60380107


Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Thị Yến

HÀ NỘI - NĂM 2016


LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn này, tôi thật sự biết ơn sâu sắc và gửi lời cảm
ơn chân thành nhất đến Tiến sĩ Nguyễn Thị Yến – người đã hết lòng nhiệt tình
hướng dẫn, chỉ bảo và tạo mọi điều kiện cho tôi trong suốt quá trình nghiên
cứu Luận văn của mình.
Đồng thời, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành tới Ban giám hiệu, các
quý thầy cô của trường và đặc biệt là thầy cô, cán bộ Khoa Sau đại học
trường Đại học Luật Hà Nội đã tạo mọi điều kiện thuận lợi cho tôi trong suốt
quá trình học tập, nghiên cứu để hoàn thành luận văn thạc sĩ.
Tôi thân gửi lời cảm ơn đến gia đình và những người thân yêu đã luôn
ở cạnh động viên và giúp đỡ tôi trong quá trình học tập và thực hiện đề tài
nghiên cứu của mình.
Cuối cùng, tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô trong hội đồng chấm
luận văn đã cho tôi những đóng góp quý báu để hoàn chỉnh luận văn này.
Hà Nội, ngày

tháng

TÁC GIẢ

HÀ VIỆT THU

năm 2016



LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan rằng đây là công trình nghiên cứu của tôi, có sự hỗ
trợ từ giáo viên hướng dẫn là TS. Nguyễn Thị Yến. Các nội dung nghiên cứu
và kết quả trong đề tài này là trung thực. Những số liệu phục vụ cho việc phân
tích, nhận xét, đánh giá được chính tác giả thu thập từ các nguồn khác nhau có
ghi rõ trong phần tài liệu tham khảo. Ngoài ra, đề tài còn sử dụng một số nhận
xét, đánh giá cũng như số liệu của các tác giả, cơ quan tổ chức khác và cũng
có thể hiện trong phần tài liệu tham khảo. Nếu phát hiện có bất cứ sự gian lận
nào, tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm trước Hội đồng cũng như kết quả luận
văn của mình.

Hà Nội, ngày 2 tháng 8 năm 2016

Tác giả

Hà Việt Thu


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT VỀ DOANH NGHIỆP, THỦ TỤC GIA NHẬP
THỊ TRƯỜNG CỦA DOANH NGHIỆP VÀ PHÁP LUẬT VỀ THỦ TỤC
GIA NHẬP THỊ TRƯỜNG CỦA DOANH NGHIỆP .................................... 6
1.1. Khái quát về doanh nghiệp và thủ tục gia nhập thị trường của doanh
nghiệp ................................................................................................................ 6
1.1.1. Khái quát về doanh nghiệp ....................................................................... 6
1.1.2. Khái quát về thủ tục gia nhập thị trường của doanh nghiệp ..................... 12
1.2. Tổng quan pháp luật về thủ tục gia nhập thị trường của doanh nghiệp .. 15
1.2.1. Khái niệm pháp luật về thủ tục gia nhập thị trường của doanh nghiệp .... 15

1.2.2. Nội dung pháp luật về thủ tục gia nhập thị trường của doanh nghiệp ...... 16
1.2.3. Vai trò của pháp luật về thủ tục gia nhập thị trường của doanh nghiệp ... 18
1.2.4. Sơ lược sự hình thành phát triển pháp luật về thủ tục gia nhập thị trường
của doanh nghiệp .............................................................................................. 19
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ THỦ TỤC GIA NHẬP THỊ
TRƯỜNG CỦA DOANH NGHIỆP............................................................... 26
2.1. Thực trạng thủ tục gia nhập thị trường của doanh nghiệp kinh doanh
trong ngành nghề kinh doanh thông thường ................................................ 26
2.1.1. Quy định về điều kiện thành lập doanh nghiệp........................................ 28
2.1.2. Quy định về trình tự, thủ tục đăng ký doanh nghiệp ................................ 41
2.2. Thực trạng thủ tục gia nhập thị trường của doanh nghiệp kinh doanh
trong ngành nghề kinh doanh có điều kiện ................................................... 47
2.2.1. Quy định về ngành nghề kinh doanh phải được cấp giấy phép sau khi được
cấp giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp ..................................................... 51
2.2.2. Quy định về ngành nghề kinh doanh phải thỏa mãn các điều kiện mà
không cần cấp phép sau khi được cấp giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp . 63
2.2.3. Quy định về ngành nghề kinh doanh phải được cấp giấy phép thành lập mà
không qua thủ tục cấp giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp ......................... 66


CHƯƠNG 3: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP
LUẬT DOANH NGHIỆP VỀ THỦ TỤC GIA NHẬP THỊ TRƯỜNG CỦA
DOANH NGHIỆP Ở VIỆT NAM.................................................................. 70
3.1. Phương hướng hoàn thiện pháp luật Doanh nghiệp về thủ tục gia nhập
thị trường của doanh nghiệp đáp ứng yêu cầu cải cách hành chính và hội
nhập quốc tế ở Việt Nam hiện nay................................................................. 70
3.1.1. Đảm bảo thực hiện quyền tự do kinh doanh của người dân ..................... 70
3.1.2. Đảm bảo yêu cầu tăng cường hiệu lực quản lý nhà nước đối với doanh
nghiệp .............................................................................................................. 73
3.1.3. Đảm bảo yêu cầu thực hiện cam kết quốc tế và hoàn thiện hệ thống pháp

luật Việt Nam thời kỳ hội nhập......................................................................... 74
3.2. Các giải pháp hoàn thiện pháp luật doanh nghiệp Việt Nam về thủ tục
gia nhập thị trường của doanh nghiệp ở Việt Nam hiện nay. ...................... 76
3.2.1. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về thủ tục gia nhập thị trường của doanh
nghiệp .............................................................................................................. 76
3.2.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả thực thi quy định về thủ tục gia nhập thị
trường của doanh nghiệp .................................................................................. 85
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 90
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hội nhập quốc tế đã và đang trở thành vấn đề quan trọng mang tính cấp
thiết đối với tất cả các quốc gia trên thế giới. Chính vì thế, xu hướng hội nhập và
quốc tế hóa đã diễn ra một cách mạnh mẽ, nhanh chóng trên phạm vi toàn cầu và
ở mọi lĩnh vực, đặc biệt là kinh tế. Vấn đề chủ động hội nhập quốc tế, đặc biệt là
hội nhập kinh tế quốc tế gắn kết với xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ được
quán triệt nhất trong các văn kiện Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam. Đối với
Việt Nam, năm 2015 – 2016 là năm của hội nhập, năm bản lề của chiến lược 10
năm và năm kết thúc kế hoạch 5 năm cải cách thủ tục hành chính. Ngày 31-122015, Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC) chính thức hình thành và đi vào hoạt
động trong đó có Việt Nam. Đầu năm 2016, Việt Nam tiếp tục ký kết Hiệp định
đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) với 11 nước đối tác. Để đáp ứng yêu cầu
của công cuộc hội nhập, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp nhằm nâng
cao hiệu quả hoạt động, giảm chi phí, nâng cao năng lực cạnh tranh, tạo niềm tin
về môi trường đầu tư, kinh doanh của Việt Nam, việc sửa đổi, hoàn thiện pháp
luật và cải cách thủ tục hành chính là một trong những yêu cầu cấp thiết trong
giai đoạn hiện nay. Năm 2014, Quốc hội đã ban hành một số Luật tạo môi trường

kinh doanh hấp dẫn các nhà đầu tư trong và ngoài nước để qua đó tăng cường thu
hút và huy động mọi nguồn lực và vốn đầu tư vào sản xuất, kinh doanh như Luật
Doanh nghiệp và Luật Đầu tư có hiệu lực kể từ ngày 01/7/2015. Để Việt Nam
thực sự trở thành mảnh đất màu mỡ thu hút các nhà đầu tư thì việc xây dựng hệ
thống văn bản pháp Luật Doanh nghiệp điều chỉnh về thủ tục gia nhập thị trường
của doanh nghiệp là vấn đề cấp thiết và cần được quan tâm đúng đắn .
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Xuất phát từ vai trò quan trọng của việc nâng cao sức hấp dẫn của môi
trường kinh doanh ở Việt Nam để thu hút các nguồn lực trong và ngoài nước,
pháp luật về thủ tục gia nhập thị trường của doanh nghiệp luôn được sự quan tâm
của các nhà nghiên cứu khoa học. Luật Doanh nghiệp với tư cách là đạo luật
chính điều chỉnh các vấn đề về doanh nghiệp trong đó có nội dung về thủ tục gia
nhập thị trường của doanh nghiệp đã có nhiều sửa đổi, bổ sung để đáp ứng với
những biến đổi liên tục của nền kinh tế hiện nay. Theo đó, có rất nhiều công


2

trình khoa học nghiên cứu về vấn đề trên, có thể kể đến: Trần Huỳnh Thanh
Nghị, “Cải cách thủ tục thành lập doanh nghiệp ở Việt Nam: Nhìn từ khía cạnh
pháp lý qua báo cáo của ngân hàng thế giới”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số
7(279), 2011; Đậu Thị Quyên: “Gian dối trong quá trình thành lập doanh
nghiệp”, Tạp chí Luật học, số 11, 2011; Dương Đăng Huệ, Nguyễn Lê Trung,
“Về vấn đề kiện toàn hệ thống Cơ quan đăng ký kinh doanh ở nước ta hiện nay”,
tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 1/2004; Nguyễn Như Chính, “Cải cách thủ tục
gia nhập thị trường góp phần đảm bảo môi trường kinh doanh ở Việt Nam”, tạp
chí Luật học, số 11/2010…Ngoài ra có rất nhiều các bài bình luận, đánh giá của
các chuyên gia, nhiều luận văn thạc sĩ, công trình nghiên cứu khoa học khác tại
các cơ sở giáo dục Đại học chuyên ngành Luật cũng đã lựa chọn những nội dung
nêu trên làm đề tài nghiên cứu qua đó đề xuất, kiến nghị giải pháp nhằm hoàn

thiện pháp luật trong lĩnh vực này.
Tuy nhiên, những công trình nghiên cứu kể trên chỉ dừng lại phân tích
chung về thành lập doanh nghiệp, thủ tục đăng ký doanh nghiệp thông thường
hoặc tách riêng nghiên cứu về điều kiện kinh doanh đối với những ngành nghề
kinh doanh có điều kiện mà chưa có sự nghiên cứu tổng hợp các vấn đề pháp lý
liên quan đến thủ tục gia nhập thị trường của doanh nghiệp ở tất cả các ngành
nghề kinh doanh bao gồm ngành nghề kinh doanh thông thường và ngành nghề
kinh doanh có điều kiện. Bên cạnh đó với yêu cầu cải cách thủ tục hành chính
hơn nữa để đáp ứng được xu thế hội nhập quốc tế đòi hỏi cần phải tiếp tục
nghiên cứu, bổ sung để góp phần hoàn thiện hàng lang pháp lý cho doanh nghiệp
khi gia nhập thị trường. Do đó, với đề tài này, Luận văn sẽ tập trung nghiên cứu
toàn diện các vấn đề pháp lý liên quan đến thủ tục gia nhập thị trường của doanh
nghiệp ở ngành nghề kinh doanh thông thường cho đến ngành nghề kinh doanh
có điều kiện. Đồng thời làm rõ những điểm hạn chế, bất cập chưa được đề cập
đến trong các công trình nghiên cứu khoa học trước đây từ đó đề xuất những
kiến nghị, giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của Việt Nam từ chính
việc cải thiện thủ tục gia nhập thị trường của doanh nghiệp và quản lý nhà nước
đối với việc đăng ký doanh nghiệp trong giai đoạn hiện nay.


3

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
Luận văn có đối tượng nghiên cứu là các nội dung, quy định về bản chất
pháp lý về doanh nghiệp, về các thủ tục đăng ký doanh nghiệp của doanh nghiệp
kinh doanh trong ngành nghề kinh doanh thông thường và doanh nghiệp kinh
doanh ngành nghề có điều kiện qua phân tích các trường hợp cụ thể như:
- Quy định về ngành nghề kinh doanh phải được cấp giấy phép sau khi
được cấp giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp trong đó đi phân tích về ngành
nghề kinh doanh xăng dầu, cơ sở y tế tư nhân kinh doanh dịch vụ xét nghiệm vi

sinh vật gây bệnh truyền nhiễm, một số ngành nghề phải có yêu cầu về vốn pháp
định...
- Quy định về ngành nghề kinh doanh phải thỏa mãn các điều kiện mà
không cần cấp phép sau khi được cấp giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp,
trong đó phân tích về hoạt động mua bán váng trang sức, mỹ nghệ và một số
ngành nghề trong lĩnh vực thủy sản.
- Quy định về ngành nghề kinh doanh phải được cấp giấy phép thành lập
và hoạt động mà không qua thủ tục cấp giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp
trong đó phân tích về Công ty kinh doanh Chứng khoán, hành nghề luật sư.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài là Luật Doanh nghiệp năm 2014, Luật Đầu
tư năm 2014 và các văn bản hướng dẫn thi hành.
4. Mục tiêu nghiên cứu của luận văn
Thứ nhất, luận văn nghiên cứu những điểm mới của Luật Doanh nghiệp
năm 2014, Luật Đầu tư năm 2014 về thủ tục gia nhập thị trường của doanh
nghiệp so với Luật Doanh nghiệp năm 2005 và Luật Đầu tư năm 2005.
Thứ hai, luận văn đã phân tích và đánh giá một cách toàn diện và khách
quan thực trạng các quy định của pháp luật về thủ tục đăng ký doanh nghiệp.
Luận văn đã chỉ ra được những ưu điểm và hạn chế trong các quy định pháp
Luật Doanh nghiệp và việc áp dụng pháp luật vào thực tiễn thi hành về thủ tục
gia nhập thị trường doanh nghiệp.
Thứ ba, luận văn đề ra được phương hướng và các giải pháp đồng bộ, cụ
thể để khắc phục những hạn chế, bất cập góp phần hoàn thiện pháp Luật Doanh
nghiệp và cải cách thủ tục hành chính liên quan đến đăng ký doanh nghiệp.


4

5. Các câu hỏi nghiên cứu của luận văn
Để đạt được mục tiêu nói trên, luận văn phải trả lời các câu hỏi sau đây:
- Đưa ra khái niệm doanh nghiệp và pháp luật về thủ tục gia nhập thị

trường của doanh nghiệp? Các nội dung cơ bản của pháp luật về thủ tục gia nhập
thị trường của doanh nghiệp?
- Pháp luật Việt Nam hiện hành quy định về thủ tục gia nhập thị trường
của doanh nghiệp kinh doanh ngành nghề kinh doanh thông thường?
- Pháp luật Việt Nam hiện hành quy định về thủ tục gia nhập thị trường
của doanh nghiệp kinh doanh ngành nghề kinh doanh có điều kiện?
- Các quy định của pháp luật hiện hành đã phù hợp với thực tiễn và xu
hướng hội nhập thế giới hay chưa?
- Các giải pháp nhằm hoàn thiện hơn nữa pháp luật về thủ tục gia nhập thị
trường của doanh nghiệp là gì?
6. Các phương pháp nghiên cứu áp dụng để thực hiện luận văn
Luận văn sử dụng phương pháp nghiên cứu duy vật biện chứng của chủ
nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, đồng thời dựa trên nghiên cứu từ
thực tiễn pháp luật về thủ tục gia nhập thị trường của doanh nghiệp. Ngoài ra,
luận văn còn sử dụng phương pháp phân tích, so sánh, tổng hợp, đối chiếu để
làm rõ những quy định của pháp luật Việt Nam, từ đó phân tích, đánh giá về sự
phù hợp của pháp luật Việt Nam với xu hướng hội nhập hiện nay. Qua đó, đưa ra
những giải pháp nhằm hướng tới việc hoàn thiện các quy định pháp luật về thủ
tục gia nhập thị trường của doanh nghiệp.
7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
Từ khi Luật Doanh nghiệp và Luật Đầu tư mới ban hành năm 2014 cho
đến nay chưa có nhiều đề tài đề cập chuyên sâu về các thủ tục gia nhập thị
trường của doanh nghiệp trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay. Các kết quả
nghiên cứu của đề tài này có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo ở các cơ sở
đào tạo và nghiên cứu về luật học. Những kết luận và đề xuất, kiến nghị mà luận
văn nêu ra đều có cơ sở khoa học và thực tiễn, vì vậy chúng có giá trị tham khảo
trong việc sửa đổi pháp luật và trong công tác thi hành pháp luật về đăng ký
doanh nghiệp hiện nay.



5

8. Bố cục của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo luận văn có 3
Chương:
Chương 1. Khái quát về doanh nghiệp, thủ tục gia nhập thị trường của
doanh nghiệp và phát luật về thủ tục gia nhập thị trường của doanh nghiệp.
Chương 2. Thực trạng pháp luật về thủ tục gia nhập thị trường của doanh
nghiệp.
Chương 3: Phương hướng và giải pháp hoàn thiện pháp Luật Doanh
nghiệp về thủ tục gia nhập thị trường của doanh nghiệp ở Việt Nam


6

CHƯƠNG 1
KHÁI QUÁT VỀ DOANH NGHIỆP, THỦ TỤC GIA NHẬP THỊ
TRƯỜNG CỦA DOANH NGHIỆP VÀ PHÁP LUẬT VỀ THỦ TỤC GIA
NHẬP THỊ TRƯỜNG CỦA DOANH NGHIỆP
1.1. Khái quát về doanh nghiệp và thủ tục gia nhập thị trường của
doanh nghiệp
1.1.1. Khái quát về doanh nghiệp
1.1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của doanh nghiệp
Lý luận và thực tiễn đã chứng minh sự ra đời và phát triển của hoạt động
kinh doanh là một hiện tượng khách quan. Nền sản xuất hàng hóa khi phát triển
đến một mức độ nhất định sẽ nảy sinh nhu cầu mở rộng kinh doanh. Con người
khi có nhu cầu hoạt động kinh doanh, tất yếu sẽ nảy sinh nhu cầu về vốn và nhu
cầu chia sẻ rủi ro. Chính điều này đã thúc đẩy các nhà hoạt động kinh doanh liên
kết lại với nhau và tổ chức theo một cấu trúc nhất định để tiến hành sản xuất
kinh doanh. Theo đó, doanh nghiệp ra đời là quy luật tất yếu của nền kinh tế và

sự hình thành và phát triển của các doanh nghiệp còn bị tác động bởi nhiều yếu
tố chủ quan. Lịch sử phát triển của nhân loại cũng như nền kinh tế thế giới đã
trải qua nhiều phương thức sản xuất với hình thức tổ chức kinh doanh khác nhau.
Ở mỗi quốc gia và trong từng giai đoạn phát triển kinh tế, với những đặc điểm về
chính trị - xã hội, văn hóa, phong tục tập quán… khác nhau dẫn đến hoạt động
kinh doanh có vai trò và vị trí được nhìn nhận khác nhau. Vì vậy, khái niệm
doanh nghiệp tương ứng với mỗi giai đoạn phát triển của nền kinh tế, ở mỗi quốc
gia, mỗi khu vực sẽ có những cách hiểu không giống nhau và luôn mang những
nét đặc thù.
Hiện nay, Việt Nam đang trong thời kỳ hội nhập với những bước chuyển
mình quan trọng đối với nền kinh tế đất nước, với ý nghĩa tạo tiền đề lý luận cho
việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật về doanh nghiệp, quan điểm về doanh
nghiệp cần được tiếp cận phù hợp với xu hướng phổ biến, đáp ứng đòi hỏi của
hội nhập quốc tế. Để thống nhất cách hiểu về doanh nghiệp, chúng ta xem xét
khái niệm doanh nghiệp từ hai góc độ: kinh tế - xã hội và pháp lý, gắn với những
yếu tố của nền kinh tế thị trường.


7

Dưới góc độ kinh tế - xã hội: doanh nghiệp được coi là thành tố cơ bản của
hệ thống kinh tế - xã hội. Doanh nghiệp không phải là hiện tượng riêng có của
nền kinh tế thị trường, nhưng lý luận và thực tiễn đều chỉ ra rằng, chỉ trong điều
kiện kinh tế thị trường, doanh nghiệp mới có thể tồn tại và phát triển với đúng ý
nghĩa đích thực của nó.
Trong cơ chế kinh tế kế hoạch tập trung, Nhà nước quản lý nền kinh tế chủ
yếu bằng mệnh lệnh hành chính dựa trên hệ thống chỉ tiêu pháp lệnh. Tất cả phương
thức sản xuất, nguồn vật tư, tiền vốn, định giá sản phẩm, tổ chức bộ máy, nhân sự,
tiền lương… đều do các cấp có thẩm quyền quyết định. Có thể thấy cơ quan quản lý
nhà nước làm thay chức năng quản lý sản xuất của doanh nghiệp.

Bước sang nền kinh tế thị trường chúng ta có thể khẳng định rằng, nền sản
xuất hàng hóa mới chính là cơ sở quyết định của sự tồn tại hoạt động kinh
doanh. Trong khi đó, “sản xuất hàng hóa và lưu thông hàng hóa là những hiện
tượng thuộc về nhiều phương thức sản xuất khác nhau, tuy rằng quy mô và tầm
quan trọng của chúng không giống nhau” 1. Trong nền kinh tế thị trường, nghề
kinh doanh có vai trò đặc biệt quan trọng và được xã hội tôn vinh. Với sự chi
phối của các quy luật kinh tế khách quan, hoạt động kinh doanh và các mô hình
tổ chức kinh doanh trong nền kinh tế thị trường ngày càng phong phú, đa dạng
cả về hình thức và cách thức tổ chức vận hành. Từ điển Tiếng Việt định nghĩa
“doanh nghiệp là một hình thức tổ chức kinh tế làm công việc kinh doanh”. Theo
đó, xét về mặt bản chất, doanh nghiệp là một loại hình tổ chức nên mang những
đặc điểm chung như bao gồm nhiều thành viên, có một cấu trúc rõ ràng để các
thành viên thực hiện phần việc của mình. Có thể nói, đặc trưng riêng có của
doanh nghiệp, phân biệt doanh nghiệp với các đơn vị khác như cơ quan nhà
nước, tổ chức xã hội, trường học, bệnh viện… chính là mục tiêu mà doanh
nghiệp luôn hướng tới đó là lợi nhuận từ hoạt động sản xuất kinh doanh. Theo
đó, kinh doanh là một phạm trù gắn liền với sản xuất hàng hóa, là tổng thể các
hình thức, phương pháp, biện pháp nhằm tổ chức các hoạt động kinh tế, phản
ánh mối quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất, phân phối, trao
đổi, tiêu dùng của cải vật chất xã hội nhằm thu về một giá trị lớn hơn giá trị đã
bỏ ra ban đầu. Như vậy, dưới góc độ kinh tế - xã hội, doanh nghiệp được tổ chức
1

C.Mác và Ph.Ăng – ghen (1993) Toàn tập, tập 23, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.175.


8

theo một cấu trúc nhất định để sử dụng vốn, bộ máy quản lý, lực lượng lao động
nhằm thu lợi nhuận sau một thời gian hoạt động. Với cách hiểu trên đây, khái

niệm doanh nghiệp ở Việt Nam không đồng nghĩa với khái niệm chủ thể kinh
doanh theo quan niệm phổ biến ở nhiều nước trên thế giới, coi doanh nghiệp là
chủ thể pháp luật bao gồm cả cá nhân và tổ chức. Theo đó, doanh nghiệp ở Việt
nam chỉ là một trong rất nhiều chủ thể kinh doanh được pháp luật ghi nhận để
điều chỉnh. Có thể khẳng định rằng, với những đặc điểm nêu trên, doanh nghiệp
chỉ thực sự phát huy lợi thế trong nền kinh tế thị trường. Xuất phát từ mục tiêu
xây dựng một nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, ở Việt Nam
hiện nay, khái niệm doanh nghiệp và các yếu tố ảnh hưởng đến việc thành lập,
hoạt động của doanh nghiệp không những bị chi phối bởi những quy luật của nền
kinh tế thị trường mà còn bị chi phối với định hướng xây dựng xã hội chủ nghĩa.
Dước góc độ pháp lý: Doanh nghiệp được hiểu là một loại chủ thể pháp
luật (có tư cách pháp lý độc lập) và có nghề nghiệp kinh doanh. Khái niệm
doanh nghiệp cũng được pháp luật Việt Nam quy định tại Luật Công ty năm
1990, Luật Doanh nghiệp năm 1999, Luật Doanh nghiệp năm 2005 và hiện nay
là Luật Doanh nghiệp năm 2014. Do đó, khái niệm doanh nghiệp cũng có nhiều
thay đổi, từ quan điểm doanh nghiệp là “một đơn vị kinh doanh được thành lập
nhằm mục đích chủ yếu là thực hiện các hoạt động kinh doanh” với nội hàm khá
rộng cho đến “Doanh nghiệp là tổ chức có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao
dịch, được đăng ký thành lập theo quy định của pháp luật nhằm mục đích kinh
doanh” với nội hàm hẹp hơn. Doanh nghiệp theo đó có những đặc điệm pháp lý
cơ bản sau:
Thứ nhất, doanh nghiệp là một chủ thể pháp luật. Khái niệm doanh nghiệp
trong luật pháp có ý nghĩa là danh tính pháp lý chỉ những chủ thể hành nghề kinh
doanh để phân biệt với những chủ thể không có nghề nghiệp này.Việc đặt ra khái
niệm doanh nghiệp với cách hiểu như vậy là tiền đề cần thiết để xây dựng cơ chế
điều chỉnh pháp luật đảm bảo sự bình đẳng trong kinh doanh, một đòi hỏi quan
trọng của cơ chế kinh tế thị trường. Doanh nghiệp không đơn thuần chỉ là những
“cơ sở kinh tế” hay “tài sản” của những người tạo ra doanh nghiệp, mà dưới góc
độ pháp lý, doanh nghiệp có tư cách của chủ thể pháp luật. Ngoại trừ doanh
nghiệp tư nhân, doanh nghiệp tồn tại với tư cách pháp lý độc lập (tương đối) với



9

chủ sở hữu của nó. Mối quan hệ giữa chủ sở hữu của doanh nghiệp và doanh
nghiệp không chỉ đơn thuần là mối quan hệ giữa chủ sở hữu với đối tượng của
quyền sở hữu, mà còn là mối quan hệ giữa các chủ thể pháp lý độc lập.
Tính chất chủ thể pháp lý độc lập của doanh nghiệp cho phép doanh nghiệp
có quyền tự chủ, đồng thời phải chịu trách nhiệm trong việc tổ chức hoạt động
mà doanh nghiệp tự hoạt động kinh doanh hay những người làm công, những
người được ủy quyền theo hợp đồng của doanh nghiệp thực hiện các hoạt động
kinh doanh nhân danh doanh nghiệp. Trách nhiệm pháp lý cơ bản của doanh nghiệp
về hoạt động kinh doanh thể hiện ở chỗ những cam kết tài chính, những nợ nần
trong kinh doanh…, doanh nghiệp phải chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của
mình và còn có thể vượt ra khỏi phạm vi những tài sản đó trong trường hợp nhất
định do pháp luật quy định (trường hợp những doanh nghiệp theo chế độ trách
nhiệm vô hạn).
Thứ hai, để được công nhận tư cách chủ thể pháp lý, doanh nghiệp phải
được đăng ký doanh nghiệp theo thủ tục nhất định do pháp luật quy định. Việc
đăng ký doanh nghiệp là cơ sở để xác định tính chất chủ thể pháp lý độc lập của
doanh nghiệp gắn với những đặc điểm của hoạt động kinh doanh. Đặc điểm này
xuất phát từ yêu cầu của quản lý nhà nước đối với hoạt động kinh doanh trong
nền kinh tế thị trường. Đây là một đặc điểm rất quan trọng bởi nó thể hiện thái
độ của Nhà nước đối với tổ chức kinh tế, xác định tổ chức ấy có đủ hay không
đủ điều kiện được công nhận là một doanh nghiệp. Theo đó, hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp sẽ được pháp luật bảo vệ nhằm chống lại những hành vi
xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp. Hơn nữa, việc đăng ký
doanh nghiệp sẽ tạo ra một môi trường cạnh tranh an toàn và minh bạch khi các
nhà đầu tư dễ dàng tìm hiểu thông tin về đối tác từ số đăng ký doanh nghiệp.
Việc đăng ký doanh nghiệp vì thế có thể giúp cho các doanh nghiệp tránh được

tình trạng lừa đảo bằng việc bưng bít thông tin hay cạnh tranh không lành mạnh
trong hoạt động kinh doanh vốn đã có nhiều rủi ro.
Thứ ba, doanh nghiệp có nghề nghiệp kinh doanh. Nếu một chủ thể nào đó
thực hiện hành vi kinh doanh có tính chất đơn lẻ, vụ việc thì không thể xem chủ
thể đó là doanh nghiệp. Đây cũng là căn cứ quan trọng để phân biệt doanh
nghiệp với các chủ thể khác. Ngoài ra, bản thân nghề nghiệp kinh doanh đã quy


10

định mục đích thu lợi nhuận trong các hoạt động của doanh nghiệp. Những tổ
chức được thành lập không phải vì mục đích kinh doanh cũng có thể hoạt động
kinh doanh trong những trường hợp nhất định, tuy nhiên hoạt động chính của tổ
chức này không phải là hoạt động kinh doanh, và vì vậy không thể được xem là
một doanh nghiệp cho dù doanh số mà tổ chức đó thu được từ việc kinh doanh
có thể rất lớn. Mặt khác, cũng cần hiểu rằng, doanh nghiệp coi kinh doanh là
nghề nghiệp nhưng điều đó không có nghĩa là doanh nghiệp chỉ thực hiện hoạt
động kinh doanh. Với tính chất là một thực thể “sống” trong xã hội, để có thể tồn
tại và hoạt động kinh doanh, doanh nghiệp có thể và cần phải thực hiện nhiều
hoạt động khác nhau không phải là hoạt động kinh doanh nhằm đáp ứng nhu cầu
của mình hoặc theo quy định của pháp luật. Điều này làm xuất hiện trên thực tế
có nhiều hoạt động phi kinh doanh được thực hiện bởi doanh nghiệp.
Trên đây là một số vấn đề lý luận cơ bản về khái niệm doanh nghiệp để
nhìn nhận một cách tổng quát từ phương diện kinh tế - xã hội và phương diện
pháp lý. Có thể nói, những đặc trưng được chỉ ra ở trên sẽ là nền tảng, là cơ sở
khoa học cho pháp luật về doanh nghiệp được ban hành và hoàn thiện trong điều
kiện Việt Nam hiện nay.
1.1.1.2. Các loại hình doanh nghiệp theo pháp luật Việt Nam hiện hành
Việc phân loại doanh nghiệp nhằm các mục đích khác nhau và được dựa
trên các tiêu chí khác nhau. Từ góc độ nghiên cứu và lập pháp, việc phân loại

doanh nghiệp có ý nghĩa quan trọng cho việc lựa chọn cơ chế điều chỉnh pháp
luật thích hợp đối với doanh nghiệp, cả về quản lý nhà nước và quản trị doanh
nghiệp.2
Căn cứ vào hình thức pháp lý của doanh nghiệp, theo Luật Doanh nghiệp
năm 2014 thì các loại hình doanh nghiệp ở Việt Nam bao gồm:
Doanh nghiệp tư nhân: là doanh nghiệp do một cá nhân là chủ và tự chịu
trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của doanh nghiệp.
Mỗi cá nhân chỉ được thành lập một doanh nghiệp tư nhân.
Công ty hợp danh: là doanh nghiệp trong đó có ít nhất hai thành viên là chủ
sở hữu công ty, cùng kinh doanh dưới một tên chung (gọi là thành viên hợp
2

Đồng Ngọc Ba, (2005), Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc hoàn thiện pháp luật về doanh nghiệp ở Việt

Nam, Luận án tiến sĩ luật học, Đại học Luật Hà Nội, Hà nội, Tr. 22.


11

danh). Thành viên hợp danh phải là cá nhân và chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài
sản của mình về các nghĩa vụ của công ty. Ngoài ra trong công ty hợp danh còn
có thành viên góp vốn.
Công ty trách nhiệm hữu hạn (bao gồm công ty trách nhiệm hữu hạn một
thành viên và công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên) là doanh
nghiệp mà các thành viên trong công ty chịu trách nhiệm về các khoản nợ và
nghĩa vụ tài sản khác của công ty trong phạm vi số vốn điều lệ của công ty.
Công ty cổ phần là doanh nghiệp mà vốn điều lệ của công ty được chia
thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần. Cá nhân hay tổ chức sở hữu cổ phần
của doanh nghiệp được gọi là cổ đông và chịu trách nhiệm về các khoản nợ và
các nghĩa vụ tài sản khác trong phạm vi số vốn đã góp vào doanh nghiệp.

Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được thành lập theo Luật Đầu
tư nước ngoài năm 1996 chưa đăng ký lại hay chuyển đổi theo quy định.
Căn cứ vào chế độ trách nhiệm, có thể phân loại doanh nghiệp thành doanh
nghiệp có chế độ trách nhiệm vô hạn và doanh nghiệp có chế độ trách nhiệm hữu
hạn, cụ thể:
Doanh nghiệp có chế độ trách nhiệm vô hạn là loại hình doanh nghiệp mà ở
đó chủ sở hữu doanh nghiệp có nghĩa vụ trả nợ thay cho doanh nghiệp bằng tất
cả tài sản của mình, khi doanh nghiệp không đủ tài sản để thực hiện các nghĩa vụ
của nó. Theo pháp luật Việt Nam hiện nay có hai loại doanh nghiệp có chế độ
trách nhiệm vô hạn là Doanh nghiệp tư nhân và Công ty hợp danh.
Doanh nghiệp có chế độ trách nhiệm hữu hạn là loại hình doanh nghiệp mà
ở đó chủ sở hữu phải chịu trách nhiệm về mọi khoản nợ và nghĩa vụ tài chính
của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn đã góp vào doanh nghiệp (vốn điều lệ).
Theo pháp luật Việt Nam hiện nay, doanh nghiệp có chế độ trách nhiệm hữu hạn
gồm: Công ty trách nhiệm hữu hạn, Công ty cổ phần, Doanh nghiệp liên doanh
và Doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài không tiến hành đăng lý lại theo
Nghị định số 194/2013/NĐ-CP ngày 21/11/2013 của Chính Phủ về việc đăng ký
lại, chuyển đổi doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và đổi giấy phép đầu tư
của dự án đầu tư theo hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh.


12

1.1.2. Khái quát về thủ tục gia nhập thị trường của doanh nghiệp
1.1.2.1. Khái niệm thủ tục gia nhập thị trường
Hiện nay khi nói đến thuật ngữ “gia nhập thị trường”, “khởi sự doanh
nghiệp” hay “thành lập doanh nghiệp”…chúng ta đều hiểu nội hàm của những
thuật ngữ trên hướng tới những thủ tục hành chính cần thiết, những điều kiện cần
và đủ để một doanh nghiệp có thể được khai sinh và bắt đầu công việc kinh
doanh của mình dưới sự bảo hộ của nhà nước. Để hiểu rõ hơn về khái niệm thủ

tục gia nhập thị trường, ta xem xét nó dưới góc độ kinh tế và góc độ pháp lý.
Ở góc độ kinh tế: thủ tục gia nhập thị trường của doanh nghiệp là việc
chuẩn bị các điều kiện vật chất cần và đủ để hình thành nên một tổ chức kinh
doanh. Nhà đầu tư phải chuẩn bị trụ sở, nhà xưởng, dây chuyền sản xuất, thiết bị
kĩ thật, đội ngũ nhân công, nhà quản lý… để tiến hành các hoạt động kinh doanh
với mục tiêu đã đặt ra.
Ở góc độ pháp lý: thủ tục gia nhập thị trường là một thủ tục pháp lý được
thực hiện tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền, tuỳ thuộc vào loại hình doanh
nghiệp, tuỳ thuộc vào mức độ cải cách hành chính và thái độ của nhà nước đối
với quyền tự do kinh doanh, thủ tục pháp lý này có tính đơn giản hay phức tạp
khác nhau để doanh nghiệp có đủ các điều kiện cần thiết để có thể bắt đầu hoạt
động sản xuất kinh doanh theo quy định.
Phạm vi nghiên cứu của luận văn thì khái niệm thủ tục gia nhập thị trường
của doanh nghiệp là thủ tục đăng ký doanh nghiệp thực hiện tại Cơ quan nhà
nước có thẩm quyền. Với tính chất là thủ tục pháp lý để thành lập doanh nghiệp,
đăng ký doanh nghiệp có tính bắt buộc và cho phép xác lập tư cách pháp lý của
chủ thể kinh doanh (tức là xác định tư cách pháp lý của doanh nghiệp).
1.1.2.2. Ý nghĩa pháp lý của thủ tục gia nhập thị trường
Đối với nhà nước, việc quy định các thủ tục gia nhập thị trường của doanh
nghiệp như thủ tục đăng ký doanh nghiệp là thể hiện sự bảo hộ của nhà nước
bằng pháp luật đối với các chủ thể hoạt động kinh doanh nói chung và các chủ
doanh nghiệp nói riêng. Đồng thời, nhà nước thực hiện chức năng quản lý cơ cấu
các thành phần kinh tế xã hội, kiểm soát các hoạt động kinh doanh theo đường
lối đã vạch ra. Việc đăng ký doanh nghiệp giúp cho cơ quan quản lý nhà nước
nắm bắt được các yếu tố mới trong kinh doanh để từ đó có những chủ trương,


13

chính sách, biện pháp khuyến khích hoặc hạn chế phù hợp giúp nhà nước có thể

can thiệp một cách kịp thời và có mức độ vào nền kinh tế; bảo đảm có được một
nền kinh tế hiện đại nhưng không xa rời chủ trương, chính sách của Đảng và
Nhà nước đã đề ra.
Đối với các doanh nghiệp, sau khi được cấp giấy phép đăng ký doanh
nghiệp, doanh nghiệp được thừa nhận về mặt pháp lý, có quyền tiến hành các
hoạt động kinh doanh như đã đăng ký dưới sự bảo hộ của pháp luật. Đăng ký
doanh nghiệp cũng là cơ sở pháp lý chắc chắn nhất để một doanh nghiệp yêu cầu
các cơ quan nhà nước bảo vệ các quyền, lợi ích và tài sản hợp pháp của mình
cũng như bảo đảm tính pháp lý đối với các hoạt động của mình trong quá trình
doanh nghiệp tiến hành hoạt động kinh doanh.
Về mặt xã hội, đăng ký doanh nghiệp còn nhằm công khai hoá các hoạt
động của doanh nghiệp trước công chúng. Xã hội có được các thông tin và các
đảm bảo về tư cách pháp lý của doanh nghiệp. Nó tạo ra niềm tin ở các đối tác
khi thực hiện các giao dịch. Đó cũng là điều kiện tiên quyết để một doanh
nghiệp có thể tồn tại và phát triển .
Về mặt kinh tế, khi bước vào hoạt động kinh doanh, doanh nghiệp với tư
cách là một thành viên trong cơ cấu các thành phần kinh tế, các hoạt động của
doanh nghiệp còn góp phần tác động vào sự phát triển kinh tế của toàn xã hội.
Như vậy, việc đăng ký doanh nghiệp không chỉ có ý nghĩa quan trọng đối
với việc bảo đảm quyền lợi cho bản thân các doanh nghiệp mà còn có ý nghĩa
đối với việc bảo đảm trật tự quản lý nhà nước và bảo vệ lợi ích cho các chủ thể
khác trong xã hội. Vì vậy, thủ tục gia nhập thị trường của doanh nghiệp vừa là
một nhu cầu tất yếu vừa là một đòi hỏi mang tính nghĩa vụ đối với mỗi doanh
nghiệp trong nền kinh tế thị trường phát triển như hiện nay.
1.1.2.3. Khái quát thủ tục gia nhập thị trường của doanh nghiệp
Việc thành lập doanh nghiệp được coi là quyền cơ bản của nhà đầu tư
song lại có ảnh hưởng không nhỏ đến lợi ích toàn xã hội. Vì vậy, thủ tục gia
nhập thị trường của doanh nghiệp phải được tiến hành trong khuôn khổ của
pháp luật. Các quy định về thành lập doanh nghiệp không những phải đảm bảo
quyền tự do kinh doanh của nhà đầu tư mà còn phải đáp ứng nhu cầu của quản

lý nhà nước đối với doanh nghiệp.


14

Trên thực tế, thủ tục gia nhập thị trường của doanh nghiệp có ý nghĩa xác
lập tư cách pháp lý cho doanh nghiệp. Với vai trò là đạo luật áp dụng chung cho
tất cả các doanh nghiệp thuộc thành phần sở hữu khác nhau, Luật Doanh nghiệp
hiện hành quy định về thủ tục đăng ký doanh nghiệp gồm các bước cơ bản như:
Bước 1: Chuẩn bị các thông tin để lập hồ sơ đăng ký doanh nghiệp, trong
đó người thành lập doanh nghiệp lựa chọn loại hình doanh nghiệp để bắt đầu
khởi nghiệp, lựa chọn đặt tên công ty, chuẩn bị trụ sở kinh doanh, lựa chọn
ngành nghề kinh doanh… và chuẩn bị một số giấy tờ pháp luật quy định.
Bước 2: Quy trình thủ tục đăng ký doanh nghiệp
Tùy theo ngành nghề kinh doanh của doanh nghiệp mà quy trình, thủ tục
thành lập doanh nghiệp sẽ khác nhau.
Đối với Doanh nghiệp kinh doanh ngành nghề thông thường thì Người
thành lập doanh nghiệp hoặc người được ủy quyền gửi hồ sơ đăng ký doanh
nghiệp cho Cơ quan đăng ký kinh doanh3. Hồ sơ đăng ký doanh nghiệp theo quy
định trên đây là nộp tại Phòng đăng ký kinh doanh cấp tỉnh thuộc Sở kế hoạch
và đầu tư nơi doanh nghiệp đặt trụ sở chính hoặc tiến hành đăng ký doanh
nghiệp qua mạng điện tử. Cơ quan đăng ký kinh doanh xem xét hồ sơ và ra
quyết định cấp hay không cấp giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp theo thời
hạn quy định. Doanh nghiệp sau khi được Cấp giấy chứng nhận đăng ký doanh
nghiệp phải thông báo công khai trên Cổng thông tin quốc gia về đăng ký doanh
nghiệp theo trình tự, thủ tục và phải trả phí theo quy định.
Đối với Doanh nghiệp kinh doanh ngành nghề kinh doanh có điều kiện thì
tùy từng ngành nghề, cơ quan có thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận đăng ký hoạt
động có thể là Cơ quan chuyên môn quản lý, đôi khi không phải là Cơ quan đăng
ký kinh doanh thuộc Sở kế hoạch và đầu tư cấp tỉnh nơi Doanh nghiệp đặt trụ sở

chính. Theo đó, người thành lập doanh nghiệp phải làm thủ tục xin cấp giấy phép
thành lập và hoạt động theo quy định riêng đối với từng ngành nghề hoặc phải đáp
ứng điều kiện khác như điều kiện đảm bảo hoạt động sản xuất, kinh doanh, chứng
chỉ hành nghề, điều kiện về vốn pháp định…

3

Quy định tại Khoản 1 Điều 27 Luật Doanh nghiệp năm 2014.


15

1.2. Tổng quan pháp luật về thủ tục gia nhập thị trường của doanh
nghiệp
1.2.1. Khái niệm pháp luật về thủ tục gia nhập thị trường của doanh
nghiệp
Sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp với tính chất là các thực thể kinh
tế - xã hội là cơ sở thực tiễn cho sự ra đời và phát triển của pháp luật về doanh
nghiệp. Pháp luật về thủ tục gia nhập thị trường của doanh nghiệp là một bộ
phận cấu thành pháp luật doanh nghiệp. Trên bình diện nghiên cứu, pháp luật về
thủ tục gia nhập thị trường của doanh nghiệp là một nội dung rất cơ bản trong
khi nghiên cứu pháp luật doanh nghiệp. Từ góc độ lý luận, chúng ta có thể tiếp
cận khái niệm này theo hai nghĩa sau đây:
Nghĩa rộng, đối tượng điều chỉnh của pháp luật về thủ tục gia nhập thị
trường của doanh nghiệp là các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình gia nhập
thị trường của doanh nghiệp. Khi thành lập doanh nghiệp, nhà đầu tư phải thực
hiện thủ tục đăng ký doanh nghiệp theo quy định pháp luật. Đây là cơ sở phát
sinh các nhóm quan hệ xã hội khác nhau về doanh nghiệp như: quan hệ giữa nhà
nước với doanh nghiệp, quan hệ giữa chủ sở hữu doanh nghiệp với doanh
nghiệp, quan hệ giữa các chủ sở hữu của doanh nghiệp với nhau (trong trường

hợp doanh nghiệp có nhiều chủ sở hữu)…
Với đối tượng điều chỉnh như vậy, pháp luật về thủ tục gia nhập thị trường
của doanh nghiệp, theo nghĩa rộng có thể được định nghĩa là hệ thống các quy
tắc xử sự, do nhà nước ban hành hoặc thừa nhận, điều chỉnh các quan hệ xã hội
phát sinh trong quá trình gia nhập thị trường của doanh nghiệp.
Nghĩa hẹp, đối tượng điều chỉnh của pháp luật về thủ tục gia nhập thị
trường của doanh nghiệp là quy định về đăng ký doanh nghiệp.
Trong luận văn này, tác giả tiếp cận nghiên cứu pháp luật về thủ tục gia
nhập thị trường của doanh nghiệp theo nghĩa hẹp, với nội dung là các vấn đề quy
định về đăng ký doanh nghiệp. Theo đó, pháp luật về thủ tục gia nhập thị trường
của doanh nghiệp bao gồm các quy định điều chỉnh mối quan hệ giữa doanh
nghiệp với nhà nước trong việc đăng ký doanh nghiệp.


16

1.2.2. Nội dung pháp luật về thủ tục gia nhập thị trường của doanh
nghiệp
Pháp luật về thủ tục gia nhập thị trường của doanh nghiệp thường bao gồm
những nội dung cơ bản là:
(1) Điều kiện thành lập doanh nghiệp:
Điều kiện về chủ thể: Pháp luật Việt Nam quy định mọi tổ chức, cá nhân
đều có quyền tham gia thành lập doanh nghiệp, nhưng muốn được đăng ký
doanh nghiệp thì những tổ chức, cá nhân đó phải đảm bảo một số điều kiện nhất
định để đảm bảo quyền bình đẳng giữa các doanh nghiệp trong kinh doanh, bảo
vệ lợi ích của xã hội.
Điều kiện về vốn: Vốn của doanh nghiệp là cơ sở vật chất, tài chính quan
trọng nhất, là công cụ để chủ doanh nghiệp triển khai các hoạt động kinh doanh
cụ thể của doanh nghiệp. Vốn có thể bằng tiền Việt Nam, ngoại tệ hoặc các tài
sản khác.

Điều kiện về ngành nghề kinh doanh: Việc quy định và xác định ngành nghề
kinh doanh không chỉ là nhằm đảm bảo cho lợi ích của cộng đồng mà còn định
hướng doanh nghiệp phát triển các ngành nghề mà nhu cầu xã hội đặt ra qua đó
đảm bảo sự giám sát của Nhà nước đối với sự định hướng phát triển kinh tế nói
chung. Để quản lý đăng ký doanh nghiệp có hiệu quả, nhà nước quy định cụ thể
về ngành nghề kinh doanh với các loại hình: ngành, nghề cấm kinh doanh; ngành,
nghề kinh doanh có điều kiện, ngành; nghề kinh doanh phải có vốn pháp định,
ngành nghề kinh doanh phải có giấy phép hoặc chứng chỉ hành nghề…
Hồ sơ đăng ký doanh nghiệp: Hồ sơ đăng ký doanh nghiệp là điều kiện cần
và đủ để Nhà nước xem xét, quyết định một doanh nghiệp có được ra đời hay
không. Để đáp ứng yêu cầu của quyền tự do kinh doanh, pháp luật hiện hành đã
quy định theo hướng đơn giản hoá và đề cao trách nhiệm của nhà đầu tư. Về căn
bản, việc thành lập doanh nghiệp là do các nhà đầu tư tự quyết định và tiến
hành. Nhà nước chỉ can thiệp vào quá trình đăng ký doanh nghiệp, do vậy hồ sơ
đăng ký doanh nghiệp chủ yếu là các giấy tờ do nhà đầu tư tự xây dựng. Tuỳ
vào từng loại hình doanh nghiệp mà nhà nước có những quy định khác nhau về
nội dung hồ sơ đăng ký doanh nghiệp.


17

Các điều kiện khác như điều kiện về trụ sở, điều kiện về tên doanh nghiệp…
(2) Trình tự, thủ tục đăng ký doanh nghiệp:
Trình tự, thủ tục đăng ký doanh nghiệp được pháp luật quy định tại Luật
Doanh nghiệp năm 2014 trong đó việc đăng ký doanh nghiệp được tiến hành tại
cơ quan đăng ký kinh doanh qua các bước sau:
Nộp hồ sơ đăng ký doanh nghiệp: người thành lập doanh nghiệp nộp đủ
hồ sơ đăng ký doanh nghiệp theo quy định tại cơ quan đăng ký kinh doanh có
thẩm quyền và phải chịu trách nhiệm về tính trung thực, chính xác của nội dung
hồ sơ đăng ký doanh nghiệp.

Cơ quan đăng ký kinh doanh: có trách nhiệm tiếp nhận và xem xét tính
hợp lệ của hồ sơ đăng ký doanh nghiệp.
Cấp giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp: cơ quan đăng ký kinh doanh
cấp giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp cho doanh nghiệp nếu: ngành nghề
kinh doanh không thuộc lĩnh vực cấm kinh doanh, tên của doanh nghiệp được
đặt theo đúng quy định, có trụ sở chính theo quy định của pháp luật, hồ sơ đăng
ký doanh nghiệp hợp lệ, nộp đủ lệ phí đăng ký doanh nghiệp theo quy định.
Sau khi được cấp giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp, doanh nghiệp
thực hiện thủ tục đăng ký mẫu dấu và được sử dụng con dấu của mình, được
quyền thực hiện các hoạt động kinh tế theo đúng nội dung mà mình đã đăng ký.
(3) Cơ quan có thẩm quyền đăng ký doanh nghiệp:
Đối với những ngành nghề kinh doanh thông thường thì Cơ quan đăng ký
kinh doanh được tổ chức ở tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, thực hiện
nhiệm vụ trực tiếp nhận hồ sơ đăng ký doanh nghiệp, xem xét tính hợp lệ của hồ
sơ đăng ký doanh nghiệp và cấp hoặc từ chối cấp Giấy chứng nhận đăng ký
doanh nghiệp. Ngoài ra, cơ quan đăng ký kinh doanh còn có một số nhiệm vụ,
quyền hạn khác mà pháp luật doanh nghiệp quy định.
Đối với những ngành nghề kinh doanh có điều kiện thì Cơ quan có thẩm
quyền đăng ký kinh doanh đôi khi không phải là Cơ quan đăng ký kinh doanh
thuộc Sở kế hoạch và đầu tư. Một số ngành nghề kinh doanh có điều kiện được
quy định cụ thể tại Luật chuyên ngành thì quy trình, thủ tục đăng ký hoạt động
và Cơ quan có thẩm quyền cấp giấy phép hoạt động phải theo quy định của từng


18

Luật chuyên ngành điều chỉnh. Nội dung này sẽ được phân tích, bình luận cụ thể
hơn ở Chương 2 của Luận văn này.
1.2.3. Vai trò của pháp luật về thủ tục gia nhập thị trường của doanh
nghiệp

Trong nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp được tự do “cạnh tranh
trong khuôn khổ quy định của pháp luật”. Khi đó một doanh nghiệp mới ra đời sẽ
tăng sức cạnh tranh trên thị trường kinh tế, càng có nhiều doanh nghiệp ra đời thì
mức độ cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trên thị trường càng cao. Vì vậy, các
doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển thì phải không ngừng nâng cao chất
lượng hoạt động bằng cách nâng cao chất lượng sản phẩm hàng hóa. Như vậy vừa
có lợi cho người tiêu dùng vừa thúc đẩy sự tiến bộ trong hoạt động kinh doanh
của doanh nghiệp. Ngày nay, sự cạnh tranh đó không chỉ diễn ra giữa các doanh
nghiệp trong nước mà còn cả doanh nghiệp nước ngoài, đặc biệt kể từ khi Việt
Nam trở thành thành viên của tổ chức Thương mại thế giới (WTO) năm 2007.
Vì vậy, pháp luật về thủ tục gia nhập thị trường của doanh nghiệp là khung
pháp lý để các doanh nghiệp đăng ký doanh nghiệp và nhanh chóng đi vào hoạt
động. Mỗi một doanh nghiệp được thành lập đồng nghĩa với việc một tổ chức
kinh tế ra đời và tiến hành các hoạt động kinh doanh đóng góp một phần không
nhỏ vào ngân sách nhà nước. Vị trí của doanh nghiệp càng quan trọng hơn trong
thời đại ngày nay khi mà kinh tế có vai trò quyết định vị trí của một quốc gia
trên trường quốc tế. Ngoài ra, thủ tục gia nhập thị trường đơn giản, nhanh gọn
sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư nước ngoài khi tiến hành các hoạt
động đầu tư tại Việt Nam. Bởi vì, các nhà đầu tư khi muốn đầu tư tại bất kỳ một
quốc gia nào đều quan tâm đến vấn đề pháp lý về thành lập doanh nghiệp. Đầu
tư nước ngoài là một nguồn lực lớn cho sự phát triển kinh tế xã hội.
Thành lập doanh nghiệp theo đúng quy định của pháp luật sẽ góp phần hạn
chế vi phạm pháp luật trong lĩnh vực kinh doanh và tình trạng cạnh tranh không
lành mạnh giữa các doanh nghiệp. Một doanh nghiệp được thành lập hợp pháp
tất nhiên sẽ có lợi thế hơn khi xảy ra tranh chấp với một doanh nghiệp không
được thành lập hợp pháp.
Bên cạnh đó công tác quản lý nhà nước về vấn đề thủ tục gia nhập thị
trường của doanh nghiêp sẽ giúp cho Nhà nước nắm được tình hình thành lập



19

mới cũng như sự vận hành của các loại hình doanh nghiệp. Đó là cơ sở để nhà
nước xây dựng chính sách điều tiết vĩ mô nền kinh tế quốc gia.
Đảng và nhà nước luôn quan tâm đến vấn đề thành lập doanh nghiệp trong
mỗi giai đoạn, mỗi thời kì. Thông qua việc ban hành các văn bản pháp luật điều
chỉnh vấn đề thủ tục gia nhập thị trường của doanh nghiệp đã phần nào tạo được
hành lang pháp lý vững chắc trong việc bảo vệ các doanh nghiệp hợp pháp.
Đồng thời tạo được sự yên tâm cho các nhà đầu tư và niềm tin của các doanh
nghiệp vào công cụ pháp lý.
1.2.4. Sơ lược sự hình thành phát triển pháp luật về thủ tục gia nhập thị
trường của doanh nghiệp
Để đáp ứng yêu cầu quản lý doanh nghiệp trước số lượng ngày càng lớn
các doanh nghiệp thuộc kinh tế tư nhân, ngày 21/12/1990, Quốc hội đã cùng lúc
ban hành hai đạo luật để điều chỉnh các vấn đề về doanh nghiệp: Luật Công ty
năm 1990 quy định về vấn đề thành lập, tổ chức, quản lý và hoạt động của hai
loại hình doanh nghiệp là công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần, Luật
Doanh nghiệp tư nhân điều chỉnh các vấn đề liên quan đến doanh nghiệp tư
nhân. Đây là lần đầu tiên, vấn đề đăng ký doanh nghiệp, thành lập doanh nghiệp
trở thành một chế định pháp luật trong đạo luật. Hai đạo luật trên đã quy định rõ
ràng, đầy đủ về vấn đề tổ chức quản lý của cơ quan đăng ký kinh doanh, điều
kiện, thủ tục thành lập doanh nghiệp, thể hiện sự hoàn thiện nhất định so với các
quy định trước kia.
Theo tinh thần của Luật Doanh nghiệp tư nhân, Luật Công ty năm 1990 và
Nghị định số 221/HĐBT, Nghị định số 222/HĐBT của Hội đồng bộ trưởng
hướng dẫn thi hành các luật này thì muốn tiến hành kinh doanh, người thành lập
doanh nghiệp phải làm thủ tục qua hai bước gồm: Bước 1, xin phép thành lập và
Bước 2, đăng ký kinh doanh. Chỉ sau khi đã đăng ký kinh doanh và được cơ
quan nhà nước có thẩm quyền chấp nhận thì mới phát sinh tư cách pháp lý của
doanh nghiệp. Thủ tục đăng ký kinh doanh được tiến hành trong thời gian 60

ngày đối với doanh nghiệp tư nhân, 180 ngày đối với công ty trách nhiệm hữu
hạn và 01 năm đối với công ty cổ phần kể từ ngày được cấp giấy phép thành lập.
Luật Doanh nghiệp tư nhân và Luật Công ty năm 1990 đều không quy định gì
vấn đề tên doanh nghiệp và những ngành nghề kinh doanh có điều kiện. Ngoài


×