Tải bản đầy đủ (.pdf) (106 trang)

Thực hiện pháp luật về trợ giúp pháp lý cho người nghèo và đối tượng chính sách ở tỉnh ninh bình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (853.78 KB, 106 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

ĐOÀN THỊ NGỌC HẢI

THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ TRỢ GIÚP PHÁP LÝ
CHO NGƯỜI NGHÈO VÀ ĐỐI TƯỢNG CHÍNH SÁCH
Ở TỈNH NINH BÌNH

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI – NĂM 2016


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ TƯ PHÁP
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
_________________________________

ĐOÀN THỊ NGỌC HẢI

THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ TRỢ GIÚP PHÁP LÝ
CHO NGƯỜI NGHÈO VÀ ĐỐI TƯỢNG CHÍNH SÁCH
Ở TỈNH NINH BÌNH

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Chuyên ngành : Lý luận và Lịch sử Nhà nước và pháp luật
Mã số: 60 38 01 01



Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS NGUYỄN MINH ĐOAN

HÀ NỘI – NĂM 2016


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan, đây là công trình nghiên cứu khoa
học do chính tôi thực hiện dưới sự hướng dẫn của PGS.TS
Nguyễn Minh Đoan – Giảng viên cao cấp, Trường đại học
Luật Hà Nội. Các số liệu trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ
tin cậy, chính xác và trung thực. Những kết luận khoa học của
luận văn chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình
nào khác.
Tác giả luận văn

Đoàn Thị Ngọc Hải

XÁC NHẬN CỦA GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN

Người hướng dẫn

PGS. TS Nguyễn Minh Đoan


MỤC LỤC

Trang
1


MỞ ĐẦU
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ
TRỢ GIÚP PHÁP LÝ CHO NGƯỜI NGHÈO VÀ ĐỐI

9

TƯỢNG CHÍNH SÁCH
1.1. Khái niệm, đặc điểm và hình thức thực hiện pháp luật về trợ giúp pháp
lý cho người nghèo và đối tượng chính sách

9

1.2. Vai trò và nội dung của thực hiện pháp luật về trợ giúp pháp lý cho
người nghèo và đối tượng chính sách

21

1.3. Các yếu tố bảo đảm thực hiện pháp luật về trợ giúp pháp lý cho người
nghèo và đối tượng chính sách

32

Chương 2: THỰC TRẠNG THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ TRỢ
GIÚP PHÁP LÝ CHO NGƯỜI NGHÈO VÀ ĐỐI TƯỢNG
CHÍNH SÁCH Ở TỈNH NINH BÌNH

36

2.1. Các yếu tố ảnh hưởng đến việc thực hiện pháp luật về trợ giúp pháp lý
cho người nghèo và đối tượng chính sách ở tỉnh Ninh Bình


36

2.2. Những kết quả đạt được trong thực hiện pháp luật về trợ giúp pháp lý
cho người nghèo và đối tượng chính sách ở tỉnh Ninh Bình và nguyên
nhân

40

2.3. Những hạn chế, yếu kém trong thực hiện pháp luật về trợ giúp pháp lý
cho người nghèo và đối tượng chính sách ở tỉnh Ninh Bình và nguyên
nhân

57

Chương 3: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM THỰC HIỆN
PHÁP LUẬT VỀ TRỢ GIÚP PHÁP LÝ CHO NGƯỜI
NGHÈO VÀ ĐỐI TƯỢNG CHÍNH SÁCH Ở TỈNH NINH
BÌNH HIỆN NAY
3.1. Quan điểm chỉ đạo thực hiện pháp luật về trợ giúp pháp lý cho người
nghèo và đối tượng chính sách ở tỉnh Ninh Bình

67


3.2. Các giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về trợ giúp pháp
lý cho người nghèo và đối tượng chính sách ở tỉnh Ninh Bình giai
đoạn hiện nay.
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


74
89


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN

HĐND

:

Hội đồng nhân dân

Nxb

:

Nhà xuất bản

TGPL

:

Trợ giúp pháp lý

Tr

: trang

TW


:

Trung ương

UBND

:

Ủy ban nhân dân

XHCN

:

Xã hội chủ nghĩa


1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thực hiện pháp luật về trợ giúp pháp lý (TGPL) là giai đoạn tiếp theo của
xây dựng pháp luật về TGPL và là giai đoạn quan trọng trong việc hiện thực hóa
các quy định pháp luật về TGPL vào thực tiễn cuộc sống. Thực hiện pháp luật
về TGPL đã hỗ trợ một bộ phận không nhỏ dân cư như: người nghèo, người có
công với cách mạng, người già cô đơn, trẻ em và người khuyết tật không nơi
nương tựa, người dân tộc thiểu số sống ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc
biệt khó khăn, người bị bạo lực gia đình, nạn nhân của mua bán người,… (gọi
chung là người nghèo và các đối tượng chính sách xã hội) được TGPL nhằm
giúp họ giải quyết những khó khăn vướng mắc trong cuộc sống về pháp luật. Đó

là quá trình cung cấp các dịch vụ pháp lý miễn phí cho người được TGPL nhằm
giúp họ bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình và nâng cao hiểu biết pháp
luật, ý thức tôn trọng, chấp hành pháp luật; góp phần vào việc phổ biến, giáo
dục pháp luật, bảo vệ công lý, phòng ngừa hạn chế tranh chấp và vi phạm pháp
luật, bảo đảm mọi công dân đều bình đẳng trong việc tiếp cận pháp luật và thực
hiện công bằng xã hội, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân
và vì dân.
Xuất phát từ ý nghĩa và vai trò của thực hiện pháp luật về TGPL, Ban Bí thư
Trung ương Đảng khoá VIII đã chỉ đạo: "Mở rộng loại hình tư vấn pháp luật phổ
thông, đáp ứng nhu cầu rộng rãi, đa dạng của các tầng lớp nhân dân nhằm góp
phần nâng cao ý thức pháp luật và ứng xử pháp luật của công dân trong quan hệ
đời sống hàng ngày... cần nghiên cứu hệ thống dịch vụ tư vấn pháp luật không lấy
tiền để hướng dẫn nhân dân sống và làm việc theo pháp luật", và Nghị quyết Hội
nghị lần thứ 3 Ban Chấp hành TW Đảng khoá VIII tiếp tục khẳng định cần: "tạo
điều kiện cho người nghèo được hưởng dịch vụ tư vấn pháp luật miễn phí... " .
Thực hiện chủ trương của Đảng và chính sách xã hội của Nhà nước, ngày
06/9/1997 Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 734/TTg về việc thành
lập tổ chức TGPL cho người nghèo và đối tượng chính sách. Đây là cơ sở pháp lý
đầu tiên tạo nền tảng để hình thành hệ thống tổ chức TGPL ở Việt Nam. Tiếp tục
thể chế hoá đầy đủ và kịp thời đường lối, chính sách của Đảng về giúp đỡ pháp luật
cho người nghèo và các đối tượng chính sách. Ngày 29/6/2006, Luật TGPL được
kỳ họp thứ 9 Quốc hội khoá XI thông qua đã củng cố cơ sở pháp lý khẳng định sự
quyết tâm của Đảng và Nhà nước ta trong bảo đảm quyền được TGPL của công
dân, bảo vệ các quyền con người, quyền công dân, đặc biệt là bảo vệ những người


2
dân nghèo, nhóm người yếu thế trong xã hội. Vấn đề còn lại là tổ chức thực hiện
pháp luật ấy trong đời sống xã hội.
Về mặt lý luận, hoạt động TGPL mới hình thành và phát triển ở Việt Nam

gần 20 năm nhưng đã và đang thu hút sự quan tâm của nhiều cơ quan nghiên cứu
khoa học, các nhà khoa học pháp lý. Nghiên cứu thực hiện pháp luật về TGPL
không những có ý nghĩa khoa học pháp lý, mà còn có ý nghĩa chính trị, kinh tế và ý
nghĩa xã hội, kết quả nghiên cứu thực hiện pháp luật về TGPL chủ yếu phục vụ cho
những người ít hiểu biết pháp luật và thiệt thòi trong xã hội. Tuy nhiên, thực hiện
pháp luật về TGPL là lĩnh vực mới nên chưa được các nhà khoa học nghiên cứu
đầy đủ, có hệ thống, chưa hình thành rõ nét các quan điểm lý luận làm cơ sở áp
dụng, sử dụng, chấp hành, tuân thủ pháp luật về TGPL trong thực tiễn. Do đó, việc
tổ chức thực hiện pháp luật về TGPL hiện nay thiếu đồng bộ, thiếu thống nhất trên
phạm vi toàn quốc và còn nhiều bất cập, hạn chế về công tác quản lý nhà nước,
nguồn lực, hệ thống tổ chức TGPL,…
Về thực tiễn, Ninh Bình là tỉnh nằm ở khu vực đồng bằng sông Hồng với
dân số là 927.768 người, trong đó, người nghèo và các đối tượng chính sách xã
hội chiếm tỷ lệ đáng kể khoảng 26% (102.576 người nghèo, 128.431 người có
công với cách mạng, 1.588 trẻ em khuyết tật hoặc không có nơi nương tựa,...).
Sau 19 năm thực hiện pháp luật về TGPL cho người nghèo và đối tượng chính
sách ở tỉnh Ninh Bình đã và đang tác động tích cực đến đời sống pháp luật của
hàng ngàn người nghèo và nhóm đối tượng yếu thế; đồng thời, tác động đến chất
lượng thực thi công vụ ở chính quyền địa phương, nhiều vụ việc phức tạp, vượt
cấp, kéo dài nhiều năm đã được hướng dẫn, giải quyết dứt điểm; trật tự an toàn
xã hội, an ninh được giữ vững; thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển. Vì thế, công
tác TGPL cho người nghèo và đối tượng chính sách xã hội ở tỉnh Ninh Bình đã
khẳng định được vị trí, vai trò trong thực tế cuộc sống, bảo đảm quyền con
người góp phần thực hiện dân chủ ở cơ sở, tạo được niềm tin của nhân dân và
cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương. Tuy nhiên, công tác TGPL ở cơ sở, công
tác quản lý cán bộ và bộ máy điều hành, chất lượng thực hiện vụ việc
TGPL,... cũng còn bộc lộ những hạn chế nhất định cần phải nghiên cứu để đưa
ra các giải pháp khắc phục nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về TGPL cho
người nghèo và đối tượng chính sách ở địa bàn tỉnh Ninh Bình.
Xuất phát từ các lý do trên, tôi chọn đề tài: "Thực hiện pháp luật về trợ giúp

pháp lý cho người nghèo và đối tượng chính sách ở tỉnh Ninh Bình » để nghiên
cứu viết luận văn thạc sĩ Luật học.


3
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Thực hiện pháp luật là một trong các lĩnh vực pháp lý cụ thể nói chung và
thực hiện pháp luật về TGPL đã và đang thu hút sự quan tâm nghiên cứu của nhiều
cơ quan nghiên cứu khoa học, các nhà khoa học pháp lý. Qua tìm hiểu các công
trình khoa học đã được công bố trong nước và nước ngoài về thực hiện pháp luật
về TGPL, TGPL cho người nghèo và các đối tượng chính sách; có các công
trình sau đây:
Nhóm thứ nhất: Các công trình nghiên cứu về thực hiện pháp luật nói
chung. Ở nhóm này, các tài liệu và giáo trình lý luận chung về nhà nước và pháp
luật đều thống nhất về khái niệm, các hình thức thực hiện pháp luật. Đặc biệt là
hình thức áp dụng pháp luật, cụ thể là khái niệm, căn cứ, các bước, trình tự, thủ
tục áp dụng pháp luật. Tiêu biểu là:
- Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Nhà nước
và pháp luật (2009), Tài liệu nghiên cứu môn học Lý luận chung về nhà nước và
pháp luật, tập I, Nxb chính trị - hành chính, Hà Nội.
- Trường Đại học Luật Hà Nội (2010), Giáo trình lý luận chung về nhà
nước và pháp luật, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
- Nguyễn Minh Đoan (2009), Thực hiện và áp dụng pháp luật ở Việt Nam,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
- Nguyễn Thị Hồi (2009), ÁP dụng pháp luật ở Việt Nam hiện nay – Một
số vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Tư pháp, Hà Nội.
Nhóm thứ hai: Bao gồm các công trình nghiên cứu thực hiện pháp luật về
TGPL. Tiêu biểu là:
- Cù Thu Anh (2011), Hoàn thiện pháp luật trợ giúp pháp lý ở Việt Nam”,
Luận văn thạc sỹ Luật học, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí

Minh.
- Nguyễn Huỳnh Huyện (2012), Thực hiện pháp luật về trợ giúp pháp lý
trong điều kiện xây dựng và bảo vệ Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam", Luận án
Tiến sĩ Luật học, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh.
Ngoài ra còn một số bài nghiên cứu được đăng trên các tạp chí và các báo
cáo như:


4
- Đinh Trung Tụng (2006), Phương hướng xây dựng Luật trợ giúp pháp lý,
Tập san Trợ giúp pháp lý.
- Tạ Thị Minh Lý (2006), Khái niệm trợ giúp pháp lý một số vấn đề cần
bàn thêm, Đặc san Trợ giúp pháp lý.
- Đoàn Thị Ngọc Hải (2015), Bàn về vấn đề bảo đảm quyền được TGPL
cho người nghèo và đối tượng chính sách ở Việt Nam hiện nay, mục nghiên cứu
trao đổi – Cổng thông tin điện tử Bộ Tư pháp.
- Đoàn Thị Ngọc Hải (2016), Vấn để bảo đảm quyền con người trong lĩnh
vực trợ giúp pháp lý, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật.
- Bộ Tư pháp, Báo cáo tổng kết 10 năm công tác trợ giúp pháp lý cho
người nghèo và đối tượng chính sách, Báo cáo ngày 20/11/2007.
- Bộ Tư pháp, Báo cáo kết quả 5 năm triển khai thi hành Luật trợ giúp
pháp lý, Báo cáo ngày 12/12/2011.
- Sở Tư pháp tỉnh Ninh Bình, Báo cáo kết quả 5 năm triển khai thi hành
Luật trợ giúp pháp lý và 3 năm thực hiện Quy hoạch mạng lưới Trung tâm trợ
giúp pháp lý ở tỉnh Ninh Bình, Báo cáo ngày 14/7/2011.
- Sở Tư pháp tỉnh Ninh Bình, Báo cáo kết quả 5 năm triển khai thi hành
Nghị định số 07/2007/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn một số điều Luật
trợ giúp pháp lý ở tỉnh Ninh Bình, Báo cáo ngày 04/6/2012.
- Hội đồng phối hợp liên ngành về trợ giúp pháp lý trong hoạt động tố tụng
tỉnh Ninh Bình, Báo cáo kết quả 5 năm thực hiện Thông tư liên tịch số

10/2007/TTLT-BTP-BCA-BQP-BTC-VKSNDTC-TANDTC về hướng dẫn áp
dụng một số quy định về trợ giúp pháp lý trong hoạt động tố tụng trên địa bàn
tỉnh Ninh Bình, Báo cáo ngày 21/01/2013.
Sở Tư pháp tỉnh Ninh Bình, Báo cáo 8 năm triển khai thi hành Luật trợ
giúp pháp lý trên địa bàn tỉnh Ninh Bình. Báo cáo ngày 26/3/2015
Các công trình trên đã nghiên cứu hoàn thiện pháp luật về TGPL; thực hiện
pháp luật về TGPL; TGPL cho người nghèo và các đối tượng chính sách xã hội
trên phạm vi toàn quốc và ở một số địa phương. Chưa có công trình nào nghiên
cứu về thực hiện pháp luật về TGPL cho người nghèo và đối tượng chính sách ở
tỉnh Ninh Bình. Bản thân tác giả công tác tại Trung tâm TGPL Nhà nước – Sở
Tư pháp tỉnh Ninh Bình, qua theo dõi và trực tiếp thực hiện pháp luật về TGPL


5
cho người nghèo và đối tượng chính sách trên địa bàn tỉnh, tác giả nhận thấy bên
cạnh kết quả đạt được còn có những tồn tại, hạn chế cần phải nghiên cứu để có
những giải pháp khắc phục nâng cao chất lượng thực hiện TGPL cho người
nghèo và đối tượng chính sách ở tỉnh Ninh Bình trong thời gian tới
Vì vậy, đây có thể được coi là công trình mới, nghiên cứu về lý luận và
thực tiễn thực hiện pháp luật về TGPL cho người nghèo và đối tượng chính sách
ở tỉnh Ninh Bình. Tuy nhiên, để nghiên cứu, thực hiện đề tài này, cần phải kế
thừa, vận dụng những kết quả nghiên cứu của các công trình nêu trên.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích của luận văn
Trên cơ sở lý luận chung về Nhà nước và pháp luật, luận văn góp phần làm
rõ hơn những vấn đề lý luận về thực hiện pháp luật về TGPL cho người nghèo
và đối tượng chính sách trong tình hình mới, phân tích đánh giá thực trạng và đề
xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về TGPL cho người
nghèo và đối tượng chính sách ở tỉnh Ninh Bình giai đoạn hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ của luận văn

Để thực hiện được mục đích trên, luận văn có các nhiệm vụ sau đây:
- Làm rõ khái niệm trợ giúp pháp lý cho người nghèo và đối tượng chính
sách, pháp luật về trợ giúp pháp lý cho người nghèo và đối tượng chính sách;
xây dựng khái niệm và phân tích đặc điểm, các hình thức, vai trò và nội dung
các yếu tố bảo đảm thực hiện pháp luật về TGPL cho người nghèo và đối tượng
chính sách.
- Khái quát tình hình kinh tế - xã hội có ảnh hưởng đến thực hiện pháp luật về
TGPL cho người nghèo và đối tượng chính sách ở tỉnh Ninh Bình và hệ thống cơ
quan TGPL ở tỉnh Ninh Bình.
- Đánh giá đúng thực trạng các cơ quan, tổ chức với tư cách là chủ thể
TGPL cho người được trợ giúp pháp lý; kết quả và những tồn tại yếu kém, làm
rõ nguyên nhân của những kết quả, hạn chế, yếu kém trong thực hiện pháp luật
về trợ giúp pháp lý cho người nghèo và đối tượng chính sách ở tỉnh Ninh Bình.
- Đưa ra các quan điểm chỉ đạo thực hiện pháp luật về TGPL ở tỉnh Ninh
Bình; chỉ rõ những yêu cầu khách quan đòi hỏi phải nâng cao hiệu quả thực hiện
pháp luật về TGPL cho người nghèo và đối tượng chính sách ở tỉnh Ninh Bình.


6
- Đề xuất những giải pháp cụ thể, có tính khả thi nhằm nâng cao hiệu quả
thực hiện pháp luật về TGPL cho người nghèo và đối tượng chính sách ở tỉnh
Ninh Bình.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu
- Nghiên cứu đối tượng cần được TGPL là người nghèo, các đối tượng
chính sách xã hội và các đối tượng khác theo quy định của pháp luật và các điều
ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên.
- Tổng kết thực tiễn TGPL cho người nghèo và đối tượng chính sách ở
tỉnh Ninh Bình, nguyên nhân của kết quả và nguyên nhân của hạn chế, yếu
kém. Để có giải pháp bảo đảm khắc phục sự yếu kém đó và có các giải pháp

nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về TGPL cho người nghèo và đối
tượng chính sách ở tỉnh Ninh Bình.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Vận dụng lý luận chung về thực hiện pháp luật vào lĩnh vực TGPL. Vì vậy,
luận văn không nghiên cứu nhiều đến những vấn đề thực hiện pháp luật nói
chung. Chỉ đi sâu vào các dạng thực hiện pháp luật về TGPL cho người nghèo và
đối tượng chính sách và luận chứng vai trò của nó trong thực tiễn thực hiện chính
sách xã hội ở tỉnh Ninh Bình. Luận văn sẽ cụ thể hoá hơn về định lượng cũng như
định tính và việc đánh giá kết quả thực hiện pháp luật về TGPL cho người nghèo
và đối tượng chính sách được giới hạn về không gian là ở tỉnh Ninh Bình, về thời
gian đánh giá thực trạng từ ngày Luật trợ giúp pháp lý có hiệu lực (ngày
01/01/2007) đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn nghiên cứu trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm chủ trương của Đảng về Nhà nước và pháp luật.
Đề tài này được thực hiện trên nền tảng lý luận về Nhà nước và pháp luật nói
chung và thực hiện pháp luật trợ giúp pháp lý cho người nghèo và đối tượng
chính sách nói riêng. Đồng thời căn cứ vào việc tổng kết có tính khoa học về
thực tiễn thực hiện chính sách xã hội ở nước ta trong thời kỳ đổi mới.
5.2. Phương pháp nghiên cứu


7
Luận văn sử dụng phương pháp luận của triết học Mác xít cả về chủ nghĩa
duy vật lịch sử và chủ nghĩa duy vật biện chứng. Đồng thời, luận văn sử dụng các
phương pháp nghiên cứu cụ thể của các ngành khoa học đó là: Phương pháp lịch
sử cụ thể, phân tích tổng hợp, thống kê, điều tra xã hội học, so sánh,...
6. Những đóng góp mới của luận văn
- Luận văn góp phần đánh giá, phân tích làm rõ hơn cơ sở lý luận về khái

niệm TGPL cho người nghèo và đối tượng chính sách, pháp luật về trợ giúp
pháp lý cho người nghèo và đối tượng chính sách, thực hiện pháp luật về TGPL
cho người nghèo và đối tượng chính sách; hình thức thực hiện pháp luật về
TGPL cho người nghèo và đối tượng chính sách và vai trò, yếu tố bảo đảm thực
hiện pháp luật về TGPL cho người nghèo và đối tượng chính sách .
- Luận văn tập trung phân tích đánh giá khách quan, khoa học về thực trạng
thực hiện pháp luật về TGPL cho người nghèo và đối tượng chính sách ở tỉnh Ninh
Bình từ tháng 1 năm 2007 đến nay. Trên cơ sở đó, luận văn đưa ra quan điểm và
giải pháp bảo đảm nâng cao hiệu quả, chất lượng thực hiện pháp luật về TGPL cho
người nghèo và đối tượng chính sách ở tỉnh Ninh Bình trong thời gian tới góp
phần đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của người được TGPL, khẳng định tính
ưu việt của bản chất Nhà nước ta là nhà nước của dân, do dân, vì dân.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Ý nghĩa lý luận: Luận văn đã cung cấp cơ sở lý luận thực hiện pháp luật
về TGPL cho người nghèo và đối tượng chính sách, từ đó làm cơ sở cho việc
tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật về TGPL cho người nghèo và đối tượng
chính sách và nâng cao chất lượng, hiệu quả thực hiện pháp luật về TGPL cho
người nghèo và đối tượng chính sách.
- Ý nghĩa thực tiễn: Đưa ra bức tranh toàn cảnh việc thực hiện pháp luật
về trợ giúp pháp luật cho người nghèo và đối tượng chính sách ở tỉnh Ninh
Bình hiện nay và các giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về
TGPL cho người nghèo và đối tượng chính sách ở tỉnh Ninh Bình trong thời
gian tới đạt hiệu quả, thiết thực gắn với đẩy mạnh cải cách hành chính, cải
cách tư pháp góp phần xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của
dân, do dân và vì dân.
8. Kết cấu của luận văn


8
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội

dung của luận văn gồm 3 chương, 8 tiết.
9. Câu hỏi nghiên cứu của luận văn
Câu hỏi 1: Điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội, văn hóa, truyền thống lịch
sử có những thuận lợi và khó khăn gì trong việc thực hiện pháp luật về TGPL
cho người nghèo và đối tượng sách ở tỉnh Ninh Bình?
Câu hỏi 2: Thực tiễn thực hiện pháp luật về TGPL cho người nghèo và đối
tượng chính sách xã hội ở tỉnh Ninh Bình đã đem lại những kết quả gì?


9
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ TRỢ GIÚP PHÁP
LÝ CHO NGƯỜI NGHÈO VÀ ĐỐI TƯỢNG CHÍNH SÁCH
1.1. Khái niệm, đặc điểm và hình thức thực hiện pháp luật về trợ giúp
pháp lý cho người nghèo và đối tượng chính sách
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm thực hiện pháp luật về trợ giúp pháp lý cho
người nghèo và đối tượng chính sách
Theo từ điển từ và ngữ Việt Nam, giáo sư Nguyễn Lân, NXb Tổng hợp
thành phố Hồ Chí Minh, 2005 thì: “Đối tượng” là sự việc nhằm vào để nghiên
cứu hoạt động (35.tr 665), còn “chính sách” thì: Chính: việc nước, sách: kế
hoạch, tức là đường lối, chủ trương của một Chính phủ hay một Chính đảng
(35.tr 336). Như vậy, đối tượng chính sách chúng ta có thể hiểu là: Một bộ phận
dân cư gặp khó khăn nhất định, được Nhà nước trợ giúp bằng một hoặc một số
chủ trương, chính sách cụ thể, để họ giảm bớt khó khăn, góp phần thực hiện
công bằng xã hội. Còn người nghèo là người thuộc hộ nghèo, được xác định
theo chuẩn nghèo, do Thủ tướng Chính phủ quy định trong từng giai đoạn. Từ
đó, chúng ta có thể khái niệm đối tượng người nghèo và đối tượng chính sách
như sau: Đối tượng người nghèo và đối tượng chính sách là những người thuộc
hộ nghèo được xác định theo chuẩn nghèo do Chính phủ quy định trong từng
giai đoạn; những người có công với cách mạng, người già cô đơn không nơi

nương tựa, người tàn tật không nơi nương tựa, trẻ em không nơi nương tựa,
người dân tộc thiểu số thường trú ở vùng mà điều kiện kinh tế - xã hội gặp nhiều
khó khăn, được hưởng các chính sách, chủ trương của Nhà nước, trong đó họ
được quyền hưởng trợ cấp pháp lý miễn phí của Nhà nước và các tổ chức xã hội.
1.1.1.1. Khái niệm trợ giúp pháp lý cho người nghèo và đối tượng chính
sách
Thuật ngữ “trợ giúp pháp lý” được sử dụng phổ biến trên thế giới từ giữa
thế kỷ XIX; còn ở Việt Nam, trong thời gian qua, cụm từ “trợ giúp pháp lý”
được sử dụng chính thức trong các văn bản pháp luật và sách báo nhằm thể hiện
bản chất, nội dung và hình thức hoạt động của loại dịch vụ pháp lý miễn phí.
Thuật ngữ “trợ giúp pháp lý” là một cụm từ ghép “trợ giúp” và “pháp lý”.
Theo Đại từ điển Tiếng Việt, Nguyễn Như Ý, Nxb Văn hoá - Thông tin, 1999,
thì "trợ giúp" hiểu là "sự giúp đỡ, bảo trợ, hỗ trợ, giúp cho ai việc gì, đem lại


10
cho ai cái gì, đang lúc khó khăn, đang lúc cần đến", thuật ngữ "pháp lý " được
hiểu là lý lẽ, lẽ phải theo pháp luật, nói một cách khái quát pháp lý là lý luận
[64]; Theo Từ điển tiếng Việt, Viện Ngôn ngữ học, Nxb Đà Nẵng, 2001, thì khái
niệm "trợ giúp" được hiểu là "giúp đỡ" [63, tr.767], pháp lý tức là "nguyên lý về
pháp luật " [63, tr.1045]; Theo Từ điển từ và ngữ Việt Nam, Giáo sư Nguyễn
Lân, Nxb Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh, 2005 thì "trợ giúp" là "giúp đỡ"
như nông dân bị mất mùa do lũ lụt, Nhà nước cấp lúa giống, con giống cho nông
dân để tiếp tục sản xuất không thu tiền [38, tr.1923], còn về "pháp lý" là
"nguyên lý của pháp luật" [38, tr.1431]; theo Từ điển tiếng Việt của Nxb Khoa
học xã hội, 1994, thì "TrỢ giúp” có nghĩa là “giúp đỡ”, thuật ngữ "pháp lý”
được hiểu là lý lẽ, lẽ phải theo pháp luật, nói một cách khái quát: pháp lý là lý
luận, luận điểm cơ bản đối với pháp luật của một chế độ [55, tr.176]. Theo Từ
điển Luật học, Nxb Tư pháp - Nxb Từ điển Bách khoa, 2006, thì pháp lý: những
khía cạnh, phương diện khác nhau của đời sống pháp luật của một quốc gia,

"pháp lý" chỉ những lý lẽ, lẽ phải theo pháp luật, giá trị pháp lý bắt buộc từ một
sự việc, hiện tượng xã hội, những nguyên lý, phạm trù, khái niệm lý luận về
pháp luật [56, tr.606]. Do vậy, dù cách gọi khác nhau là "giúp đỡ", "bảo trợ" hay
là “hỗ trợ” nhưng về nội dung ngữ nghĩa cũng có thể được hiểu là "trợ giúp". Ở
đây trợ giúp cần được hiểu theo nghĩa tích cực là sự giúp đỡ cho ai đó đang gặp
khó khăn, nhằm làm giảm bớt khó khăn về một vấn đề mà họ đang cần, cái họ
đang cần ở đây là "pháp lý". Cũng cách hiểu nội hàm của thuật ngữ này, một số
tài liệu khác còn gọi là “hỗ trợ pháp luật”, “hỗ trợ pháp lý” hoặc "hỗ trợ tư
pháp” [8, tr.13].
Nghiên cứu về khái niệm TGPL cho người nghèo và đối tượng chính sách,
các nhà khoa học pháp lý ở một số nước trên thế giới đều lấy lý luận về dân chủ,
nhân quyền làm nền tảng, họ đánh giá TGPL cho người nghèo và đối tượng
chính sách là một biện pháp đảm bảo cho công dân có hoàn cảnh khó khăn,
không có điều kiện tiếp cận và sử dụng pháp luật để bảo vệ quyền, lợi ích hợp
pháp của mình theo quy định pháp luật. Mặc dù hình thức diễn đạt khác nhau,
nhưng khái niệm TGPL cho người nghèo và đối tượng chính sách đều thể hiện
rõ 4 nội dung trợ giúp cơ bản, đó là: pháp lý, kinh tế, xã hội và nhân đạo. Dưới
góc độ kinh tế, TGPL là giúp đỡ tất cả hoặc một phần tài chính chi trả cho công
dân có hoàn cảnh khó khăn khi tiếp cận với pháp luật và dịch vụ pháp lý thu phí
của Luật sư. Dưới góc độ pháp lý, TGPL là giúp đỡ công dân giải quyết các vụ
việc liên quan đến pháp luật đụng chạm đến quyền, lợi ích thiết thực của họ; tạo


11
ra sự công bằng khi công dân có hoàn cảnh khó khăn tiếp cận với pháp luật.
Dưới góc độ xã hội, hoạt động TGPL mang tính xã hội rộng rãi, luôn có sự tham
gia đông đảo của các lực luợng trong xã hội về phổ biến pháp luật, tạo điều kiện
cho người nghèo không ngừng nâng cao nhận thức về pháp luật. Về tính nhân
đạo thì TGPL đã thể hiện đậm nét nhân đạo và nhân văn sâu sắc.
Ở Việt Nam, thuật ngữ "Trợ giúp pháp lý" được đề cập trong các văn kiện

của Đảng, văn bản pháp luật của Nhà nước từ năm 1995, mà trước hết trong
Thông báo số 485/CV-VPTW về ý kiến chỉ đạo Ban Bí thư TW Đảng ngày
31.5.1995 của Văn phòng TW Đảng “…cần nghiên cứu lập hệ thống không lấy
tiền để hướng dẫn nhân dân sống và làm việc theo pháp luật”; thuật ngữ “trợ
giúp pháp lý” không chính thức dùng trong văn bản này nhưng bản chất, nội
dung của Thông báo trên đã diễn tả đặc trưng cơ bản của hoạt động trợ TGPL là
“không lấy tiền”. Sau đó, thuật ngữ này bắt đầu xuất hiện trên các tài liệu nghiên
cứu, sách, báo. Đến năm 1996, thuật ngữ ‘trợ giúp pháp lý” được sử dụng trong
tiêu đề của Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ mã số 96-98-034/ĐT của Viện
Khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp về “Mô hình tổ chức và hoạt động TGPL,
phương hướng thực hiện trong điều kiện hiện nay”. Thuật ngữ “trợ giúp pháp
lý” chính thức được quy định trong Quyết định số 734/TTg ngày 06/9/1997 của
Thủ tướng Chính phủ về việc thành lập tổ chức TGPL cho người nghèo và đối
tượng chính sách. Theo đó thuật ngữ "trợ giúp pháp lý" xuất hiện phổ biến trên
các văn bản pháp luật, sách báo và tạp chí. Trong quá trình xây dựng "Luật Trợ
giúp pháp lý" các nhà khoa học nghiên cứu về TGPL trên cơ sở tham khảo khái
niệm "trợ giúp pháp lý" của một số nước trên thế giới và các quan niệm về "trợ
giúp pháp lý" ở Việt Nam để đưa ra một số khái niệm về "trợ giúp pháp lý".
Theo đó khái niệm "trợ giúp pháp lý" được hiểu theo nghĩa rộng và nghĩa hẹp.
Theo nghĩa rộng, trợ giúp pháp lý được hiểu là việc thực hiện các dịch vụ
pháp lý miễn phí của Nhà nước và xã hội cho người nghèo, người được hưởng
chính sách ưu đãi và một số đối tượng khác do pháp luật quy định. Bằng các
hoạt động tư vấn pháp luật, đại diện, bào chữa, kiến nghị giải quyết vụ việc và
tham gia thực hiện phổ biến, giáo dục pháp luật nhằm bảo đảm cho mọi công
dân bình đẳng trong tiếp cận pháp luật, góp phần thực hiện công bằng xã hội.
Theo nghĩa hẹp, trợ giúp pháp lý được hiểu là việc thực hiện các dịch vụ
pháp lý miễn phí của các tổ chức trợ giúp pháp lý của Nhà nước cho người
nghèo và người được hưởng chính sách ưu đãi thông qua hình thức tư vấn pháp
luật, đại diện, bào chữa, kiến nghị giải quyết vụ việc và tham gia thực hiện phổ



12
biến, giáo dục pháp luật nhằm bảo đảm cho mọi công dân bình đẳng trong tiếp
cận pháp luật, góp phần thực hiện công bằng xã hội.
Khái niệm "trợ giúp pháp lý" nêu trên đã chỉ rõ mục đích của hoạt động
TGPL là nhằm hướng tới bảo đảm thực hiện công bằng xã hội, phù hợp với điều
kiện ngân sách Nhà nước phải chi trả cho hoạt động TGPL. Tại Điều 3 - Luật
TGPL được Quốc hội nước Cộng hoà XHCN Việt Nam khoá XI, kỳ họp thứ 9
thông qua ngày 29/6/2006 quy định: Trợ giúp pháp lý là việc cung cấp dịch vụ
pháp lý miễn phí cho người được trợ giúp pháp lý theo quy định của luật này,
giúp người được trợ giúp pháp lý bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình, nâng
cao hiểu biết pháp luật, ý thức tôn trọng và chấp hành pháp luật; góp phần vào
việc phổ biến, giáo dục pháp luật, bảo vệ công lý, bảo đảm công bằng xã hội,
phòng ngừa, hạn chế tranh chấp và vi phạm pháp luật.
Từ phân tích trên, xác định nội dung TGPL ở Việt Nam bao gồm:
Thứ nhất, chủ thể thực hiện TGPL cho người nghèo và đối tượng chính
sách là Trung tâm TGPL nhà nước; tổ chức hành nghề luật sư; tổ chức tư vấn
pháp luật và cá nhân.
Thứ hai, thực hiện TGPL cho người nghèo và đối tượng chính sách là việc
cung cấp dịch vụ pháp lý miễn phí, tức là không thu tiền với các hình thức
TGPL như: Tư vấn pháp luật; hòa giải; kiến nghị việc thi hành pháp luật; thực
hiện những công việc liên quan đến thủ tục hành chính; tham gia quá trình khiếu
nại; cung cấp các văn bản pháp luật; bào chữa, đại diện bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp chính đáng của đối tượng được TGPL...
Thứ ba, đối tượng được TGPL là người nghèo và các đối tượng chính sách
xã hội. Đối tượng chính sách ở đây bao gồm người có công với cách mạng;
người già cô đơn; người khuyết tật và trẻ em không nơi nương tựa; người dân
tộc thiểu số thường trú ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn;
nạn nhân của việc mua, bán người; nạn nhân bạo lực gia đình;... Đó là nhóm
người yếu thế, bị thiệt thòi trong xã hội, cần được Nhà nước và xã hội quan tâm

giúp đỡ, nhất là giúp đỡ trong việc tiếp cận và sử dụng pháp luật.
1.1.1.2. Khái niệm pháp luật về trợ giúp pháp lý cho người nghèo và đối
tượng chính sách
Dưới góc độ lý luận chung về Nhà nước và pháp luật, pháp luật về TGPL
cho người nghèo và đối tượng chính sách bao gồm các quy phạm pháp luật có


13
đặc điểm chung giống nhau nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội tương ứng, đó là
các quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực tổ chức và hoạt động TGPL, như quan
hệ giữa người được TGPL với nhau, quan hệ giữa người được TGPL với người
thực hiện TGPL, quan hệ giữa người thực hiện TGPL với nhau, quan hệ giữa
người được TGPL với tổ chức thực hiện TGPL, quan hệ giữa người thực hiện
TGPL với tổ chức thực hiện TGPL, quan hệ giữa các tổ chức thực hiện TGPL với
cơ quan quản lý nhà nước về TGPL ở trong nước và các tổ chức TGPL nước
ngoài... Trong đó, nhóm quan hệ giữa người được TGPL với tổ chức thực hiện
TGPL là nhóm quan hệ quan trọng nhất, bởi nó quyết định và chi phối các quan
hệ khác về TGPL.
Hệ thống pháp luật về TGPL ở Việt Nam mới được hình thành trong những
năm gần đây, mà đầu tiên là Quyết định số 734/TTg ngày 6/7/1997 của Thủ
tướng Chính phủ về việc thành lập tổ chức TGPL cho người nghèo và đối tượng
chính sách; sau đó Luật TGPL được Quốc hội nước Cộng hòa XHCN Việt Nam
thông qua ngày 29/6/2006 và có hiệu lực từ 01/01/2007. Luật TGPL ra đời làm
cơ sở điều chỉnh các quan hệ phát sinh trong tổ chức và hoạt động TGPL, đặc
biệt các quy phạm trong Luật TGPL phù hợp với Hiến pháp và các bộ luật, luật
trước đó; tại Điều 1, Luật TGPL quy định “Luật này quy định về người được trợ
giúp pháp lý, tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý, người thực hiện trợ giúp pháp
lý, hoạt động trợ giúp pháp lý và quản lý nhà nước về trợ giúp pháp lý” [18,
tr.7].
Từ khi Luật TGPL năm 2006 ban hành cho đến tháng 12/2014, đã có trên

40 văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn thi hành Luật TGPL và gần 30 văn
bản quy phạm pháp luật khác có nội dung liên quan đến hoạt động TGPL như:
Luật Người khuyết tật, Luật Luật sư, Pháp lệnh Cựu chiến binh, Luật Phòng,
chống mua bán người; Luật Phòng, chống bạo lực gia đình; Quyết định số
09/2013/QĐ-TTg ngày 24/01/2013 của Thủ tướng Chính phủ ban hành quy định
về chuẩn tiếp cận pháp luật của người dân tại cơ sở,...
Căn cứ vào thành tựu lập pháp và các văn bản pháp luật hiện hành về TGPL
ở Việt Nam hiện nay, có thể bước đầu đưa ra khái niệm pháp luật về TGPL cho
người nghèo và đối tượng chính sách như sau: Pháp luật về TGPL là tổng thể các
quy phạm pháp luật do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành để điều
chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực tổ chức và hoạt động trợ giúp
pháp lý, đó là việc cung cấp dịch vụ pháp lý miễn phí, bảo vệ các quyền và lợi ích


14
hợp pháp cho người được hưởng trợ giúp pháp lý là người nghèo và đối tượng
chính sách.
1.1.1.3. Khái niệm thực hiện pháp luật về trợ giúp pháp lý cho người
nghèo và đối tượng chính sách
Để đưa ra khái niệm: "Thực hiện pháp luật về TGPL”, trước hết cần hiểu
khái niệm thực hiện pháp luật là gì? Theo quan điểm của trường đại học Luật Hà
Nội: “Thực hiện pháp luật là hoạt động có mục đích nhằm hiện thực hoá các quy
định của pháp luật, làm cho chúng đi vào cuộc sống, trở thành những hành vi
thực tế hợp pháp của các chủ thể pháp luật” [29, tr.468]. Quan điểm của Khoa
Luật, Trường Đại học Quốc gia Hà Nội: “Thực hiện pháp luật là hiện tượng, quá
trình có mục đích làm cho những quy định pháp luật trở thành hoạt động thực tế
của các chủ thể pháp luật” [28]. Quan điểm của Viện Nhà nước và pháp luật,
Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh: “Thực hiện pháp luật là
quá trình hoạt động có mục đích làm cho những quy định của pháp luật trở
thành hiện thực trong cuộc sống, tạo ra cơ sở pháp lý cho hoạt động thực tế của

các chủ thể pháp luật” [33, tr.270].
Pháp luật có vai trò rất quan trọng trong đời sống kinh tế, chính trị và xã
hội, nhưng vai trò đó chỉ trở thành hiện thực khi pháp luật được mọi chủ thể
tuân thủ, chấp hành, sử dụng có hiệu quả, và các cơ quan nhà nước có thẩm
quyền, các chủ thể được Nhà nước trao quyền áp dụng một cách đúng đắn pháp
luật. Hay nói cách khác pháp luật đó phải được thực hiện nghiêm chỉnh trong
thực tế cuộc sống.
Thực hiện pháp luật là hành vi pháp lý (hành động và không hành động)
của con người phù hợp với yêu cầu của pháp luật. Hành vi xử sự của con người
trong hoạt động thực hiện pháp luật có hai tính chất: Thứ nhất, nó mang tính xã
hội, vì thực chất các quan hệ pháp luật trước hết là quan hệ xã hội; thứ hai, nó
mang tính pháp lý vì các quan hệ xã hội này do pháp luật tác động điều chỉnh
tới.
Thực hiện pháp luật được thể hiện dưới 4 hình thức đó là: tuân thủ pháp luật,
chấp hành pháp luật, sử dụng pháp luật, áp dụng pháp luật. Mặc dù, thực hiện
pháp luật được thể hiện ở nhiều hình thức khác nhau nhưng cuối cùng nó đều là
hành động có mục đích, có định hướng để đưa pháp luật vào cuộc sống. Từ
nghiên cứu trên, khái niệm thực hiện pháp luật được hiểu như sau: Thực hiện
pháp luật là hành vi thực tế hợp pháp, có mục đích của các chủ thể pháp luật


15
được hình thành trong quá trình hiện thực hóa các quy định pháp luật trong cuộc
sống.
Từ các khái niệm thực hiện pháp luật và pháp luật về TGPL là cơ sở để
nghiên cứu khái niệm thực hiện pháp luật về TGPL ở Việt Nam. Trong điều
kiện phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN ở nước ta, để nâng
cao hiểu biết pháp luật và kịp thời bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng cho người
nghèo và các đối tượng chính sách xã hội, Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản
quy phạm pháp luật quy định về TGPL nhằm điều chỉnh các quan hệ pháp luật

trong lĩnh vực hoạt động TGPL. Theo quy định pháp luật về TGPL, Nhà nước
giữ vai trò nòng cốt trong việc thực hiện, tổ chức thực hiện TGPL cho người
nghèo và các đối tượng chính sách; Nhà nước huy động các nguồn lực xã hội
tham gia hoạt động TGPL, như: khuyến khích, tạo điều kiện để Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên, tổ chức hành nghề luật sư và các luật
sư, các cơ quan, tổ chức và cá nhân khác tham gia đóng góp, hỗ trợ hoạt động
TGPL miễn phí cho người nghèo và các đối tượng chính sách. Ngoài ra, các cơ
quan, tổ chức trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình khuyến khích, tạo
điều kiện để cán bộ, công chức, viên chức, hội viên và cá nhân khác tham gia làm
cộng tác viên TGPL; các cơ quan tiến hành tố tụng, cơ quan, tổ chức khác có liên
quan đến hoạt động TGPL phối hợp, tạo điều kiện, cung cấp thông tin, tài liệu cho
việc thực hiện pháp luật về TGPL. Đây là lần đầu tiên Nhà nước ta đã mạnh dạn
tuyên bố trước toàn dân và cộng đồng quốc tế về trách nhiệm của mình trong bảo
đảm quyền được TGPL của công dân, nhất là khi họ rơi vào các hoàn cảnh đặc
biệt cần phải nhận được sự quan tâm, giúp đỡ từ phía Nhà nước và xã hội. Để bảo
đảm thực thi pháp luật về TGPL trong thực tiễn, Nhà nước thiết lập tổ chức
TGPL chuyên trách và hình thành đội ngũ người thực hiện TGPL của Nhà nước
với tư cách là lực lượng chủ yếu, giữ vai trò nòng cốt trong việc thực hiện và tổ
chức thực hiện TGPL.
Đặc biệt, pháp luật về TGPL ở Việt Nam quy định cụ thể những người
được hưởng quyền TGPL miễn phí từ việc thực hiện pháp luật về TGPL là
người nghèo, người có công với cách mạng, người dân tộc thiểu số cư trú ở
vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, trẻ em và một số đối tượng
khác.
Từ khái niệm thực hiện pháp luật và sự phân tích, lý giải nêu trên, có thể
đưa ra khái niệm: Thực hiện pháp luật về trợ giúp pháp lý cho người nghèo và
đối tượng chính sách là hành vi thực tế hợp pháp có mục đích của các cơ quan


16

nhà nước, các tổ chức xã hội, các cá nhân và các chủ thể khác (có thẩm quyền)
nhằm hiện thực hóa các quy định của pháp luật về trợ giúp pháp lý cho người
nghèo và đối tượng chính sách, đưa chúng đi vào cuộc sống.
1.1.1.4. Đặc điểm thực hiện pháp luật về trợ giúp lý cho người nghèo và
đối tượng chính sách
Nghiên cứu thực hiện pháp luật về TGPL cho người nghèo và đối tượng
chính sách cho thấy có những đặc điểm của thực hiện pháp luật nói chung, còn có
những đặc điểm mang tính đặc thù sau:
Thứ nhất, Nhà nước là chủ thể trực tiếp và chủ yếu trong quá trình thực
hiện pháp luật về TGPL; còn các chủ thể khác như Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
và các tổ chức thành viên, tổ chức hành nghề luật sư và luật sư, cơ quan, tổ
chức, cá nhân khác được Nhà nước khuyến khích, động viên tham gia đóng góp,
hỗ trợ thực hiện pháp luật về TGPL.
Điều đó, thể hiện trách nhiệm và vai trò chính của Nhà nước trong công tác
TGPL, vừa huy động các nguồn lực xã hội tham gia thực hiện pháp luật về
TGPL nhằm thúc đẩy mạnh hơn nữa hoạt động TGPL theo hướng xã hội hoá,
phù hợp với Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 về Chiến lược cải cách
tư pháp đến năm 2020, trong đó khẳng định "đẩy mạnh công tác TGPL cho
người nghèo và đối tượng chính sách theo hướng xã hội hoá” và "từng bước xã
hội hoá các hoạt động bổ trợ tư pháp…” [6]. Nhà nước đã thông qua các cơ
quan chức năng và cơ quan chuyên môn có thẩm quyền như Bộ Tư pháp, Sở Tư
pháp các tỉnh, thành phố, các Trung tâm TGPL của Nhà nước… để tổ chức và
thực hiện pháp luật về TGPL.
Đặc điểm này xuất phát từ vị trí, vai trò hết sức quan trọng của pháp luật
về TGPL, đó là thông qua thực hiện pháp luật về TGPL cho người nghèo và đối
tượng chính sách góp phần đưa những chủ trương, chính sách của Đảng, pháp
luật của Nhà nước vào thực tế cuộc sống. Đồng thời, thực hiện pháp luật về
TGPL cho người nghèo và đối tượng chính sách nhằm nâng cao ý thức pháp
luật cho người được TGPL và giúp họ được tiếp cận các dịch vụ pháp lý trong
nền kinh tế thị trường, hướng đến mục tiêu công bằng xã hội. Trong quá trình

giải quyết từng vụ việc cụ thể, thực hiện pháp luật về TGPL cho người nghèo
và đối tượng chính sách là một kênh giám sát công vụ trong việc thực thi pháp
luật của các cơ quan hành chính, tư pháp và góp phần khắc phục những bất cập
của pháp luật trong thực tiễn. Mặt khác, hỗ trợ để bảo vệ quyền và lợi ích


17
chính đáng, hợp pháp cho nhóm người dễ bị tổn thương cũng như bảo vệ lợi
ích của Nhà nước và xã hội, hạn chế và loại trừ các hành vi vi phạm pháp luật
của các chủ thể công quyền và cá nhân.
Thứ hai, người được hưởng các quyền và lợi ích từ thực hiện pháp luật về
TGPL là những người nghèo và các đối tượng chính sách được hưởng các dịch
vụ pháp lý mà không phải trả tiền.
Đây là đặc điểm đặc trưng của thực hiện pháp luật về TGPL, bởi chính những
nhu cầu của các đối tượng trên đã xác lập sự hình thành tổ chức và hoạt động
TGPL ở Việt Nam trên thực tế.
Nếu thực hiện pháp luật về TGPL của một số quốc gia trên thế giới (Vương
quốc Anh, Úc, Mỹ, Philipines, Singapore,...) chỉ thực hiện cho người có thu
nhập thấp (hoặc một số đối tượng cụ thể như trẻ em, phụ nữ... thì ở Việt Nam,
đối tượng được TGPL miễn phí được mở rộng và đặc biệt quan tâm đến những
đối tượng bị thiệt thòi trong xã hội. Do vậy, đối tượng được thụ hưởng TGPL ở
Việt Nam rộng hơn so với các nước trên thế giới.
Thứ ba, thực hiện pháp luật về TGPL cho người nghèo và đối tượng chính
sách ở nước ta diễn ra trên một phạm vi và vụ việc TGPL nhất định. Đây là đặc
điểm riêng biệt phát sinh trong quá trình thực hiện pháp luật về TGPL cho người
được TGPL ở Việt Nam.
Phạm vi thực hiện pháp luật về TGPL là việc các chủ thể thực hiện pháp
luật về TGPL trong một khoảng không gian nhất định, với nội dung vụ việc có
liên quan đến nơi cư trú của những người được TGPL. Theo Điều 26 Luật
TGPL năm 2006 quy định: Trung tâm TGPL Nhà nước ở tỉnh, thành phố trực

thuộc TW thực hiện TGPL trong phạm vi sau đây: (1) Người được TGPL đang
cư trú tại địa phương; (2) Vụ việc TGPL xảy ra tại địa phương; (3) Vụ việc
TGPL do tổ chức thực hiện TGPL khác chuyển đến. Riêng tổ chức hành nghề
luật sư, tổ chức tư vấn pháp luật tham gia TGPL trong phạm vi đăng ký [18]. Để
hạn chế việc đi lại tốn kém và giúp đỡ người được TGPL ở các vùng sâu, vùng
xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, các địa phương trong cả nước đã thành lập ở
cấp huyện Chi nhánh TGPL, Tổ điểm TGPL và ở cấp xã có các Câu lạc bộ
TGPL, Hòm thư trợ giúp, bưu điện văn hoá xã,... để làm “cầu nối” giúp cho
Trung tâm TGPL nắm bắt nhu cầu về hoạt động TGPL từ cơ sở và kịp thời
TGPL những vụ việc đơn giản; ngoài ra, tổ chức các đợt TGPL lưu động để đưa
các dịch vụ pháp lý về tận cơ sở, những người thực hiện TGPL đã giải quyết


18
ngay các vụ việc tư vấn pháp luật, còn các vụ việc đại diện, bào chữa được
chuyển về Trung tâm TGPL thụ lý thực hiện. Qua đó, tạo điều kiện thuận lợi
cho người được TGPL tiếp cận và sử dụng pháp luật có hiệu quả nhất.
So với các loại hình dịch vụ pháp lý khác, vụ việc TGPL được giới hạn về
lĩnh vực TGPL. Theo quy định pháp luật về TGPL, các vụ việc TGPL phải liên
quan đến quyền, lợi ích hợp pháp của người được TGPL và không thuộc lĩnh
vực kinh doanh thương mại (Điều 5 Luật TGPL).
Thứ tư, thực hiện pháp luật về TGPL cho người nghèo và đối tượng chính
sách là một hoạt động bổ trợ tư pháp mang tính đặc thù.
Xuất phát từ nhận thức coi TGPL là một hoạt động bổ trợ tư pháp (được ghi
nhận tại điểm 7, mục IV về cải cách tư pháp, Nghị quyết TW 3 khoá VIII ngày
18.6.1997). Mục đích hoạt động bổ trợ tư pháp là để hỗ trợ đắc lực cho hoạt
động xét xử của toà án; trong khi đó, Luật TGPL cho phép Trợ giúp viên pháp
lý, Luật sư là cộng tác viên TGPL được tham gia tố tụng hình sự, tố tụng dân sự,
tố tụng hành chính... để bào chữa, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người
được TGPL trước toà án. Trợ giúp viên pháp lý là một trong các chủ thể thực

hiện pháp luật về TGPL được coi là một chủ thể hỗ trợ đắc lực cho hoạt động
xét xử của các toà án. Từ hoạt động của Trợ giúp viên pháp lý, mà thực hiện
pháp luật về TGPL cho người nghèo và đối tượng chính sách được coi là một
hoạt động bổ trợ tư pháp. Đặc điểm này mang tính đặc thù vì trong quá trình
thực hiện pháp luật tại các cơ quan tiến hành tố tụng, Trợ giúp viên pháp lý
không thu bất kỳ một khoản phí, lệ phí nào từ người được TGPL.
1.1.2. Các hình thức thực hiện pháp luật về trợ giúp pháp lý cho người
nghèo và đối tượng chính sách
Thực hiện pháp luật về TGPL cho người nghèo và đối tượng chính sách thể
hiện tính đa dạng về chủ thể. Điều đó cho thấy sự đa dạng trong mục đích của
việc thực hiện pháp luật về TGPL cũng như trong các phạm vi, quy trình và các
phương thức thực hiện pháp luật. Theo lý luận chung, thực hiện pháp luật về
TGPL có các hình thức là: chấp hành pháp luật về TGPL; tuân thủ pháp luật về
trợ giúp pháp lý; sử dụng pháp luật về trợ giúp pháp lý; áp dụng pháp luật về trợ
giúp pháp lý.
1.1.2.1. Chấp hành pháp luật về trợ giúp pháp lý


19
Chấp hành pháp luật về TGPL là một hình thức thực hiện pháp luật về
TGPL, trong đó các chủ thể thực hiện pháp luật về TGPL phải thực hiện nghĩa
vụ pháp lý của mình bằng hành động tích cực. Pháp luật về TGPL quy định cho
các chủ thể và các đối tượng khác tham gia vào quá trình thực hiện pháp luật về
TGPL có những nghĩa vụ nhất định trong hoạt động của mình. Pháp luật về
TGPL đã quy định cụ thể nghĩa vụ của người được TGPL, người thực hiện
TGPL, các tổ chức thực hiện TGPL và các cơ quan nhà nước, các tổ chức chính
trị xã hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp. Chẳng hạn: người được TGPL có nghĩa
vụ thực hiện các quy định theo Điều 12 Luật TGPL (như: cung cấp giấy tờ
chứng minh thuộc diện được TGPL; cung cấp thông tin, tài liệu liên quan đến vụ
việc TGPL và chịu trách nhiệm về tính chính xác của thông tin, tài liệu đó; tôn

trọng tổ chức thực hiện TGPL, người thực hiện TGPL và cơ quan, tổ chức, cá
nhân khác có liên quan đến việc thực hiện TGPL;...) [18, tr.13].
Như vậy, khi các chủ thể tham gia vào quá trình thực hiện pháp luật về
TGPL có nghĩa vụ thực hiện một cách nghiêm túc là đã chấp hành pháp luật về
TGPL.
1.1.2.2. Tuân thủ pháp luật về trợ giúp pháp lý
Tuân thủ pháp luật về TGPL là một hình thức thực hiện pháp luật về TGPL,
trong đó các chủ thể thực hiện pháp luật về TGPL không thực hiện những hành
vi mà pháp luật về TGPL cấm. Tại Điều 9 - Luật TGPL quy định: (1). Nghiêm
cấm tổ chức thực hiện TGPL, người thực hiện TGPL thực hiện các hành vi sau
đây: (a) Xâm phạm danh dự, nhân phẩm, quyền và lợi ích hợp pháp của người
được TGPL; phân biệt đối xử người được TGPL; (b) Nhận, đòi hỏi bất kỳ một
khoản tiền, lợi ích nào khác từ người được TGPL; sách nhiễu người được
TGPL; (c) Tiết lộ thông tin, bí mật về vụ việc TGPL, về người được TGPL, trừ
trường hợp người được TGPL đồng ý bằng văn bản hoặc pháp luật có quy định
khác; (d) Từ chối, hoặc không tiếp tục thực hiện TGPL, trừ trường hợp quy định
tại khoản 1 và khoản 2 Điều 45 Luật TGPL và theo quy định của pháp luật về tố
tụng; (đ) Lợi dụng hoạt động TGPL để trục lợi; (e) Lợi dụng hoạt động TGPL
gây rối trật tự, an toàn xã hội, ảnh hưởng xấu đến đạo đức, thuần phong mỹ tục
của con người, xâm phạm lợi ích của nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ
chức, cá nhân; (g) Xúi giục người được TGPL khai, cung cấp thông tin, tài liệu
sai sự thật, khiếu nại, tố cáo, khởi kiện trái pháp luật. (2). Nghiêm cấm người
được TGPL, cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan đến hoạt động TGPL thực
hiện các hành vi sau đây: (a) Xâm phạm danh dự, nhân phẩm của người thực


×